Triết học
Đối Thoại Giữa Triết Học Và Phật Giáo
Tác giả: Jean Francois Revel & Matthieu Ricard BS: Hồ Hữu Hưng (dịch) Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
01/09/2554 15:26 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

 

Chương 1. Từ việc nghiên cứu khoa học đến việc nghiên cứu tâm linh

 

 

Trước hết, Ba và con phải nhấn mạnh rằng cả hai chúng ta đều không có ý định làm quyển sách này. Chính các nhà xuất bản đã gợi ý, đã nghĩ đến vấn đề vì họ biết liên hệ cha con của hai chúng ta và họ nghĩ là sẽ thú vị nếu đem đối chiếu quan điểm của chúng ta.

Vậy, Ba bắt đầu từ việc con đã xuất sắc hoàn tất đại học về sinh vật học. Con đã là một học trò của thầy Francois Jacob, và là một nghiên cứu sinh ở viện Pasteur. Tại Đại học khoa học Paris, trước một hội đồng giám khảo gồm Francois Jacob và nhiều khoa học gia tầm cỡ, con đã thành công trong việc bảo vệ luận án tiến sĩ quốc gia.

Điều quan trọng trong các cuộc trò chuyện hôm nay giữa hai chúng ta là ở chỗ con đã có một nền học vấn khoa học Tây Âu ở mức độ cao, đột nhiên lại quay sang cái triết lý, cái đạo Đông phương là Phật giáo. Con đã quay sang Phật giáo, nói rõ hơn, không phải là để bổ sung cho cuộc sống hay là để tìm thêm một chút gia vị tinh thần cho một sự nghiệp mà lẽ ra phải tiếp diễn bình thường theo các tiêu chuẩn Tây phương, nhưng con đã chấm dứt sự nghiệp khoa học để hoàn toàn chú tâm vào việc hành trì Phật giáo. Vậy thì câu hỏi đầu tiên của Ba là “Khi nào và tại sao các quyết định đó lại nảy mầm trong con?”

Matthieu: Sự nghiệp khoa học mà con theo đuổi là kết quả của một sự say mê khám phá. Tất cả những gì con làm sau đó, không phải là một sự chối bỏ, nghiên cứu khoa học thật ra rất quyến rũ mà vì thấy khoa học không thể giải đáp được các vấn đề của cuộc sống. Nói tóm lại, khoa học mặc dù rất hấp dẫn, vẫn không thể cho con một ý nghĩa cho cuộc sống. Con đã đến mức xem việc nghiên cứu như một cuộc tản mác vào các chi tiết bất tận mà con không thể tiếp tục cho đến hết cuộc đời được. Đồng thời, cuộc chuyển biến đó cũng bắt nguồn bằng một sự thích thú càng ngày càng gia tăng với đời sống nội tâm. Ban đầu sự thích thú đó hình thành không rõ ràng trong tâm trí con vì lẽ con đã được giáo dục hoàn toàn theo cách thế tục và con cũng không theo Thiên Chúa giáo. Dù sao bề ngoài con cũng hơi e dè khi đặt chân vào nhà thờ, hay khi gặp một tu sĩ vì con hoàn toàn mù tịt về đạo. Tuy trong thời niên thiếu, con có đọc một số tác phẩm về nhiều truyền thống tâm linh khác nhau, về Ky Tô giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo thần bí, nhưng rất ít về Phật giáo, vì thuở ấy trong những năm 60, rất ít các bản dịch chính xác về Phật giáo, vài cuốn khảo luận và dịch thuật đã truyền lại một cách sai lạc cái cách nhìn của Phương tây về Phật giáo trong thế kỷ trước. Một triết thuyết thiên về hư vô lạnh nhạt với cuộc đời. Nhờ cậu con, nhà hàng hải J.Y.Le Toumelin, con khám phá ra những bản viết của nhà siêu hình học René Quenon. Tất cả các thứ ấy đã gợi lên và nuôi dưỡng một sự tò mò về khía cạnh tâm linh dù rằng sự tò mò ấy cũng chưa đưa đến điều gì cụ thể.

Jean Francois: Ba cắt ngang để con nói rõ hơn về những tác phẩm của René Quenon. Đó có phải là một tác giả người Pháp đã chuyên viết về các triết lý Đông phương? Một thời nào đó ba có đọc nhưng không còn nhớ rõ ràng nữa.

Matthieu: ông ta đã viết khoảng 20 tác phẩm về các truyền thống tâm linh Đông và Tây phương và về tính hợp nhất căn bản của các truyền thống siêu hình, nhất là ông đã viết quyển “Đông phương và Tây phương- Cuộc khủng hoảng của thế giới hiện đại với con người và sự chuyển biến của nó theo kinh Vệ Đà”, trong đó ông ta giải thích về sự tiến hóa của con người cho đến việc thành tựu tuyệt đối hay chân như. Nhưng tất cả những điều đó hãy còn là tri kiến đối với con.

Jean Francois: Tri kiến theo chiều hướng nào ?

Matthieu: ngoài sự thích thú do được mở mang tâm trí nhờ đọc những tác phẩm ấy, chúng không đem lại một sự chuyển hóa nội tại nào cho con.

Jean Francois: Con đọc những tác phẩm đó khi bao nhiêu tuổi?

 Matthieu: Ồ, khoảng l5 tuổi. Con cũng còn đọc những sưu tập nói về Ramana Maharshi, một hiền triết Ấn Độ mà người ta bảo rằng ông đã nhận chân được bản ngã, trạng thái bất nhị. Nhưng điều khơi dậy sự chú ý của con đến Phật giáo là vào năm1966.

Jean Francois: Khi đó con đã 20 tuổi!

