Triết học
Tìm hiểu sáu phái triết học Ấn Độ
THÍCH MÃN GIÁC
12/02/2553 11:38 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

VI. PURUSÏA: THẦN NGÃ

Prakrïti như một con dê cái ba màu: trắng, đỏ và đen, sinh ra một đàn dê con. Trong khi đó, purusïa như một con dê đực đang đứng ăn cỏ. Nó là một con dê đực cô đơn, nhưng thong dong hưởng thụ những gì mà nó thích. Nó là một kẻ bàng quan, nhưng lại can thiệp vào sự sáng tạo của con dê cái.

Định nghĩa về purusïa, Sàmïkhya-kàrikà24 nói:

“Và vì trái ngược với prakrïti, nên purusïa là chứng nghĩa (sàksitva), là kẻ độc tồn (kaivalya), trung trực (màdhyasthya), kiến giả (drsïtïrïtva), phi tác giả (akartrbïhàva), trái ngược với prakrïti, bởi vì purusïa không có ba gunïa”.

Nhưng con dê đực không có ba màu như con dê cái mà chúng ta dẫn trong SÙvetasùvatàra Upanishad ở trên. Nó là chứng nhân, như con dê đực đứng nhìn đàn con của nó mà không dự phần nuôi dưỡng. Nó là kẻ độc tồn, vì ở ngoài lịch trình hiện tượng hóa, như con dê đực không tham dự việc thai nghén và sinh đẻ. Nó là trung thực, bởi vì prakrïti với ba gunïa có co duỗi, trái lại purusïa lúc nào cũng rất thẳng. Nó là kiến giả, và phi tác giả, cũng được giải thích tương tợ, theo trường hợp con dê đực và suy diễn.

Purusïa và prakrïti cũng được ví dụ như một người què và một người mù. Purusïa, nguyên lý tâm linh tối cao, nhưng là một nguyên lý không hoạt động, như một người què, có mắt nhưng không thể đi được. Trái lại, prakrïti, nguyên lý vật chất tối cao, như người mù, tuy có hai chân mà không cũng không thể đi được. Cả hai hợp tác, người mù cõng người què, và người què chỉ đường. Thế là diễn ra lịch trình hiện tượng hóa.

Cũng như prakrïti, purusïa là nguyên lý tối cao không thể trực giác hay tri giác đến được, mà phải bằng vào suy luận. Sàmïkhya-kàrikà25 dẫn năm chứng cứ cho suy luận về hiện hữu của purusïa:

1. Vì tụ tập là vì cái khác (sanïghàtaparàrthartvàt: tụ tập vị tha cố): chứng cứ mục đích luận. Sự vật được tạo ra là nhắm đến một mục đích nào đó. Người ta bện cỏ thành chiếu, vì hướng đến chủ đích ngồi. Màn kịch được trình diễn cũng nhắm mục đích phục vụ cho sự thưởng thức của khán giả. Cũng vậy, thế giới hiện thực này xuất hiện phải nhắm đến một mục đích nào đó. Khán giả của màn kịch, sự thưởng thức của họ, là nguyên nhân cứu cánh cho màn kịch đang trình diễn. Purusïa là khán giả để cho các đào kép, diễn viên gồm prakrïti và các phạm trù kia xuất hiện thành hiện tượng giới: sự thỏa mãn các cứu cánh của purusïa là nguyên nhân xuất hiện của prakrïti và ba trạng thái dị biệt26.

2. Vì khác với ba gunïa (trigunïàdiviparyayàt: dị tam đức). Chú giải chứng cứ này, Vàcaspati nói: với mục đích vì kẻ khác, chúng ta chỉ có thể suy luận từ một tụ tập này đến tụ tập khác, thành ra bất tận. Muốn tránh tính cách suy luận vô cùng này, phải chấp nhận sự hiện hữu của một purusïa. Nói rộng hơn, khi nhìn thấy thế giới vật chất, kể cả nội giới và ngoại giới, chúng ta biết rằng tất cả nhằm phục vụ cho sự thỏa mãn của cái tôi (ahamïkàra), nhưng thật ra, đó cũng chỉ là biến thái từ ba gunïa. Muốn tránh khỏi lý luận không đạt đến một kết luận cuối cùng, phải chấp nhận purusïa như là một nguyên lý khác biệt ba gunïa đó. Điều này có nghĩa rằng, tất cả mọi sự vật đều được kết cấu bằng ba gunïa, và do đó, xét theo khía cạnh luận lý, người ta phải thấy có sự hiện hữu của purusïa không có các tính chất gunïa, để làm chứng nhân cho các gunïa đó và đồng thời vượt lên chúng.

3. Vì là sở y (adhisïtïhànàt): Ba gunïa là những phẩm tính vô tri giác. Hiện tượng giới phải được thống nhất dưới sự chứng kiến của một chứng nhân sáng suốt. Mọi nhận thức đều giả thiết sự hiện hữu của một bản ngã. Bản ngã là nền tảng (adhisïtïhàna) của tất cả nhận thức thường nghiệm. Nhưng bản ngã trong tri thức thường nghiệm dưới khái niệm về một cái tôi ấy cũng chỉ là một biến thái có nguồn gốc trong nguyên chất tối sơ. Do đó, phải chấp nhận purusïa là sở y tối hậu của tất cả thế giới hiện thực, bao gồm cả tinh thần lẫn vật chất.

4. Vì là người hưởng thụ (bhaktrïbhàvàt). Prakrïti vô tri, không thể có kinh nghiệm về những sự vật do nó tạo thành. Như vậy phải có một tâm lý, tâm linh, trí tuệ, để kinh nghiệm những gì được sáng tạo từ prakrïti đó. Prakrïti chỉ là đối tượng của hưởng thụ, là thực khách (bhoktà). Tất cả mọi sự vật, bởi vì đều mang những tính chất của các gunïa, nên thảy đều có tính chất hoặc sung sướng, hoặc đau khổ, hoặc hờ hững. Tất cả những tính chất đó chỉ có ý nghĩa khi nào có một nguyên lý tâm linh, trí tuệ, kinh nghiệm đến.

