Điểm sách hay
Tạng Thư Sống Chết
30/03/2557 21:21 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

PHẦN BA: CHẾT VÀ TÁI SINH

16- Nền tảng

Chúng ta thường nghe những câu nói như : “Chết là lúc nói sự thật” , hay “Chết là thời điểm ta đối mặt với chính ta”. Như ta đã thấy những người qua kinh nghiệm cận tử đôi khi kể lại rằng họ chứng kiến cả cuộc đời họ quay lại trước mắt, và họ được hỏi những câu như : “Ngươi đã làm gì với cuộc đời ngươi ? Ngươi đã làm gì cho người khác ?” . Tất cả những chuyện này ám chỉ một điều duy nhất rằng : khi chết, ta không thể tránh thoát đối diện với sự thật ta là ai, ta là gì ? Dù ta muốn hay không, bản chất thực của ta cũng hiển lộ. Nhưng điều quan trọng cần biết là có hai khía cạnh con người của ta hiển lộ vào lúc chết : bản chất tuyệt đối của ta và bản chất tương đối - ta hiện tại như thế nào, và đã như thế nào, trong cuộc đời.

Như tôi đã giải thích, khi chết tất cả những hợp thể của thân tâm ta đều bị tước bỏ, phân tán. Khi thân xác chết, giác quan và đại chủng vi tế tan rã, tiếp theo đó là cái chết của các khía cạnh tâm thông thường (nhãn thức,v.v... - DG), với những cảm xúc tiêu cực của nó như tham, sân, si. Cuối cùng không còn gì để che mờ bản chất thực của ta, vì mọi thế sự vây phủ cái tâm giác ngộ đã rơi rụng. Và khi ấy, cái được hiển bày là nền tảng tối sơ của bản chất tuyệt đối chúng ta, như một bầu trời trong sáng không mây.

Ðiều này gọi là sự xuất hiện Ánh sáng Căn bản, hay “Ðiểm Linh Quang”, khi chính tâm thức cũng tan vào trong không gian bao la của chân lý. Tử Thư Tây Tạng nói về giây phút này như sau :

Bản chất vạn pháp là khoáng đạt, trống rỗng, trơ trụi như bầu trời.

Sự trống rỗng sáng chói, không có tâm điểm hay chu vi : Tính giác của tâm, hay Rigpa, xuất hiện.

Padmasambhava mô tả ánh sáng ấy như sau :

Ðiểm Linh quang tự sinh ấy, từ khởi thủy chưa từng sinh.

Là con đẻ của Rigpa, tự nó không cha mẹ - lạ lùng thay !

Trí tuệ tự sinh ấy chưa từng được ai tạo ra - lạ lùng thay !

Nó chưa từng sinh, và không gì trong nó để gây ra sự chết - lạ lùng thay !

Nó thấy, mà không ai là người thấy nó - lạ lùng thay !

Nó du hành qua sinh tử mà không hại gì - lạ lùng thay !

Nó thấy Phật tính, nhưng cũng không lợi gì - lạ lùng thay !

Nó hiện hữu trong mọi người, mọi nơi, mà không ai nhận ra nó - lạ lùng thay !

Người ta lại mong đạt một kết quả nào khác bên ngoài - lạ lùng thay !

Mặc dù nó là vật của bạn, bạn lại đi tìm nó ở chỗ khác - lạ lùng thay !

Vì sao trạng thái ấy được gọi là “ánh sáng” hay “Ðiểm linh quang” ? Các bậc thầy có nhiều cách giải thích khác nhau. Có vị bảo rằng nó biểu thị sự sáng chói của tự tánh tâm hoàn toàn thoát khỏi bóng tối mê mờ “thoát khỏi bóng tối vô tri và có được khả năng trí giác”. Một bậc thầy khác tả ánh sáng hay linh quang là “một trạng thái ít phân tán nhất” , vì tất cả đại chủng, giác quan, đối tượng giác quan đã tan rã. Ðiều quan trọng là xin đừng lẫn lộn nó với ánh sáng vật lý mà ta biết, hay những kinh nghiệm về ánh sáng mà ta sẽ thấy trong Bardo kế tiếp. Ánh sáng khởi lên vào lúc chết là tia tự chiếu của tính giác Rigpa trong ta, “tự tánh vô vi hiện diện suốt trong sinh tử và niết bàn” .

Sự xuất hiện Ánh sáng Căn bản hay Ðiểm linh quang vào lúc chết là cơ hội ngàn năm một thuở để giải thoát. Nhưng điều cốt yếu là phải nhận ra cơ hội ấy được cống hiến cho ta trong những điều kiện như thế nào. Một vài nhà văn và nhà nghiên cứu tân thời về cái chết đã coi thường sự sâu sắc của giây phút ấy. Vì họ đã đọc và giải thích Tử Thư Tây Tạng mà không được sự chỉ giáo khẩu truyền, không tu tập để hiểu ý nghĩa thiêng liêng của nó, nên họ đã đơn giản hóa quá mức và nhảy bổ đến những kết luận vội vàng. Họ cho rằng sự xuất hiện Ánh sáng Căn bản chính là giác ngộ. Tất cả chúng ta đều ưa đồng hóa cái chết với thiên đường hay giác ngộ ; nhưng điều quan trọng hơn sự mong ước ấy là phải biết rằng chỉ khi chúng ta đã thực sự được khai ngộ bản tâm, hay Tính giác Rigpa, chỉ khi chúng ta đã an trú nó nhờ thiền định và thể nhập nó trong đời sống hàng ngày của ta, thì cái thời điểm chết mới thực sự đem lại một cơ hội để giải thoát.

Mặc dù Ánh sáng Căn bản hiện ra cho tất cả chúng ta một cách tự nhiên, song phần đông chúng ta hoàn toàn không sẵn sàng để đón nhận tính bao la thuần túy của nó, chiều sâu rộng vi tế, tính giản dị sơ nguyên của nó. Ða số chúng ta không có cách gì để nhận ra nó, vì trong đời chúng ta chưa từng quen thuộc với những phương thức nhận ra nó. Khi ấy, điều xảy đến là, theo bản năng, chúng ta có khuynh hướng phản ứng lại do những nỗi sợ hãi quá khứ của ta, do tập quán, hoàn cảnh, tất cả những phản xạ cũ của ta. Mặc dù những cảm xúc tiêu cực có chết đi thì Ánh sáng Căn bản mới xuất hiện, song tập quán của nhiều đời vẫn còn, ẩn nấp trong hậu trường của tâm phàm tình chúng ta. Mặc dù mọi rối ren mờ mịt của chúng ta chết đi lúc thân ta chết, song thay vì quy phục, đón nhận ánh sáng, thì vì sợ hãi và vô minh, chúng ta lùi lại, và theo bản năng bám lấy những gì ta đã từng bám giữ.

Ðấy chính là nguyên nhân ngăn cản chúng ta lợi dụng thời điểm mãnh liệt này làm cơ hội giải thoát. Padmasambhava nói : “Tất cả hữu tình đã sống và chết vô số lần. Chúng đã nhiều lần kinh nghiệm Ánh sáng khôn tả này, nhưng vì bóng tối vô minh làm mờ mịt, chúng vẫn lang thang bất tận trong sinh tử” .

 

Nền tảng của tâm phàm tình

Tất cả những khuynh hướng tập quán ấy, hậu quả của ác nghiệp chúng ta, tuôn phát từ vô minh, được chất chứa trong nền tảng của tâm phàm tình. Tôi vẫn thường không biết lấy gì làm ví dụ thích hợp để mô tả nền tảng tâm phàm tình. Bạn có thể ví dụ nó với một cái bọt thủy tinh trong suốt, một tấm màn rất mỏng manh che mờ toàn thể tâm ta, song có lẽ hình ảnh hay nhất là một cái cửa kính. Tưởng tượng bạn đang ngồi trước một cửa kính dẫn ra vườn, nhìn qua cửa để ngắm trời. Dường như không có gì giữa bạn và bầu trời, vì bạn không thể trông thấy mặt gương. Nhưng nếu bạn đứng dậy đi ra vườn, bạn có thể đụng lỗ mũi của bạn vào tấm kính, vì tưởng là không có gì. Khi va chạm, bạn mới thấy có vật gi ở đấy giữ lại dấu tay bạn, một cái gì đứng chắn giữa bạn và không gian bên ngoài.

Cũng thế, nền tảng tâm phàm tình ngăn chúng ta không đi vào bản chất tuyệt đối như bầu trời của tâm, dù chúng ta vẫn thoáng thấy nó. Như tôi đã nói, các bậc thầy giải thích rằng có mối nguy là những thiền giả có thể lầm lẫn nền tảng tâm phàm tình với tính giác đích thực của tâm. Khi họ an trú trong một trạng thái an tĩnh vắng lặng, thì có thể họ chỉ an trú trong nền tảng tâm phàm tình. Ðấy là sự khác nhau giữa nhìn trời từ một vòm kính, và đứng ra giữa trời mà nhìn. Chúng ta phải phá vỡ hoàn toàn nền tảng của tâm phàm, để khám phá và thở bầu không khi tươi mát của Tính giác Rigpa.

Bởi thế, mục đích mọi sự tu tập của chúng ta là chuẩn bị thực sự cho lúc chết, là thanh ọc cái rào ngăn vi tế ấy, dần dần làm nó suy yếu và cuối cùng sụp đổ. Khi bạn đã phá đổ nó hoàn toàn, thì không có gì ngăn cách bạn với trạng thái toàn giác.

Sự khai thị bản tâm của bậc thầy phá vỡ hoàn toàn nền tảng tâm phàm tình ấy, vì chính nhờ sự tan rã của tâm phân biệt khái niệm mà tâm giác ngộ được hiển bày một cách rõ ràng. Rồi khi chúng ta an trú tỉnh giác bản tâm, thì nền tảng tâm phàm tình ấy càng suy yếu. Nhưng ta sẽ thấy, sự an trú lâu hay mau trong trạng thái tâm bản nhiên ấy hoàn toàn tùy thuộc vào việc tu tập hàng ngày của ta. Rủi thay những tập quán cũ rất khó bỏ, và nền tảng tâm phàm tình cứ quay trở lại ; tâm ta như một bợm nhậu chỉ có thể đá đổ vò rượu trong chốc lát, nhưng lại rơi vào thói nghiện ngập trở lại mỗi khi bị cám dỗ hay buồn sầu.

Cũng như cánh cửa kính dính đầy dấu vết bụi dơ từ nơi những bàn tay và ngón tay ta, nền tảng tâm phàm tình cũng chứa nhóm tất cả nghiệp và thói quen của ta. Và cũng như ta phải tiếp tục lau kính luôn luôn, ta phải luôn luôn thanh lọc nền tảng tâm phàm tình. Sự thực tập thiền cũng như thể là làm cho tấm cửa kính bị mòn dần, mỏng dần, những hỗ hổng xuất hiện, và nó bắt đầu tan rã. Nhờ thực tập, chúng ta dần an trú vững vàng trong tính giác bản nhiên hơn nữa, đến nỗi nó không còn là bản tánh tuyệt đối của ta, mà trở thành thực tại hàng ngày của ta. Khi tình trạng này xảy đến, thì những thói cũ của ta càng tan biến, và càng có ít sự khác biệt giữa thiền định và sự sống hàng ngày. Dần dần, bạn trở thành như một người có thể đi thẳng ra vườn, xuyên qua cửa kính, không bị chướng ngại. Và cái dấu hiệu tâm phàm tình suy yếu là khi ta có thể an trú không nỗ lực trong tự tánh của tâm.

Khi Ánh sáng Căn bản ló dạng, thì vấn đề then chốt sẽ là mức độ an trú tự tánh nơi ta, mức độ hợp nhất bản chất tuyệt đối và đời sống hàng ngày nơi ta, và mức độ thanh lọc tâm phàm tình nơi ta, để thể nhập trạng thái trong sáng nguyên ủy.

 

Mẹ con gặp gỡ

Có một phương pháp theo đó chúng ta có thể sẵn sàng chuẩn bị để nhận ra khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện vào lúc chết. Ðấy là phương pháp thiền tối thượng (đã nói trong chương 10), kết quả tối hậu của pháp hành trì Dzogchen. Phương pháp ấy gọi là “hợp nhất giữa hai ánh sáng”, hay còn gọi là “sự tan hòa giữa Ánh sáng Mẹ và Ánh sáng Con” .

Ánh sáng Mẹ là cái tên mà ta đặt cho Ánh sáng Căn bản. Ðấy là bản chất nội tại của mọi sự vật, nằm bên dưới toàn thể kinh nghiệm của ta, và thể hiện trong vẻ sáng ngời nguyên vẹn của nó vào lúc chết.

Ánh sáng Con, còn gọi là Ánh sáng Ðạo lộ, là tự tánh của tâm ta, cái mà nếu được thầy khai thị và chúng ta trực nhận, thì ta có thể dần dần an trú nó nhờ thiền định, và càng ngày càng hội nhập nó vào sự sống hàng ngày của ta. Khi sự hội nhập đã được toàn triệt thì trực nhận cũng toàn triệt, và sự chứng ngộ xảy đến.

Mặc dù Ánh sáng Căn bản là bản chất nội tại của ta và là bản chất của mọi sự vật, song ta không nhận ra nó, thành thử hầu như bị khuất lấp. Tôi muốn nghĩ đến Ánh sáng Con như là cái chìa khóa mà bậc thầy trao cho bạn để mở cánh cửa nhận thức, để bạn nhận ra được Ánh sáng Căn bản, mỗi khi gặp cơ hội.

Hãy tưởng tượng bạn phải đi đón một phụ nữ đến bằng phi cơ. Nếu bạn không biết bà ấy ra sao thì bạn có thể đến phi trường nhưng vẫn hụt đón vì bà ta đi qua mà bạn không biết. Nếu bạn có một tấm ảnh giống bà ta, hoặc đã có hình ảnh bà ấy trong trí bạn, thì bạn có thể nhận ra bà ấy ngay khi bà tiến đến.

Một khi tự tánh tâm đã được khai thị cho bạn, và bạn đã trực nhận, tức là bạn có chìa khóa để trực nhận lần khác. Nhưng, cũng như bạn phải giữ tấm ảnh và nhìn nó luôn luôn để cho chắc bạn có thể nhận ra người bạn sắp gặp ở phi trường, cũng vậy bạn phải tiếp tục an trú sự trực nhận tâm bản nhiên (tự tánh tâm) qua sự thường xuyên thực tập. Khi ấy, sự trực nhận trở thành thâm căn cố đế nơi bạn, thành một phần của bạn, đến nỗi gặp là nhận ra ngay không cần bức ảnh. Vậy, sau khi thực hành sự trực nhận bản tâm đã thuần, thì vào lúc chết, khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện, bạn có thể nhận ra nó và hòa nhập với nó một cách tự nhiên “như con thơ sà vào lòng mẹ”, các bậc cổ đức nói, hay như gặp bạn cố tri, hay như sông chảy vào biển.

Nhưng điều này thực vô cùng khó khăn. Cách duy nhất để bảo đảm sự trực nhận ấy là ngay khi ta còn sống phải kiện toàn sự luyện tập hội nhập hai ánh sáng. Ðiều này chỉ khả dĩ nhờ cả một đời nỗ lực tu luyện. Thầy tôi, Dudjom Rinpoche nói rằng : “Nếu chúng ta không thực tập hòa nhập hai ánh sáng ngay bây giờ, và từ đây về sau, thì đừng nói tới chuyện sự trực nhận sẽ tự nhiên xảy đến vào lúc chết.

Nhưng hội nhập hai ánh sáng nghĩa là gì ? - Ðây là một pháp tu luyện rất sâu xa và cao cấp, và đây không phải chỗ để bàn chi tiết về điều ấy. Nhưng ta có thể nói điều này : Khi bậc thầy khai thị bản tâm cho ta, thì cũng giống như chữa lành mắt ta, vì ta đã bị mù đối với Ánh ánh sáng Căn bản nằm trong tất cả mọi sự. Sự khai thị của bậc thầy đánh thức con mắt tuệ trong ta, nhờ vậy ta thấy được rõ ràng bản chất thực của mọi sự, hay thực chất Ánh sáng - điểm Linh quang - của mọi cảm xúc và ý tưởng trong ta. Hãy tưởng tượng, nhờ thực tập toàn hảo sự an trú bản tánh, mà sự trực nhận bản tánh ấy giống như một vầng mặt trời rực rỡ. Tư tưởng và cảm xúc vẫn tiếp tục sanh khởi, chúng như những đợt sóng đen tối. Nhưng mỗi khi những đợt sóng ấy cuộn lên và gặp ánh mặt trời, thì chúng lại tan ngay.

Nền tảng tâm phàm tình của ta được hoàn toàn thanh lọc thì cũng giống như ta đã phá tan cái kho chứa nghiệp của mình và không còn nguyên liệu nghiệp để cung cấp cho tái sinh tương lai. Nhưng nếu ta chưa có thể hoàn toàn thanh lọc tâm, thì sẽ vẫn còn tàn dư của những khuynh hướng tập quán cũ đang nằm trong kho chứa nghiệp của chúng ta. Khi gặp điều kiện thích hợp, chúng sẽ xuất hiện để đẩy chúng ta vào những tái sinh mới.

 

Thời gian của Ánh sáng Căn bản

Ánh sáng Căn bản xuất hiện, đối với một hành giả, nó kéo dài bao lâu vị ấy an trú không tán loạn vào tự tánh tâm. Nhưng đối với phần đông, nó kéo dài không lâu hơn một búng tay, và với vài người, nó kéo dài “khoảng chừng một bữa ăn”. Phần đông người tuyệt nhiên không nhận ra Ánh sáng Căn bản, thay vì thế, họ rơi vào một trạng thái ngất xỉu có thể kéo dài ba ngày rưỡi. Sau đó thần thức mới thực sự rời khỏi thể xác.

Do vậy, ở Tây Tạng có tục lệ không động đến thi thể trong 3 ngày sau khi chết. Ðiều này rất quan trọng, nhất là nơi một hành giả, vì có thể họ đã hòa tan với Ánh sáng Căn bản và đang ở trong trạng thái tâm bản nhiên. Tôi còn nhớ ở Tây Tạng, người ta thường giữ bầu không khí tuyệt đối thanh bình im lặng quanh xác chết như thế nào, nhất là khi đó là xác một bậc thầy hay hành giả tu cao, để tránh gây sự quấy rầy dù nhỏ nhất.

Nhưng dù là thi thể của người thường cũng không nên di chuyển trong vòng 3 ngày sau khi chết, vì ta không thể biết được ai đã chứng, ai chưa, và cũng không chắc chắn thần thức đã rời khỏi xác. Người ta tin rằng nếu sờ vào một nơi nào trên thi thể - ví dụ chích một mũi thuốc - thì thần thức có thể bị lôi kéo đến chỗ ấy. Khi đó thần thức người chết có thể chui ra lỗ hổng gần nhất để thoát ra ngoài thay vì thoát lên đỉnh đầu, và vì vậy sẽ có một tái sanh bất hạnh. Một vài bậc thầy nhấn mạnh nhiều đến chuyện để yên thi thể trong 3 ngày. Khi nghe có người nói sợ để thi thể trong thời tiết nóng sẽ thối, Chadral Rinpoche, một thiền sư Tây Tạng sống ở Ấn Ðộ và Nepal, đã bảo : “Bạn làm như thể là bạn phải ăn hay bán cái thây ấy” .

Như vậy, việc hỏa táng hay giải phẫu tử thi tốt nhất nên để 3 ngày sau. Tuy nhiên, vì ngày nay không thể nào để yên một thây chết đến 3 ngày không động tới, nên ít nhất pháp Chuyển di tâm thức cần được làm trước khi động đến thi thể hoặc dời đi chỗ khác.

 

Cái chết của một bậc thầy

Một hàng giả đã chứng đắc thường tiếp tục an trú sự trực nhận tính giác bản tâm vào lúc chết, và tỉnh thức để thể nhập Ánh sáng Căn bản khi nó xuất hiện. Vị ấy còn có thể trú trong trạng thái ấy một vài ngày. Một vài hành giả và bậc thầy chết trong tư thế ngồi thiền, lưng thẳng, hoặc nằm như “dáng nằm sư tử ngủ”. Ngoài sự tuyệt đối tự chủ, còn những dấu hiệu khác chứng tỏ vị ấy đang an trú trong trạng thái Ánh sáng Căn bản : gương mặt họ vẫn còn có sắc sáng, mũi không lún vào, da vẫn mềm mại, thân thể không cứng đờ, đôi mắt vẫn giữ một ánh sáng hiền hậu, từ bi, và tim vẫn còn hơi ấm. Người ta phải rất thận trọng đừng chạm đến nhục thể của bậc thầy, và giữ im lặng cho đến khi vị ấy ra khỏi trạng thái thiền định này.

Gyalwang Karmapa, một bậc thầy vĩ đại, chưởng môn một trong bốn tông phái lớn của Phật giáo Tây Tạng, đã chết trong một bệnh viện tại Hoa Kỳ vào năm 1981. Ngài gây một cảm hứng kỳ diệu cho tất cả mọi người xung quanh, vì ngài luôn luôn vui tươi và đầy bi mẫn. Bác sĩ Ranulfo Sanchez, trưởng khoa giải phẫu đã viết :

“Tôi cảm thấy tự thâm tâm rằng ngài không phải người phàm. Khi ngài nhìn bạn, thì giống như đang xoáy sâu vào bản thể bạn, ngài dường như thấy suốt con người bạn. Tôi rất kinh ngạc trước cái cách ngài nhìn tôi, như thể là ngài biết chuyện gì đang xảy đến. Ngài làm cho hầu hết mọi người trong bệnh viện phải cảm động, bất cứ ai tiếp xúc với ngài. Nhiều lần khi chúng tôi cảm thấy ngài gần kề cái chết, thì ngài lại nhìn chúng tôi mà mỉm cười, và bảo chúng tôi nói sai, và sau đó sức khỏe ngài lại khá hơn.