Matthieu: Con còn đang học tại đại học khoa học, trước khi vào viện Pasteur, khi ấy con được xem một cuốn phim lúc còn trong giai đọan thực hiện, bởi một người bạn Arnaud Des Jardins, bộ phim nói về những đạo sư lỗi lạc Tây Tạng. Arnaud đã mất nhiều tháng ròng với một cố vấn giỏi vừa 1à thông dịch, để quay những đạo sư ấy trong chỗ riêng tư của họ. Những bộ phim ấy gây ấn tượng mạnh. Cũng trong thời gian này, một người bạn khác bác sĩ Leboyer đã trở về từ Darjeeling, nơi ông ta đã gặp những vị hiền triết đó. Phần con vừa mới xong một chứng chỉ lục cá nguyệt và được rảnh rỗi sáu tháng trước khi tiếp tục nghiên cứu, con đã nghĩ đến việc làm một chuyến du hành lớn. Đó là thời kỳ của những chàng ''Hippie'' đã đi Ấn Độ bằng xe 2CV Citroešn hoặc đi nhờ xe xuyên qua Thổ nhĩ kỳ, Iran, Afganistan và Pakistan. Con cũng ngưỡng mộ về nghệ thuật chiến tranh và dự trù đi Nhật. Nhưng rồi nhìn những hình ảnh mang về bởi Arnaud và Federick Leboyer cộng thêm những câu chuyện của họ về Hy Mã Lạp Sơn đã kích động con nên đi đến đó hơn là đến những nơi khác.

Jean Francois: Vậy hóa ra là vì cuốn phim của Arnaud Desjardins?

Matthieu: Có nhiều bộ phim khác như là thông điệp của người Tây Tạng, Himalaya- vùng đất bình an (bao gồm những đứa con của sự Minh Triết, và Hồ nước của các đạo sĩ Yoga) dài bốn tiếng đồng hồ. Người ta được nhìn thấy rất lâu những bậc lãnh đạo tinh thần vừa đến từ Tây Tạng, dáng vóc của họ, phong cách của họ khi thuyết giảng. Đó là một chứng cớ rất sống động và rất gợi cảm.

Jean Francois: Các phim đó được phát trênVô tuyến tryền hình không?

Matthieu: Nhiều lần từ năm 1966 và gần đây được tái bản dưới dạng vidéo. Đó là những tài liệu phi thường. Dân tộc Tây Tạng có đến 20% dân số là tu sĩ nam, nữ ẩn sĩ sống trong hang động, các học giả giảng dạy trong các ngôi chùa. Và thật sự, tu hành ở đất nước này là mục đích chính của cuộc sống. Có những người thế tục cũng xem các hoạt động hàng ngày của mình như thứ yếu so với đời sống tâm linh. Và cả nền văn hóa đều tập trung vào đời sống tâm linh.

Jean Francois: Con đã nói rằng những phim của Arnaud Des Jardins đã gây ấn tượng mạnh cho con. Con có thể phân tích và đánh giá cái ấn tượng ấy không?

Matthieu: Con có cảm tưởng là những nhân vật trong phim đúng là hình ảnh của những gì do chính họ thuyết giảng. Họ rất đáng được tôn kính. Con không thể nào diễn tả cho rõ ràng tại sao nhưng điều đáng kinh ngạc là họ có dáng dấp những vị thánh, những con người hoàn mỹ, những bậc hiền minh, một loại người mà chúng ta không còn gặp ở phương Tây nữa.

Đó là hình ảnh mà con hình dung ra của thánh Francois D’Assises, một vị đại hiền thời cổ đại. Một hình ảnh mà con không thể nào tiếp cận được, vì lẽ con đã gặp Socrates, nghe Platon diễn thuyết hoặc ngồi dưới chân thánh Francois D’Assises. Trong khi đột nhiên xuất hiện những nhân vật có dáng dấp sống động của sự minh triết và con tự nói “Nếu có thể đạt tới sự hoàn thiện trên bình diện con người, thì rõ ràng điều đó đang hiện diện ở tại đây."

Jean Francois: Về định nghĩa của con, Ba cũng sắp nói rằng gần như một ý thông thường nếu nói về đặc trưng của nền triết lý cổ đại, triết lý không chỉ là một món ăn tinh thần, một lý thuyết, một sự giải thích về thế giới và đời sống. Đúng hơn là một sự thể hiện. Triết gia và môn đồ luôn luôn thể hiện trong đời sống những gì họ dạy về triết thuyết của họ. Cái mà đã làm con ngạc nhiên ở những đạo sư Tây Tạng là họ gần giống như những triết gia thời nguyên thủy của triết lý Tây phương. Đó là lý do vì sao các triết gia thời đó giữ vai trò là người tâm phúc, người thầy tinh thần, người hướng dẫn và an ủi tinh thần, người bạn tốt của bao nhân vật quan trọng cho đến cuối đời Đế chế La Mã nhất là vào thời kỳ của Marc Aurele mà Renan gọi là triều đại của các triết gia. Vậy là các phong thái đó đã có ở Tây phương, không phải chỉ dạy suôngg mà còn thể hiện những điều mình dạy trong cuộc sống. Nhưng sự thể hiện đó có hoàn hảo trong thực tế hay không là một chuyện khác. Cái quan niệm triết lý đó trong nhiều trường hợp có tương quan đến nhiều khía cạnh tôn giáo. Nền triết lý cổ đại thường khi có tầm vóc và cũng nhằm vào việc giải phóng con người. Người ta tìm thấy điều đó ở những người theo chủ nghĩa khoái lạc (dù rằng chữ khoái lạc ngày nay gợi ý một sự lãnh đạm với lĩnh vực tinh thần).

Vậy, có nghĩa là có các nhu cầu song hành vừa xây dựng một học thuyết đồng thời tự mình thể hiện học thuyết đó. Và không có sự khác biệt căn bản nào giữa Đông và Tây vào thời cổ đại.