5. Vì là độc ly (kaivalyàrthapravrïtïtïehï): chúng ta sống trong thế giới, bị trói buộc trong đau khổ, và tìm cách giải thoát. Khi giải thoát ra khỏi mọi phiền trược của thế gian, ta sẽ là kẻ độc nhất, độc lập, độc ly, đứng ngoài mọi biến thái và biến chuyển. Ta hay kẻ đó phải là purusïa. Ước vọng giải thoát cho biết có kẻ giải thoát. Kẻ đó là purusïa.

Purusïa như vậy được khám phá như là một nguyên lý tâm linh, một căn nguyên khác biệt căn nguyên nhất thể. Nhưng, purusïa đó là nhất thể hay phức thể, nghĩa là tất cả cùng từ một purusïa duy nhất, hay có sự hiện hữu của nhiều purusïa? Sàmïkhya-kàrikà chứng minh với năm lý do, rằng purusïa là phức thể:

1. Vì là căn nguyên sai biệt cho sinh tử (janamaranïa karanànàm pratiniyamàt: sinh tử biệt căn cố): trong hiện tượng giới, kẻ này sống rồi kẻ kia chết, và cũng chính kẻ đó, nay chết đây và sinh nơi kia, rồi lại từ nơi kia chết đi mà thác sinh nơi khác nữa. Sống và chết tiếp nối liên tục như vậy, với vô số loài người và loài vật như vậy, tất nhiên không phải chỉ có một linh hồn (jìvàtman). Nhưng nếu purusïa là nhất thể, chỉ có một, thì sự sống và sự chết của một người này sẽ cũng có nghĩa là sự sống và sự chết của tất cả những người khác. Và rồi, mọi kinh nghiệm đau khổ, khoái lạc của một người này cũng sẽ phải là tất cả. Như vậy, purusïa phải là phức thể (purusïabahutvam: các ngã).

2. Vì tác sự bất cộng (ayugapat pravrïttehï): nếu purusïa chỉ có một, sự sa đọa của người này cũng là sự sa đọa của tất cả, và giải thoát của một người là giải thoát của tất cả. Và rồi, một người hoạt động, tất cả cùng hoạt động. Nhưng thực tế không phải vậy, có người hoạt động thì cũng có những người khác lúc đó không hoạt động.

3. Vì dị biệt ba đức (traigunïyaviparyayàt: tam đức dị biệt cố                                              ): Trong tình trạng giải thoát, không cần phải giả thiết có nhiều purusïa, bởi vì, nếu có nhiều thì cũng chỉ khác nhau về số lượng, trong khi đó tất cả đều ở ngoài ba gunïa. Nhưng trong trường hợp sa đọa, số lượng dĩ nhiên phải được giả thiết là nhiều, mà về phẩm tính, trong trường hợp này thì sattva trổi vượt mà trong trường hợp kia thì rajas trổi vượt hay trong trường hợp khác nữa tamas trổi vượt. Như vậy, về số lượng cũng như về phẩm tính, không thể tất cả chỉ là một như nhau. Vậy, purusïa phải là phức thể.

Vàcaspati chú giải Kàrikà về các chứng cứ này, kết luận rằng sự giả thiết về phức thể không có gì khó khăn, bởi vì thừa nhận có hai nguyên lý căn bản và tối sơ như vừa thấy, Sàmïkhya được đặc trưng như là một chủ thuyết lưỡng nguyên.

VII.   Ý NGHĨA HIỆP TÁC (Hiện tượng luận)

Có hai thái độ mà một triết gia có thể lựa chọn khi muốn khảo sát về căn nguyên và xuất hiện của vũ trụ. Nếu từ một thái độ tri thức thuần túy, ông có thể chiêm nghiệm bản chất tồn tại của hiện tượng giới, từ đó dễ dàng khám phá một nguyên lý nhất thống của chúng, chi phối và điều hành tất cả những vạn thù sai biệt. Thái độ này thông thường dẫn đến một nhất nguyên luận. Đằng khác, ông cũng có thể chiêm nghiệm sự tồn tại của hiện tượng giới từ thân phận đau khổ của mình, và cảm giác những áp bức và hạn chế của vũ trụ vật chất; giải thoát đối với ông bây giờ có một ý nghĩa hệ trọng: nó là sự giải thoát những ràng buộc của tinh thần đối với vật chất. Như thế, từ kinh nghiệm chủ quan về đau khổ, ông nhìn thấy căn nguyên của vũ trụ trên một thái độ lưỡng nguyên trong trường hợp của một nhà Sàmïkhya của chúng ta ở đây.

Prakrïti là nguyên lý vật chất tối sơ, có khả năng linh hoạt không ngừng. Nó là một con dê cái mà nhiệm vụ là sinh sản. Trong khi đó, purusïa là một nguyên lý tâm linh, mà đích điểm của nó là sự hưởng thụ, và thong dong tự tại. Trước những đau khổ bức bách và những trói buộc của hiện tượng, một nhà Sàmïkhya có thể tự hỏi: đau khổ này bởi đâu mà có? Cũng như một người đau khổ và tuyệt vọng vì tình yêu, y thấy rõ ý nghĩa của ràng buộc và đau khổ, và chấm dứt những đau khổ tuyệt vọng đó có nghĩa là tách rời khỏi sức hấp dẫn của người yêu. Cũng vậy, giải thoát khỏi sự khổ của thế gian tức là trả purusïa về trạng thái nguyên sơ của nó. Đau khổ do tình yêu có thể giải trừ bằng sự dứt khoát phân ly giữa hai người mà không còn luyến tiếc. Cũng vậy, giải thoát đau khổ thế gian có nghĩa là trực nhận được đầu mối của lưỡng nguyên. Đau khổ là vì cảm giác “tuy hai mà một”. Bởi không thấy đây và đó là hai, cho nên “vì chàng thân thiếp lẻ loi” mà cũng “vì chàng (cho nên) lệ thiếp nhỏ đôi một mình”.