Ngài không bao giờ dùng thuốc giảm đau. Chúng tôi, những bác sĩ, trông thấy ngài và biết ngài phải đau đớn lắm, nên hỏi : “Có phải hôm nay ngài đau nhiều lắm không ?”. Nhưng ngài bảo : “Không” . Khi chúng tôi biết gần tới giây phút cuối cùng, ngài có thể cảm thấy sự lo lắng của chúng tôi, và điều ấy trở thành một trò đùa. Chúng tôi sẽ hỏi : “Ngài có đau không ?” , ngài lại mỉm cười thật từ bi và nói : “Không” .

Mọi dấu hiệu của sự sống nơi ngài đã gần chấm dứt. Tôi chích cho ngài một mũi thuốc, chỉ để ngài có thể nói chuyện vào giây phút cuối. Tôi từ giã căn phòng vài phút để cho ngài trao đổi với các vị tái sanh (tulkus) ; ngài trấn an họ rằng ngài không định chết vào ngày hôm ấy. Khi tôi trở lại chừng năm phút sau, thì ngài đã ngồi thẳng dậy, mắt mở lớn và nói thật rõ : “Hello, how are you ?” . Mọi dấu hiệu sống nơi ngài đã trở ngược lại, ngài ngồi nửa tiếng trên giường, nói chuyện, cười lớn. Trên phương diện y học thì điều này người ta chưa từng nghe thấy bao giờ. Các cô điều dưỡng tái mặt, một cô dở cánh tay cho tôi xem họ đã nổi da gà như thế nào”.

Ban điều dưỡng để ý thi hài của Karmapa không theo tiến trình thông thường của thây chết như cứng và hôi thối, mà vẫn như tình trạng lúc ngài mới chết. Sau một lúc, họ mới để ý vùng tim ngài còn ấm. Bác sĩ Sanchez viết :

“Họ đưa tôi vào phòng 36 tiếng đồng hồ sau khi ngài chết. Tôi sờ vùng bên phải, trên trái tim ngài và thấy nó nóng hơn các chỗ khác. Ðấy là một điều mà y học không thể giải thích được”.

Một vài bậc thầy chết trong tư thế ngồi thiền, thân thể tự thẳng đứng. Kalu Rinpoche chết năm 1989 trong tu viện của ngài ở dãy núi tuyết, xung quanh có nhiều bậc thầy và các bác sĩ , y tá điều dưỡng. Ðệ tử hầu cận ngài đã viết :

“Ngài cố ngồi dậy, nhưng hơi khó khăn. Lama Gyaltsen cảm thấy có lẽ đã đến thời, và nếu không ngồi dậy thì sẽ chướng ngại cho ngài, nên đã đỡ lưng ngài khi ngài ngồi. Ngài duỗi tay tới nơi tôi, và tôi cũng giúp ngài ngồi thẳng. Ngài ngõ ý muốn ngồi thật thẳng, vừa bằng lời vừa ra dấu. Bác sĩ và y tá cuống lên trước cảnh tượng ấy, nên ngài hơi thư giãn lại, nhưng vẫn để chân tay theo thế ngồi thiền... Mắt ngài mở nhìn ra, kiểu nhìn trong lúc thiền quán, và môi ngài khẽ mấp máy. Một cảm giác thanh bình, an lạc ngự trị trên tất cả chúng tôi, lan tràn qua tâm chúng tôi. Tất cả mọi người hiện diện lúc ấy đều cảm thấy rằng niềm phúc lạc dâng tràn trong chúng tôi chính là phản ảnh yếu ớt của niềm phúc lạc trào dâng trong tâm ngài... Dần dần tia nhìn và mi mắt Rinpoche hạ xuống, và hơi thở chấm dứt” .

Tôi nhớ mãi cái chết của thầy tôi, Jamyang Khientse vào mùa hạ năm 1959. Vào khoảng cuối đời, ngài cố càng ít rời tu viện càng tốt. Những bậc thầy đủ mọi truyền thống thường tụ họp lại để được sự giáo thọ, những người giữ gìn các hệ phái truyền thừa cũng đến xin ngài chỉ dẫn, vì ngài biết tận nguồn gốc của các hệ phái ấy. Tu viện Dzongsar, nơi ngài cư trú trở thành một trong những trung tâm sinh hoạt tâm linh sống động nhất Tây Tạng, ở đấy tất cả những Lạt-ma cao cấp thường lui tới. Lời ngài là pháp là luật ở trong vùng ; ngài là bậc thầy vĩ đại và hầu như tất cả mọi người đều là đệ tử của ngài, tới nỗi ngài có năng lực ngăn chận nội chiến chỉ bằng cách hăm dọa ngài sẽ rút lui sự gia trì tâm linh của ngài cho cả hai phe.

Rủi thay, khi gọng kềm của quân xâm lược Trung Quốc siết chặt, thì tình huống ở tỉnh Kham trở nên tồi tệ một cách nhanh chóng. Dù còn bé, tôi cũng có thể linh cả sự đe dọa của những gì sắp xảy ra. Vào năm 1955, thầy tôi đã có vài dấu hiệu chứng tỏ ngài sẽ từ giã Tây Tạng. Trước tiên, ngài hành hương đến những thánh tích ở miền Trung và Nam Tây Tạng, rồi để làm tròn lời nguyện tha thiết của thầy ngài, ngài làm một chuyến hành hương chiêm bái thánh tích tại đất Ấn, có tôi đi theo. Chúng tôi đều hy vọng tình hình ở miền Ðông sẽ khá hơn trong khi chúng tôi đi xa. Hóa ra - về sau tôi mới biết - nhiều Lạt-ma khác, và dân thường, đã xem cái quyết định du hành của thầy tôi như là một điềm báo trước Tây Tạng sẽ lâm nguy, nhờ thế họ đã kịp thời thoát nạn.

Thầy tôi từ lâu đã muốn viếng thăm Sikkim, một nước nhỏ trong dãy Hy Mã Lạp Sơn, một trong những vùng đất thiêng của Padmasambhava. Jamyang Khientse là nhập thể của bậc thánh thiêng liêng nhất của Sikkim, nên vị vua ở đấy đã yêu cầu ngài đến giảng dạy và ban phước cho xứ ấy bằng sự hiện diện của ngài. Khi được tin ngài đã đến Sikkim, nhiều bậc thầy từ Tây Tạng cũng đến đấy để thọ giáo với ngài, mang theo những bản kinh quý hiếm, nhờ vậy mới khỏi bị phá hủy. Jamyang Khientse là bậc thầy của những bậc thầy, và đến lượt chùa, cung điện nơi ngài ở trở thành một trung tâm tu học lớn. Khi tình hình Tây Tạng càng lúc càng kinh khủng, thì có thêm nhiều Lạt-ma đến tụ tập quanh ngài.

Người ta bảo nếu những bậc thầy vĩ đại giảng dạy quá nhiều, thì không sống lâu ; như thể là họ gánh lấy những chướng ngại xảy ra cho nền giáo lý. Có những lời tiên đoán, nếu thầy tôi đừng giảng dạy mà chỉ du hành như một ẩn sĩ đến những nơi xa xôi hẻo lánh, thì ngài có thể sống lâu nhiều năm nữa. Quả thế, ngài cũng đã cố làm điều này : Khi chúng tôi khởi hành từ tỉnh Kham lần cuối, ngài đã để lại tất cả sở hữu và ra đi trong vòng bí mật hoàn toàn. Nhưng khi khám phá ra tông tích ngài, thì đâu đâu người ta cũng liền đến xin ngài giảng dạy và làm phép quán đảnh. Lòng từ bi của ngài lớn rộng tới nỗi dù biết nguy hiểm đến tánh mạng, ngài vẫn tiếp tục giảng dạy.

Và chính tại Sikkim mà Jamyang Khientse ngã bệnh, đúng vào lúc nhận được hung tin Tây Tạng cuối cùng đã gục ngã. Tất cả những vị Lạt-ma lớn nhất, trưởng các hệ phái, lần lượt tấp nập đến viếng thăm thầy tôi. Lễ cầu an diên mạng cho ngài được tổ chức suốt ngày suốt đêm. Mợi người đều tham dự. Tất cả chúng tôi đều yếu cầu ngài sống thêm, vì một bậc thầy vĩ đại như ngài thì có năng lực quyết định thời gian để lìa bỏ thể xác. Ngài cứ nằm trên giường, nhận tất cả những đồ dâng cúng, cười lớn mà bảo : “Ðược rồi, chỉ để chứng tỏ điềm lành, tôi nói là tôi sẽ sống” .

Dấu hiệu đầu tiên chúng tôi biết được là qua Gyalwang Karmapa. Ngài bảo Karmapa rằng ngài đã hoàn tất công việc ngài phải làm trong đời, và ngài đã quyết định từ giã thế gian. Một trong những thị giả thân tín của thầy tôi bật lên khóc vừa khi nghe Karmapa tiết lộ điều này, sau đó chúng tôi đều biết. Cái chết của ngài cuối cùng đã xảy đến ngay sau khi chúng tôi nghe ba tu viện lớn nhất Tây Tạng là Sera, Drepung và Gaden đã bị quân Trung Quốc chiếm đóng. Dường như đấy là một biểu tượng bi đát khi Tây Tạng sụp đổ thì con người vĩ đại ấy, linh hồn của Phật giáo Tây Tạng, cũng từ trần.

Jamyang Khientse Chokyi Lodro mất lúc 3 giờ sáng, vào ngày mồng 6 tháng 5, lịch Tây Tạng. Mười ngày trước đấy, trong khi chúng tôi đang có cuộc lễ cầu diên thọ suốt đêm cho ngài, thình lình đất rung chuyển vì một trận động đất lớn. Theo kinh điển Phật giáo, thì đấy là triệu chứng một bậc giác ngộ sắp từ trần.

Trong 3 ngày, sau khi ngài đã viên tịch, sự bí mật được giữ tuyệt đối không ai được biết Khientse đã chết. Tôi chỉ được bảo cho biết sức khỏe của ngài đang biến đổi tệ hơn, và thay vì ngủ trong phòng ngài như thường lệ, tôi được bảo phải ngủ phòng khác. Thị giả thân cận nhất của thầy tôi và Lama Chokden, vị thầy nghi lễ, ở lại với thầy tôi lâu hơn tất cả mọi người. Ông là một nhà khổ hạnh lặng lẽ nghiêm trang với đôi mắt nhìn sâu thẳm và đôi má hóp, phong độ nhã nhặn khiêm cung. Chokden nổi tiếng vì tính trung thực, đàng hoàng, lịch sự, và có trí nhớ phi thường. Ông nhớ từng chữ lời thầy tôi dặn, thuộc từng mẩu chuyện, và biết rõ từng chi tiết của mọi lễ lạc phức tạp nhất, cùng ý nghĩa của chúng. Ông cũng là một hành giả gương mẫu và một thầy giáo trong lĩnh vực của ông.

Lúc ấy chúng tôi nhìn Lama Chokden tiếp tục mang những bữa ăn của thầy tôi vào phòng, nhưng mặt ông trông rất buồn thảm. Chúng tôi không ngớt hỏi thầy Khientse tôi ra sao, nhưng Chokden chỉ nói : “Ngài vẫn thế” . Trong vài truyền thống, sau khi một bậc thầy qua đời, và suốt thời gian ngài an trú trong thiền định sau khi chết, điều quan trọng là phải giữ bí mật. Chỉ 3 ngày sau đó chúng tôi mới được nghe thầy đã chết.

Chính phủ Ấn đã đánh một điện tín qua Bắc kinh, từ đấy tin được đưa đến tu viện Dzongsar của thầy tôi ở Tây Tạng, ở đấy nhiều thầy tu đã khóc trước khi hay tin, vì họ đã biết ngài sẽ chết bằng cách nào đó. Trước khi thầy tôi và tôi ra đi, thầy Khientse đã làm một lời hứa huyền bí rằng thầy sẽ trở lại một lần trước khi chết. Và thầy đã trở lại. Vào ngày Tết năm ấy, sáu tháng trước khi ngài từ trần, trong khi đang cử hành một điệu vũ cổ truyền, nhiều vị sư già đã thấy hình ảnh ngài xuất hiện trên nền trời. Tại tu viện, thầy tôi đã lập một trường học nổi tiếng vì đã đào tạo được nhiều học giả xuất sắc của thời cận đại. Trong ngôi chánh điện của trường, có một tượng Phật Di Lặc khổng lồ. Vào một buổi sáng sớm, ngay sau ngày linh kiến xuất hiện trên trời, khi người giữ chánh điện mở cửa thì thấy Khientse đang ngồi trên vế đức Phật Di Lặc.

 

*

 

Thầy tôi từ trần trong tư thế “sư tử nằm ngủ”. Mọi triệu tướng đều chứng tỏ ngài vẫn đang trong thiền định, không ai động tới thi thể trong suốt 3 ngày. Cái lúc ngài xuất định là một kỷ niệm tôi sẽ nhớ suốt đời : Lỗ mũi ngài thình lình xẹp xuống, màu sắc trên gương mặt không còn, và đầu ngài hơi ngoẻo về một phía. Cho tới lúc ấy, luôn luôn vẫn còn một mức tự chủ nào đó, một sức mạnh, một sự sống nào đó ở trên xác thầy.

Vào chiều tối chúng tôi tắm rửa cái xác, mặc y phục và đưa xác từ phòng ngủ của thầy lên ngôi chánh điện của cung đình. Từng đám đông người lũ lượt kéo đến xếp hàng quanh ngôi đền để lễ bái. Khi ấy, một điều dị thường xảy ra. Một ánh sáng rực rỡ màu sữa, trông như một đám mù mỏng và sáng bắt đầu xuất hiện và dần dần tỏa khắp. Ngôi chánh điện của cung đình có 4 bóng điện bên ngoài, thông thường vào giờ ấy chúng chiếu sáng rực. Nhưng lúc ấy chúng bị mờ đi vì ánh sáng huyền bí ấy. Apa Pant lúc ấy là sĩ quan chính trị ở Sikkim, là người đầu tiên điện thoại đến hỏi có việc gì xảy ra. Nhiều người khác cũng khởi sự gọi đến hỏi thăm : hiện tượng lạ lùng phi phàm ấy đã được hàng trăm người trông thấy. Một trong những bậc thầy lúc ấy đã cho chúng tôi biết đấy là dấu hiệu có người đang chứng đắc Phật quả.

Lúc đầu có dự tính xác của thầy tôi sẽ được giữ trong chùa cung điện một tuần lễ, nhưng ngay sau đó chúng tôi khởi sự nhận nhiều điện tín từ các đệ tử của ngài. Ðấy là vào năm 1959, nhiều người trong đó có Dilgo Rinpoche vừa mới di tản đến sau một cuộc gian nan dài đào thoát khỏi Tây Tạng. Tất cả những vị này đều yêu cầu giữ cái xác lại để họ có thể được dịp trông thấy. Bởi vậy chúng tôi giữ thêm 2 tuần. Mỗi ngày có 4 phiên cầu nguyện, mỗi phiên hàng trăm tu sĩ, dẫn đầu bởi những Lạt-ma thuộc đủ mọi tông phái khác nhau, thường lại có những vị chưởng môn các tông phái làm chủ tọa buổi lễ. Hàng ngàn cây đèn bơ được thắp lên dâng. Cái xác vẫn không hôi thối, cúng không khởi sự tan rã, bởi thế chúng tôi giữ thêm một tuần lễ nữa. Ở Ấn, trời vô cùng nóng bức vào mùa hạ, thế mà hết tuần này sang tuần khác, thi thể vẫn không có dấu hiệu gì là tan rã. Rốt cuộc chúng tôi giữ cái xác của thầy tôi trong 6 tháng ; trong thời gian ấy, một khung cảnh giảng dạy và thiền tập diễn ra trước sự hiện diện thiêng liêng của thầy tôi : những giáo lý mà Jamyang Khientse đã giảng dạy nhưng chưa hoàn tất, bây giờ được hoàn tất bởi những đệ tử lớn nhất của ngài, và nhiều thật nhiều những tu sĩ được thụ giới pháp.

Cuối cùng chúng tôi đưa thi thể đến nơi mà thầy đã chọn để làm lễ hỏa táng. Tashiding là một trong những cảnh thiêng liêng nhất của Sikkim, nằm trên một ngọn đồi. Tất cả đệ tử đều lên đấy, chúng tôi tự thân hành xây dựng tháp cho di thể của ngài, mặc dù ở Ấn những công việc ấy thường mướn nhân công. Mọi người trẻ, già, từ bậc thầy như Dilgo Khientvse cho đến người bình thường nhất, đều mang đá gạch lên đồi và tự tay xây toàn bộ ngôi tháp. Ðấy là bằng chứng cụ thể nhất chứng  tỏ niềm sùng kính mà ngài đã gợi cho chúng tôi.

 

*

 

Không một lời nào có thể nói lên để diễn tả sự mất mát lớn lao trong cái chết ấy. Khi rời khỏi Tây Tạng, tôi và gia đình tôi mất hết đất đai, tài sản, nhưng hồi đó tôi còn quá nhỏ nên không tiếc gì. Nhưng mất thầy Jamyang Khientse tôi, là một sự mất mát to lớn, đến nỗi bây giờ sau bao nhiêu năm tôi vẫn còn thương tiếc. Toàn thể chuỗi ngày thơ ấu của tôi đã được sưởi ấm bởi sự hiện diện của thầy như ánh mặt trời. Tôi đã ngủ trong một cái giường nhỏ dưới chân giường thầy, trong nhiều năm tôi đã thức dậy giữa âm thanh của lời thầy thì thầm lời kinh sáng và tiếng thầy lần tràng hạt. Lời thầy, giáo lý thầy dạy, ánh sáng thanh bình mà sự hiện diện của ngài tỏa ra, nụ cười của ngài, tất cả, là những ký ức không phai mờ trong tôi. Ngài là nguồn cảm hứng của đời tôi ; chính hiện diện của ngài và của Padmasambhava mà tôi luôn luôn triệu thỉnh mỗi khi gặp khó khăn hay khi giảng dạy. Cái chết của ngài là một mất mát vô số kể cho toàn thế giới và cho Tây Tạng. Tôi thường nghĩ về ngài, cũng như về Dilgo Rinpoche, rằng nếu Phật giáo phải bị hủy diệt mà chỉ cần một mình ngài còn sống, thì Phật giáo vẫn không sao cả, vì ngài là hiện thân toàn vẹn của ý nghĩa đạo Phật. Jamyang Khientse chết đi, là cả một thời đại, dường như cả một trời năng lực và tri kiến cùng sụp đổ theo ngài.

Ngài mất lúc ngài chỉ mới 67 tuổi. Tôi thường tự hỏi tương lai Phật giáo Tây Tạng sẽ khác tới mức nào nếu ngài còn sống để khơi nguồn cảm hứng cho sự tăng trưởng của Phật giáo trong dân tộc lưu đày và tại Tây phương. Sự uyên bác của ngài về mọi truyền thống, sự kính trọng của ngài đối với tất cả giáo phái, đã làm cho ngài được yêu chuộng khắp nơi ở Tây Tạng. Bởi vì ngài đã là bậc thầy của tất cả những bậc thầy, chưởng môn các giáo phái đều thụ giáo và nhận lễ quán đảnh từ nơi ngài, xem ngài như bổn sư, cho nên lẽ tự nhiên là ngài có thể kéo họ lại gần nhau trong tinh thần hòa điệu và hợp tác.

Thế nhưng, một bậc thầy vĩ đại thì không bao giờ chết. Jamyang Khientse đang gợi cảm hứng cho tôi viết sách này ; ngài là năng lượng đằng sau tác phẩm và bất cứ gì tôi giảng dạy ; là nền tảng, là tinh thần của mọi sự tôi làm ; chính ngài hiện vẫn tiếp tục dẫn đạo nội tâm tôi. AÂn sủng của thầy và niềm tin vào ân sủng đó luôn luôn có mặt trong tôi, dìu dắt tôi qua những khó khăn trong nỗ lực trình bày truyền thống tâm linh mà ngài là một đại diện cao cả. Gương mặt cao quý của ngài bây giờ vẫn còn sống động với tôi hơn bất cứ gương mặt của một người nào đang sống ; và trong mắt ngài, tôi luôn luôn thấy ánh sáng trí tuệ siêu thoát và từ mẫn vô biên, mà trên trời dưới đất không một mãnh lực nào có thể dập tắt được.

Mong sao tất cả các bạn đọc sẽ biết được một ít về ngài như tôi biết, mong sao tất cả bạn đọc sẽ được nguồn cảm hứng từ cuộc đời phụng hiến của ngài và cái chết vinh quang của ngài như tôi đã được, mong sao tất cả các bạn sẽ rút được - từ tấm gương hy sinh của ngài cho sự an lạc của tất cả hữu tình - lòng can đảm và trí tuệ mà bạn cần, để làm việc cho sự thật trong thời hiện đại.