Matthieu: Đúng thế, trừ việc các đạo sư Tây Tạng không hề xây dựng một học thuyết mà chỉ là những người kế thừa trung thành và đúng đắn của một truyền thống có từ ngàn năm nay. Dù sao con cũng thấy nhẹ người khi biết rằng đã có một truyền thống sống động, dễ hiểu với bao điều tốt đẹp. Sau khi làm một cuộc du hành trong sách vở, bây giờ con mới có thể làm một cuộc du hành thực sự.

Jean Francois: Xin lỗi phải ngắt lời con, con đã nói đến những điều tốt đẹp? Con đã hiểu thế nào về học thuyết đó? Hoá thân vào một học thuyết chưa đủ, ít ra là nó phải có môt giá trị gì?

Matthieu: Con chưa có một ý niệm về Phật giáo nhưng chỉ nhìn những vị hiền triết đó, dù chỉ là trong phim ảnh cũng làm cho con linh cảm được một sự hoàn thiện siêu thoát.

Thật trái ngược khi nghĩ đó lại là một nguồn hy vọng. Trong môi trường sống của con, nhờ Ba mà con đã gặp được những triết gia, những nhà tư tưởng, những kịch sĩ; nhờ mẹ con Yahne Le Toumelin, môt họa sĩ, con đã gặp nhiều nghệ sĩ và thi sĩ; nhờ cậu con- Jacques Yves Le Toumelin, con đã gặp những nhà thám hiểm nổi tiếng và nhờ thầy con- Francois Jacob, con cũng đã gặp những nhà bác học tầm cỡ đến diễn giảng ở viện Pasteur. Như vậy là con đã có cơ hội để tiếp cận được những nhân vật quan trọng và hấp dẫn về nhiều phương diện. Nhưng đồng thời, con cũng nhận thấy bên cạnh cái tài của họ không có dấu chứng về một sự hoàn thiện con người. Tài năng, năng lực tinh thần của họ. không làm cho họ trở thành con người tôt. Một thi sĩ lớn cũng có thể là một kẻ cắp, một nhà bác học cũng có thể luôn bị đau khổ dày vò, một nghệ sĩ cũng có thể đầy ngạo mạn. Mọi sự phối hợp, tốt cũng như xấu đều có thể có được.

Jean Francois: Ba nhớ thời ấy con cũng rất thích âm nhạc, thiên văn, nhiếp ảnh và cả Điểu loại học. Hồi 22 tuổi, con có viết một quyển sách về những cuộc di cư thú vật và có một thời gian con hoàn toàn chú tâm đến âm nhạc.

 Matthieu: Vâng, con đã gặp Igor Stravinsky và nhiều nhạc sĩ lớn khác. Vậy là con đã tiếp cận những con người được ngưỡng mộ ở Tây phương và điều này đã làm con tự hỏi: “Vậy đó có phải là điều ta muốn đạt đến hay không? Ta có muốn trở thành như họ không?” Con có cảm tưởng vẫn còn khao khát một điều gì đó mặc dù có sự ngưỡng mộ những nhân vật kia. Con cũng nhận thấy là ngoài tài năng mà họ thể hiện trong một lãnh vực nào đó, họ cũng không thành tựu được những sự sửa đổi đơn giản nhất, như là hướng đến lòng vị tha, lòng nhân ái và sự thành thật. Trái lại, khi xem các phim ảnh trên, con đã khám phá ra được điều đã hấp dẫn con đến với các đạo sư Tây Tạng. Đó là cách sống của họ phản ánh được cái gì họ thuyết giảng, do đó con quyết định phải tìm hiểu. Và sự đánh động này cũng diễn ra ở một người bạn khác- Christran Bruyat, đang sửa soạn thi vào trường Sư phạm. Khi anh ta nghe những lời cuối của buổi phát thanh, trong đó Arnaud đã nói đại khái: ''Tôi nghĩ rằng những vị đại hiền sau cùng, biểu hiện sống động của đời sống tâm linh, là những vị đạo sư Tây Tạng đang sống ẩn dật trong dãy Hy Mã Lạp Sơn Ấn Độ''. Và cũng vào thời điểm đó, anh ta quyết định du hành một chuyến.

Như vậy là con đi Ấn Độ trên một chuyến bay rẻ tiền, con không nói được tiếng Anh vì Ba đã nghĩ rằng con nên học tiếng Đức, tiếng Hy Lạp, tiếng La Mã- những ngôn ngữ khó hơn là tiếng Anh. Điều đó cũng đúng nhưng con cũng đã quên luôn tiếng Đức và các tiếng khác. Con đến Deihi với một quyển tự điển nhỏ, một quyển Assimil và con đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc hỏi thăm đường, hỏi mua vé xe lửa đi Darjeeling và đến được những đỉnh núi tuyết của rặng Hy Mã Lạp Sơn. Con có địa chỉ một giáo sĩ Gia tô, ông này được bác sĩ Leboyer giao cho một số tiền để chi dụng cho một vị Lạt ma lỗi lạc Tây Tạng là Kangyour Rinpotché đã từng đến Ấn Độ nhiều năm trước. Ông ta sống thật khốn khổ cùng với gia đình trong một căn nhà gỗ nhỏ với số sách mà ông còn giữ được của Tây Tạng. Đúng vào hôm con đến, con ông ta đã đến hội truyền giáo để lãnh số tiến trợ cấp đó.

Vậy chính con của Đạo sư Kangyour Rinpotché đã dẫn con đến gặp cha của anh ta. Đơn giản là con chỉ sống cạnh ông ta trong ba tuần lễ. Thật rất ấn tượng. Đấy là một người khoảng 70 tuổi, vẻ mặt sáng ngời nhân ái, ngồi dựa lưng vào một cánh cửa sổ, đằng sau đó là một đại dương, mây trời bị cắt ngang bởi ngọn núi Kanchenjungua cao sừng sững 8000 thước. Con ngồi suốt ngày trựớc mặt ông và con có cảm giác như mọi người thường nói là đang tham thiền, nghĩa là đang suy tư trước sự hiện diện của ông. Con đã nhận được vài lời giáo huấn, gần như không có gì. Con ông ta nói được tiếng Anh còn con thì không. Chính con người ông đã làm con xúc động. Chiều sâu, sức mạnh, sự thanh thản, tình yêu toát ra từ nơi ông đã mở trí cho con.