Cũng vậy, một nhà Sàmïkhya có thể tự hỏi: vì sao có sự hiệp tác giữa purusïa và prakrïti để từ đó phát sinh thế giới hiện thực này? Và sự hiệp tác đó diễn ra như thế nào?

Phần chú giải Kim Thất Thập luận27, khi giới thiệu khởi điểm của lịch trình hiện tượng hóa, đã tự đặt ra câu hỏi thứ nhất. Và kế đó, trình bày trả lời của Kàrikà: “Thần ngã vì để thấy tự tánh, và tự tánh vì sự độc tồn của thần ngã, do đó có sự hiệp nhất. Như người què và người mù cùng hiệp nhất; và do sự hiệp nhất đó mà thế giới hiện hành”28.

Chú giải cho Kàrikà này, về ý nghĩa “vì sự độc tồn của thần ngã”, Vàcaspati nói: Purusïa, trong khi hiệp nhất với prakrïti, tưởng rằng ba loại khổ là của chính mình; và từ sự tự trói buộc đó, nó đi tìm sự giải thoát và độc tồn; sự độc tồn này do phân biệt giữa purusïa và ba gunïa; sự phân biệt này không thể có nếu không có prakrïti. Theo giải thích đó, purusïa trong hai trường hợp, hoặc tự trói hoặc tìm cách cởi trói, thảy đều phải hiệp tác với prakrïti.

Tản văn của Kim Thất Thập luận29 chú giải Kàrikà cũng nói tương tợ: Purusïa vì mục đích thấy (darsùanàrtham), nghĩa là vì mục đích muốn hưởng thụ khoái lạc thế gian, cho nên đến để hiệp nhất với purusïa. Đằng khác, prakrïti vì sự độc tồn (kaivakyàrtham) của purusïa khốn khổ đó, vốn là cái có khả năng tri kiến đó, mà hiệp tác với purusïa.

Sự hiệp nhất, nguyên Phạn văn nói là “samyoga”, không chỉ cho ý nghĩa hiệp nhất của nước và sữa, mà chỉ hàm ý như là tính cách tương ứng mật thiết, sự ràng buộc chặt chẽ giữa hai cái để cùng hiệp tác. Thí dụ chính xác cho ý nghĩa hiệp nhất này có thể là sự phản chiếu giữa cảnh vật và mặt kính. Rõ ràng hơn nữa, đó là sự hiệp nhất và hiệp tác của một người què và một người mù.

Kàrikà 20 trước đó cũng đã giải thích ý nghĩa hiệp nhất giữa các gunïa của prakrïti và purusïa: Như thế, từ sự hiệp nhất này, cái biến thái vô tri xuất hiện như là hữu tri; và tương tợ, từ hoạt tính thực sự tùy thuộc các phẩm tính, purusïa, vốn là trung dung, xuất hiện như là hoạt tính. Ý nghĩa kàrikà này có thể hiểu theo bản dịch chữ Hán như sau30: Vì ba gunïa hiệp với purusïa cho nên cái vô tri giống cái hữu tri. Vì ba gunïa vốn năng tác, trung thực như tác giả.

Theo tản văn của Kim Thất Thập luận31, Kàrikà vừa dẫn muốn giải quyết hai trường hợp trái ngược: thứ nhất, nếu purusïa không phải là tác giả, thì quyết ý do ai? Nghĩa là, khi muốn tu tập để xa lìa những xấu xa, thành tựu ý nguyện, ai là người tạo ra quyết ý đó; và thứ hai, nếu ba gunïa đưa ra quyết ý đó, vậy nó là cái hữu trí, hữu tri, và như vậy trái với những điều đã nói trước. Trả lời cho mâu thuẫn thứ nhất, Kàrikà muốn nói rằng ba gunïa vô tri và năng tác; purusïa hữu tri và phi tác; do sự tương ứng của cả hai mà ba gunïa có vẻ như là hữu tri. Cũng như đồ nung, nếu tương ưng với lửa thì nóng, tương ưng với nước thì lạnh. Cũng vậy, ba gunïa cùng với tri giả tương ưng cho nên nó trở thành hữu trí và có thực hiện quyết ý. Trả lời mâu thuẫn thứ hai, tản văn chú giải đưa ra một thí dụ: Như một người Bà la môn đi lầm giữa một bọn giặc cướp. Mặc dù không phải là cướp, nhưng ông vẫn bị gọi là kẻ cướp. Ngã cũng vậy, vì đi theo tác giả cho nên nó được coi như là tác giả.

Bởi vì purusïa là nguyên lý tâm linh, bất động, không tạo tác, do đó, dù hiệp nhất với prakrïti, nguyên lý vật chất, năng động, vẫn không trở thành là một, đồng nhất thể. Sự hiệp nhất như vậy chỉ có nghĩa là sự phối hợp giả tạo, tạm bợ của hai nguyên lý độc lập và biệt lập. Đó là sự hiệp nhất được hiểu theo nghĩa “tương tợ tương ưng” (samyogàbhàsa). Giải thích như vậy, nếu xét theo bản chất của purusïa và prakrïti mà Sàmïkhya quan niệm, không thể không gây ra thắc mắc. Trong hai trường hợp, hoặc hiệp tác cho mục đích hưởng thụ (darsùanàrtham), hoặc hiệp tác cho mục đích độc tồn (kaivakyàrtham), trường hợp nào cũng chứa sẵn một nan giải. Trong mục tiêu hưởng thụ của mình, bằng cách nào mà purusïa có thể tiến sát lại prakrïti với bản chất không hoạt động của nó? Trong mục tiêu độc tồn của nó, purusïa bằng cách nào để có thể tách rời khỏi các gụna?