 

17- Tia sáng nội tại

Khi Ánh sáng Căn bản ló dạng vào lúc chết, một hành giả có kinh nghiệm sẽ duy trì sự tỉnh giác trọn vẹn và hội nhập với ánh sáng ấy, nhờ thế đạt giải thoát. Nhưng nếu chúng ta không nhận ra Ánh sáng Căn bản thì ta sẽ chạm mặt với Bardo kế tiếp, đó là Bardo của pháp tánh. Giáo lý về Bardo của pháp tánh là một giáo lý rất đặc biệt của Dzogchen qua nhiều thế kỷ. Lúc đầu tôi ngần ngại không dám trình bày công khai giáo lý thiêng liêng này, và quả thực tôi đã không làm nếu không có người đi trước. Tử Thư Tây Tạng và một số sách nói về Bardo của pháp tánh đã được xuất bản, và đã đưa đến những kết luận ngây ngô. Bởi thế tôi thấy thực quan trọng, và đã đến lúc nên có một giải thích rõ về Bardo này đúng như nghĩa chân thực của nó. Có lẽ tôi cũng nên nhấn mạnh rằng tôi chưa đi vào chi tiết về những pháp tu cao cấp bao hàm trong đó, mà pháp nào cũng cần phái có thầy, và sự liên hệ với bậc thầy ấy phải được giữ thật hoàn toàn trong sáng.

Tôi đã thu thập tuệ giác từ nhiều nguồn để viết chương này - mà tôi cho là một trong những chương quan trọng nhất của quyển sách - càng sáng sủa càng hay. Tôi hy vọng nhờ đấy mà một vài người trong các bạn có thể liên lạc với giáo lý phi thường này, và được cảm hứng để tra tầm thêm, và khởi sự tu tập.

 

Bốn giai đoạn của pháp tánh

Phạn ngữ Dharmata. Tạng ngữ Cho nyi, nghĩa là bản chất nội tại của mọi sự vật, tinh yếu của các pháp. Pháp tánh là sự thật nguyên vẹn, vô điều kiện, bản chất của thực tại, hay thật tánh của hiện tượng giới. Những gì chúng ta đang bàn là toàn thể căn bản để hiểu tự tánh của tâm và bản chất của vạn sự vạn vật.

Sự chấm dứt tiến trình tan rã và xuất hiện Ánh sáng Căn bản đã mở ra một chiều không gian hoàn toàn mới mẻ, bây giờ bắt đầu phơi bày. Một cách giản dị để giải thích điều này là so sánh với cách đêm chuyển thành ngày. Giai đoạn cuối của tiến trình tan rã khi chết là kinh nghiệm màu đen của giai đoạn “thành tựu”. Nó được mô tả “giống như bầu trời trùm trong màn đêm u tối” . Sự sinh khởi Ánh sáng Căn bản là như ánh sáng trong bầu trời trống rỗng không mây ngay trước lúc bình minh. Bây giờ, dần dần mặt trời pháp tánh bắt đầu lên cao trong vẻ tráng lệ huy hoàng của nó, thắp sáng mọi đường cong của trái đất ở mọi hướng. Tia sáng tự chiếu của tự tánh Rigpa xuất hiện một cách tự nhiên và tỏa ra thành ánh sáng và năng lượng.

Cũng như mặt trời lên trong bầu trời trong sáng trống rỗng, sự xuất hiện ánh sáng của Bardo pháp tánh cũng sẽ nổi lên từ không gian lan khắp của Ánh sáng Căn bản. Cái tên chúng ta đặt cho sự trình diễn âm thanh, ánh sáng và màu sắc này là “hiện diện tự nhiên” , vì nó vẫn luôn luôn hiện diện trong tâm, trong sự “trong sáng nguyên ủy”, mà vốn là nền tảng của nó.

Ðiều thực sự xảy ra là một tiến trình hiển bày, trong đó tâm và bản chất căn để của nó dần dần trở nên rõ rệt hơn. Bardo pháp tánh là một giai đoạn trong tiến trình ấy. Vì chính qua bối cảnh ánh sáng và năng lượng này mà tâm hiển thị trạng thái thuần tịnh nhất của nó. Ánh sáng Căn bản, để tiến đến sự hiển hiện của nó thành hình dạng trong Bardo kế tiếp, nghĩa là Bardo của tái sanh.

Tôi nhận thấy một điều rất đáng chú ý là vật lý học tân thời cũng đã chứng minh rằng khi tra tầm vật chất đến chỗ cùng cực thì nó được hiển bày dưới dạng một biển năng lượng và ánh sáng. “Dường như thể vật chất là ánh sáng được cô đọng lại, được làm cho đông lại... tất cả vật chất là một kết tinh của ánh sáng thành những mẫu mực di chuyển qua lại trung bình chậm hơn tốc độ ánh sáng”, nhà vật lý David Bohm nhận xét. Vật lý học tân thời cũng hiểu về ánh sáng trong nhiều phương diện : “Nó đồng thời là năng lượng và cũng là thông tin - nội dung, hình dáng, cơ cấu. Nó là tiềm năng của mọi sự” .

Bardo pháp tánh có 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn trình bày một cơ hội khác nữa để giải thoát. Nếu cơ hội này không được bắt lấy, thì giai đoạn kế tiếp sẽ mở ra. Sự giải thích mà tôi làm ở đây về Bardo này bắt nguồn từ mật điển Dzogchen, trong đó nói chỉ nhờ pháp tu cao cấp đặc biệt gọi là Togal, người ta mới có thể hiểu được ý nghĩa thực sự của Bardo pháp tánh. Bởi thế, Bardo pháp tánh này ít nổi bật trong các giáo lý về sự chết trong truyền thống Tây Tạng. Ngay cả trong Tử Thư Tây Tạng, vốn cũng thuộc giáo lý Dzogchen, chuỗi liên tục 4 giai đoạn này cũng chỉ nói mơ hồ, hầu như hơi ẩn mật, và không xuất hiện trong một cơ cấu trật tự rõ ràng.

Tuy nhiên, tôi phải nhấn mạnh rằng danh từ chỉ có thể cho một vài hình ảnh khái niệm về những gì có thể xảy ra trong Bardo pháp tánh mà thôi. Những hình ảnh của Bardo này vẫn chỉ là khái niệm, khi mà hành giả chưa kiện toàn pháp môn Togal. Khi đã kiện toàn pháp tu ấy thì những gì tôi nói sau đây sẽ trở thành một kinh nghiệm cá nhân không thể chối cãi. Ðiều mà tôi cố trình bày ở đây chỉ là để cho bạn biết về hiện hữu của một chiều không gian kỳ diệu như vậy, và để hoàn tất sự mô tả của tôi về các cõi Trung Ấm. Tôi cũng hy vọng sâu xa rằng sự mô tả đầy đủ này có lẽ sẽ giúp nhắc nhở bạn phần nào, khi bạn kinh quá tiến trình chết.

1- Quang sắc - Phong cảnh bằng ánh sáng

Trong Bardo pháp tánh, bạn mang một cái thân bằng ánh sáng. Giai đoạn đầu của Bardo này là khi “hư không tan thành ánh sáng” .

Thình lình bạn ý thức đến một thế giới âm thanh, ánh sáng và màu sắc. Tất cả những hình dạng quen thuộc thường ngày đã hòa tan thành một phong cảnh ánh sáng lan khắp. Ánh sáng này rực rỡ chói chang, trong suốt và nhiều màu, không bị giới hạn bởi một chiều hướng nào, lóng lánh và luôn luôn chuyển động. Tử Thư Tây Tạng gọi nó “giống như một ảo giác trên đồng trống trong hơi nóng mùa hè” . Màu sắc của nó là biểu hiện tự nhiên của thể tánh tứ đại trong tâm : hư không màu xanh, nước trắng, đất vàng, lửa đỏ và gió lục.

Những tướng sáng chói chang ấy trong Bardo pháp tánh an trú lâu mau hoàn toàn tùy  thuộc mức độ an trú của bạn trong pháp môn Togal. Chỉ khi bạn thực sự làm chủ pháp môn này, bạn mới có thể ổn định kinh nghiệm ấy và xử dụng nó để đạt giải thoát. Nếu không, Bardo pháp tánh chỉ lóe lên như một làn chớp, mau đến độ bạn không ngờ nó đã xẹt tới nữa. Tôi lại phải nhấn mạnh rằng, chỉ một hành giả Togal mới có thể có sự trực nhận vô cùng quan trọng này, đó là những biểu hiện ánh sáng chói lọi này không hiện hữu ngoài tự tánh của tâm.

2- Hội nhập - Chư thiên  

Nếu bạn không thể nhận ra đấy là biểu hiện tự nhiên của tự tánh - Rigpa, thì những quang sắc giản đơn khi ấy khởi sự hòa vào nhau, cô đọng lại thành những điểm sáng hay những trái cầu bằng ánh sáng đủ cỡ, gọi là tiklé. Trong những trái cầu sáng này, “những mandala chư thần an lạc và phẫn nộ” xuất hiện, khi những trái cầu khổng lồ bằng ánh sáng tụ lại, dường như chiếm trọn cả không gian.

Ðây là giai đoạn thứ hai, gọi là “ánh sáng tan thành nhất thể”, trong đó ánh sáng xuất hiện dưới hình dạng những đức Phật hay chư thiên đủ cỡ, đủ màu sắc hình dạng, cầm những đồ phụ tùng khác nhau. Ánh sáng họ chiếu ra thật chói chang làm lòa mắt, âm thanh thì ghê rợn như ngàn tiếng sấm sét nổi lên, còn những tia sáng thì như những tia laser đâm thủng mọi sự.

Ðấy là “42 thần an lạc và 58 thần phẫn nộ” mô tả trong Tử Thư Tây Tạng. Những vị này xuất hiện trong giai đoạn vài “ngày”, ở trong những mandala đặc biệt của họ gồm từng nhóm năm. Hình ảnh này chiếm trọn bầu trời bên trong tâm thức bạn, với một cường độ mãnh liệt mà nếu bạn không thể nhận ra thực chất của nó, thì nó có vẻ đe dọa ghê gớm. Bạn bị ngốn ngấu trong nỗi sợ hãi kinh hoàng, và bạn ngất xỉu.

Từ chính bạn và từ những vị thần ấy, có những chùm tia sáng nhỏ nhiệm tỏa ra, hòa tâm bạn với tâm chư thiên. Vô số trái cầu sáng xuất hiện trong những tia sáng càng tăng thêm rồi “cuộn lại”, khi tất cả chư thần đều tan vào trong bạn.

3- Tuệ giác

Nếu bạn vẫn chưa nhận ra được và an trú, thì giai đoạn kế tiếp mở ra, gọi là “nhất thể tan thành trí tuệ”.

Một chùm tia sáng nhỏ nhiệm khác tuôn phát từ tim bạn và một chùm ảo tượng khổng lồ mở ra ; tuy nhiên từng chi tiết vẫn sáng sủa rõ ràng. Ðây là sự trình bày những khía cạnh khác nhau của trí tuệ, hiện ra một lượt dưới dạng những tấm thảm trải ra bằng ánh sáng và trái cầu sáng rực rỡ.

Ðầu tiên, trên một tấm thảm ánh sáng màu xanh lục, xuất hiện những trái cầu sáng màu xa-phia xanh, gồm những nhóm năm. Phía trên đó, trên một thảm ánh sáng trắng, xuất hiện những trái cầu sáng chói lọi, trắng như pha-lê. Trên nữa, trên một thảm ánh sáng vàng nhạt, xuất hiện những trái cầu sáng màu vàng ròng, và trên nữa, một thảm ánh sáng đỏ nâng đỡ những trái cầu sáng đỏ màu hổ phách. Trên tất cả là một trái cầu ánh sáng rực rỡ như một cái lọng tỏa ra làm bằng lông chim công.

Sự trình diễn những quang sắc sáng chói này là biểu hiện của năm trí : pháp giới thể tánh trí, giống như hư không cùng khắp ; đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quan sát trí và thành sở tác trí. Nhưng vì trí Thành sở tác chỉ kiện toàn được vào lúc giác ngộ, nên nó chưa hiện ra ở đây. Bởi thế mà không có thảm ánh sáng màu lục và những trái cầu sáng, tuy thế nó nội tại trong tất cả màu sắc khác. Ðiều được biểu hiện ở đây là tiềm năng giác ngộ của ta. Thành sở tác trí chỉ xuất hiện khi ta thành Phật.

Nếu bạn không đạt giải thoát ở đây nhờ an trú không tán loạn vào tự tánh tâm, thì những tấm thảm ánh sáng và những trái cầu sáng trong đó, cùng với tự tánh  bạn, tất cả sẽ tan vào trong trái cầu sáng như cái lọng lông chim công.

4- Hiện diện tự nhiên

Ðiều này báo hiệu giai đoạn cuối cùng của Bardo pháp tánh, “trí tuệ tan thành hiện diện tự nhiên”. Bây giờ, toàn thể thực tại trưng ra trong một cuộc trưng bày vĩ đại. Trước hết, trạng thái thanh tịnh nguyên thủy xuất hiện như một bầu trời mở rộng không mây, rồi chư thần an lạc và phẫn nộ xuất hiện, tiếp theo là những cảnh giới chư Phật, và dưới đó là sáu cõi luân hồi.

Tính cách bao la vô hạn của cảnh tượng này thực hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng thông thường của chúng ta. Mọi khả tính đều được trình bày : từ trí tuệ và giải thoát cho đến mê mờ và tái sinh. Ở điểm này, bạn tự thấy mình có những khả năng nhận thức và trí nhớ sáng suốt. Chẳng hạn, với sự sáng suốt hoàn toàn, các giác quan không bị trở ngại, bạn sẽ biết các đời trước và đời sau, thấy suốt tâm địa người khác và có tri kiến về cả sáu nẻo luân hồi. Trong một thoáng, bạn có thể nhớ lại một cách sống động tất cả những giáo lý đã được nghe, và cả những giáo lý chưa từng nghe cũng thức dậy trong tâm bạn.

Toàn thể cảnh tượng này sẽ tan biến trở lại vào tinh chất sơ nguyên của nó, như một cái lều sụp đổ khi những sợi dây của nó bị cắt đứt.

 

*

 

Nếu bạn có được sự an trú bền vững để nhận ra những hiện tượng ấy là “tia tự chiếu” từ chính bản tâm Rigpa của bạn thì bạn sẽ được giải thoát. Nhưng nếu không có kinh nghiệm của pháp tu Togal, bạn không thể nhìn vào những vị thần “sáng chói như mặt trời”. Thay vì thế, bạn đưa mắt nhìn xuống lục đạo, theo khuynh hướng tập quán nhiều đời trước. Chính những hình ảnh lục đạo bạn nhận ra sẽ dụ dẫn bạn trở lại vào lưới mê.

Trong Tử Thư Tây Tạng, những thời kỳ nhiều “ngày” được dành cho những kinh nghiệm về Bardo pháp tánh. Ðây không phải là những ngày dương lịch 24 tiếng đồng hồ, bởi vì trong phạm vi pháp tánh, chúng ta đã hoàn toàn vượt ra ngoài mọi giới hạn thời - không. Những “ngày” này là “ngày thiền quán” và ám chỉ thời gian mà chúng ta có thể an trú không tán loạn trong tự tánh tâm, hay trong trạng thái nhất tâm. Nếu không có sự thực tập an trú vững vàng trong thiền định thì những ngày ấy có thể ngắn như một phút, và sự xuất hiện chư thần an lạc và phẫn nộ sẽ mau chóng đến độ ta không thể ghi nhận được.

 

Hiểu ngộ pháp tánh

 

Khi Bardo pháp tánh xuất hiện cho tôi

Tôi sẽ từ bỏ mọi kinh hoàng sợ hãi

Vì nhận ra tất cả đều từ tâm tôi hiển bày

Và biết đấy là xuất hiện tự nhiên của Trung Ấm

Bây giờ khi đã đạt đến cao điểm

Tôi sẽ không sợ chư thần an lạc và phẫn nộ sinh khởi từ chính tâm tôi. 

Chìa khóa để hiểu Trung Ấm này là, tất cả mọi kinh nghiệm xảy ra trong đó đều là tia chiếu tự nhiên của tự tánh tâm. Ðiều đang xảy đến là, những khía cạnh khác nhau của năng lực giác ngộ của tâm thức đang được phóng thích (khi không còn bị thân xác trở ngại - DG). Hệt như những tia sáng cầu vồng nhảy múa do một bình pha-lê chiếu ra chỉ là sự hiển bày tự nhiên của nó, cũng thế những xuất hiện chói chang của pháp tánh không thể tách rời tự tánh của tâm. Chúng chính là những biểu hiện tự nhiên của nó. Bởi thế, dù có những hình ảnh ghê rợn đến đâu, Tử Thư Tây Tạng nói, chúng cũng không làm gì được bạn hơn là một con sư tử độn bông.

Tuy nhiên, thật không đúng khi gọi những xuất hiện này là “hình ảnh” hay “kinh nghiệm”, vì hình ảnh, kinh nghiệm tùy thuộc vào một tương quan nhị nguyên giữa chủ thể nhận thức và đối tượng bị nhận thức. Nếu chúng ta có thể nhận ra những tướng trạng ấy của Bardopháp tánh, xem đấy là năng lực trí tuệ của chính tâm ta, thì khi ấy không có sai khác giữa cái thấy và cái bị thấy, và đây là một kinh nghiệm về bất nhị. Thể nhập hoàn toàn vào kinh nghiệm ấy là đạt giải thoát. Vì, như Kalu Rinpoche nói : “Giải thoát xảy đến vào lúc sau khi chết, khi tâm thức có thể nhận ra rằng những gì nó kinh nghiệm chỉ là tâm tạo” .

Tuy nhiên, bây giờ khi chúng ta không còn có nền tảng vật lý hay được bao bọc bởi một thế giới vật lý, thì những năng lực của tự tánh tâm được giải tỏa trong trạng thái Trung Ấm có thể trông như vô cùng thực, và dường như có một hiện hữu khách quan. Chúng dường như hiện hữu trong một thế giới bên ngoài chúng ta. Và khi không có sự tu tập vững chãi thì ta sẽ không biết đến một cái gì bất nhị, duy tâm tạo. Một khi chúng ta đã lầm cho những hiện tượng ấy là tách biệt với ta, là “những hình ảnh bên ngoài” thì chúng ta sẽ phản ứng lại bằng sợ hãi hoặc hy vọng, và thế là nó dẫn chúng ta đi vào mê lộ.

Cũng như khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện, sự nhận ra được nó là chìa khóa để giải thoát, ở đây cũng thế, trong Bardo pháp tánh. Nhưng ở đây, chính sự nhận ra “tia tự chiếu của tính giác Rigpa”, - sự biểu hiện năng lực của tự tánh - làm nên sự khác biệt giữa giải thoát hay tiếp tục chu kỳ tái sanh do nghiệp. Lấy ví dụ sự xuất hiện một trăm vị thần an lạc và phẫn nộ, xảy ra trong giai đoạn của haiBardo này. Những vị này gồm chư Phật thuộc 5 dòng họ, nguyên lý nữ tánh của những vị ấy, chư Bồ-tát nam nữ, chư Phật trong lục đạo và một số chư thần phẫn nộ và thần hộ mạng. Tất cả đều xuất hiện giữa ánh sáng chói lọi của năm trí.

Chúng ta phải hiểu những Phật và Bồ-tát này như thế nào ? - “Mỗi hình dạng thuần tịnh trong đây tiêu biểu một viễn cảnh giác ngộ của một phần kinh nghiệm bất tịnh của chúng ta” . Năm vị Phật thuộc dương tánh là khía cạnh thanh tịnh của năm uẩn làm nên tự ngã. Năm trí của Phật là khía cạnh thanh tịnh của năm cảm xúc tiêu cực. Năm vị Phật mẫu là những đức tính đại chủng thanh tịnh thuộc tâm, mà chúng ta kinh nghiệm thành ra đại chủng bất tịnh của thân và hoàn cảnh. Tám vị Bồ-tát là khía cạnh thanh tịnh của tám thức, và phần nữ tánh của họ là đối tượng của tám thức.

Dù là hình ảnh thanh tịnh năm vị Phật thuộc năm dòng họ với những loại trí tuệ hiện ra, hay hình ảnh bất tịnh của năm uẩn và những cảm xúc tiêu cực của chúng xuất hiện, bản chất của những hình ảnh ấy chỉ là một. Sự khác nhau là ở thái độ chúng ta khi nhận ra những hình ảnh ấy, và ở chỗ ta có nhận ra rằng chúng vốn xuất phát từ nền tảng của tự tâm ta hay không.

Hãy lấy ví dụ một cái gì xuất hiện trong tâm phàm tình của ta như là một ý tưởng về tham dục ; nếu bản chất thực của nó được nhận ra, thì nó khởi lên - tách rời chấp thủ - như là “Diệu quan sát trí”. Thù ghét và giận dữ, khi nhận chân được nó lìa chấp thủ, thì nó khởi lên với sự trong sáng như kim cương, và đấy là “Ðại viên cảnh trí”. Khi ngu si được nhận chân, nó khởi lên như là ánh sáng tự nhiên rộng lớn không có khái niệm, gọi là “Pháp giới thể tánh trí”. Kiêu mạn, khi được nhận chân, được thực chứng như là bất nhị và bình đẳng, thì đó là “Bình đẳng tánh trí”. Ganh tị, khi được nhận chân, thì thoát khỏi thiên vị và chấp thủ, và khởi lên như là “Thành sở tác trí” . Vậy, năm cảm xúc tiêu cực khởi lên như là hậu quả trực tiếp của sự không nhận chân được bản tánh thực của chúng. Khi được nhận chân thì chúng được thanh lọc và giải thoát, và khởi lên không khác gì hơn là sự hiển bày của năm trí.