Sau đó con tiếp tục cuộc hành trình đến Cachemire, ngã bệnh ở Ấn Độ, bị thương hàn và sau đó lại quay về Pháp. Tại trạm dừng ở Damas, con tự nói quả là ngu xuẩn nếu không đi thăm tất cả các nước Trung Đông này và con tiếp tục bằng đường bộ và đường sắt. Con đã đi thăm mộ của vị thánh Hồi giáo Ibn Arabi, các thánh đường Hồi giáo ở Istanbul. Con kết thúc cuộc hành trình ở tu viện Tournus nơi hành lang mát mẻ, con đứng suy tư trong sự im lặng tĩnh mịch, trong khi bên ngoài sự trở về của dân chúng từ các cuộc nghỉ hè làm tắt nghẽn lưu thông. Và từ đấy, con mệt mỏi đáp xe lửa về Paris.Vậy là một sự biến động lớn về hình thể bên ngoài cùng lúc là một sự khám phá nội tâm. Chỉ khi từ Ấn Độ trở về trong khi còn đang học năm thứ nhất ở viện Pasteur, con mới thấy hết sự quan trọng của lần gặp mặt với thầy con. Phẩm chất của ông luôn trở lại trong tâm trí của con và con nhận thấy ở đó một sự thật gợi cảm hứng cho cuộc đời con, và cho nó một ý nghĩa dù rằng con chưa biết nó như thế nào.

Jean Francois: Vậy người ta có thể nói sự thay đổi quan trọng đó, nếu không là một sự cải hoán hoàn toàn, và không phải được tạo nên bởi một sự thâm nhập tinh thần vào lý thuyết hay giáo lý Phật giáo qua những sách viết về Phật giáo, mà chủ yếu là do những sự tiếp xúc cá nhân.

Matthieu: Đúng vậy. Sự nghiên cứu chỉ đến với con sau này thôi.

Jean Francois: Vào thời điểm đó có khối người trẻ Tây phương và Hoa Kỳ đi khắp Ấn Độ.

Matthieu: Đó là một năm trước tháng 5 năm 1968. Những người trẻ ấy đi tìm một thứ khác, họ hút cần sa chẳng hạn. Vài người đi tìm hiểu đời sống tâm linh, viếng những đền thờ Ấn giáo hoặc đi thám hiểm Hy Mã Lạp Sơn. Mọi người tìm Đông, tìm Tây. Thường khi họ trao đổi ý kiến, thông tin với nhau. Họ nói, tôi đã gặp một vị rất đặc biệt ở nơi này, nơi nọ, đã nhìn thấy một phong cảnh huyền ảo ở Sikkim, đã gặp một nhạc sư ở Benarès, một đạo sĩ yoga ở miền Nam Ấn Độ v.v... Đó là thời kỳ mà người ta đặt lại vấn đề, người ta khám phá không những trong sách vở mà cả trong thực tế nữa.

Jean Francois: Và trong số những người trẻ Tây phương đi tìm một nguồn sống tâm linh đó, có một nhóm quan trọng nào đi Darjeeling không?

Mathieu: Vào thời ấy, rất ít. Vài chục người trong thập niên 60-70. Rồi theo dòng thời gian, sự chú ý đến các Đạo sư và những lời truyền dạy của họ tăng dần. Năm 1971, một số Đạo sư Tây Tạng đi Tây phương, Pháp hay Hoa Kỳ. Dần dần hàng trăm, hàng ngàn người Tây phương đã đến học hỏi với họ. Cũng rất đông trong số họ đã trải qua trong nhiều năm dài trong rặng Hy Mã Lạp Sơn để gần gũi các vị đạo sư hay thường xuyên đi tìm họ.

Trở lại vấn đề mà Ba đã nêu ra trước đây, thiện cảm của con không phải dựa trên việc nghiên cứu Phật giáo. Cũng không phải vậy trong chuyến đi đầu tiên hoặc hai chuyến đi sau đó. Đơn giản là con muốn gặp lại vị thầy mới của con. Thật vậy, từ vị thầy này con đã nhận được những sự chỉ dẫn tâm linh căn bản, chứ không phải một sự thuyết giảng ròng rã về Phật giáo. Ông nói với con: "Có rất nhiều điều thích thú trong Phật giáo, nhưng không nên hoàn toàn để tâm vào học lý thuyết hay trong sách vở, vì nếu làm như vậy, người ta sẽ quên đi sự thực hành tâm linh. Đó mới chính là trái tim của Phật giáo, là sự chuyển hóa nội tâm của con người. Tuy nhiên với sự có mặt của ông, con đã trực nhiên cảm nhận được những điều căn bản trong liên hệ giữa thầy và trò. Đó là sự hòa hợp tâm linh giữa hai người với nhau. Người ta gọi đó là ''truyền tâm ấn''. Tâm của người thầy là trí huệ và của người trò là sự bấn loạn. Vậy là nhờ vào sự hòa hợp tâm linh mà người học trò có thể từ sự bấn loạn đến được trí huệ. Cái thể cách quán sát nội tâm đó là điểm then chốt trong việc hành trì Phật giáo Tây Tạng.

Jean Francois: Cái điều mà con gọi là trí huệ đó, có phải là một sự thụ pháp tôn giáo không?