Tản văn của Kim Thất Thập luận (chú giải Kàrikà 21 đã dẫn) hình như có ngụ ý giải quyết hai trường hợp thắc mắc này. Có hai thí dụ được nêu ra để giải thích. Thí dụ thứ nhất, không có trong Kàrikà đã dẫn. Hiệp nhất giữa purusïa và prakrïti được thí dụ như là giữa một quốc vương và một thần dân. Quốc vương nghĩ: ta phải sai khiến người đó, tức thì người đó đến để quốc vương sai khiến; đây là sự hiệp nhất từ quốc vương xảy ra cho thần dân. Ngược lại, thần dân kia nghĩ rằng, quốc vương hãy nên buông tha ta; đây là sự hiệp nhất từ thần dân đến quốc vương. Trong trường hợp thứ nhất, quốc vương như là purusïa, ngồi yên, không hoạt động, bởi vì ý nghĩa của nhà vua tạo ra hoạt động của thần dân. Trường hợp thứ hai, thần dân là purusïa, và ý muốn của y là hành động của nhà vua. Trong cả hai trường hợp, purusïa vẫn là nguyên lý tinh thần không hoạt động.

Thí dụ thứ hai, được nói đến trong chính Kàrikà, và đây là thí dụ lừng danh về sự hiệp tác giữa purusïa và prakrïti của Sàmïkhya mỗi khi người ta nói đến chúng. Tản văn Kim Thất Thập luận mô tả chi tiết thí dụ này. Một đoàn lữ hành đi qua xứ Ujjana bị giặc cướp, phân tán nhau bỏ chạy, và bỏ lại một người què, một người mù. Người què ngồi yên một chỗ. Người mù chạy quờ quạng. Người què nhìn thấy, hỏi: Ông là ai? Người mù đáp: Tôi là một người mù từ trong bụng mẹ, vì không thấy đường đi nên chạy quờ quạng; còn ông là ai? Người què đáp: Tôi là một người què từ trong bụng mẹ, thấy được đường đi mà không thể đi được. Rồi cả hai đề nghị hiệp tác. Và cuối cùng, cả hai cùng đi đến đích. Tản văn đó còn nêu lên một thí dụ thứ ba: do sự giao hiệp giữa một người con trai và một người con gái mà sinh con đẻ cháu.

Ở đây, chúng ta hãy lặp lại hai thắc mắc trên, rồi phối hợp các thí dụ vừa dẫn, để thử đưa ra một giải thích tạm thời. Purusïa, như đã nói, là nguyên lý tâm linh căn bản, không hoạt động, trong tình trạng nguyên ủy tách ngoài prakrïti, cố nhiên là vĩnh viễn tách ngoài. Nhưng làm thế nào để tiến sát lại gần prakrïti? Và cũng với bản chất đó, khi nó hiệp nhất với prakrïti cố nhiên vĩnh viễn hiệp nhất không thể tách rời? Các thí dụ đều ngụ ý chủ động về ý chí là purusïa nhưng chủ động về hành động là prakrïti. Do đó, tiến sát hay tách xa, tất cả đều do prakrïti thực hiện chứ không phải do purusïa. Các thắc mắc hình như không xác đáng.

Nhưng còn một thắc mắc cuối: nếu, sau khi đã giải thoát trở lại tình trạng nguyên ủy, thì cũng như trước kia nó đã từng như vậy, và do đó người ta có quyền hy vọng một lúc nào đó, purusïa nổi hứng phát biểu ý chí, và prakrïti thực hiện ý chí đó bằng cách tiến sát lại để hiệp nhất và hiệp tác với purusïa: một trường lịch sử của đau khổ lại bắt đầu, và giải thoát như vậy có nghĩa lý gì? Hình như không thấy Sàmïkhya dự liệu thắc mắc này. Tuy nhiên, cứ suy luận theo hiểu biết thông tục, với kinh nghiệm vô số về những đau khổ đã trải qua, như một người đã từng kinh sợ về nỗi khổ ngục tù, có lẽ không bao giờ hứng khởi tâm niệm thực hiện những gì có thể tái diễn ngục tù nữa. Tuy nhiên, xác đáng hơn, ý nghĩa giải thoát của Sàmïkhya cũng ám chỉ một giải thích. Khi đề cập vấn đề liên hệ, chúng ta sẽ thấy nó tự giải thích như thế nào.

VIII.   LỊCH TRÌNH HIỆN TƯỢNG HÓA

Trước khi xét đến lịch trình hiện tượng hóa từ hai nguyên lý tối sơ căn bản, chúng ta nên nhớ lại bốn trường hợp của bản tánh (mùla-prakrïti) và biến dị (vikrïti) đã nói trước đây. Nay nhắc lại chúng dưới một lược đồ tổng quát:

1. Chỉ bản tánh: Tự tánh (prakrïti)

2. Chỉ biến dị: 5 đại (bhùta) và 11 căn (indriya)

3. Vừa bản vừa biến: Đại (mahat), ngã mạn (ahamïkàra) và 5 duy (tanmàtra)

4. Phi bản biến: Thần ngã (purusïa).

Ý nghĩa của tự tánh và biến dị (vikrïti) được giải thích như sau, theo Kàrikà 10: “Biến dị là những gì hữu nhân (hetumat), vô thường (anitya), không phổ biến (avyàpin), hữu sự (sakrïya), nhiều (aneka), y (àsùrita), một (linïga), hữu phần (sàvayava), thuộc tha (paratantra). Phi biến dị thì trái lại”32. Trong đó, phi biến (avikrïti) cũng là tự tánh.