Trong Bardo pháp tánh, khi bạn không nhận ra được những tia sáng của năm trí ấy, thì ngã-chấp-thủ sẽ đi vào nhận thức của bạn, cũng như một người lên cơn sốt cao khởi sự có ảo giác và thấy đủ thứ cảnh tượng trước mắt. Bởi thế, chẳng hạn nếu bạn không nhận ra màu đỏ, ánh sáng hổ phách của Diệu quan sát trí, thì nó xuất hiện như một ngọn lửa, vì đó là tinh túy của hỏa đại ; nếu bạn không nhận ra thực chất ánh sáng màu vàng của Bình đẳng tánh trí, thì nó xuất hiện như là địa đại, vì đấy tinh túy của địa đại.v.v....

Ðấy là cái cách những tướng hiện ra trong Bardo pháp tánh sẽ bị biến hóa - khi ngã chấp đi vào trong nhận thức - thành ra có thực chất để nhập vào những căn bản vọng tưởng trong sinh tử.

Một bậc thầy Dzogchen dùng thí dụ băng và nước để chứng minh sự thiếu nhận thức và ngã chấp diễn ra như thế nào : Nước thường là lỏng, một yếu tố có những tính chất kỳ diệu làm sạch và giải khát. Nhưng khi gặp lạnh nó đông lại thành băng giá. Cũng thế, mỗi khi ngã chấp xuất hiện, nó củng cố vừa kinh nghiệm bên trong của ta vừa cái cách ta nhìn thế giới quanh mình. Nhưng cũng như sức nóng mặt trời sẽ làm cho băng tan thành nước, dưới ánh sáng của sự trực nhận, bản chất trí tuệ của chúng ta không còn bị trói buộc (bởi ngã chấp - DG) sẽ hiển bày.

Bây giờ ta có thể thấy rõ làm thế nào - sau khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện, rồi Bardo pháp tánh xuất hiện - mà sinh tử thực sự đã khởi lên như hậu quả của sự không nhận ra được bản tâm trong cả hai lần ấy. Lần đầu Ánh sáng Căn bản, nền tảng (hay Tướng - DG)  của tự tánh tâm, đã không được nhận ra, nếu nhận được, là ta đã đạt giải thoát. Lần thứ hai năng lực (hay Dụng) của tự tánh ấy xuất hiện, và đó là một cơ hội thứ hai để giải thoát ; nhưng nếu nó không được trực nhận thì những cảm xúc tiêu cực khởi lên, cô đọng lại thành nhiều nhận thức sai lầm khác nhau, cùng nhau tiếp tục tăng trưởng những cảnh giới huyễn mộng mà ta gọi là sinh tử, giam giữ ta trong chu kỳ tái sanh. Toàn thể sự tu tập tâm linh, như vậy, cốt là để lật ngược cái tình huống mà tôi muốn gọi là quá trình vô minh, để chấm dứt tạo tác, chấm dứt củng cố những nhận thức sai lạc chằng chịt lệ thuộc vào nhau, những thứ đã bẫy ta vào cái thực tại huyễn hóa do chính ta bày đặt.

Cũng như khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện vào lúc chết, ở đây trong Bardo pháp tánh cũng thế, chưa chắc đã được giải thoát. Vì khi ánh sáng trí tuệ chiếu ra, nó còn kèm theo một loạt những âm thanh và ánh sáng ấm áp dịu dàng hấp dẫn hơn, không tràn ngập, không chói chang như ánh sáng trí tuệ. Những ánh sáng mờ nhạt này - có màu khói nhạt, màu vàng, lục, xanh, đỏ và trắng - là những khuynh hướng tập quán vô thức trong ta tích lũy do giận dữ, tham lam, ngu si, nhục dục, ganh tị và kiêu mạn. Ðấy là những cảm xúc đã tạo ra sáu cõi luân hồi hay lục đạo : địa ngục, quỷ đói, súc sinh, người, a tu la và chư thiên.

Nếu chúng ta không nhận ra và an trú pháp tánh của tự tâm trong đời sống thường ngày (nghĩa là ngồn gốc 6 cõi ở ngay trong tâm thức - DG), thì theo bản năng chúng ta sẽ bị lôi cuốn về phía những ánh sáng mờ của lục đạo, vì khuynh hướng chấp thủ cố hữu nơi ta khởi sự thức dậy. Tâm ta lùi lại vì cảm thấy bị đe dọa bởi ánh sáng trí tuệ chói chang. Những ánh sáng ấp áp, sự mời gọi của những khuynh hướng thường ngày, dụ dẫn chúng ta vào một tái sanh mới, được định đoạt bởi cảm xúc tiêu cực nào mạnh nhất (trong 6 thứ nói trên) trong nghiệp thức chúng ta.

*

 

Ta hãy lấy một ví dụ sự xuất hiện của một trong những vị Phật trong Tử Thư Tây Tạng để minh họa toàn thể tiến trình này. Bậc thầy hay bạn đạo nói với thần thức người chết như sau :

Này thiện nam/nữ, hãy lắng nghe không tán loạn !

Vào ngày thứ ba, một ánh sáng sẽ sanh khởi, đó là tinh chất của địa đại. Ðồng thời, từ cõi Phật phương Nam, gọi là “thế giới quang vinh” đức Phật Bảo Sanh sẽ xuất hiện trước ngươi, thân ngài màu vàng, tay cầm viên bảo châu như ý. Ngài ngồi trên tòa có những con ngựa đỡ và được ôm bởi Phật mẫu Mamaki, nguyên lý nữ tánh của ngài. Xung quanh ngài là hai Bồ-tát dương tánh : Hư Không Tạng (Akashagarbha) và Phổ Hiền (Samantabhadra), và hai Bồ-tát nữ tánh : Mala và Dhupa, làm thành 6 vị Phật ở trong bối cảnh ánh sáng cầu vồng.

Tính thuần tịnh nội tại của thọ uẩn - Bình đẳng tánh trí - một bầu ánh sáng vàng chói lọi, được trang trí bằng những trái cầu cũng bằng ánh sáng (tiklés) lớn nhỏ đủ cỡ, trong suốt rực rỡ, con mắt trần không thể chịu nổi, sẽ tuôn tràn về phía ngươi từ nơi tim của Phật Bảo Sanh và nguyên lý nữ tánh của ngài, và đâm xoáy tim ngươi đến nỗi con mắt ngươi không thể nào nhìn vào đó.

Vào cùng lúc ấy, cùng với tia sáng trí tuệ, có một ánh sáng xanh của cõi người chiếu về phía ngươi, xoáy vào tim ngươi. Khi ấy, bị kiêu mạn thúc đẩy, trong nỗi kinh hoàng ngươi chạy trốn ánh sáng vàng quá chói lọi kia, nhưng lại thích ánh sáng xanh của cõi người, và bị dính mắc vào đó.

Lúc ấy, ngươi đừng sợ ánh sáng vàng chói chang, hãy nhận ra đó là trí tuệ. Hãy an trú tự tánh ngươi trong đó một cách thoải mái, vô vi. Hãy tin tưởng vào đó, hãy có sự sùng kính và khát khao đối với nó. Nếu ngươi nhận ra nó là tia chiếu tự nhiên của tự tánh Rigpa ngươi, thì dù cho ngươi không có sùng kính, chưa đọc kinh cầu nguyện, tất cả chư Phật và ánh sáng ấy cũng sẽ tan hòa bất ly với ngươi, và ngươi sẽ đạt đến cõi Phật.

Nếu ngươi không nhận ra đấy là tia chiếu tự nhiên của tự tánh ngươi, thì hãy có lòng sùng kính mà cầu nguyện, nghĩ : “Ðây là ánh sáng năng lực từ bi của Phật Bảo Sanh. Con xin quay về nương tựa ngài” . Vì đó quả thực là Phật Bảo Sanh đang đến hướng dẫn ngươi trong nỗi kinh hoàng của cảnh Trung Ấm, đó là những móc câu bằng ánh sáng của năng lực tâm đại bi, bởi thế ngươi hãy để niềm sùng kính tràn ngập tim ngươi.

Ðừng thích trú trước ánh sáng xanh của cõi người. Ðây là con đường hấp dẫn của những khuynh hướng, tập quán mà ngươi đã tích lũy bằng kiêu mạn mãnh liệt. Nếu ngươi quyến luyến với nó, ngươi sẽ tái sanh vào cõi người, ở đó ngươi sẽ kinh quá những đau đớn của sinh, già, bệnh, chết ; ngươi sẽ lỡ mất cơ hội ngoi đầu lên khỏi vũng lầy sinh tử. Ánh sáng xanh dịu này là một chướng ngại bít lấp con đường giải thoát, bởi thế ngươi đừng nhìn vào đó, mà hãy từ bỏ kiêu mạn ! Từ bỏ những khuynh hướng tập quán của nó. Ðừng quyến luyến ánh sáng xanh dịu, đừng khát khao nó. Hãy sinh tâm sùng kính và khát ngưỡng ánh sáng vàng chói chang, hãy tập trung toàn sự chú ý của ngươi vào đức Phật Bảo Sanh và cầu nguyện :

“Than ôi, vì kiêu mạn con đã lang thang trong sinh tử.

Xin đức Phật Bảo Sanh dẫn đường cho con

Trên đạo lộ quang minh rực rỡ vốn là “Bình đẳng tánh trí”.

Xin Phật mẫu Mamaki tối thượng của ngài hãy đi sau con

Xin các ngài giúp con vượt qua ngõ hiểm nghèo Trung Ấm

Và đưa con đến trạng thái toàn giác”.

Nhớ đọc lời cầu nguyện này trong niềm sùng kính sâu xa, ngươi sẽ tan thành ánh sáng cầu vồng trong tim của Phật Bảo Sanh và Phật mẫu Mamaki, trở thành một báo thân Phật trong cõi Phật “Quang vinh” phương Nam”.

 

Sự mô tả đức Phật Bảo Sanh xuất hiện kết thúc với lời giải thích rằng nhờ vị thầy hay bạn đạo “khai thị” như thế nhiều lần, người chết sẽ được giải thoát, dù năng lực họ có kém cỏi bao nhiêu. Tuy nhiên, Tử Thư nói, dù đã được khai thị nhiều lần, có những người vì ác nghiệp nên không nhận ra, không giải thoát được. Bị giao động bởi tham dục, si mê và kinh hoàng trước những ấm thanh ánh sáng ấy, họ sẽ chạy trốn. Bởi thế, vào “ngày” hôm sau, vị Phật kế tiếp là A Di Ðà với ánh sáng vô lượng, cùng với mandala chư thần của ngài sẽ xuất hiện trong tất cả vẻ huy hoàng với quang sắc màu đỏ chói lọi, đồng thời lại có ánh sáng đục hấp dẫn của ngạ quỷ đạo, do tham dục thấp hèn phát sinh. Tương tự như thế, Tử Thư lần lượt giới thiệu sự xuất hiện của chư thần an lạc và phẫn nộ.

 

*

 

Người ta thường hỏi tôi : “Chư thần có hiện ra cho một người Tây phương không ? Nếu có, thì có phải hiện dưới hình dạng quen thuộc của phương Tây hay không ?”

Những sự hiển bày của Bardo pháp tánh được gọi là “hiện diện tự nhiên”. Ðiều này có nghĩa chúng nội tại vô điều kiện, hiện hữu trong tất cả chúng ta.  Sự khởi lên của chúng không tùy thuộc sự chứng đắc nào của ta, nhưng sự nhận ra chúng thì có tùy thuộc. Những hình ảnh ấy  không phải chỉ xuất hiện cho người Tây Tạng, mà đấy là kinh nghiệm phổ quát và căn để, nhưng cái cách theo đó chúng được thấy, tùy thuộc bối cảnh sống của chúng ta. Vì tự bản chất chúng là vô giới hạn, nên chúng có tự do xuất hiện dưới bất cứ hình dạng nào.

Bởi thế, chư thần có thể mang hình dạng mà chúng ta thường quen thuộc nhất trong đời sống hàng ngày. Ví dụ, với hành giả Tây phương, thì chư thần có thể mang hình dạng chúa Ki-tô hay đức Mẹ đồng trinh. Thông thường, toàn thể sự hiển bày giác ngộ của chư Phật là giúp chúng ta, bởi thế nên chúng có thể mang hình dạng nào thích hợp và lợi ích nhất cho chúng ta. Nhưng dù dưới hình dạng nào thì điều quan trọng vẫn là phải nhận ra rằng tự bản chất, không có sự khác nhau nào cả giữa những biểu hiện ấy.

 

Sự trực nhận

Giáo lý Dzogchen giải thích rằng, cũng như một người sẽ không nhận ra Ánh sáng Căn bản nếu không có sự thực chứng tự tánh tâm và một kinh nghiệm vững vàng về pháp tu Trekcho ; cũng thế nếu không thực hành pháp Togal thì không thể nhận ra được Bardopháp tánh. Một hành giả Togal thuần thục đã kiện toàn và an trú trong ánh sáng của tự tánh thì khi sống, họ đã có kinh nghiệm trực tiếp về những biểu hiện sẽ nổi lên trong Bardo pháp tánh. Năng lượng và ánh sáng này như vậy nằm ngay trong chúng ta, mặc dù hiện tại chúng bị khuất lấp. Tuy nhiên, khi thể xác và những tầng thô của tâm thức đã chết, thì chúng tự nhiên được phóng thích, và âm thanh, màu sắc và ánh sáng của tự tánh ta sẽ chiếu sáng rực rỡ.

Tuy nhiên, không phải chỉ có nhờ pháp Togal mới có thể xử dụng Bardo này để giải thoát. Những hành giả Mật tông trong Phật giáo sẽ liên kết những tướng xuất hiện trong Bardo pháp tánh với pháp tu của riêng họ. Trong Mật tông, nguyên lý chư thần là một cách truyền thông. Chư thần được hiểu như những ẩn dụ, nhân cách hóa và biểu trưng cho những năng lực và tính chất vô biên của tâm trí tuệ chư Phật. Sự nhân cách hóa những năng lực và tính chất ấy dưới hình dạng chư thần sẽ giúp cho hành giả nhận ra chúng và thiết lập tương quan với chúng. Nhờ tu tập sự tạo ra rồi thâu lại hình ảnh ấy vào tâm, qua phương pháp quán tưởng, mà hành giả nhận ra rằng cái tâm quán ra chư thần và chư thần được quán ra ấy không phải là hai thứ tách biệt.

Trong Phật giáo Tây Tạng, mỗi hành giả có một yidam, hình ảnh một vị Phật hay Bồ-tát nào mà họ cảm thấy có duyên với mình, và thường triệu thỉnh vị ấy để quán tưởng hình ảnh trong tim mỗi khi tập luyện. Thay vì xem những tướng của pháp tánh là hiện tượng bên ngoài, hành giả Mật tông sẽ liên kết chúng với yidam, hình ảnh vị Phật của riêng họ, hòa nhập làm một với tướng ấy. Bởi vì trong khi tu luyện, họ đã nhận ra yidam là tia chiếu tự nhiên của tâm giác ngộ, nên (khi chết) họ có thể nhìn các tướng trong Bardo pháp tánh như là biểu hiện của yidam ấy. Với cái thấy thuần tịnh này, hành giả sẽ nhận ra bất cứ gì xuất hiện trong Bardo đều là những thị hiện của yidam. Rồi nhờ năng lực tu tập và sự ban phước của yidam, vị ấy sẽ đạt giải thoát trong Bardo pháp tánh.

Ðấy là lý do trong truyền thống Tây Tạng có lời khuyến cáo - cho cư sĩ thế tục và những hành giả thông thường chưa quen thuộc với pháp tu yidam - rằng bất cứ tướng gì khởi lên, đều nên quán ngay đấy là đức Quán Thế AÂm, vị Phật của lòng bi mẫn, hoặc đức A Di Dà, hoặc Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) tùy theo vị nào họ quen thờ nhất. Nói tóm lại, bất cứ cách nào bạn thường tu tập trong đời sống, thì cũng bằng cách đó bạn cố mà nhận ra các tướng trong Bardo pháp tánh.

Một gợi ý khác để nhìn Bardo pháp tánh là, hãy xem nó như thế giới nhị-nguyên được hiển bày trong hình dạng thuần tịnh tối hậu của nó. Chúng ta được đưa ra phương tiện để giải thoát, song đồng thời chúng ta cũng bị dụ dẫn bởi tiếng gọi của những bản năng và tập quán trong ta. Ta kinh nghiệm năng lực thuần túy của tâm linh mà đồng thời cũng kinh nghiệm sự rối ren mờ mịt của nó. Dường như thể ta đang được nhắc nhở phải làm một quyết định, phải chọn lựa giữa đường này hay đường kia. Dĩ nhiên chúng ta có được cái quyền chọn lựa ấy hay không còn tùy thuộc vào mức độ hoàn tất của việc tu tập của ta trong lúc sống.

 

18- Bardo tái sanh

Ðối với phần đông người, kinh nghiệm về cái chết chỉ có nghĩa là bước vào một trạng thái quên lãng ở cuối tiến trình chết. Ba giai đoạn của sự tan rã bên trong có thể rất nhanh, “như ba cái búng tay”. Những tinh chất trắng và đỏ của cha và mẹ gặp nhau ở tim, và kinh nghiệm màu đen gọi là “thành tựu” khởi lên. Ánh sáng Căn bản xuất hiện, nhưng ta không nhận ra được nó, và ta rơi vào trạng thái hôn mê bất tỉnh.

Như tôi đã nói, đây là sự hụt trực nhận lần thứ nhất, hay giai đoạn vô minh thứ nhất, Tạng ngữ gọi là Ma Rigpa, hay “Bất giác”, ngược lại với Rigpa, sự tỉnh giác về tự tánh tâm. Ðiều này đánh dấu trong ta sự khởi đầu một chu kỳ khác của sinh tử, chỉ bị gián đoạn chốc lát vào lúc chết. Khi ấy Bardo pháp tánh xuất hiện và nó chỉ vút qua như một làn chớp, không được nhận ra. Ðây là sự hụt trực nhận lần thứ hai, giai đoạn hai của vô minh bất giác.

Ðiều đầu tiên mà ta ý thức đến là “như thể trời và đất lại cách ngăn trở lại” : Chúng ta thình lình tỉnh dậy trong trạng thái trung gian giữa cái chết và một tái sanh mới. Ðây gọi là Trung Ấm của tái sanh, sipa Bardo, và là Trung Ấm thứ ba của sự chết.

Khi chúng ta không nhận ra được Ánh sáng Căn bản và không nhận ra Bardo pháp tánh, những hạt giống của khuynh hướng tập quán trong ta được khơi dậy, bừng tỉnh. Bardo tái sanh bắt đầu từ khi bừng tỉnh này cho đến khi chúng ta nhập vào bào thai của đời sống mới.

Danh từ Sipa trong Sipa Bardo dịch là “Trung Ấm tái sinh”, cũng có nghĩa là “khả năng” và “hiện hữu”. Trong Trung Ấm này, vì tâm thức không còn bị giới hạn và ngăn che bởi cái thân vật lý của thế giới này, nên những “khả năng” là vô biên cho việc tái sinh trong các cõi. Và Bardo này có “hiện hữu” bên ngoài là thân tâm lý và ‘hiện hữu” bên trong là tâm.

Khía canh nổi bật của Bardo tái sanh là, ở đây tâm đóng vai trò quan trọng, trong khi ở giai đoạn Bardo pháp tánh, thì mọi sự diễn ra trong phạm vi Tính giác Rigpa, cốt lõi của tâm. Bởi thế, trong Bardo pháp tánh, chúng ta có một thân bằng ánh sáng, còn trongBardo tái sinh chúng ta có một thân do ý sanh.

Trong Bardo tái sinh, tâm có được ánh sáng vô biên và sự di động không giới hạn, nhưng hướng di chuyển của nó hoàn toàn được định đoạt bởi những khuynh hướng tập quán cũ của ta. Vì vậy nó được gọi là Bardo tái sinh. Kalu Rinpoche nói : “Ðó là hậu quả hoàn toàn thụ động, mù quáng của những nghiệp đời trước, và không có gì xảy ra là hữu thức ; chúng ta hoàn toàn bị nghiệp lực lôi kéo”.

Ở điểm này, tâm đã đạt đến giai đoạn kế tiếp trong tiến trình tuần tự mở ra của nó : Từ trạng thái thanh tịnh nhất của nó là Ánh sáng Căn bản, qua ánh sáng và năng lượng của nó, tức là những tướng hiện ra trong Bardo pháp tánh, và bây giờ đi vào sự biểu hiện thô hơn của một thân ý sanh trong Bardo tái sinh. Những gì xảy ra bây giờ ở giai đoạn này là một tiến trình tan rã ngược lại : những ngọn gió lại xuất hiện, cùng với chúng là những trạng thái tư tưởng liên hệ đến ngu si, tham dục và giận dữ. Rồi, vì ký ức về thân nghiệp sanh trong quá khứ của chúng ta đang còn mới mẻ, chúng ta mang một “thân ý sanh”.

 

Thân ý sanh

Thân ý sanh của chúng ta trong Bardo tái sanh mang một số đặc tính đặc biệt. Nó có đủ tất cả các giác quan. Nó vô cùng nhẹ, sáng suốt và di động ; và sự bén nhạy của nó được nói là gấp 7 lần trong đời sống thực. Nó cũng có được một loại thần thông lặt vặt, không được ý thức kiểm soát, nhưng đem lại cho thân ý sanh khả năng đọc được tâm người khác.

