Truyện tích
Tam Bảo văn chương
Đoàn Trung Còn
Đã cập nhật: 0 phút
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng


 
Hương sơn là thú thanh cao,
Những là nay ước mai ao mấy lần.
Thanh bình gặp hội du xuân,
Én anh nô nức xa gần đua nhau.
 
Thuận dòng ngàn liễu dặm dâu,
Một thuyền đàn sách, lưng bầu gió trăng.
Buồm lan nhẹ cánh lâng lâng,
Hay đâu mượn gió gác Đằng đưa duyên.
 
Giang sơn thì vẫn người quen,
Dạo chơi Châu Phố, xuôi miền Đục Khê
Chiêng vàng gác bóng non tê,
Dừng chèo, ướm hỏi lối về chùa trong.
 
Lần khe Yến Vĩ đi vòng,
Bốn bề bát ngát xa trông lạ dường.
Giữa dòng đáy nước lồng gương,
Mượn chèo ngư phủ đưa đường Đào Nguyên.
 
Lạ cho vừa bén màu thiền,
Mà trăm não với ngàn phiền sạch không!
Bầu trời man mác xa trông,
Biết đâu nước Nhược non Bồng là đâu.
 
Cỏ cây xanh ngắt một màu,
Yết thần Vạn Tuế, lên lầu Ngũ Doanh.
Nhác trông sơn thủy hữu tình,
Bút thần khôn vẽ bức tranh nào bằng.
 
 
Chung quanh những núi cùng rừng,
Đồng Ông một dãy, ngang lưng non Bà.
Núi Xôi, núi Oản, núi Gà,
Núi con Voi phục, bày ra bên cầu.
Nào ông Sào Phủ đi đâu?
Hang sâu còn vết dắt trâu rõ ràng.
 
Tiếng đâu văng vẳng chuông vàng,
Khói đâu nghi ngút mùi nhang Thiên Trù.
Thuyền lan mấy mái chèo đua,
Một giây thẳng tới bên chùa bước lên.
 
Lầu chuông, gác trống đôi bên,
Cửa rồng năm sắc, đài sen chín tầng.
Muôn hồng ngàn tía tưng bừng,
Suối khe réo nhạc, thông rừng dạo sênh.
 
Chim cúng trái, cá nghe kinh,
Then hoa gài nguyệt, chày kình nện sương.
Nam mô Phật Tổ vô lường,
Trai thành dâng một nén hương trụ trì.
 
Nước công đức, cửa từ bi,
Dịp cầu khổ hải, cánh bè mê tân.
Người lễ Phật, kẻ cầu thần,
Người con công, kẻ mộc ân vô vàn.
 
Phòng Tăng tựa chốn thanh nhàn,
Vui vầy đạo Phật, mê man màu thiền.
Lò trầm chưa dứt hương nguyền,
Túi thơ đủng đỉnh dạo miền Giải Oan.
 
Hỏi đây rằng Đệ nhị quan,
Rành rành vết ngọc còn in dấu giày.
Luân hồi nào dễ ai hay,
Oan gia thiệt lấy nước này giải cho.
 
Lần theo dấu thỏ quanh co,
Qua rừng mơ tốt đến chùa Chấn Song
Bầu trời bát ngát xa trông,
Võng trời rủ xuống mấy vòng thướt tha.
Chắp tay niệm Phật Di-đà,
Kẻ ngồi, người đứng, kẻ ra, người vào.
Non trời biết mấy tầng cao,
Đã đi phải đến, đã trèo phải lên.
 
Một tòa phong cảnh thiên nhiên,
Gió đâu văng vẳng nhạc tiên xa gần.
Cheo leo đỉnh núi non thần,
Cúi đầu trời thấp, cất chân mây đùa.
 
Hoa đua thắm, liễu khoe non,
Chim cúng trái, vượn ru con dập dìu.
Màu thanh vẻ lịch trăm chiều,
Hỡi ai mở khóa động đào cho nhau?
 
Một làn thăm thẳm hang sâu,
Rẽ đường nhác thấy đôi cầu hai bên.
Kìa lẫm thóc, nọ kho tiền,
Kìa Bảo tòa nọ Kim liên rõ ràng.
 
Phất phơ dải phướn vắt ngang,
Nước đâu nhỏ giọt quỳnh tương trên đầu.
Khen ai khéo dệt kim châu,
Áo cà-sa đủ năm màu linh lung.
Khen ai khéo lựa tơ đồng,
Cống, xang, hồ, đủ tám cung nhịp nhàng.
Thiên đường một lối sáng choang,
Đường đi âm phủ một hang tối mò.
 
Biết ai rằng cậu hay cô,
Lần đôi đường có nhấp nhô đầu người,
Bút hoa ai khéo vẽ vời,
Rêu in vách đá một vài câu thơ.
 
Khói trầm ngào ngạt xa đưa,
Giục người giấc mộng: trống trưa, chuông chiều.
Ngọn đèn lồng bóng trăng treo,
Tiếng kình chen tiếng tiêu thiều hôm mai.
 
Phật Bà cao ngự Liên đài,
Đôi bên Ngọc Nữ, Thiện Tài phán ban.
Thần thông hóa phép chan chan,
Hóa ngàn tay mắt, hóa ngàn chân thân,
 
 
Đô Thiên quan, Đô phu nhân,
Diệu Thanh cùng với Diệu Âm đôi nàng.
Thanh sư bạch tượng bày hàng,
Thâm nghiêm một điện linh quan ngất trời.
 
Kiếp tu hành biết mấy mươi,
Dấu thiêng đã mấy muôn đời còn đây.
Sắc không ngồi nghĩ cho hay,
Từ bi cũng tấm lòng này mà ra.
 
Cúi đầu làm lễ bước ra,
Hồ đi lại đứng, dần dà mấy phen.
Khách trần lạc lối cõi Tiên,
Họa sau này có nhân duyên chăng là?
 
Trải bao dặm liễu đường hoa,
Nhật trình chắp nhặt khúc ca tay đề.

Chu Mạnh Trinh