Nói là hữu nhân bởi vì, từ đại (mahat) cho đến 5 đại (bhùta) đều có chúng. Mahat lấy prakrïti làm nhân. Nói là vô thường, vì như mahat sinh ra từ prakrïti, có sinh tất không có thường. Không phổ biến, vì chỉ có prakrïti và purusïa mới phổ biến khắp mọi nơi, ngoài ra, từ mahat trở xuống, tất cả đều bị hạn chế bởi không gian. Hữu sự, hiện tượng giới có co giãn có công dụng của chúng. Nhiều hiện tượng giới phức tạp, vạn thù sai biệt, trong khi tự tánh duy chỉ có một. Y tha, như mahat nương vào prakrïti mà tồn tại, ahamïkàra nương vào mahat mà tồn tại, còn prakrïti không nương tựa vào đâu cả. Một, tiềm ẩn, bởi vì hiện tượng giới có luân chuyển thì chúng hiển lộ và khi lui về tiềm ẩn chúng trở lại với prakrïti không hiển lộ nữa. Hữu phần, vì hiện tượng giới bị cắt xén phân chia. Thuộc tha, hiện tượng giới lệ thuộc vào nhân của chúng, như con lệ thuộc cha mà có.

Trên đây là 9 đặc tính của 23 đế phát sinh từ prakrïti, và trái ngược lại là 9 đặc tính của prakrïti.

Trong lịch trình hiện tượng hóa, sản phẩm đầu tiên phát sinh từ prakrïti là đại (mahat). Như vậy, prakrïti, vì là nguyên nhân tối sơ, nên cũng được gọi là thắng nhân (pradhàna), cũng được gọi là Brahman, hay chúng trì (bahudhàtman); Đại (mahat) cũng được gọi là giác (buddhi) hay tưởng (samïvitti), biến mãn, trí (mati), huệ (prajnõà). Từ đại (mahat) phát sinh ngã mạn (ahamïkàra). Từ ngã mạn phát sinh 16 đế: 5 duy, 5 tri căn, 5 tác căn và ý. Trong đó, 5 duy phát sinh 5 đại (bhùta). Hiện tượng bao gồm trong 23 phạm trù này.

Sở dĩ mahat cũng được nói là buddhi, bởi vì nó có tác dụng phân biệt33. Nhưng vốn phát sinh từ prakrïti, nên bản chất của nó là vật chất, trong đó phản chiếu purusïa. Với ba gunïa, mahat có bốn phần thuộc sattva hay hỉ, những yếu tố của hướng thượng, và bốn phần của tamas hay ám, hướng hạ. Nếu sattva thắng thế, trấn áp được tamas, bấy giờ có sự hỉ lạc. Trái lại là trường hợp tamas thắng thế34. Ngã mạn (ahamïkàra) là khái niệm về một cái “tôi” chủ thể35, khi buddhi thể hiện thành cảm quan hay tri giác. Ahamïkàra hoạt động dưới ba trường hợp, tùy theo sự thắng thế của một trong ba gunïa:

1. Khi sattva thắng thế, nó được gọi là tát đỏa chủng (vaikàrika, hay sattvika). Nghĩa là, do sự thắng thế của hỉ nơi buddhi, trấn áp ưu và ám. Ahamïkàra được sinh ra từ loại đó sẽ làm phát sinh 11 căn: y, 5 tri căn và 5 tác căn, vì trong những căn này, yếu tố hỉ nổi bật.

2. Khi tamas hay ám trong buddhi thắng thế, ahamïkàra phát sinh từ trường hợp này nó sẽ làm nảy sinh 5 duy và 5 đại, bởi vì trong 5 duy và 5 đại này người ta thấy yếu tố si ám nổi bật.

3. Trong trường hợp rajas thắng thế, ahamïkàra thuộc loại taijasa, hay ràjasa (ưu chủng). Nó bổ sung năng lực cho hai loại trên.

Từ tát đỏa chủng phát sinh 11 căn: 5 tri căn, 5 tác căn và ý căn. Nói là căn (indriya) và đó là những căn năng hoạt động. 5 tri căn (jnõàna-indriya, hay buddhìndriya): mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. 5 tác căn (karma-indriyà): cơ năng nói (miệng), cầm (tay), cử động (chân), bài tiết và sinh sản. Sàmïkhya cho rằng 5 tri căn là những nhiệm vụ tinh thần do đó phát sinh từ ahamïkàra.

Manas, ý căn hay tâm căn có khả năng phân biệt và có hai loại: nếu cùng tương ưng với các tri căn thì nó cũng có tính cách như tri căn, nếu cùng tương ưng với các tác căn, nó cũng có tính cách như tác căn. Cũng như một người hoặc được gọi là khéo làm hoặc được gọi là khéo nói.

Ahamïkàra, sinh từ loại đa ma chủng hay ưu chủng, sẽ làm phát sinh 5 nguyên tố tế nhị, gọi là 5 duy (tanmàtra): sắc, hương, vị, xúc và thanh. Từ 5 nguyên tố này lại phát sinh 5 yếu tố vật chất hay 5 đại (bhùta), theo tương ưng của chúng: từ thành duy phát sinh không đại, xúc duy phát sinh phong đại, sắc duy phát sinh hỏa đại, vị duy sinh thủy đại, và hương duy phát sinh địa đại.