Lúc đầu, thân ý sanh này sẽ có một hình dáng giống như thân thể trong đời vừa qua, nhưng không có một khuyết điểm nào, và đang ở độ tuổi xuân xanh. Ngay cả khi bạn bị què quặt hay đau ốm trong đời sống, bạn vẫn có được thân ý sanh toàn hảo trong Bardotái sanh.

Một trong những giáo điển cổ của Dzogchen cho chúng ta biết rằng thân ý sanh cỡ bằng một đứa bé từ 8 đến 10 tuổi.

Do năng lực của tư duy khái niệm, gọi là “gió nghiệp”, thân ý sanh không thể ở yên dù chỉ trong chốc lát. Nó không ngừng di động. Nó có thể đi khắp nơi nó muốn, không bị trở ngại. Vì thân ý sanh không có cơ sở vật lý nên nó có thể đi xuyên qua tường vách hay núi.

Khi mang thân ý sanh có thể thấy suốt  những vật thể có ba chiều. Nhưng vì thiếu tinh chất vật lý của cha mẹ, chúng ta không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng, mà chỉ có ánh sáng mờ soi tỏ khoảng không gian ngay trước mặt. Chúng ta có thể thấy những chúng sanh khác trong cõi Trung Ấm, nhưng người sống không thấy chúng ta, ngoại trừ những người đã có thần thông nhờ thiền định. Bởi thế, chúng ta có thể gặp và nói chuyện vài giây phút thoáng qua với nhiều kẻ đang du hành trong thế giới Bardo (Trung Ấm), nghĩa là những kẻ chết trước chúng ta.

Do sự có mặt của năm uẩn đang thành hình, nên thân ý sanh đối với chúng ta dường như chắc thực, và chúng ta vẫn còn cảm thấy những cơn đói cồn cào. Giáo lý Trung Ấm dạy rằng thân ý sanh này sống bằng mùi hương và rút dưỡng chất từ những đồ cúng được đem đốt, nhưng nó cũng có thể hưởng được những đồ cúng đặc biệt nhân danh nó.

Trong trạng thái này, hoạt động tâm ý rất nhanh : tư tưởng liên tục trôi qua nhanh, và chúng ta có thể làm một lúc nhiều công việc. Tâm tiếp tục duy trì những mẫu mực thói quen của nó, nhất là thói bám víu những kinh nghiệm, và thói tin rằng mọi sự tuyệt đối là thực có.

 

Những kinh nghiệm của cõi Trung Ấm

Suốt trong những tuần đầu trong cõi Trung Ấm (Bardo), chúng ta có cảm tưởng rằng mình là một người đàn ông hay một phụ nữ, hệt như khi ta còn sống đời vừa qua. Chúng ta không nhận ra rằng mình đã chết. Chúng ta trở về nhà để gặp bà con và những người thân yêu. Ta cố nói với họ, sờ vai họ. Nhưng họ không trả lời, cũng không tỏ ra họ biết ta có ở đấy. Dù ta cố gắng bao nhiêu, cũng không gì làm cho họ chú ý ta được. Ta bất lực đứng nhìn họ khóc hay ngồi thẩn thờ với cõi lòng tan nát vì cái chết của ta. Ta lại còn cố một cách vô hiệu để xử dụng những đồ đạc của ta khi trước. Chỗ ta ngồi nơi bàn ăn không còn dành cho ta nữa, và người ta đang làm những chuẩn bị để thanh toán của cải của ta. Ta cảm thấy tức tối, bị thương tổn, hằn học, “như một con cá quằn quại trên cát nóng”, Tử Thư nói.

Nếu hết sức quyến luyến cái xác của mình, thậm chí ta lại còn cố nhập vào nó hay lảng vảng bên nó. Có những trường hợp quá khích, là thân ý sanh có thể lai vãng gần tài sản hay xác của họ hàng tuần, hàng năm mà vẫn chưa có thể nghĩ rằng mình đã chết. Chỉ khi họ thấy mình không có bóng in trên mặt đất, không in dấu chân bước, cũng không phản chiếu trong gương, họ mới vỡ lẽ. Và nội một nỗi kinh hoàng khi nhận ra mình đã chết, cũng đủ làm cho họ ngất xỉu.

Trong cõi Trung Ấm tái sanh, ta sống lại tất cả những kinh nghiệm của đời vừa qua, ôn lại những kỷ niệm đã từ lâu phai mờ trong ký ức, và thăm lại những nơi chốn cũ, “dù chỉ là nơi ta chỉ có khạc nhổ lên đấy”. Cứ bảy ngày một lần, ta lại bắt buộc phải sống trở lại cái kinh nghiệm chết, với tất cả nỗi đau khổ của nó. Nếu ta đã chết một cách an bình, thì trạng thái tâm an bình đó được tái diễn ; nhưng nếu đó là một cái chết vật vã, sự vật vã ấy cũng được tái diễn. Và nên nhớ rằng, mọi sự được tái diễn với một ý thức mãnh liệt gấp bảy lần lúc sống. Và trong giai đoạn thoáng qua của Trung Ấm tái sanh, mọi nghiệp ác của các đời trước trở lại, một cách cô đọng cường liệt, làm cho tâm ta rối bời.

Cứ thế, ta một mình lang thang không ngừng qua thế giới Trung Ấm, kinh hoảng như trong một cơn ác mộng. Và cũng hệt như trong mộng, ta tin rằng mình thực có một cái thân vật lý, và mình thực sự hiện hữu. Tuy thế, tất cả những kinh nghiệm của Bardo này chỉ do tâm ta biến ra, do nghiệp và những tập quán cũ của ta tái diễn.

Những ngọn gió của tứ đại trở về, và như Tulku Urgyen Rinpoche nói : “Người ta nghe những âm thanh to lớn của đất, nước, lửa, gió. Có tiếng như núi lở sau lưng ta, tiếng con sông lớn gầm lên, tiếng một khối lửa khổng lồ như hỏa diệm sơn, tiếng của một trận bão lớn”. Khi ta hoảng hốt cố chạy thoát những thứ này, trong bóng tối kinh hoàng, thì trước mặt ta mở ra ba cái hố thẳm trắng, đỏ, đen, “sâu và kinh khủng”. Ðấy là Tử Thư nói, tâm giận dữ, tham dục và ngu si của ta. Ta bị tấn công bởi những ngọn thác đổ, mưa đá bằng máu mủ ; bị ám ảnh bởi những âm thanh la hét của quỷ không đầu ; bị săn đuổi bởi những yêu quái và thú dữ chuyên ăn thịt.

Cứ thế, ta không ngừng bị ngọn gió nghiệp cuốn đi, không thể vin víu vào một căn cứ nào cả. Tử Thư nói : “Vào lúc ấy, trận cuồng phong của nghiệp thức kinh hoàng, khó chịu xoáy lên một cách dữ tợn, từ đằng sau sẽ đẩy ngươi tới trước” . Bị ngốn ngấu bởi nỗi hoảng sợ, bị thổi giạt qua lại như những hạt nhị hoa bay trước gió, ta lang thang vô vọng qua cõi Trung Ấm. Bị cơn đói khát dày vò, ta tìm nơi trú ẩn chỗ này chỗ khác. Nhận thức của tâm ta thay đổi từng chặp, lúc vui lúc buồn. Bỗng tâm ta đâm ra khao khát có một cái xác thân vật lý nhưng lại không thể tìm được, làm cho ta lại rơi vào đau khổ.

Toàn thể khung cảnh ấy đều do nghiệp ta un đúc, cũng như thế giới trung gian có thể chứa đầy những ảnh tượng ác mộng do vọng tưởng chúng ta tạo nên. Nếu bình thường lúc sống, ta có hành động tích cực, thì kinh nghiệm và nhận thức chúng ta trong cõi Trung Ấm sẽ là hạnh phúc và an lạc ; nếu đời ta tác hại và làm người khác đau khổ thì kinh nghiệm trong cõi Trung Ấm của ta sẽ đầy đau đớn buồn lo. Bởi thế, Tử Thư nói rằng : những người đánh cá, đồ tể, thợ săn đều bị tấn công bởi những hình ảnh ghê rợn của những nạn nhân của họ trước kia.

Vài người nghiên cứu kỹ kinh nghiệm cận tử, nhất là khi nghiên cứu những “cuộn phim đời” - một đặc điểm chung của tất cả mọi người chết đi sống lại - đã tự hỏi : “Làm sao tưởng tượng nổi sự kinh khủng của những kinh nghiệm trong cõi Trung Ấm của một nhà độc tài, một kẻ chuyên tra tấn ? “Cuộn phim đời” cho ta thấy rằng, sau khi ta chết, ta có thể kinh quá tất cả những nỗi đau khổ mà ta đã gieo, trực tiếp hay gián tiếp” .

 

Ðộ dài của Trung Ấm tái sanh

Toàn thể Trung Ấm tái sanh kéo dài trung bình 49 ngày, và ít nhất là một tuần. Nhưng cũng còn tùy, giống như hiện tại có người sống tới trăm tuổi, trong khi kẻ khác chết non. Một số lại còn bị kẹt trong thế giới trung gian để thành ma quỷ. Dudjom Rinpoche thường giải thích rằng suốt trong 21 ngày đầu của thời gian Trung Ấm, bạn vẫn còn một số ấn tượng mạnh về đời sống vừa qua, bởi thế đây là giai đoạn quan trọng nhất để người sống giúp đỡ người chết. Sau đó, đời sống tương lai của bạn dần dần thành hình và trở thành ảnh hưởng chính.

Chúng ta phải chờ đợi trong thế giới trung gian (Bardo) cho đến khi nào nghiệp ta bắt liên lạc được với cha mẹ tương lai. Ðôi khi tôi nghĩ về Bardo này như một thứ hành lang chuyển tiếp, trong đó bạn có thể chờ đợi đến 49 ngày trước khi chuyển sang đời sống mới. Nhưng có hai trường hợp đặc biệt không cần phải đợi trong cõi Trung Ấm, bởi vì tính cách cường liệt của nghiệp lực họ đẩy ngay họ vào tái sanh mới. Trường hợp đầu tiên là những người đã sống một đời vô cùng lợi lạc và tích cực, đã tu luyện tâm đến trình độ năng lực chứng ngộ của họ sẽ đưa họ trực tiếp vào một tái sanh tốt đẹp. Trường hợp thứ hai là những người đã sống cuộc đời tiêu cực, tác hại, họ đi rất nhanh xuống đời tái sanh kế tiếp, bất cứ ở đâu.

 

Phán xét

Một vài mô tả về cõi Trung Ấm có nói đến một cảnh xét xử, một loại “quay lại cuộn phim đời” giống như sự phán xét sau khi chết ở trong nhiều nền văn hóa của nhân loại. Lương tâm tốt của bạn, một vị thiên thần hộ mạng màu trắng, đóng vai cố vấn bào chữa, kể lại những việc tốt bạn đã làm ; trong khi lương tâm xấu, một con quỷ đen, trình lên vụ án để xét xử. Tốt và xấu được tính thành những hòn sỏi trắng đen. “Thần chết” hay Diêm vương chủ tọa phiên xử, khi ấy soi vào kính nghiệp để làm cuộc phán xét.

Tôi nhận thấy trong cái màn phán xét này có vài tương đồng với “cuộn phim cuộc đời” ở kinh nghiệm cận tử. Cuối cùng, mọi cuộc phán xét đều xảy ra ngay trong tâm ta. Chúng ta đồng thời là quan tòa và bị cáo. Raymond Moody nói : “Ðiều đáng chú ý là sự phán xét trong những vụ mà tôi khảo sát, không phải đến từ nơi thực thể ánh sáng - có vẻ yêu thương và chấp nhận mọi người - mà lại đến từ cá nhân người bị xét xử”. (Tư duy về đời sau, 1977, p.30)

Một phụ nữ đã trải qua kinh nghiệm cận tử nói với Kenneth Ring : “Bạn được chỉ cho thấy lại cả cuộc đời bạn - và bạn làm việc phê phán... Bạn tự phán xét mình. Bạn đã được tha thứ mọi tội lỗi, nhưng bạn có thể tha cho chính bạn vì đã không làm những việc đáng lẽ bạn nên làm, và một vài vụ lường gạt nhỏ mà có lẽ bạn đã làm trong đời hay không ? Bạn có thể tự tha thứ cho mình chăng ? Ðây là sự phán xét” . (Tìm ý nghĩa kinh nghiệm cận tử, 1985, p.70)

Cảnh phán xét cũng chứng tỏ rằng trong sự phân tích tối hậu, chính cái động lực sau mọi hành động của chúng ta mới là điều quan trọng, và không thể thoát khỏi hậu quả của những hành động, lời nói và ý nghĩ của ta, và những dấu ấn, những thói quen của những hành động này trên ta. Ðiều này có nghĩa chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm không những về cuộc đời hiện tại, mà cả những đời tương lai của ta nữa.

 

Năng lực của tâm

Vì trong cảnh giới Trung Ấm, tâm ta rất nhẹ nhàng linh động và bén nhạy, nên bất cứ tư tưởng nào khởi lên, tốt hay xấu, đều có ảnh hưởng và năng lực ghê gớm. Vì không có một cơ thể vật lý làm nền tảng, nên những ý tưởng trở thành thực tại. Hảy tưởng tượng sự buồn bã giận dữ khốc liệt mà ta có thể cảm thấy khi trông thấy người sống làm đám tang cho ta quá sơ sài, hay bà con tham lam đang tranh giành những vật sở hữu của ta, hay bạn bè mà ta rất yêu mến, và ta tưởng cũng yêu mến ta, bây giờ đang nói về ta một cách khinh miệt, thương tổn, hổn láo. Một tình huống như vậy có thể rất nguy hiểm, vì phản ứng bạo hành của ta có thể đưa ta thẳng đến một tái sanh bất hạnh.

Như vậy, năng lực mãnh liệt của tâm ta là vấn đề then chốt trong Trung Ấm tái sanh. Cái giai đoạn cao điểm này hoàn toàn phơi bày chúng ta ra giữa những thói quen và khuynh hướng cố hữu mà ta đã để cho tăng trưởng và thống trị đời ta. Nếu bạn không kiểm soát những khuynh hướng ấy ngay bây giờ trong khi sống, ngăn chúng xâm chiếm tâm bạn, thì trong Trung Ấm tái sanh bạn sẽ thành nạn nhân tội nghiệp của chúng, bị mãnh lực của chúng đưa đẩy. Một sự giận dữ nhỏ nhặt trong trạng thái Trung Ấm cũng có thể có một ảnh hưởng tai hại, bởi thế mà theo truyền thống, người đọc Tử Thư cho bạn lúc sắp chết phải là một người mà bạn có quan hệ tốt đẹp ; nếu không, nội một việc nghe âm thanh tiếng nói của y cũng đủ làm cho bạn nổi tam bành, và điều này sẽ có những hậu quả vô cùng khốc hại.

Giáo lý cho ta thấy nhiều mô tả về tính chất sống sít của cái tâm ở trong trạng thái Trung Ấm ; mô tả mạnh nhất nói rằng tâm ta lúc ấy giống như một thỏi sắt nung đỏ sẵn sàng uốn bất cứ kiểu nào bạn muốn, cho đến khi nó nguội. Bất cứ hình dáng gì nó được uốn nắn, nó sẽ mau chóng thành hình y như vậy. Cũng thế, một tư tưởng tích cực duy nhất trong trạng thái Trung Ấm có thể trực tiếp dẫn đến giác ngộ, một phản ứng tiêu cực duy nhất có thể làm bạn chìm vào đau khổ lâu dài. Tử thư cảnh cáo chúng ta một cách mạnh mẽ như sau :

Ðến đây là ngã rẽ đôi đường lên cao và xuống thấp : đây là lúc mà chỉ cần lướt vào sự lười biếng một chút ngươi cũng đủ chịu khổ miên viễn ; đây là lúc mà chỉ cần tập trung một chút ngươi cũng sẽ hưởng được hạnh phúc lâu bền. Hãy chú tâm không tán loạn, hãy nỗ lực kéo dài hậu quả thiện nghiệp !

Tử Thư cố đánh thức dậy bất cứ một liên hệ nào với sự tu tập mà người chết có thể có, và khuyến khích chúng ta từ bỏ bám víu người, của, từ bỏ sự khát khao có một thân xác, đừng buông trôi theo giận dữ hay tham dục, đào luyện sự tử tế hơn là thù hằn, đừng nghĩ đến việc ác. Tử Thư nhắc nhở người chết không cần phải sợ hãi : Một mặt cho người chết biết những hình dạng ghê rợn trong cõi Trung Ấm chỉ là do tâm họ chiếu ra, thực chất vốn trống rỗng ; mặt khác, nhắc người chết rằng bây giờ họ chỉ có cái thân ý sanh do tập quán cũ, bởi thế cũng là trống rỗng. “Bởi thế cái trống rỗng không thể làm hại cái trống rỗng” .

Bản chất bấp bênh chóng qua của giai đoạn Trung Ấm có thể là nguồn suối cho nhiều cơ hội giải thoát, và tính bén nhạy của tâm trong Trung Ấm này có thể hóa ra lợi lạc cho chúng ta. Chúng ta chỉ cần nhớ đến những lời giảng dạy, ta chỉ cần có một tư tưởng tích cực khởi lên trong tâm ta. Nếu ta nhớ được một giáo lý nào gợi cho ta tự tánh tâm, nếu ta có dù chỉ một khuynh hướng tu tập, hay một liên hệ sâu xa với sự tu hành, ta cũng đủ nhờ vậy mà giải thoát.

Trong Trung Ấm tái sanh, các cõi Phật không hiện ra một cách tự nhiên như trong Trung Ấm pháp tánh. Tuy nhiên, chỉ cần nhớ đến các vị Phật, bạn cũng có thể đi thẳng đến các cõi ấy bằng năng lực tâm bạn, và tiến đến giải thoát. Nếu bạn có thể niệm danh hiệu một vị Phật, vị ấy liền hiện ra trước bạn. Nhưng nên nhớ, mặc dù các khả năng là vô giới hạn, chúng ta vẫn phải có sự tự chủ tâm ý trong Trung Ấm này, và điều này vô cùng khó khăn, vì tâm ta ở giai đoạn này hết sức bén nhạy, phân tán và bất an.

Bởi thế trong Trung Ấm này, bất cứ khi nào bạn có thể có lại sự tỉnh giác dù chỉ trong thoáng chốc, thì bạn hãy lập tức nhớ lại sự tu tập, nhớ thầy hay vị Phật của bạn thờ, và tha thiết triệu thỉnh. Nhờ năng lực ân sủng của bậc thầy hay Phật, tâm bạn sẽ được giải thoát vào trong khoảng không gian của tâm giác ngộ. Sự cầu nguyện trong đời này dường như ít hiệu quả, nhưng trong cõi Trung Ấm lại có hiệu quả mãnh liệt vô cùng.

Tuy nhiên, sự mô tả trên đây về Trung Ấm chứng tỏ thực rất khó mà tập trung tâm vào giai đoạn này, nếu ta không thực tập từ trước. Hãy tưởng tượng ta dường như tuyệt nhiên không nhớ bài chú nào lúc gặp ác mộng, ta cảm thấy bất lực như thế nào, thì trong cảnh giới Trung Ấm cũng khó như thế, nếu không nói là khó hơn, để tập trung tâm ý. Ðấy là lý do Tử Thư luôn luôn nhắc đi nhắc lại một lời “Ðừng xao lãng”, và Tử Thư nhấn mạnh :

Ðến đây là ngã rẽ giữa Phật và hữu tình...

Trong một giây, phân cách. Trong một giây, toàn giác.

 

Tái sanh

Vì trong Trung Ấm tái sanh, thời gian tái sanh càng gần, nên ta càng thêm khát khao một thân xác làm chỗ nương, và ta đi tìm một người nào có thể sử dụng để được tái sanh vào đó. Những dấu hiệu bắt đầu hiện ra báo cho ta biết cái cảnh giới ta có thể tái sanh vào. Những ánh sáng đủ màu chiếu từ sáu nẻo luân hồi, và ta cảm thấy bị thu hút vào một cõi này hay khác, tùy theo cảm xúc tiêu cực nào mạnh nhất trong tâm ta. Một khi ta đã bị lôi cuốn đến đấy, thì thật vô cùng khó mà trở lui.

Rồi những hình ảnh sẽ khởi lên, liên hệ đến những cõi khác nhau. Càng quen thuộc với giáo lý, ta càng dễ nhận ra ý nghĩa thực của chúng. Những dấu hiệu thay đổi phần nào theo những giáo lý khác nhau. Một số bảo rằng nếu sanh vào cõi trời, ta sẽ thấy mình đi vào một thiên cung có nhiều tầng lầu. Nếu tái sanh vào loài a tu la, ta sẽ thấy mình ở giữa những khí giới bằng lửa, hay sắp ra  chiến trường. Nếu sanh vào súc vật, ta sẽ thấy mình ở trong một hang lỗ dưới đất, hay một cái ổ rơm. Nếu thấy một gốc cây, một rừng sâu, hay một tấm vải dệt, thì đó là dấu hiệu sắp tái sanh làm quỷ đói.Và nếu sắp sanh vào địa ngục thì ta sẽ thấy mình đang bị dẫn vào một hố đen, xuống một con đường tối, vào một cõi đất mờ mịt có nhà màu đỏ hoặc đen, hay về phía một thành phố bằng sắt.