Matthieu: Không, đó là kết quả của một sự chuyển biến nội tâm. Cái mà người ta gọi là trí huệ theo Phật giáo là một sự bừng sáng về thế giới hiện tượng cũng như tinh thần. Chúng ta là ai? Thế giới là gì? Rốt ráo nhất là sự đạt tới chân lý tuyệt đối ngoài mọi ý niệm. Đó là sự hiểu biết theo khía cạnh cơ bản nhất.

Jean Francois: Vậy trên hết đó là một vấn đế triết ly.

Matthieu: Đúng vậy.

Jean Francois: Cho đến thời phát sinh khoa học vật lý vào thế kỷ 17, nền triết học cổ đại cho rằng hiểu tất cả mọi vấn đề, bao gồm sự hiểu biết về thế giới động vật, vật chất, 1uân lý, về con người, về cõi bên kia, về thần linh dù là dưới hình thức cá nhân như ở Aristote, hay là thần linh trong thiên nhiên như theo chủ nghĩa khắc kỷ, hoặc ở Spinoza. Các học thuyết đó về thực tại đã được xem là không thể thực hiện một cách nghiêm chỉnh được. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này. Mặt khác, trong chữ trí tuệ, có một khía cạnh khác. Cái mà Ba sẽ gọi là "tinh thần Socrate".Theo Socrate, sự minh triết là kết quả của khoa học. Theo ông không hề có sự minh triết hay luân lý bản năng. Tất cả đều đến từ kiến thức. Và chính là từ khoa học mới có ra sự minh triết và luân lý.

 Những triết lý cổ đại nghĩ rằng, muốn đến sự minh triết và hạnh phúc, cái mà người ta gọi là "cái tốt chủ thể" có thể hiểu là một sự cân bằng giữa đạo đức đối với kẻ khác và hạnh phúc của chính cá nhân mình, người ta phải nhờ vào kiến thức khoa học. Có phải ít nhiều đó là đặc tính của Phật giáo vào lúc mà con khám phá ra nó? Khi Thầy con nói "trí tuệ" có phải là nói đến sự nhận chân bản thể của vạn vật, ''cái trí tuệ” đó Ba dám nói là nó bao gồm cả một chương trình bao la. Vì nó gồm cả sự hiểu biết các hiện tượng bên ngoài, của chính con, và cả các hiện tượng siêu nhiên nữa.

Matthieu: Phật giáo gồm cả việc học hỏi các khoa học truyền thống như y học, ngôn ngữ, văn phạm, thi ca, thiên văn học (như hiện tượng nhật thực), thủ công nghệ và nghệ thuật. Y học Tây Tạng đặt nền tảng trên cây cỏ và khoáng chất, đòi hỏi nhiều năm theo học và các bác sĩ giải phẫu Tây Tạng, theo lời đồn đãi, có thể mổ đục thủy tinh thể bằng một con dao mổ bằng vàng, tuy rằng việc đó đã chìm vào quên lãng. Nhưng khoa học quan trọng hơn tất cả, là sự nhận chân được con người thật của mình, nhận chân được thực tại và câu hỏi cốt yếu là "Bản chất của các hiện tượng, của tư tưởng là gì? Và thực tế hơn "Đâu là chìa khóa của hạnh phúc và đau khổ? Đau khổ từ đâu đến? Vô minh là gì? Sự giải thoát tâm linh diễn tiến ra sao? Và thế nào là một con người hoàn thiện?” Chính sự khám phá ra những điều đó người ta gọi là trí tuệ.

Jean Francois: Động cơ đầu tiên có phải là để thoát ra sự đau khổ?

Matthieu: Sự đau khổ là kết quả của vô minh.Vậy thì cần phải diệt vô minh. Nguồn gốc của vô minh là "chấp ngã" và cho các hiện tượng là thật. Làm nhẹ bớt sự đau khổ của người khác là một bổn phận, nhưng chưa đủ. Cần phải chữa nguyên nhân gây ra đau khổ. Nhưng, một lần nữa, tất cả những điều đó đều chưa rõ ràng nơi con và con tự bảo: "Không có lửa thì không có khói". Khi con nhìn thấy thầy con, vóc dáng, ăn nói, cách hành xử của ông đã làm con tin tưởng sâu sắc là có cái gì đó rất căn bản, và con cần đào sâu để tìm hiểu. Ở đó có một nguồn cảm hứng, một sự vững tin và một sự hoàn thiện mà con muốn thâm nhập. Theo thời gian, con đã đi Ấn Độ 5 hay 6 lần trước khi đến ở hẳn, con đã nhận ra rằng khi con ở gần thầy con, con dễ dàng quên đi viện Pasteur, đời sống của con ở Châu Âu và khi con ở viện Pasteur thì con lại mơ tưởng về Hy Mã Lạp Sơn. Vậy là con quyết định và không bao giờ hối tiếc: Ở lại nơi mà con hằng mong đến. Con đã làm xong luận án và giáo sư Jacob đã nghĩ đến việc gửi con sang Mỹ để con tiếp tục nghiên cứu về một đề tài mới. Cũng như những nhà nghiên cứu khác thời đó, giáo sư đã chuyển sang từ việc nghiên cứu vi khuẩn sang việc nghiên cứu các tế bào động vật, vì đó là một môi trường nghiên cứu rộng lớn hơn và làm phát triển vượt bậc ngành sinh vật tế bào. Con đã tự bảo rằng con đã chấm dứt một giai đoạn: con đã công bố những bài viết về 5 năm nghiên cứu, con đã không làm hỏng bất cứ sự đầu tư nào cho con, từ phía gia đình cũng như của thầy Jacob đã nhận con vào làm việc trong phòng thí nghiệm của thầy. Dù sao cũng là khúc quanh trong sự nghiệp nghiên cứu của con. Con có thể chọn một con đường khác mà không làm đổ vỡ điều gì, cũng không làm thất vọng những người đã từng giúp con đi đến học vị tiến sĩ. Con có thể yên tâm thực hiện hoài bão của mình. Dẫu sao thầy con, Kangyour Ringpotché luôn luôn nói với con là cần phải hoàn thành những công cuộc mà con đã theo đuổi. Như vậy là con đã không hấp tấp. Con đã chờ từ năm 67 đến 72, trước khi đến ở Hy Mã Lạp Sơn. Đúng vào lúc ấy, con đã báo cho giáo sư Jacob và Ba về quyết định đi Hy Mã Lạp Sơn thay vì đến Mỹ. Con đã nhận ra rằng đúng là điều con ao ước thực hiện, trong khi con hãy còn trẻ, còn hơn phải hối hận sau này khi con đã 50 tuổi, là đã không chọn con đường này.