Buddhi, ahamïkàra, manas và các indriya, hoặc cùng lúc khởi tác dụng, hoặc tiếp nối nhau khởi tác dụng36. Nếu cả bốn cùng trực giác một đối tượng, cùng hoạt động trong một lúc, chúng được gọi là cùng khởi. Trường hợp khác, như khi con mắt (indriya) nhìn thấy một sự vật đằng xa, vì không rõ nên khởi tâm (manas) nghi ngờ: “Người hay cột nhà cháy?”; từ sự nghi ngờ này, ahamïkàra khởi tác dụng đưa đến gần đối tượng, và bấy giờ do tác dụng của buddhi mà thấy rõ đó là vật gì.

Bởi vì tất cả 23 đế này cùng lấy prakrïti làm nguyên chất tối sơ, và sự hiện diện thường trực của ba gunïa với một gunïa thắng thế và hai gunïa còn lại hỗ trợ, chúng hoàn toàn là vật chất, do đó không phải là tâm linh thuần túy, những hoạt động tinh thần của chúng, như nhận thức, ý chí hay tình cảm, đều là những hoạt động có tính cách giả tạo, phản chiếu bóng dáng của purusïa vốn là nguyên lý tâm linh thuần túy.

Như vậy, lịch trình hiện tượng hóa luôn luôn chỉ để phục vụ cho chủ đích của purusïa. Cũng như cây cối vốn vô tri nhưng có khả năng làm phát sinh hoa quả; hay nước tuôn chảy vì để cho đất đai phì nhiêu. Chính xác hơn, nói theo thí dụ của Kàrikà 57: “Vì mục đích nuôi dưỡng dê mà sữa tuôn chảy từ vú của bò mẹ một cách vô tư. Cũng vậy, prakrïti vô tri, vì mục đích giải thoát của purusïa”37. Prakrïti như thế là một ân nhân của purusïa, luôn tìm đủ mọi phương kế để phục vụ cho purusïa, mang những phẩm tính mà nó có đến cho purusïa vốn không phẩm tính nào cả.

Hoạt động của prakrïti là những hoạt động vô tư, vị tha, không đòi hỏi một đáp ứng nào cho chính mình hết38. Hoạt động của 12 cơ năng (ahamïkàra, manas, jnõànendriya và 5 karmendriya) tiếp xúc với các tanmàtra và bhùta, tất cả đều vì mục đích của purusïa phản chiếu trong buddhi hay mahat. Các gunïa trong chúng vừa dị biệt và vừa cộng tác để hoạt động, cũng như dầu, tim bấc và ánh sáng của một ngọn đèn, hỗ tương cộng tác để soi sáng và phục vụ cho quyền lợi của purusïa39. Hoặc giả, cũng như tất cả thần dân, lao tác để kiếm tài sản, và tất cả tài sản này được nạp cho quốc vương. Cũng vậy, vì mục đích phục vụ cho purusïa, hoạt động của 13 cơ năng tinh thần đó đều quy chiếu về buddhi. Tất cả 13 phạm trù này, dưới sự chủ lãnh của mahat, không hoạt động cho một chủ đích nào khác ngoài mục đích của purusïa. Mỗi phạm trù thực hiện bổn phận riêng biệt của mình. Do đó, toàn bộ hoạt động sáng tạo của prakrïti, từ sản phẩm đầu tiên là mahat, cho đến cuối cùng là các bhùta, vì mục đích giải thoát của purusïa khỏi ba cõi, nó hành sự cho kẻ khác như chính là hành sự cho mình. 

IX.   GIẢI THOÁT LUẬN

Thuyết 12 nhân duyên của Phật giáo quán sát tiến trình quan hệ nhân quả trên hai chiều hướng, hoặc thuận lưu, xuôi theo dòng sinh tử, từ vô minh cho đến già và chết; hoặc theo chiều nghịch lưu, ngược dòng khảo sát đi từ cảnh khổ bức bách hiện tại của già và chết để cuối cùng hủy diệt vô minh. Cũng tương tợ như vậy, lịch trình hiện tượng hóa của Sàmïkhya được khảo sát từ prakrïti sinh khởi mahat, từ đó thứ tự sinh khởi ahamïkàra.

Nếu theo chiều ngược, lịch trình diễn ra như sự rút lui, co lại của hiện tượng giới để trở về nguyên tính của prakrïti, từ nhận thức về những sai lầm của hiện tượng chuyển biến, từ sự giả ảo, vô thường trong tốc độ choáng váng của 5 bhùta, là những hiện tượng vật chất cụ thể nhất, nhiều tính chất đau khổ của tamas nhất, cho đến nhận thức chân thật về prakrïti là nguyên lý vật chất nguyên sơ, thường trụ, phổ biến với 9 đặc tính đã thấy.

Cả hai công tác, hoặc tung ra hoặc thu lại, không phải là công tác mà prakrïti tự thực hiện cho chính mình, nhưng là hành sự cho người bạn què của nó. Prakrïti được mô tả như một người bạn tốt, đầy ân đức, trong khi purusïa là một người vị kỷ, vô ân, vô đức. Vô ân, vì từ khi xuôi dòng sống chết cho đến ngược dòng giải thoát, prakrïti luôn luôn chiều theo ý muốn của bạn purusïa mà không nhận lãnh một báo đáp nào cả. Vô đức, vì kẻ thụ hưởng ân huệ chẳng có tài năng gì, không có ba phẩm tính hỉ, ưu và ám40.