Có nhiều dấu hiệu khác, như là cách ta nhìn hay cử động, chứng tỏ cảnh giới ta đang hướng đến. Nếu sắp sửa sanh vào cõi trời hay người, thì cái nhìn của ta sẽ hướng lên trên ; nếu sanh vào cõi súc sinh, ta sẽ nhìn thẳng tới trước, như chim ; nếu sanh vào địa ngục hay ngạ quỷ thì ta sẽ nhìn xuống, như thể là sắp nhào xuống. Nếu có dấu hiệu nào như thế, thì ta nên coi chừng đừng rơi vào một cõi tái sanh bất hạnh.

Ðồng thời, ta sẽ có một khát khao mãnh liệt đối với một cảnh giới nào đó, và bị cuốn hút vào đó theo bản năng. Giáo lý về Trung Ấm dạy rằng, vào điểm ấy, có nguy cơ lớn là, do lòng nôn nóng thèm khát tái sanh, ta có thể xông tới bất cứ một nơi nào, dù nó không có vẻ gì an ninh bảo đảm. Nếu ước muốn của ta bị bất mãn, sự giận dữ khởi lên sẽ đưa giai đoạn Trung Ấm đến một kết thúc, vì ta sẽ bị đẩy vào cõi dữ bằng chính năng lực cảm xúc của mình. Và như thế, ta có thể thấy tái sanh tương lai của ta được trực tiếp định đoạt bởi tham, sân và si. Hãy tưởng tượng ta đang chạy về phía một chỗ nấp, chỉ để tránh thoát kinh nghiệm đau khổ của Trung Ấm. Rồi, vì sợ phải từ bỏ tất cả, mà ta đâm ra ràng buộc với một tái sanh mới, bất kể ở đâu, miễn là được tái sanh. Khi ấy ta có thể đâm ra thác loạn, như Tử Thư nói, và lầm lẫn tái sanh tốt với xấu, xấu với tốt. Ta có thể nghe tiếng gọi của những người thân yêu, hoặc giọng ca hấp dẫn, rồi chạy theo chúng, để cuối cùng bị dẫn dụ xuống những cõi thấp kém.

Bảy vậy, phải cẩn thận đừng mù quáng đi vào những cõi vô phúc ấy. Ðiều kỳ diệu là, ngay lúc ta ý thức được cái gì xảy đến cho ta, thì ta có thể bắt đầu tác động, và điều ấy ảnh hưởng đến số phận của ta.

Bị đẩy tới bởi ngọn gió nghiệp, thân ý sanh đi đến một nơi ở đấy cha mẹ đang giao hợp. Khi thấy họ, nó bị kéo vào trong cảm xúc ấy ; và do nghiệp quá khứ, nó tự nhiên cảm thấy rất thương hoặc rất ghét. Sự quyến luyến người mẹ và thù ghét, ganh tị với người cha sẽ đưa đến hậu quả là nó sinh thành con trai ; ngược lại là gái. Nhưng nếu nó ngã quỵ trước những cảm xúc rất mạnh thì nó có thể sanh vào  một cảnh giới hèn hạ.

 

*

 

Có cách nào ta có thể làm bây giờ, để tránh bị tái sanh hoặc hướng dẫn sự tái sanh kế tiếp của ta không ? Giáo lý về Trung Ấm đưa ra hai chỉ dẫn đặc biệt : phương pháp ngăn ngừa tái sanh, và nếu không ngăn được, thì chọn một tái sanh tốt. Ðầu tiên là những chỉ dẫn để đóng cửa ngõ đi vào một đời sống khác :

Phương pháp tốt nhất là từ bỏ những cảm xúc như tham dục, giận dữ, hay ganh tỵ, và nhận chân rằng không một trạng thái Trung Ấm nào có thực chất tối hậu. Nếu bạn có thể nhận chân điều ấy, rồi để tâm an trú trong bản chất chân không của nó, thì chính điều này sẽ ngăn ngừa tái sanh. Tử Thư Tây Tạng báo cho chúng ta biết :

Than ôi ! Cha và mẹ, cơn bão lớn, luồng gió xoáy, sấm sét, những cảnh tượng kinh hoàng và tất cả những gì hiện ra đấy, bản chất đều huyễn ảo. Dù có hiện tướng gì đi nữa, thì cũng không thực. Mọi chất liệu đều giả dối, trống rỗng. Chúng như ảo ảnh, không trường tồn bất biến. Tham ái mà làm chi ? Sợ hãi mà làm chi ? Như vậy là xem cái không thành cái có...

Tử Thư lại khuyến cáo tiếp :

“Tất cả đều do tâm tôi biến ra, và tâm ấy vốn là chân không, vô sanh, không bị chướng ngại”. Khi nghĩ vậy, hãy để tâm ngươi tự nhiên trong bản chất của nó, như nước đổ vào nước, cứ như nó là, thong thả, phóng khoáng và thư giãn. Khi để nó an trú tự nhiên và thong thả, ngươi có thể bảo đảm ngõ vào mọi lối tái sanh chắc chắn bị đóng lại.

Phương pháp hay nhất kế tiếp để ngăn ngừa tái sanh là nhìn những người có thể làm cha mẹ bạn như là Phật, hay thầy, hay thần hộ mạng yidam của bạn. Và ít nhất, bạn hãy cố phát sinh một cảm giác từ bỏ, không bị lôi kéo vào những cảm xúc tham dục, và nghĩ đến những cõi Phật thanh tịnh. Ðiều này sẽ ngăn ngừa tái sanh và khiến bạn được sanh vào một trong những cõi Phật.

Nếu bạn không thể an trú tâm đủ vững vàng để làm như vậy, thì còn có những phương pháp chọn lựa một tái sanh, liên hệ đến những điểm mốc và những tướng các cảnh giới khác nhau. Nếu bạn nhất định phải tái sanh, hay cố ý muốn tái sanh để theo đuổi con đường tu tập và làm lợi ích người khác, thì bạn không nên đi vào cõi nào khác cõi người ta. Chỉ có ở đấy các điều kiện mới thuận lợi cho sự tiến tu đạo nghiệp. Giáo lý về Trung Ấm cho biết, nếu bạn sắp sửa sanh vào một hoàn cảnh tốt trong cõi người, thì bạn sẽ cảm thấy mình đang đi vào một ngôi nhà sang trọng đẹp đẽ, hay vào một đô thị, hay ở giữa một đám đông, hay thấy những người đang giao hợp.

Ngoài những cách ấy ra, thông thường chúng ta không có chọn lựa nào. Chúng ta bị lôi kéo về chỗ thọ sanh của ta “như con chim bị sa lưới, như cỏ khô bắt lửa, hay súc vật sa đầm lầy” . Tử Thư nói : “Này hỡi thiện nam/nữ, dù ngươi không muốn đi, ngươi cũng không có năng lực tự chủ, ngươi bị bắt buộc phải đi”.

Tuy nhiên, như giáo lý luôn luôn nhắc ta, vẫn còn có hy vọng, bây giờ là lúc nên cầu nguyện. Nhờ tha thiết mong mỏi và tập trung mãnh liệt, ngay trong lúc này, bạn vẫn còn có thể tái sanh vào một cõi Phật, hoặc bạn có thể phát nguyện sâu xa tái sanh vào một gia đình loài người, ở đấy bạn có thể gặp đường lối tu tập và tiếp tục tiến đến giải thoát. Nếu bạn có một nghiệp nặng buộc bạn rơi vào một cảnh giới đặc biệt nào, thì có thể bạn hết phương chọn lựa, tuy nhiên, lời nguyện quá khứ và sự mong cầu của bạn có thể giúp bạn chuyển số phận để có thể tái sanh vào một đời sống mà một ngày nào đó sẽ đưa bạn đến giải thoát.

Ngay cả khi bạn đã nhập thai, cũng có thể cầu nguyện cho điều này xảy ra. Ngay cả khi ấy, bạn có thể quán tưởng mình như một chúng sanh giác ngộ, như thần Kam cang tát đỏa (Vajrasattva) - như các bậc thầy truyền thống nói - và làm cho cái thai cung mà bạn đang vào biến thành một môi trường thiêng liêng, “một cung trời”, ở đấy bạn tiếp tục tu luyện.

Bây giờ, khi Trung Ấm tái sanh hiện ra

Tôi sẽ tập trung nhất tâm thiền quán

Và cố kéo dài những hậu quả của nghiệp tốt

Ðóng cửa ngõ tái sanh, cố đừng sanh trở lại

Ðây là lúc cần tinh tấn và nhận thức thuần tịnh

Hãy từ bỏ cảm xúc tiêu cực, và quán tưởng bậc đạo sư.

Cuối cùng, chính sự thúc giục của tự tâm muốn trú trong một cõi nào đó, đã buộc ta tiến về tái sanh, và chính khuynh hướng chấp thủ của tự tâm đã tìm sự thể hiện thành thân xác tái sanh. Ðây là giai đoạn kế trong tiến trình xuất hiện mà ta đã thấy xảy ra trong các cảnh Trung Ấm.

Nếu bạn thành công trong sự hướng dẫn tâm về phía một sự sanh làm người, thì tức là bạn đã đi trọn chu kỳ. Bạn sẽ được sanh vào trong Trung Ấm tự nhiên của đời này. Khi trông thấy cha mẹ bạn đang giao hợp, tâm bạn bị thu hút, và bạn vào thai. Ðiều này báo hiệu sự kết thúc của Trung Ấm tái sanh, khi tâm bạn một lần nữa kinh quá rất nhanh chóng những tướng của các giai đoạn tan rã, và sự xuất hiện của Ánh sáng Căn bản. Rồi kinh nghiệm tối đen của sự “thành tựu” lại khởi lên, và đồng thời sự liên lạc với bào thai mới bắt đầu.

Như vậy đời sống khởi đầu cũng như kết thúc bằng Ánh sáng căn bản.

 

19- Giúp đỡ sau khi chết

Trong thế giới tân tiến, rất thường khi một người nào chết, thì một trong những nỗi lo sầu nhất cho người ở lại là nghĩ rằng họ không thể làm gì để giúp đỡ những người thân yêu đã mất. Ðó là một niềm tin chỉ làm cho sự sầu khổ của họ càng thêm trầm trọng. Nhưng sự thực không phải thế. Có nhiều, rất nhiều cách chúng ta có thể giúp người đã chết, và tự giúp cả chúng ta để sống vắng bóng họ. Một trong những đặc điểm của đạo Phật, một trong những đường lối chứng tỏ phương tiện thiện xảo và tâm từ bi của chư Phật là có rất nhiều pháp tu đặc biệt để giúp người chết, và còn an ủy được tang quyến đau buồn. Tử Thư có lối nhìn bao quát cả sống và chết, cho ta thấy rằng có nhiều cách giúp đỡ người khác trong mọi tình huống có thể nghĩ tới, bởi vì không có một ranh giới nào giữa cái gọi là “sinh” và cái gọi là “tử”. Năng lực sáng chói và sự ấm áp của tâm từ bi có thể vươn tới để giúp đỡ tất cả mọi tình huống, mọi cảnh giới.

 

Khi nào ta có thể giúp

Trung Ấm tái sinh, như đã nói, dường như là một thời gian hết sức rầy rà đáng ngại. Nhưng trong đó có niềm hy vọng lớn lao. Những tính chất của thân ý sanh suốt trong giai đoạn Trung Ấm làm cho nó dễ bị thương tổn - sự sáng suốt của nó, di động, nhạy cảm, và thần thông - song cũng làm cho nó đặc biệt dễ cảm thụ đối với sự giúp đỡ của người sống. Sự kiện nó không có hình dạng vật lý làm cho nó rất dễ hướng dẫn. Tử Thư Tây Tạng ví thân ý sanh này như một con ngựa, dễ dàng được điều khiển với sợi dây cương hoặc với một thân cây khổng lồ, khi ở trên đất thì có thể là khó di chuyển, nhưng khi đã nổi bềnh bồng trên mặt nước thì bạn có thể đưa nó đi bất cứ đâu tùy ý, không cần nỗ lực.

Thời gian tốt nhất để tu tập cho người chết là 49 ngày Trung Ấm tái sanh, mà 3 tuần đầu là quan trọng nhất. Chính trong 3 tuần ấy, người chết có một liên hệ mạnh mẽ với cuộc đời này, làm cho họ dễ dàng nhận sự giúp đỡ của ta. Bởi thế, chính trong thời gian này sự tu tập của ta có thể ảnh hưởng đến tương lai của người chết nhiều hơn cả, hoặc giúp họ giải thoát, hoặc giúp họ có tái sanh tốt đẹp. Vậy ta nên dùng mọi phương tiện ta có thể để giúp họ, vì sau khi hình dạng vật lý của họ bắt đầu quyết định, - thường là khoảng từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 49 - thì cơ hội chuyển nghiệp cho họ càng bị hạn chế.

Tuy nhiên sự giúp đỡ người chết không chỉ giới hạn trong 49 ngày sau khi chết. Không bao giờ quá muộn để giúp đỡ người nào đã chết, dù họ chết lâu bao nhiêu về trước. Người mà bạn muốn giúp có thể đã chết 100 năm về trước, nhưng nếu ta tu tập cho họ, vẫn còn được lợi lạc. Dudjom Rinpoche thường nói ngay cả khi người ấy đã đạt giác ngộ, họ vẫn còn cần tất cả sự giúp đỡ mà họ có thể dùng để giúp lại kẻ khác.

 

Ta có thể giúp đỡ như thế nào

Cách tốt nhất và dễ nhất để giúp đỡ một người chết là làm pháp Chuyển di tâm thức tinh yếu mà tôi đã trình bày trong chương 13, khi chúng ta nghe một người nào đã chết.

Ở Tây Tạng, chúng ta nói cũng như bản chất của lửa là đốt cháy, của nước là giải khát, bản chất của chư Phật là hiện thân ngay khi người nào triệu thỉnh, vì từ bi của các ngài là vô hạn, muốn giúp đỡ tất cả hữu tình. Ðừng bao giờ tưởng tượng rằng bạn cầu nguyện không hiệu quả bằng một “người thánh thiện” cầu nguyện cho họ. Bởi vì bạn gần với người chết hơn, nên mãnh lực của tình yêu và chiều sâu của mối liên hệ sẽ làm cho sự cầu nguyện của bạn có năng lực hơn.

Các bậc thầy đã bảo đảm với chúng ta : hãy kêu cầu với chư Phật, các ngài sẽ đáp ứng bạn.

Khandro Tsering Chodron, người vợ tâm linh của Jamyang Khientse, thường nói rằng, nếu bạn thực sự có tâm tốt và có ý định chân thành, thì khi bạn cầu cho người nào, sự cầu nguyện sẽ rất hiệu nghiệm. Bởi thế, hãy tin tưởng rằng nếu người nào bạn rất thương yêu đã chết, và nếu bạn cầu nguyện cho họ với tình yêu và lòng chân thành, thì sự cầu nguyện của bạn sẽ có hiệu lực đặc biệt.

Cách tốt nhất, hiệu quả nhất để làm pháp Chuyển di là trước khi thi thể bị chạm tới hay bị di chuyển bất cứ cách nào. Nếu điều này không thể thực hiện, hãy làm pháp Chuyển di tại chỗ mà người ấy đã chết, hay ít nhất tưởng tượng rõ rệt hình ảnh nơi ấy trong tâm bạn. Có một liên hệ mãnh liệt giữa người chết với nơi chốn và thời gian chết, nhất là trong trường hợp người chết bạo tử.

Trong cõi Trung Ấm tái sanh, như tôi đã nói, tâm thức người chết sống trở lại cái kinh nghiệm chết mỗi tuần một lần, vào đúng ngày hôm ấy. Bởi thế bạn nên làm pháp Chuyển di, hay bất cứ pháp môn tu nào bạn đã chọn, vào bất cứ ngày nào trong 49 ngày, nhưng đặc biệt là vào những ngày tuần của người chết.

Mỗi khi người bà con hay bạn bè đã chết hiện lên trong tâm trí bạn, mỗi khi bạn nghe tên người ấy được nhắc tới, thì hãy gởi đến họ niềm yêu thương của bạn, và tập trung làm phép Chuyển di. Làm pháp ấy bao lâu tùy ý, và càng nhiều lần càng tốt.

Một điều khác bạn có thể làm, mỗi khi bạn nghĩ tới người nào đã chết, là đọc ngay một câu chú như OM MANI PADME HUM, thần chú của đức Phật của lòng từ mẫn, tịnh hóa được tất cả ác nghiệp đưa đến tái sanh ; hoặc câu OM AMI DEWA HRIH, thần chú của đức A Di Ðà, vị Phật của ánh sáng vô lượng. Rồi bạn có thể tiếp theo bằng pháp Chuyển di.

Nhưng dù bạn có làm bất cứ pháp môn nào trên đây để giúp người chết hay không làm, đừng bao giờ quên rằng tâm trong cõi Trung Ấm rất bén nhạy, bạn chỉ cần hướng những thiện cảm đến họ cũng đủ lợi lạc cho họ rồi.

Khi bạn cầu nguyện cho người nào thân thiết, bạn có thể, nếu muốn, bao gồm cả những người đã chết khác trong lời cầu nguyện : những nạn nhân của chiến tranh, tàn bạo, tai ách, đói kém, hoặc những người đã và đang chết trong các trại tập trung, như tại Trung Quốc và Tây Tạng. Bạn có thể cầu nguyện cho những người đã chết nhiều năm về trước, như ông bà cố của bạn và những người trong gia đình đã chết từ lâu, hay những nạn nhân trong hai cuộc thế chiến. Hãy tưởng tượng lời cầu nguyện của bạn đặc biệt trải đến những người đã chết trong cơn giận dữ, lo lắng hãi hùng.

*

 

 Những người đã có cái chết kinh khủng hay đột ngột rất cần được giúp đỡ. Những nạn nhân của ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào sợ hãi đau đớn, hoặc ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó không thể tiến đến giai đoạn tái sanh. Khi bạn làm pháp Chuyển di cho họ, hãy làm với mức độ mãnh liệt tha thiết hơn bao giờ cả.

Hãy tưởng tượng những tia sáng chói lọi tuôn phát từ chư Phật và Bồ-tát, trút xuống tất cả ân sủng từ bi của các ngài. Tưởng tượng ánh sáng ấy tuôn xối trên người chết, tịnh hóa họ hoàn toàn, giải thoát họ khỏi nỗi đau đớn rối loạn của cái chết, đem lại cho họ an bình sâu xa lâu dài. Rồi tưởng tượng, với tất cả tâm hồn bạn, người chết đang tan thành ánh sáng và tâm thức họ bây giờ đã được chữa lành, thoát mọi khổ đau và bay lên hòa nhập với tâm giác ngộ của chư Phật.

Một vài người Tây phương vừa qua viếng thăm Tây Tạng đã kể cho tôi nghe một câu chuyện mà họ chứng kiến. Một ngày nọ, một người Tây Tạng đang đi bộ bên lề đường, bị một chiếc xe cam-nhông của Trung Quốc đụng chết ngay tức khắc. Khi ấy, một tu sĩ tình cờ đi qua, vội vàng đến ngồi cạnh người chết nằm trên đất. Họ trông thấy tu sĩ ghé vào tai người chết đọc một câu gì đó ; thình lình họ kinh ngạc thấy người chết sống lại. Khi ấy tu sĩ làm pháp Chuyển di tâm thức cho người ấy, và hướng dẫn ông ta an tịnh đi vào cõi chết. Cái gì đã xảy ra ? Rõ ràng vị tu sĩ đã nhận thấy nỗi kinh hoàng của người kia, làm cho y rất giao động khi chết, nên vị tu sĩ đã hành động chớp nhoáng : trước hết giải thoát tâm người chết khỏi nỗi đau buồn, rồi sau đó, nhờ pháp Chuyển di, đưa thần thức họ về một cõi Phật, hoặc một tái sanh tốt. Ðối với những người Tây phương chứng kiến việc ấy, thì tu sĩ có vẻ chỉ là một người bình thường, nhưng câu chuyện này chứng tỏ ông là một hành giả có năng lực rất đáng nể.

Thiền định và cầu nguyện không phải là cách duy nhất ta có thể làm để giúp người chết. Chúng ta có thể bố thí cho người bệnh, người nghèo khổ, để hồi hướng cho họ. Chúng ta có thể đem tài sản họ để lại để cho người nghèo. Ta có thể nhân danh họ mà đóng góp vào các việc nghĩa như sung vào bệnh viện, cứu trợ, tiếp dẫn đường hay tu viện.

Ta cũng có thể bảo trợ cho các khóa tu nhập thất của những hành giả tốt, hay lễ cầu nguyện do những bậc thầy vĩ đại hướng dẫn ở những nơi thiêng liêng như Bồ đề tràng. Ta có thể cúng đốt đèn cho người chết, hay bảo trợ những công trình mỹ thuật liên hệ đến việc tu tập. Một phương pháp giúp đỡ người chết nữa là phóng sanh những con vật sắp bị giết. Pháp này thịnh hành ở Tây Tạng và dãy Hy Mã Lạp Sơn.

Ðiều quan trọng là hồi hướng công đức những thiện sự ấy cho người chết, cho tất cả người chết, để mọi người đã chết có được một tái sanh tốt và hoàn cảnh thuận lợi trong đời kế tiếp của họ.

 

Sự thấu thị của người chết

Hãy nhớ rằng tâm thức người trong cõi Trung Ấm sáng suốt bén nhạy gấp bảy lần khi sống. Ðiều này có thể làm cho họ đau khổ lớn hoặc lợi lạc lớn.