 Jean Francois: Nhưng con có nghĩ là không thể dung hòa được hai điều đó (Khoa học và Đạo) không?

Matthieu: Không có sự bất dung hợp căn bản nào giữa khoa học và đời sống tâm linh, nhưng với con một cái quan trọng hơn cái kia. Thực ra mà nói người ta không thể ngồi giữa hai cái ghế cũng như không thể may với một cây kim có hai mũi được. Con không có ý định chia cắt thời gian, con muốn dành hết thì giờ cho điều mà con cho là cần thiết. Sau này con mới nhận ra rằng, sự huấn luyện khoa học nơi con với sự chính xác của nó, dễ dàng dung hợp với sự nghiên cứu Phật giáo và siêu hình học. Hơn nữa với con, đời sống nội tâm thật sự là một khoa học của tâm trí với những giả thiết, những phương pháp và kết quả của nó. Đúng là phải thật sự chuyển hóa chớ không phải mơ mộng hay đứng ngây người ra nhìn. Và trong 25 năm sau đó, theo như con hiểu khoa học không hề ngăn trở con trong việc đi tìm chân lý.

Jean Francois: Như vậy là Ba hiểu con đã áp dụng khoa học vôi sự chính xác của nó vào việc nghiên cứu triết lý, và lịch sử Phật giáo. Nhưng việc nghiên cứu về sinh vật học nguyên tử trong vòng 30 năm trở lại đây đã có nhiều phát minh lớn, nhưng con đã không tham dự.

Matthieu: Sinh vật học dù không có con cũng phát triển tôt. Không thiếu gì nghiên cứu sinh trên hành tinh này. Vấn đề là thiết lập một hệ thống ưu tiên trong đời sống của con. Con có cảm giác ngày càng lớn, là đã không tận dụng tiềm năng con người và để cho cuộc đời của con mỗi ngày một rạn nứt thêm. Theo con, cái khối kiến thức khoa học đã trở thành một sự đóng góp quan trọng cho những nhu cầu nhỏ bé.

Jean Francois: Những gì con đã làm sau đó đã giúp con tìm hiểu sâu về một học thuyết đã từng có mặt nhiều thế kỷ trước kỷ nguyên chúng ta, nhưng không đem lại những kiến thức mới, khác hẳn nếu con tham dự vào nghiên cứu sinh vật học phân tử- Ba cũng không nói rằng tuyệt đối phải có những phát minh khoa học để thành công trong đời- Ba nói rằng ở vào thời điểm đó, luận án tiến sĩ của con là một sự thành tựu và cũng là một sự khởi đầu cho những cuộc nghiên cứu quan trọng khác, con đã có trong tay những gì cần thiết để tham dự vào những cuộc phiêu lưu khoa học độc đáo nhất của nhân loại, điều mà những phát minh gần đây của ngành sinh vật phân tử đã chứng minh.

Matthieu: Ba hãy cẩn thận, vì với Phật giáo, không cần làm dậy lên đám bụi che phủ một học thuyết xưa và cổ hủ. Công cuộc tìm kiếm tâm linh là việc chuyển hóa tâm thức hoàn toàn, luôn luôn mới và sống động. Một truyền thống siêu nhiên như Phật giáo không thể già cỗi được bởi vì nó nhắm vào những vấn đề thiết thân của cuộc sống– theo dòng lịch sử, chính những lý thuyết khoa học phải tự nhiên già đi và luôn luôn đổi mới.

Jean Francois: Đúng vậy, chúng luôn luôn đổi mới vì một lý do giản dị: Kiến thức con người luôn luôn tiến bộ, người ta quan sát những sự kiện mới, và thực nghiệm chứng minh những giả thuyết.

Matthieu: Thật ra sinh vật học và khoa vật lý đã đem đến nhiều kiến thức khác thường về nguồn cội đời sống và về sự hình thành vũ trụ. Nhưng những kiến thức đó có làm sáng tỏ được các cơ chế căn bản của đau khổ và hạnh phúc hay không? Ta không nên để mất dấu những mục đích mà ta đã dự trù. Đúng là một sự tiến bộ không phủ nhận được khi ta hiểu rõ hình dáng và kích thước chuẩn xác của trái đất, nhưng dù nó tròn hay phẳng cũng không làm thay đổi ý nghĩa của cuộc sống. Dù y học có tiến bộ thế nào đi nữa, người ta chỉ có thể tạm thời làm nhẹ đi những đau khổ luôn luôn trở lại và sau cùng là cái chết. Người ta có thể ngăn được một sự xung đột, một cuộc chiến tranh nhưng những cuộc xung đột và chiến tranh khác lại tái tục nếu tâm thức con người không thay đổi. Ngược lại, có cách nào khám phá ra được một sự bình an nội tại không dính líu gì đến sức khoẻ, quyền lực, thành công, tiền bạc, hay những dục lạc trần gian. Một sự bình an nội tại là cội nguồn của một sự bình an ngoại giới.