Khi purusïa phản chiếu ý muốn của mình trên ba đức tính ưu, hỉ và ám và prakrïti sẵn sàng tác động chúng, và do đó khởi lên lịch trình hiện tượng hóa. Trái lại, khi purusïa chỉ ưa thích những tính chất ẩn mật, bí nhiệm, nhu nhuyến, thường trụ, v.v... của prakrïti, hay muốn đơn độc, thong dong tự tại, thì prakrïti cũng vì đó mà tác động chính trí phân biệt, do sự phản ảnh ý chí của purusïa nơi buddhi, phân biệt những sai lầm xấu xa ở hiện tượng giới để ngược dòng tiến về giải thoát. Thái độ của purusïa được mô tả như một người lần đầu thấy một cô gái và cho rằng đẹp, sinh lòng ưa thích, nhưng sau đó thấy cô khác đẹp hơn và lại sinh lòng ưa thích cô gái sau này hơn. Đó là cô gái có ba đức tính của prakrïti41.

Kàrikà mở đầu cho triết thuyết Sàmïkhya bằng nhận định về ba nỗi khổ bức bách của thế gian, và muốn diệt trừ sự khổ ấy, phải bắt đầu từ ý chí “muốn biết” (jijnõàsà). Muốn biết những gì? Đó là muốn biết tại sao sắc thân được cấu tạo bởi năm đại (bhùta) này lại phải chịu đựng quá nhiều đau khổ42. Sàmïkhya phân biệt có ba loại khổ: đau khổ từ bên trong (àdhyàmika), đau khổ từ bên ngoài (àdhibhautika) và đau khổ bởi thiên mệnh (àdhidaivavika)43.

Dù có thác sinh lên trời (svarga) thì chỉ khác có trình độ hưởng lạc mà thôi, và hậu quả vẫn trở lại nguyên trạng sự khổ trước kia. Bởi vì, loài trời, loài người và loài vật chỉ khác nhau về sự nổi bật của một trong ba gunïa. Ở trời, là sự nổi bật của hỉ hay sattva. Ở người, ưu hay rajas, và vật, ám hay tamas. Cả ba, hỉ, ưu và ám, đều dẫn khởi hiện hữu của một vũ trụ toàn là khổ.

Khi nhận thức về sự khổ như vậy rồi, ta mới bắt đầu quan sát từ hiện hữu cụ thể nhất, 5 bhùtas và 11 indriyas, nhận ra những sai lầm mê hoặc của chúng, do đó ta sinh tâm nhàm tởm. Đó là ta lần lượt quan sát đi từ quả đến nhân, phăng lần cho đến prakrïti, để vươn tới giải thoát cứu cánh (apavarga).

Lịch trình tu tập như vậy diễn ra qua sáu giai đoạn:

1. Tư lượng vị: giai đoạn đầu tiên, khởi sự tư duy về những quá thất của 5 bhùtas, không còn ham muốn chúng, nhàm tởm và tìm cách xa lìa.

2. Trì vị: giai đoạn kế, quán sát những quá thất của 11 căn.

3. Như vị: giai đoạn bước vào như thật, bởi vì do quán sát sự quá thất của 5 tanmàtras mà từ đó hé thấy prakrïti.

4. Chí vị: giai đoạn đã đến đích. Đích ở đây là sự nhận thức về những hệ phược, do quán sát sự quá thất của ahamïkàra.

5. Xúc vị: giai đoạn cú rút, thu hồi hoạt động của 3 gunïa do quán sát sự quá thất của buddhi.

6. Độc tồn vị: giai đoạn cuối cùng, sau khi quán sát và thấy rõ những quá thất của prakrïti, purusïa được tách rời khỏi prakrïti để tự độc lập, riêng rẽ.

Đến đây, màn kịch chuyển biến coi như đã xong. Có thể nói đó là một vở kịch có hai màn. Khán giả là purusïa, và diễn viên là prakrïti. Bấy giờ, khi màn kịch đã dứt, diễn viên lui vào hậu trường, và khán giả cũng tự động giải tán. Thế là, purusïa hoàn toàn giải thoát44.

Theo nghĩa này, giải thoát đối với Sàmïkhya tức là chấm dứt lịch trình hiện tượng hóa, dù xuôi dòng hay ngược dòng. Bởi vì purusïa không hề bị trói buộc (badhyate) và cũng không hề được cởi trói (mucyate), và cũng không có luân hồi sinh tử. Luân hồi sinh tử, bị trói và được cởi trói, tất cả đều có sở y (àsùrayà) nơi prakrïti45.

 

Chú thích:

1 Taittirìya Upanishad 1.2: sùìksïàm vyàkhyàsyànah: varna svarahï, màtrà balamï, sàma santànahï, ity uktas sùìksïàdhyàyahï.

2 ajà, nữ tánh, con dê cái, và aja, nam tánh, ngoài nghĩa con dê đực, còn có nghĩa vô sinh. SÙvetàsùvatara Upanishad IV.5 mô tả hai con dê ấy: ajàm ekamï lohita-sùukla-krïsïnïàm bahvìh prajàhï srïjamànïàmï sarùpàh ajo hy eko jusïamàho’nusùete jahàty enàm bhukta-bhogàm ajo’nyahï, con cái màu đỏ, trắng, đen, đẻ ra một đàn con giống nó, con đực bỏ nó, đi ăn đồ ăn của nó. Mô tả này ngụ ý tự tánh như là con dê cái và thần ngã như là con dê đực.

3 SÙvetàsùvatara Upanishad I.9, về thần ngã, và IV.10 về tự tánh.

4 SÙanïkara giới thiệu chú giải SÙvetàsùvatara Upanishad

5 Các Upanishad khác có hàm ngụ yếu tố của Sàmïkhya không nói rộng ở đây. Có thể kể thêm: Chàndogya, Prasùna, Katïha, Mahànaràyanïa và Maitràyanïa.

6

7 A History of Indian Philosophy, vol.I.p.212.

8 SÙvetàsùvatara Upanishad V.2: rïsïim prasùtamï kapilamï yas tam agre jnõànair bhibharti jàyamànamï ca pasùyet.

9 Bản Hán dịch về Sàmïkhya-kàrikà do Chân Đế (Paramàrtha), thế kỷ VI, thực hiện, gồm tụng văn và trường thành chú giải. ĐTK quyển 54. Về Ìsùvarakrïsïnïa, Takakusu Junjiro cho rằng còn có biệt hiệu Vindhyàsin.