Bởi thế, điều cốt yếu là, khi một người thân chết, bạn phải càng cẩn thận càng tốt, trong tất cả hành vi cử chỉ bạn, để khỏi quấy rầy họ, làm họ tổn thương. Vì khi người chết trở về nhà với những người thân còn lại, hay với những người tụng niệm làm phép cho họ, thì trong tình trạng mới của tâm thức họ, họ có thể không những trông thấy những gì đang xảy ra, mà còn đọc được trong tâm những người khác. Nếu bà con chỉ âm mưu tranh đoạt chia gia tài họ để lại, hay chỉ nói và nghĩ về ân oán, không co tình thương chân thực đối với người chết, thì họ có thể vô cùng tức giận, đau khổ, vỡ mộng, và do đó sẽ bị lôi kéo vào những cảm xúc dữ dội mà phải đi vào một tái sanh bất hạnh.

Chẳng hạn, hãy tưởng tượng nếu người chết thấy người ta tụng kinh cho mình không thành khẩn, tâm người tụng bận rộn với những việc giải trí tầm thường thì họ có thể mất tất cả chút niềm tin nào họ có thể có. Hãy tưởng tượng nếu một người chết phải nhìn những người thân buồn sầu thảm thiết, cũng có thể làm cho họ vô cùng áo não. Và nếu ví dụ người chết khám phá ra rằng bà con chỉ giả vờ yêu thương họ vì tiền, thì họ cũng có thể đau khổ vỡ mộng đến nỗi sẽ thành ma trở về ám ảnh người hưởng gia tài mình để lại. Bây giờ bạn đã thấy những gì bạn làm, nghĩ, hay cư xử sau khi một người thân chết, có thể có tầm quan trọng ghê gớm và ảnh hưởng lớn lao đến tương lai họ nhiều hơn bạn tưởng.

Bạn cũng sẽ thấy tại sao điều thật thiết yếu cho tâm linh người chết được an ổn, là những người còn lại phải hòa hợp. Bởi thế, ở Tây Tạng khi bà con bạn bè người chết tụ hội lại, họ thường được khuyến khích hãy cùng tụng đọc với nhau càng nhiều càng tốt một câu thần chú như OM MNI PADME HUM. Ðiều này ai ở Tây Tạng cũng có thể làm, vì biết nó chắc chắn sẽ giúp đỡ người chết. Bởi thế, câu thần chú này gây cho họ nguồn cảm hứng để cùng nhau tụng đọc trong niềm sùng tín. Tính thiêng liêng của người chết trong cõi Trung Ấm cũng khiến nếu được một bậc thầy hay hành giả tâm linh giàu kinh nghiệm làm lễ, người chết sẽ được lợi lạc vô cùng. Ðiều vị ấy là là an trú trong tự tánh tâm nguyên ủy, rồi hô triệu thân ý sanh của người chết đang lang thang trong cõi Trung Ấm. Khi thân ý sanh đã đến trước bậc thầy, do năng lực thiền định của ông, ông có thể khai thị bản tánh thanh tịnh cho người chết. Nhờ năng lực thần thông, người chết thấy được tâm giác ngộ của vị thầy, và ngay tại chỗ được giải thoát.

Những cũng chính vì lý do đó, mà bất cứ gì một hành giả thông thường có thể làm cho người chết, cũng có thể giúp họ rất nhiều. Bạn có thể tu tập pháp quán một trăm vị thần an lạc và phẫn nộ liên hệ Tử Thư Tây Tạng, hay bạn có thể chỉ an trú trong một tâm trạng bi mẫn ; nhất là nếu khi ấy bạn có triệu thỉnh hương linh người chết, thì họ được lợi lạc vô cùng.

Mỗi khi hành giả Phật tử chết, chúng tôi báo cho tất cả thầy và bạn đạo của họ biết để có thể khởi sự hành pháp cầu siêu cho họ ngay. Thường tôi thâu thập tên những người đã chết, rồi gửi đến cho những bậc thầy lớn mà tôi biết ở Ấn và Hy Mã Lạp Sơn. Cách vài tuần, các vị này làm pháp thanh luyện cho họ một lần, và mỗi năm có một thiền hội mười ngày để cầu siêu tập thể tại các tu viện.

 

Cách Tây Tạng cầu siêu người chết

1- Tử Thư Tây Tạng

Tại Tây Tạng, khi pháp Chuyển di đã làm cho người chết xong, quyển Tử Thư được đọc đi đọc lại nhiều lần, và những pháp tu liên hệ được thực hành. Ở miền Ðông Tây Tạng, chúng tôi thường có truyền thống đọc Tử Thư suốt 49 ngày sau khi chết. Qua đó, người chết được chỉ cho biết họ đang ở giai đoạn nào trong tiến trình, và được cho những chỉ dẫn hay cảm hứng mà họ cần.

Những người Tây phương thường hỏi tôi : “Làm sao một người đã chết có thể nghe đọc Tử Thư ?”

Câu trả lời giản dị là : Tâm thức người chết khi được hô triệu bởi năng lực của lời kinh, thì có thể đọc được tâm ta và có thể cảm nhận đúng những gì mà ta có thể nghĩ hay thiền định về họ. Bởi thế, không có chướng ngại nào cho người chết để hiểu được Tử Thư Tây Tạng đang đọc cho họ, dù là đọc bằng Tạng ngữ.

Ðối với người chết thì ngôn ngữ không là một trở ngại, vì tâm họ có thể đọc được ý nghĩa cốt yếu của kinh văn.

Ðiều này khiến cho sự tập trung tâm ý của người hành lễ càng thêm quan trọng, chứ không phải chỉ làm chiếu lệ mà được. Và bởi vì người chết đang thực sự sống những kinh nghiệm đề cập trong sách, nên họ có thể có nhiều khả năng hơn ta để hiểu chân lý của Tử Thư.

Ðôi khi tôi tự hỏi : “Nhưng nếu lỡ tâm thức đã ngất xỉu và rơi vào tình trạng quên lãng vào lúc chết thì sao ?” . Vì ta không biết bao lâu người chết sẽ ở trong trạng thái hôn mê, và lúc nào thì họ bắt đầu đi vào Trung Ấm tái sanh, nên Tử Thư được đọc và tu luyện liên tục để phòng hờ.

Nhưng còn những người không quen thuộc với giáo lý hay Tử Thư thì sao ? Chúng ta có nên đọc cho họ nghe không ? Ðức Dalai Lama đã cho một lời chỉ dẫn rõ ràng :

Dù bạn có tin tôn giáo nào hay không, điều rất quan trọng vẫn là có được tâm an bình lúc chết... Theo quan điểm Phật giáo, dù người chết có tin luân hồi hay không, thì sự tái sanh của họ vẫn hiện hữu, bởi thế một tâm an bình là quan trọng vào lúc chết. Nếu người chết là một kẻ vô thần, thì việc đọc Tử Thư có thể làm tâm họ giao động, có thể gợi sự thù ghét, và bởi thế có thể hại họ hơn là giúp họ. Nhưng nếu người nào mở lòng ra mà nghe, thì những câu thần chú hay danh hiệu Phật trong đó có thể giúp họ “kết nhân duyên” và nhờ thế có thể có ích lợi cho họ. Bởi thế, điều quan trọng trên hết là xét thái độ của người chết.

2- Né Dren và Chang Chok

Cùng với việc đọc Tử Thư còn có lễ Né Dren để hướng dẫn hương linh, hay lễ Chang Chok để tịnh hóa hương linh, trong đó bậc thầy sẽ hướng dẫn người chết đến một tái sanh tốt.

Tốt nhất, hai lễ ấy nên làm ngay sau khi chết, hay ít nhất trong vòng 49 ngày. Nếu thi thể không có đấy, thì nên hô triệu thần thức người chết về trong một hình nhân hay tấm thẻ “bài vị” có hình và tên họ người ấy, gọi là một “tsenjang”. Lễ này có năng lực nhờ ở sự kiện rằng thời gian ngay sau khi chết, người chết thường có một ấn tượng mạnh về thân xác mình trong đời vừa qua.

Nhờ năng lực thiền quán của bậc thầy, thần thức người chết đang lang thang trong cõi Trung Ấm, được gọi về trong tấm thẻ bài hay tấm ảnh tượng trưng cho họ.

Thần thức khi ấy được tịnh hóa, lọc sạch những hạt giống nghiệp trong sáu cõi, rồi được nghe một bài thuyết pháp giống như lúc còn sống ở đời ; và người chết khi ấy được khai thị bản tâm. Cuối cùng, lễ Chuyển di tâm thức được thực hiện và thần thức người chết được hướng dẫn đến một trong các cõi Phật. Sau đó tsenjang (hình nhân hay thẻ bài) được đốt, và thế là đã tịnh hóa nghiệp chướng của người chết.

3- Tịnh hóa lục đạo

Thầy tôi, Dilgo Khientse Rinpoche thường bảo, lễ “Tịnh hóa lục đạo” là lễ thanh luyện tốt nhất cho một hành giả đã chết.

Sự tu tập để tịnh hóa lục đạo này thường làm khi sống, dùng thiền định và quán tưởng để thanh lọc thân xác khỏi sáu phiền não chính, cùng với sáu cõi mà phiền não ấy tạo nên. Pháp này cũng có thể làm cho người chết rất hiệu nghiệm, vì nó thanh lọc căn bản nghiệp của họ,ï và do đó thanh lọc cái gốc rễ của tương quan giữa họ với sinh tử. Ðiều này quan trọng, vì nếu cảm xúc tiêu cực (phiền não) không tịnh hóa, thì chúng sẽ điều động thần thức tái sanh vào cõi nào đó trong lục đạo.

Theo mật điển Dzogchen, những cảm xúc tiêu cực tích tụ trong hệ tâm-vật-lý là những huyệt đạo vi tế, nội phong hay năng lực, và nhóm lại ở một vài trung tâm năng lực (huyệt) đặc biệt trong cơ thể. Bởi thế, hạt giống của địa ngục và nhân của nó là giận dữ, được định vị trí ở dưới hai gót chân ; cõi ngạ quỷ và nhân của nó là dục tham, gốc ở bàn tọa ; cõi súc sinh và nhân của nó là ngu si thì có vị trí ở rốn ; cõi người và nhân của nó là hoài nghi, có trị tri ở tim ; cõi tu-la và nhân của nó là ganh tị nằm ở yết hầu ; cõi trời và nhân của nó là kiêu mạn, thì có vị trí ở đỉnh đầu.

Trong pháp tu tập để tịnh hóa lục đạo, khi mỗi cõi và cảm xúc tiêu cực của nó được thanh lọc, hành giả quán tưởng tất cả nghiệp do cảm xúc đặc biệt ấy tạo nên bây giờ đã khô kiệt, và thân phần liên hệ đến nghiệp của cảm xúc ấy hoàn toàn tan thành ánh sáng. Bởi thế, khi bạn làm pháp tu luyện này cho một người chết, thì hãy nhất tâm quán tưởng rằng, sau khi làm xong, tất cả nghiệp được thanh tịnh và thân họ, toàn bản thể họ tan thành ánh sáng rực rỡ.

4- Pháp tu quán một trăm vị thần an lạc và phẫn noä

Một cách khác để giúp người chết là sự hành trì Trăm vị thần an lạc và phẫn nộ (những thần này đã được nói ở chương 17 - “Tia sáng nội tâm”). Hành giả quán toàn thân thể mình là một mandala của trăm vị thần an lạc và phẫn nộ ; chư thần an lạc được quán ở huyệt tim, chư thần phẫn nộ ở não. Hành giả khi ấy tưởng tượng chư thần phát ra ngàn tia sáng chan hòa lên trên người chết để tịnh hóa tất cả ác nghiệp của họ.

Thần chú để tịnh hóa mà hành giả tụng đọc là thần chú Kim cương tát đỏa, vị thần chủ trì tất cả mandala của Mật giáo, và là vị thần ở trung ương trong mandala một trăm vị thần an lạc và phẫn nộ, mà năng lực được hô triệu cốt để tịnh hóa và chữa bệnh. Thần chú này là “Thần chú một trăm ngữ âm”, bao gồm trăm “chủng tự” của trăm vị thần ấy. Bạn có thể xử dụng một dạng ngắn gồm sáu âm của thần chú Kim cương tát đỏa (Vajrasattva) là OM VAJRA SATTVA HUM (Tạng ngữ Om Benza Sattb Hung). Ý nghĩa câu này là “Hỡi thần Kim cương tát đỏa ! Nhờ năng lực của ngài, xin cho con được tịnh hóa, được chữa lành, được chuyển nghiệp”.

Một bài chú quan trọng khác trong mật điển Dzogchen và trong hành trì liên hệ đến Tử Thư Tây Tạng là A A HA SHA SA MA. Sáu âm của bài chú này có năng lực “đóng cửa ngõ” đi vào lục đạo luân hồi.

5- Hỏa táng

Thông thường trong nhiều truyền thống Ðông phương, hỏa táng là cách để thanh toán thây chết. Trong Phật giáo Tây Tạng cũng có những pháp hành đặc biệt cho lễ hỏa táng. Chỗ hỏa táng hay dàn hỏa táng được quán tưởng thành mandala của Kim cương tát đỏa, hay Trăm vị thần an lạc và phẫn nộ. Chư thần được quán tưởng mãnh liệt, sự hiện diện của họ được triệu thỉnh. Cái thây của người chết được quán như thực sự đại diện cho tất cả nghiệp ác và chướng ngại của họ. Khi cái thây bùng cháy, những ác nghiệp chướng ngại ấy được chư thần tiêu thụ trong một bữa tiệc lớn, chuyển hóa chúng thành ra bản chất trí tuệ. Những tia sáng được tưởng tượng như là tuôn phát từ chư thần ; cái xác được quán đang tan rã hoàn toàn thành ánh sáng, và tất cả bất tịnh của người chết được tịnh hóa trong ngọn lửa rực rỡ của trí tuệ. Khi quán tưởng điều này, ta có thể tụng đọc thần chú một trăm âm hay sáu âm của Kim cương tát đỏa. Sự tu tập giản dị này dành cho lễ hỏa táng là do Dudjom Rinpoche và Dilgo Khientse Rinpoche truyền lại.

Tro của cái xác và tsenjang (hình nhân, bài vị...) khi ấy có thể trộn với đất sét mà làm thành những hình tượng nhỏ gọi là tsatsa, được chú nguyện và dâng hiến nhân danh người chết để tạo những duyên tốt cho một tái sanh tốt đẹp trong tương lai.

6- Cúng tuần

Trong một môi trường Tây Tạng, những cuộc hành thiền tu tập xảy ra đều đặn mỗi ngày thứ bảy sau khi chết, hay nếu gia đình có thể lo liệu, thì suốt cả 49 ngày. Những tu sĩ được mời đến hành pháp, nhất là những vị Lama thường gần gũi gia đình ấy và có liên hệ với người chết. Ðèn được thắp sáng và liên tục đọc kinh cầu nguyện, cho đến khi cái xác được đưa ra khỏi nhà. Những phẩm vật được cúng dường lên các vị thầy và các bàn thờ, và phát chẩn cho kẻ nghèo nhân danh người chết.

Những pháp hành hàng tuần nhân danh người chết được xem là thiết yếu, vì thân ý sanh trong cõi Trung Ấm đang kinh quá cái chết của mình trở lại đúng vào ngày ấy mỗi tuần. Nếu người chết có đủ công đức do kết quả của thiện nghiệp quá khứ, thì lợi lạc của những pháp này, hành trì nhân danh họ, sẽ làm cái đà để chuyển họ đến một cõi thanh tịnh. Nói thật chính xác, thì nếu người ấy chết ngày thứ tư trước ngọ, thì tuần thứ nhất sẽ làm vào thứ ba tuần sau đó. Nếu chết sau ngọ, thì làm tuần vào ngày thứ tư tuần sau.

Người Tây Tạng xem tuần thứ tư sau khi chết là một ngày có ý nghĩa đặc biệt, vì có người nói bình thường người chết không ở trong cõi Trung Ấm lâu hơn 4 tuần. Tuần thứ bảy cũng được xem là một khúc quanh quan trọng, vì 49 ngày được xem là thời hạn lâu nhất trong cõi Trung Ấm đi đầu thai. Bởi thế, vào những dịp này, thầy và các bạn đạo sẽ được mời đến nhà, và những sự tu tập, cúng dường, bố thí... được thực hiện đại quy mô.

Một lễ cúng khác được thực hiện mỗi năm một lần sau khi chết, để đánh dấu ngày tái sanh của người chết. Phần đông gia đình Tây Tạng thường làm lễ mỗi năm một lần vào những ngày giỗ thầy, giỗ cha mẹ, chồng vợ, anh chị em của họ. Vào những ngày ấy họ cũng bố thí cho người nghèo.

 

Giúp đỡ người đau buồn

Trong cộng đồng Tây Tạng, mỗi khi một người nào chết, thì điều tự nhiên là thân quyến bạn bè họ tụ họp lại, và mọi người tìm cách này cách khác để giúp một tay. Toàn thể cộng đồng đem lại cho tang gia sự nâng đỡ tinh thần, tình cảm và thực tế, nên nhà có người chết không bao giờ bị bỏ mặc cho cảm thấy vô phương không biết phải làm gì. Mọi người trong xã hội Tây Tạng biết họ phải làm những gì họ có thể làm cho người chết, càng nhiều càng hay, và chính điều đó giúp tang quyến có thể chịu đựng, chấp nhận cái chết của người thân để tiếp tục sống.

Thật là khác xa với xã hội tân tiến, trong đó sự nâng đỡ của cộng đồng hầu như hoàn toàn không có. Tôi nghĩ sự nâng đỡ như thế thường đã giúp ích xiết bao cho thân quyến người chết khỏi kéo dài nỗi đau buồn và những khó khăn không cần thiết.

Những học trò tôi, làm cố vấn tỉnh cảm trong các Tiếp dẫn đường, cho tôi biết một trong những nguyên nhân buồn khổ trầm trọng nhất của một người mất mát người thân, là nghĩ rằng bản thân họ cũng như bất cứ ai, không ai có thể làm gì cho những thân quyến đã mất của họ. Nhưng như tôi đã nói, có rất nhiều việc mà bất cứ ai cũng có thể làm để giúp cho người đã chết.

Một cách an ủi người đau buồn là khuyến khích họ làm cái gì cho những người thân của họ đã chết : bằng cách sống hăng hái hơn, sống thay cho người chết, tu thay cho họ, và đem lại cho cái chết của họ một ý nghĩa sâu xa hơn. Ở Tây Tạng người ta còn đi hành hương nhân danh người đã chết, và vào những thời gian đặc biệt và nơi chốn thiêng liêng, họ sẽ nghĩ đến những người thân đã chết và tu tập để hồi hướng cho họ. Người Tây Tạng không bao giờ quên người chết : họ thường cúng chùa nhân danh người chết ; khi có những lễ hội cầu nguyện lớn, họ sẽ cúng vào đó nhân danh người chết ; họ tiếp tục hiến tặng cho những chương trình tu học nhân danh người chết, và lúc nào gặp những bậc thầy họ cũng xin lời cầu nguyện đặc biệt cho người chết. Niềm an ủi lớn nhất cho một người Tây Tạng là khi biết một bậc thầy đang tu tập hồi hướng công đứ cho thân nhân đã chết của họ.

Vậy thì đừng để cho ta chết đi một nửa theo với người chết ; ta hãy cố sống sau khi họ chết với niềm hăng say hơn nữa. Ta hãy cố ít nhất làm tròn ước nguyện của người chết, ví dụ bằng cách bố thí vài sở hữu của họ cho hội từ thiện, hay bảo trợ nhân danh họ cho một dự án mà họ thường ưa chuộng.

Những người Tây Tạng thường viết thư chia buồn với bạn bè đang khóc người thân với những lời đại khái như sau :

“Mọi sự đều vô thường, mọi người rồi phải chết, bạn đã biết. Vậy mẹ bạn có chết cũng là điều tự nhiên : thế hệ già chết trước. Bà cụ đã già yếu, chắc cũng không ân hận gì khi bỏ thân xác này. Và vì bạn có thể giúp bà bằng cách cúng vào các thiền hội tu tập và làm việc thiện nhân danh bà, chắc chắn bà sẽ sung sướng nhẹ nhàng. Vậy bạn đừng buồn” .

Nếu bạn ta có con hay một người thân còn trẻ chết, chúng ta có thể nói với họ :

“Con trai bạn đã chết, thật là như trời long đất lỡ với bạn. Tôi biết điều đó thật tàn nhẫn phi lý. Tôi không thể nào hiểu được. Nhưng có lẽ cái nghiệp của cháu là phải chết, và tôi tin rằng cái chết ấy chắc đã thanh toán được một món nợ nghiệp nào đó mà bạn và tôi không thể biết. Nỗi đau buồn của bạn cũng là của tôi. Nhưng hãy nhớ rằng, bây giờ bạn và tôi có thể giúp cháu, bằng sự tu tập của chúng ta, thiện nghiệp chúng ta, tình thương của chúng ta ; chúng ta có thể cầm tay cháu mà bước bên cạnh cháu ngay bây giờ, dù cháu đã chết, để giúp cháu có được một tái sanh mới và một đời sống dài hơn lần sau” .