Jean Francois: Ba hiểu điều đó, nhưng ba không thấy được vì sao hai điều nêu trên không thể dung hợp được. Khoa học, sinh vật học nhất là sinh vật phân tử đem lại giải pháp cho việc chữa trị người bịnh và như vậy là làm giảm đi sự đau khổ của con người. Và sự thỏa mãn tâm linh khi phá ra cơ chế căn bản của đời sống là một sự thỏa mãn bất vụ lợi. Con có dự kiến là có thể phối hợp được hai khía cạnh đó trong công việc của con không?

 Matthieu: Phật giáo hoàn toàn không chống đối khoa học. Nó chỉ xem khoa học như một cái nhìn quan trọng. Do đó con không có nhu cầu là dành hết tâm lực cho nó, và như vậy là chia chẻ cuộc đời con. Con có cảm giác như con chim bị nhốt trong lồng, và chỉ có một ý tưởng là con muốn tự do.

Jean Francois: Con có còn theo dõi khoa học không?

Matthieu: Con tiếp tục theo dõi những khám phá về sinh vật học với tất cả sự chú tâm còn hơn là khi con đang dùng thời gian để dựng nên bản đồ di truyền nhiễm sắc thể của một vi khuẩn, công việc mà con đã dành ra 5 năm công sức. Nói một cách tổng thể, kết quả của những cuộc nghiên cứu của hàng ngàn nghiên cứu sinh trong vòng vài chục năm thật rất hấp dẫn. Đời của một nhà nghiên cứu khoa học là tìm hiểu trong nhiều năm các yếu tố của một trò chơi nát óc, mà khi ráp lại cho ra một hình ảnh rõ ràng của một hiện tượng vật lý hoặc sinh học. Nhà nghiên cứu đôi khi cũng ngỡ ngàng khi nhận ra rằng những cố gắng phi thường chỉ đem đến những kết quả không đáng kể. Cũng có khi có một khám phá quan trọng, ví dụ như là cấu trúc ADN đã đem lại một sự tưởng thưởng xứng đáng cho những cố gắng của anh ta. Nhưng đó là chuyện hãn hữu thôi, và con không thể so sánh lợi ích của việc nghiên cứu khoa học với việc nghiên cứu tâm linh, nó luôn đem đến một niềm vui làm cho người ta có cảm tưởng như là một mũi tên đang bắn thẳng vào mục tiêu- Mỗi giây phút đều quí báu và được dùng một cách thiện xảo nhất.

Jean Francois: Sau đó thì con làm gì?

Matthieu: Con không rời khỏi Darjeeling trong bảy năm. Con sống bên cạnh thầy con- Kangyour Ringpotché cho đến khi ông chết năm 1975. Sau đó, con tiếp tục tu hành trong một am nhỏ nằm bên trên tu viện. Khi ấy con đã gặp vị thầy thứ hai của con- Dilgo Khyentsé Rinpotché, đến tham dự lễ tang Kangyour Ringpotché. Con cũng để ra l năm ở Dehli để sao chép và in ấn lại khoảng 50 bản thảo Tây Tạng rất quí hiếm. Khi mà các bạn con sắp bắt đầu cuộc nhập thất truyền thống ba năm ở Dordogne, con đã hỏi Khyentsé Ringpotché là con có nên nhập với bọn họ không? Và ông đã trả lời: " Ngày nào ta còn sống hãy cứ theo học với ta''. Và như thế con đã sống 12 năm bên cạnh ông, nghe ông chỉ dạy, phụng sự ông và đi theo ông trong các chuyến du hành. Con đã trở thành nhà sư vào năm 79. Những năm sống bên cạnh thầy là những năm ẩn cư và học hỏi tuyệt vời, những năm không thể nào quên được nhờ đó con có được một sự tự tin mà không một ai hay điều gì làm lay chuyển được.

Jean Francois: Con đã từng sống ở Bhoutan, vậy con có biết Tây Tạng?

 Matthieu: Bhoutan là một vương quốc núi non đã thoát khỏi nạn ngoại xâm từ khi Phật giáo xâm nhập vào từ thế kỷ thứ 8. Văn hóa Phật giáo đã bùng nổ không trở ngại, và giá tinh thần của nó cũng đã ăn sâu vào tinh thần dân chúng. Sau khi trốn khỏi Tây Tạng, Khyentsé Ringpotché trở thành vị lãnh đạo Phật giáo được sùng mộ nhất ở Bhoutan, từ Đức vua cho đến anh nông dân. Vậy là một đặc ân cho con được sống trong xứ sở đó. Con cũng có dịp may được theo chân Khyentsé Ringphotché về lại Tây Tạng.

Bây giờ con muốn đảo ngược lại câu hỏi. Ba đã bảo con diễn tả và giải thích hành động của con và có lẽ Ba sẽ còn trở lại vấn đề này. Vậy thì lộ trình của chính Ba là gì? Tại sao Ba muốn có cuộc nói chuyện này?

Jean Francois: Dĩ nhiên là Ba tò mò về hành trạng của con bởi vì nó gồm có sự đoạn tuyệt với đời sống, với sự học hành, với trình tự văn hóa đã vạch sẵn cho con. Lộ trình của Ba cổ điển hơn nhiều, dù rằng trong nếp sống văn hóa của Ba so với thuở đầu đời, Ba cũng từng dứt khoát chối bỏ các trào lưu thời thượng và nổi loạn với thứ tư tưởng quy ước chung quanh mình. Nhưng dù sao Ba cũng còn ở trong khuôn khổ của nền văn hoá của riêng Ba.

Matthieu: Vậy thì do đâu Ba muốn tranh cãi với một người đại diện cho một nền văn hoá khác là con bây giờ?