10 ĐTK. quyển 34, tr. 252b.

11 VI. 13.

12 Dosïànïàm ca gunïànàm ca pramànïam pravibhàgatah, kam cid artham abhipretya sà samïkhyety upadhàryatàm. Trích bởi Radhakríhnan, Indian Philosophy, vol. II, tr.249 n4.

13 Samyak khyàti.

14 Kàrikà 3: mùlaprakrïtir avikrïtir mahah àdyahï prakrïtivikrïtayahï sapta / sïodasùakas tu vikàro na prakrïtir na vikrïtihï purusïahï. Đối chiếu, Kim Thất Thập luận (ĐTK. quyển 54), bản Hán dịch của Chân Đế (Paramàrtha):

Bản tánh vô biến dị

Đại đẳng diệc bản biến

Thập lục đản biến dị

Tri giả phi bản biến

15 Kàrikà 9.

16 Tattvakaumudì: nahi nìlam sùilpisahasrenïàpi pìtạmï kartum sùakyate.

17 Ksïaram pradhànam amrïtàksïaram hara ksïaràtmànàv ìsùate deva ekahï I.10.

18 IV.10: màyàmï tu prakrïtim viddhi, màyinamï tu mahesùvaram.

19 Kàrikà 15.

20 V.2. tamo và idam agra àsìd ekam tat pare syàt tat tat parenïeritam visïamatvam prayàti etadrùpạm vai rajas tad rajahï khalv ìritamï visïa-matvam prayàti etad vai sattvasya rùpam…

21 VI.4: àrabhya karmànïi gunïànvitàni, bhàvàn ca sarvàn viniyojayed yahï / tesïàm abhàve krïta-karma-nàsahï karma-ksïaye yàti sa tattvato’nyahï.

22 Tác phẩm của thế kỷ XIV, cũng mang danh là Sàmïkhya-sùtra.

23 Kàrikà 12. Hán dịch:

Hỉ, ưu, ám vi thể;

Chiếu, tạo, phước vi sự;

Cánh, hổ, phục, y, sinh;

Song khởi tam đức pháp:

24 Kàrikà 13. Hán:

Hỉ giả khinh quang tướng;

Ưu giả trì động tướng;

Ám giả trọng phúc tướng;

Tương vi hiệp như đăng.

25 Kàrikà 19. Hán dịch:

Phiên tánh biến dị cố

Ngã chứng nghĩa thành lập

Độc tồn cập trung trực

Kiến giả, phi tác giả.

26 Trayànïàmï tvavastàvisùesïànïam àdau purusïàrthatà kàranïam bhavati. Xem: Radhakrishnan, sđd. tr.266.

27 Kim thất thập luận, tr. 1250b.

28 Kàrikà nói đó là một vở kịch có hai màn. Khán 21: purusïasya darsùanàrtham kaivalyàrtham tathà pradhànasya panïgv-andhvad ubhayor api samïyogas tat krïtahï sargahï. Hán dịch: Ngã cầu kiến tam đức; Tự tánh vi độc tồn; Như bế manh nhân hiệp; Do nghĩa sinh thế gian.

29 Như trên.

30 Sđd, tr. 1250a: Tam đức hiệp nhân cố; Vô tri như tri giả; Tam đức năng tác cố; Trung trực như tác giả.

31 Như trên.

32 Hán dịch: Sđd, tr. 1247a: Hữu nhân, vô thường, đa; Bất biến, hữu sự, một; Hữu phần, y, thuộc tha; Biến dị dị tự tánh.

33 Hán dịch: Sđd: Quyết trí danh vi đại.

34 Hán dịch: Đại hữu bát phần; 4 hỉ phần: pháp (dharma), trí (jnõàna), ly dục (vairàgya), tự tại (aisùvaya); trái lại là 4 phần của si ám hay tamas.

35 Hán dịch: Ngã mạn: ngã sở chấp. Ahamïkàra: abhimàna.

36 Kàrika 30, Hán: Giác, mạn, tâm cập căn; Hoặc câu thứ đệ khởi; Dĩ kiến vị kiến cảnh; Tam khởi tiên y căn.

37 Hán: Vị tăng trưởng độc tử; Vô tri chuyển vi nhủ; Vị giải thoát nhân ngã; Vô tri tánh diệc nhĩ.

38 Kàrikà 60.

39 Kàrikà 36.

40 Kàrikà 60, Hán dịch: Dĩ chủng chủng phương tiện; Tác ân ư vô ân; Hữu đức ư vô đức; Vị tha, vô dụng sự.

41 Kàrikà 61, Hán dịch: Thái cực nhi tự tánh; Ngã kế cánh vô vật; Ngã kim dĩ bị kiến; Nhân thử tàng bất hiện.

42 Kàrikà 1, Hán dịch: Tam khổ sở bức bách; Dục tri diệt thử nhân.

43 Hán, tr. 1245, tản văn chú giải Kàrikà1.

44 Hán, tr. 1258.

45 Kàrikà 59, Hán: Như kỷ xuất vũ đường; Hiện tha hoàn cánh ẩn; Linh ngã hiển tự thân; Tự tánh diệc như thị.

46 Kàrikà 61: tasmànna badhyate’ ddhà na mucyate nàpi samïsarati kasù- cit / samïsarati bodhyate ca nàràsùryà prakrïtihï. Hán dịch: Nhân vô phược vô giải; Vô luân chuyển sinh tử; Luân chuyển cập hệ phược; Giải thoát duy tự tánh.