Jean Francois: Trước hết là một nền văn hoá khác biệt, nhưng cũng là một nền văn hóa. Những nền triết lý Viễn đông thuộc về gia sản vũ trụ, dù người ta đã than phiền rằng nó không được nghiên cứu đầy đủ về phía chúng ta, ngoại trừ vài nhà chuyên môn. Nhân khi Ba nghĩ đến động cơ lúc Ba 19 tuổi khi Ba đang ở Đại học, Ba đã thiên về triết lý thay vì văn chương hay lịch sử mà Ba cũng rất thích, là vì triết lý có thể đem lại cho Ba chiếc chìa khóa kiến thức bao trùm lên tất cả, kể cả văn chương, lịch sử và cả khoa học nữa. Kiến thức đó đồng thời cũng là một sự minh triết nghĩa là một nghệ thuật sống dính liền với đạo đức.

Matthieu: Và triết lý Tây phương đã không đem lại cho Ba chiếc chìa khóa đó.

Jean Francois: Ba sẽ không nói thế. Ba chỉ nói rằng có vẻ như nó đã phản bội lại sứ mạng của nó bắt đầu từ thế kỷ 19. Ba chỉ đi đến kết luận đó sau nhiều năm đọc các bản văn và để ngoài tai những thách thức của phái thủ cựu. Tình cảm sau cùng đã khiến Ba viết quyển sách đầu tiên: "Các triết gia, vì sao?” ra mắt năm 59, đã thành công, và có tiếng vang làm ngạc nhiên cả Ba nữa. Tiếng vang ấy không phải là được sự tán thành cùng khắp vì Ba đã bị chát tai bởi những lời càu nhàu của giới triết gia. Nhưng vì tính cách rộng rãi của những sự cãi vã đó đã buộc Ba phải tóm tắt lại và trả lời những kẻ phản đối trong quyển sách "Âm mưu của những kẻ cuồng tín" tiếp theo "Các triết gia, vì sao?"

Matthieu: Nhưng sau đó người ta đã cho Ba là một cây viết chính trị. Tại sao có sự biến hình ấy?

Jean Francois: Không phải là một sự biến hình vì những suy nghĩ về chính trị cũng là một nhánh của triết lý. Ba không kể ra đây suốt cuộc đời của Ba vì Ba vừa cho in tiểu sử của mình.

Không những lý thuyết chính trị luôn luôn là thành phần của triết lý mà từ thế kỷ 18 và nhất là thế kỷ 19 nó đã là trọng tâm của Đạo đức. Ý kiến chủ đạo của “Thế kỷ ánh sáng” và sau đó là chủ nghĩa xã hội khoa học của Mary-Lenine, là sự kết hợp giữa hạnh phúc và công bằng xã hội không phải đến từ một sự minh triết cá nhân mà là một sự tái thiết toàn thể xã hội. Và để thiết lập một xã hội mới, người ta phải xóa bỏ hoàn toàn xã hội cũ. Chính là vào cuối thế kỷ thứ 18 mà ý niệm về Cách mạng có cái nghĩa thời bây giờ. Sự giải phóng cá nhân phải phụ thuộc vào giải phóng tập thể. Ba nghĩ rằng tiếp theo đây chúng ta sẽ thảo luận rộng rãi hơn về đề tài cốt tủy này. Bây giờ Ba chỉ nói rằng khoảng 1965-1970, Ba đã tưởng phải chứng kiến sự sụp đổ không cứu vãn được của cái ảo tưởng đó đã khai sinh ra những nền độc tài đã tàn phá cả thế kỷ 20. Năm 70, quyển sách đầu tiên có tính cách đại chúng (Ba đã xuất bản 2 hay 3 quyển trước đó nhưng chỉ nói về nước Pháp). Nó đã được dịch ra 15 thứ tiếng, và Ba hiện đang giữ một bản dịch bằng tiếng Madagascar.

Matthieu: Có phải kết quả của những quyển sách đó đã thúc đẩy Ba làm người viết và xuất bản về chính trị trong giới báo chí và đồng thời cũng làm Ba xa lánh triết lý?

Jean Francois: Nó không làm Ba xa lìa triết lý. Cũng như trongKhông phải Marx, không phải Jesus”, những quyển sách sau này của Ba đặt ra một vấn đề đã ăn sâu văn bản chất con người dù rằng Ba đã diễn tả nó bằng những ví dụ thời đại. Trong quyển ''Kiến thức vô ích", khởi điểm là bí mật này: ''Vì sao mà con người, không phải bây giờ, mà từ ngàn xưa đã sẵn sàng bỏ qua mọi hiểu biết mà họ có được để tránh xa các tai họa, để rồi tự ý lao vào các cuộc thất bại, đau khổ và cái chết". Đó là những vấn đề triết lý nếu Ba không quá lời, nhưng Ba sẽ không giảng cho con về toàn bộ tác phẩm của Ba.

 Matthieu: Và những quyển sách đó cũng đã thành công trên trường quốc tế.

Jean Francois: Gần như giống nhau, dù rằng có đôi chút khác biệt tùy theo quốc gia. Như cuốn ''Kiến thức vô ích" không được hoan nghênh ở Mỹ, lại được bán chạy nhất ở Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, châu Mỹ La Tinh, dĩ nhiên là ở Pháp.

Nhưng hiện tượng thực không phải ở đó. Nó nằm trong bí mật này: Có nhiều độc giả không nhất thiết là anh được nhiều người hiểu, cũng như ảnh hưởng đến thực tại, dù rằng như Ba chẳng hạn, có cái may mắn là ngoài sách vở, Ba có thể thông qua báo giới trong nước cũng như nước ngoài, có được một diễn đàn để trình bày và phổ biến tư tưởng của mình cho một công chúng rộng rãi hơn.

Matthieu: Làm sao để cắt nghĩa sự bí mật đó?

Jean Francois: Nếu ta có thể cắt nghĩa được nó, thì ta đã cứu được tinh thần đã sa vào đó. Vì vậy chúng ta cần phải trở lại ''triết lý nguyên thủy" chỉ nhắm vào sự sáng suốt, sự minh triết, nói tóm lại là trung tâm điểm của cuộc nói chuyện giữa chúng ta.