Trong thế giới hiện nay của chúng ta, nơi mà ta không biết được cả đến chuyện có thể giúp đỡ người chết, nơi mà ta chưa từng đối mặt cái chết một lần nào trong đời, thì chuyện tư duy sáng suốt và bình tĩnh như vậy không phải dễ. Một người lần đầu tiên khóc người thân có thể phải tan nát cõi lòng vì những cảm xúc rối bời như buồn, giận, chối bỏ, rút lui, mặc cảm phạm tội... thình lình tàn phá tâm hồn họ. Muốn giúp những người như thế, bạn cần sự kiên nhẫn và tế nhị. Bạn cần thời gian ngồi với họ để cho họ nói, lắng nghe không phê phán mỗi khi họ nhớ lại những hoài niệm riêng tư nhất, hoặc cứ tái đi tái lại từng chi tiết của cái chết. Trên tất cả, có thể bạn chỉ cần ở đấy với họ, lúc mà họ đang kinh quá nỗi đau buồn khốc liệt nhất trong đời. Hãy sẵn sàng đến với họ bất cứ lúc nào, ngay cả những lúc họ có vẻ không cần hiện diện của bạn. Carol, một góa phụ, khi được hỏi ai giúp bà nhiều nhất trong lúc chồng bà chết, đã trả lời : “Những người tiếp tục gọi điện thoại và ghé thăm, ngay cả khi tôi nói không cần” .

Những người buồn khổ cũng như đang trải qua một loại chết. Cũng như người chết, họ cần biết rằng những cảm xúc rối ren mà họ đang kinh quá là điều tự nhiên. Họ cũng cần biết rằng tiến trình tang tóc thường cam go và dài đăng đẳng, khi nỗi đau buồn cứ tái đi tái lại theo chu kỳ. Nỗi kinh hoàng tê tái không tin ban đầu sẽ tàn phai, nhường chỗ cho một ý thức sâu xa tuyệt vọng về sự mất mát vô biên của họ, mà cuối cùng cũng sẽ hồi phục, trở lại thế quân bình. Hãy cho họ biết đây là một mẫu mực sẽ trở lại nhiều lần, tháng này qua tháng khác, và tất cả những cảm giác đau khổ, sợ hãi không thể chịu đựng, tưởng chừng như không còn sống ra con người được nữa, cũng chuyện là chuyện bình thường. Cho họ biết rằng, dù họ có thể đau đớn trong một, hai năm, nỗi đau của họ chắc chắn rồi cũng đi đến kết thúc và chuyển thành sự chấp nhận.

Judy Tatebaum nói :

“Nỗi đau buồn là một vết thương cần được chú ý để hàn gắn. Hàn gắn một nỗi đau buồn có nghĩa là đối mặt với nó một cách công khai, thẳng thắng, bộc lộ và phóng thích trọn vẹn nó, chấp nhận nó kéo dài bao lâu nó cần để cho vết thương lành lại. Thường ta cứ sợ rằng một khi công nhận nỗi đau buồn, chắc ta không thể nào chịu nổi. Sự thật thì nỗi đau khổ được bộc lộ ra sẽ có lúc đi đến kết thúc. Ðau khổ mà không bộc lộ được thì cứ kéo dài bất tận”.

Nhưng thông thường, bạn bè và gia quyến của người đau buồn cứ mong cho người ấy “trở lại bình thường” sau vài tháng. Ðiều này chỉ tăng thêm nỗi lạc loài cô lập của họ, khi nỗi đau khổ vẫn tiếp diễn, và có thể càng sâu sắc hơn.

Ở Tây Tạng, như tôi đã nói, toàn thể cộng đồng, bạn bè, bà con, thường tham dự suốt 49 ngày sau khi một người nào chết, và mọi người đều bận rộn trong việc giúp đỡ tâm linh cho người chết, có hàng trăm chuyện để làm. Người đau buồn cứ việc đau buồn, họ khóc lóc chút đỉnh, đó là chuyện tự nhiên, và khi mọi người ra về, thì ngôi nhà có vẻ trống trải. Tuy thế, sự bận rộn lo lắng nâng đỡ của người xung quanh - bằng nhiều cách tế nhị, làm ấm lòng ­ đã giúp họ rất nhiều trong nỗi đau thương tang tóc.

Trong xã hội Tây phương, sự chạm mặt một mình với nỗi mất mát thực là khác hẳn. Và nhất là trong trường hợp một vụ chết đột ngột, tự sát, thì nỗi đau khổ của người ở lại càng tăng cường mãnh liệt. Nó làm cho họ càng cảm thấy bất lực không biết làm sao để giúp đỡ người chết. Ðiều rất quan trọng là để cho người thân đến nhìn thấy xác chết của người chết đột ngột, nếu không, họ rất khó mà nhận ra cái chết thực sự đã xảy đến. Nếu có thể, người ta nên ngồi cạnh xác chết ấy, để nói những gì cần nói, diễn tả niềm yêu thương, và khởi sự nói lời từ biệt.

Nếu điều này không thể thực hiện được, thì hãy đem ra một tấm ảnh của người chết và khởi sự tiến trình từ giã, hoàn tất mối tương quan, rồi buông xả. Hãy khuyên những người có người thân chết nên làm việc này, điều này sẽ giúp cho họ chấp nhận tin buồn, thực tại nát lòng của cái chết. Cho họ biết những cách giúp đỡ người chết như đã nói trên, những cách đơn giản họ có thể làm, thay vì ngồi bó gối một cách vô vọng, nghiền ngẫm về cái chết ấy trong nỗi âm thầm áo não tự trách.

Trong trường hợp một cái chết đột ngột, những người thân thường có thể kinh quá những cảm xúc tức tối trước những gì mà họ cho là nguyên nhân cái chết.

Hãy giúp họ bộc lộ sự tức giận ấy, vì nếu bị giữ lại trong lòng, thì sớm muộn sự tức giận ấy sẽ đưa đẩy họ vào một nỗi áo não kinh niên. Hãy giúp họ buông xả cơn tức giận và cho họ thấy những chiều sâu của nó, là nỗi đau mất mát. Rồi họ có thể khởi sự công việc buông xả, một chuyện gay go nhưng cuối cùng sẽ hàn gắn mối thương tâm.

Cũng có nhiều khi người còn lại sau cái chết của một người thân, cảm thấy mãnh liệt mặc cảm phạm tội, cứ bị ám ảnh bởi những lỗi lầm của mình trong quá khứ với người đã chết, hoặc tự dày vò vì nghĩ đáng lẽ mình có thể làm gì để ngăn cái chết. Hãy giúp họ nói ra những cảm giác phạm tội ấy, dù chúng có vẻ phi lý đến đâu. Dần dà những cảm giác ấy sẽ giảm bớt, và họ sẽ tự tha thứ cho họ để tiếp tục sống nốt cuộc đời của mình.

 

Một pháp môn trọng yếu

Bây giờ tôi sẽ cho bạn một phương pháp tu tập có thể giúp bạn rất nhiều, mỗi khi bạn bị đau đớn, buồn sầu kinh khủng. Ðấy là một pháp mà thầy Jamyang Khientse tôi thường dạy cho những người đang kinh quá sự đau khổ tinh thần, dằn vặt tâm can. Và tôi biết với kinh nghiệm bản thân rằng pháp này có thể đem lại nguồn an ủi lớn lao như cất một gánh nặng khổng lồ. Ðời sống của một người giảng dạy trong một thế giới như thế giới phương Tây không phải dễ. Lúc còn trẻ, có những lúc tôi gặp phải khủng hoảng khó khăn, khi ấy tôi luôn luôn triệu thỉnh Padmasambhava, như bây giờ tôi vẫn làm, và nghĩ đến ngài như tất cả các bậc thầy của tôi. Và tôi đã khám phá rằng phương pháp ấy thật có thể chuyển hóa tôi một cách mầu nhiệm, thảo nào các bậc thầy tôi thường nói rằng, pháp hành trì Padmasambhava là hữu ích nhất mỗi khi ta gặp khó khăn, vì pháp này có cái năng lực mà bạn cần để vượt qua sự hỗn loạn, rối ren của thời đại.

Bởi vậy, khi bạn buồn nản, lo sầu, xuống dốc, khi bạn cảm thấy không thể đi thêm được nữa, cảm thấy cõi lòng tan nát, thì tôi khuyên bạn nên áp dụng pháp môn này. Ðiều kiện duy nhất để tu tập có hiệu quả là bạn cần phải làm thực tập này với tất cả năng lực của bạn, bạn cần phải xin cầu, và tha thiết xin cầu.

Mặc dù hành thiền, bạn vẫn còn có nhiều cảm xúc đau đớn khổ sở và vô số chuyện từ các đời quá khứ, hoặc đời này nổi lên mà bạn thấy khó thể đương đầu. Bạn có thể thấy mình không đủ trí tuệ và định tĩnh để đối phó với chúng, và một mặt thiền định không mà thôi chưa đủ. Khi ấy điều bạn cần là cái mà tôi gọi “một sự tu luyện từ tim”. Tôi luôn luôn cảm thấy buồn sầu vì người ta không có một kiểu làm như thế để giúp họ trong những lúc khốn đốn. Nếu bạn có làm, bạn sẽ tìm thấy mình có một cái gì vô cùng quý báu, nó sẽ là một nguồn sức mạnh chuyển hóa cuộc đời bạn.

1- Triệu thỉnh

Trong bầu trời trước mặt, bạn hãy triệu thỉnh hiện diện của bất cứ thực thể giác ngộ nào mà bạn có cảm ứng nhất, và xem vị ấy như hiện thân của tất cả chư Phật, Bồ-tát, bậc thầy. Ðối với tôi, hiện thân ấy là Padmasambhava. Nếu bạn không thể tưởng tượng ra trong tâm nhãn của bạn một hình dạng nào, thì hãy cứ có một cảm giác mãnh liệt về sự hiện diện ấy, và triệu thỉnh năng lực từ bi và ân sủng vô biên của ngài.

2- Hô triệu

Mở lòng bạn ra, và kêu gọi ngài với tất cả nỗi đau đớn khổ sở mà bạn cảm thấy. Nếu bạn cảm thấy muốn khóc thì đừng cố nín, mà cứ việc tuôn ra, và thực tình cầu xin sự giúp đỡ. Hãy biết rằng có một người nào thực sự đang ở đấy để giúp bạn, một người đang lắng nghe bạn, cảm thông bạn với lòng từ mẫn, không bao giờ phê phán bạn : đó là một người bạn chân tình. Hãy hô triệu vị ấy từ đáy sâu nỗi đau đớn của bạn, dùng câu thần chú OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDhi HUM, thần chú đã được xử dụng hàng bao thế kỷ bởi hàng trăm ngàn người, như một dòng suối để tịnh hóa, chữa lành và che chở.

3- Làm tràn đầy hỷ lạc trong tim

Hãy tưởng tượng và biết rằng vị Phật mà bạn đang kêu cầu ấy đã đáp ứng với tất cả năng lực từ bi và trí giác của ngài. Nguồn ánh sáng rực rỡ từ nơi ngài đang tuôn về phía bạn. Hãy tưởng tượng ánh sáng ấy như vị cam lồ đang rót đầy tim bạn, và chuyển hóa tất cả đau thương của bạn thành hỷ lạc.

 

*

 

Một cách Padmasambhava xuất hiện là đắp y ngồi trong tư thế thiền, toát ra một cảm giác ấm cúng tiện nghi, với nụ cười yêu thương trên gương mặt ngài. Trong hóa thân này, ngài được gọi là “Ðại lạc”. Tay ngài đặt thoải mái trên hai vế, đỡ lấy một cái tách làm bằng sọ người đựng toàn cam lồ Ðại lạc. Nước cam lồ ấy đang tung tóe khắp nơi để chữa lành mọi đau thương bệnh tật. Ngài ngồi một cách an tịnh trên một tòa sen nở, nằm trong một trái cầu bằng ánh sáng.

Hãy nghĩ về ngài như một mặt trời phúc lạc, suối nguồn của sự nồng nàn yêu thương, an ủi, chữa lành. Hãy mở lòng bạn ra, tuôn ra tất cả đau khổ của bạn, cầu xin cứu giúp. Và đọc câu thần chú của ngài : OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDhi HUM.

Bây giờ, hãy tưởng tượng hàng ngàn tia sáng tuôn ra từ nơi thân ngài hay từ tim ngài. Tưởng tượng ngài đang vui vẻ chan rưới vị cam lồ liên tục trên người bạn, một thứ ánh sáng như chất lỏng bằng vàng ròng rót vào tim bạn, chuyển hóa khổ đau của bạn thành an lạc.

Ðấy là phương pháp kỳ diệu mà thầy tôi thường dạy, nó đem lại cho tôi cảm hứng và sự giúp đỡ lớn lao vào những lúc tôi cần giúp đỡ.

4- Giúp đỡ người chết

Khi bạn làm thực tập này nhiều lần, đọc thần chú và làm cho tâm bạn tràn ngập hỷ lạc, thì dần dần sự khổ đau của bạn sẽ tan hòa vào trong niềm an tịnh của tự tánh tâm bạn. Bạn sẽ vui mừng nhận ra rằng, chư Phật vốn không ngoài tâm bạn, mà luôn luôn ở với bạn, bất ly tự tánh bạn. Và những gì Phật làm qua sự ban phước của ngài, là gia trì năng lực cho bạn, nuôi dưỡng bạn bằng niềm tin đối với Phật tánh ở bên trong.

Bây giờ, với tất cả năng lực tin tưởng mà pháp này đã đem lại cho bạn, bạn hãy tưởng tượng mình đang gởi phúc lạc ấy, ánh sáng từ bi của chư Phật ấy đến những người thân yêu đã chết. Ðiều này đặc biệt quan yếu trong trường hợp một người gặp cái chết thảm khốc, vì nó giúp chuyển hóa nỗi đau đớn của họ, đem lại cho họ bình an và phúc lạc. Trong quá khứ, có lẽ bạn đã cảm thấy tuyệt vọng, vô phương giúp đỡ những người thân, nhưng bây giờ, qua pháp tu tập này, bạn có thể cảm thấy được an ủi, khuyến khích và có thêm năng lực để giúp người đã chết.

 

Mở rộng cõi lòng

Ðừng mong có hiệu quả tức thì, hay một phép lạ nào đó. Có thể chỉ sau một thời gian, hay lâu hơn nhiều, trong lúc không ngờ, sự đau khổ của bạn sẽ chuyển hướng. Ðừng mong đợi chấm dứt đau khổ một lần dứt khoát. Hãy mở rộng lòng đối với nỗi đau buồn, như bạn mở lòng ra đối với chư Phật và các bậc giác ngộ trong lúc thiền quán.

Bạn có thể cảm thấy biết ơn nỗi đau khổ, vì nó cho bạn cơ hội làm việc thẳng với nó và chuyển hóa nó. Nếu không có đau khổ thì bạn đâu bao giờ khám phá ra rằng tận đáy sâu của khổ đau còn có một kho tàng phúc lạc. Thời gian mà bạn đau khổ có thể là thời gian bạn cởi mở nhất, và chỗ mà bạn cực kỳ thương tổn có thể là nơi ẩn tàng sức mạnh lớn nhất của bạn.

Vậy bạn hãy tự nhủ lòng : “Tôi sẽ không chạy trốn khổ đau. Tôi muốn xử dụng nó bằng cách tốt nhất, phong phú nhất, để tôi có thể thương yêu người khác và trở nên hữu ích cho họ”. Chung quy, chính khổ đau dạy cho ta lòng từ mẫn. Khi bạn đau khổ, bạn mới biết người khác đau khổ như thế nào. Và nếu bạn có thể giúp người khác, thì chính nhờ kinh nghiệm khổ đau của bạn mà bạn có thể có sự cảm thông và tâm từ bi để làm việc ấy.

Bởi thế dù có làm gì, bạn cũng nhớ đừng dập tắt nỗi đau khổ của bạn ; hãy chấp nhận nó và giữ tâm nhạy bén với nỗi khổ đau. Dù tuyệt vọng đến đâu, bạn hãy nhận nỗi đau khổ như nguyên trạng của nó, vì kỳ thực nó đang đem lại cho bạn một món quà vô giá, nhờ tu tập, bạn sẽ có cơ hội tìm ra được cái ẩn giấu sau nỗi đau buồn. “Ðau buồn có thể là khu vườn bi mẫn”, Rumi viết. Nếu bạn mở lòng ra với mọi sự, thì nỗi khổ có thể trở thành đồng minh lớn nhất của bạn trên đường tìm kiếm từ bi và trí tuệ.

Và có lẽ chúng ta đều biết rõ rằng, ta không thể nào tránh né khổ đau. Khi ta cố tự vệ chống lại đau khổ, thì ta chỉ càng thêm đau khổ và không học được gì về kinh nghiệm khổ đau. Rilke viết rằng : “Một trái tim chưa hề mở ra nhận chịu sự mất mát, một trái tim được che chở, luôn vô tư an ổn, thì không thể biết yêu thương” .

 

Chấm dứt đau buồn và rút bài học từ nỗi buồn đau

Khi bạn tràn ngập khổ đau, thì hãy cố vươn lên bằng một trong những phương pháp thiền tôi đã đề cập trong chương 5 “Ðưa tâm về nhà” . Một trong những phương pháp tôi thấy rất hiệu lực để làm lắng dịu, tiêu tan nỗi sầu là đi vào thiên nhiên, nhất là đứng nhìn một dòng thác đổ, để cho nước mắt bạn, nỗi đau khổ của bạn trào tuôn và tịnh hóa bạn, như dòng nước chảy kia. Hoặc bạn có thể đọc một bản kinh cảm động nói về vô thường, và để cho trí tuệ nói trong kinh xoa dịu lòng bạn.

Chấp nhận đau thương để chấm dứt nó là chuyện có thể làm. Một cách mà nhiều người thấy hiệu nghiệm là phương pháp tôi đã nói về sự “hoàn tất công việc dang dở”, thay đổi đôi chút. Dù người thân của bạn chết từ bao lâu, bạn cũng sẽ thấy pháp này rất hiệu nghiệm.

Quán tưởng chư Phật, Bồ-tát đứng ở trên bầu trời trên đầu và xung quanh bạn, đang chiếu xuống những tia sáng từ bi, ban ân sủng cho bạn. Trước sự hiện diện ấy, hãy nói những gì bạn cần nói, những gì thực sự ở trong tim bạn, với người thân đã chết.

Quán tưởng người ấy đang nhìn bạn với niềm cảm thông và tình thương mến nhiều hơn bao giờ cả trong đời họ. Hãy biết rằng người chết muốn cho bạn hiểu rằng họ yêu mến bạn và tha thứ cho bạn những gì bạn đã làm, và họ cũng muốn xin bạn tha thứ cho họ.

Hãy để cho tim bạn tuôn ra thành lời bao nhiêu nỗi giận hờn, thương tổn, mà có thể bạn đã ấp ủ bấy lâu, rồi buông xả hoàn toàn. Bằng tất cả tâm trí bạn, hãy để cho sự tha thứ của bạn hướng về người chết. Nói với họ, bạn đã tha thứ, nói với họ bạn đã hối hận như thế nào về tất cả nỗi đau khổ có thể bạn đã gây ra.

Bây giờ, hãy để cho sự tha thứ và tình yêu thương của họ tràn ngập bản thể bạn. Hãy biết tận đáy lòng bạn rằng bạn đáng được yêu thương, đáng được tha thứ, và hãy cảm thấy nỗi đau buồn của bạn đang tan biến.

Cuối cùng, hãy tự hỏi bây giờ bạn có thể thực sự nói lời từ biệt và buông xả người ấy hay chưa. Rồi tưởng tượng người ấy quay lưng bỏ đi, và kết thúc bằng pháp Chuyển di hay bất cứ pháp nào để giúp đỡ người đã chết.

Pháp này sẽ cho bạn cơ hội chứng tỏ tình yêu của bạn một lần nữa, làm một cái gì thêm nữa để giúp người đã chết, và chữa lành, hoàn tất mối tương giao trong tâm bạn.

 

*

 

Bạn có thể học được rất nhiều từ nỗi đau thương mất mát, nếu bạn mở lòng ra. Sự đau thương có thể bắt buộc bạn phải nhìn thẳng vào cuộc đời bạn, tìm một ý nghĩa trong đó mà lâu nay bạn chưa thấy. Khi đột nhiên bạn cảm thấy bơ vơ vì cái chết của người thân, thì bạn như sống lại một cuộc đời mới và tự hỏi : “Ta sẽ làm gì với cuộc đời này ? Tại sao ta còn mong tiếp tục sống ?” .

Sự mất mát thương đau còn có thể nhắc cho bạn một cách mãnh liệt cái gì có thể xảy ra nếu trong khi sống bạn không chịu bày tỏ tình thương mến của bạn, sự tán thưởng của bạn, hay sự xin lỗi, và bởi thế có thể làm cho bạn nhạy cảm hơn đối với những người thân còn sống. Elisabeth Kubler-Ross nói : “Ðiều tôi muốn nhắn nhủ mọi người là, hãy sống thế nào để bạn có thể nói những lời ấy trong lúc người kia còn có thể nghe được”. Và Raymond Moody, sau công trình một đời nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, đã viết : “Tôi bắt đầu nhận ra rằng : tất cả chúng ta thường ngày như thế nào thì khi gần chết, cũng như thế ấy. Hơn bao giờ hết, bây giờ tôi rất thận trọng để làm cho mọi người tôi yêu mến biết rõ cảm xúc của tôi” .

Bởi thế, lời khuyên tâm huyết của tôi cho những người đang ở trong cơn đau đớn sâu xa về nỗi mất mát người thân của họ, là hãy cầu nguyện chư Phật để được giúp đỡ, được ân sủng và sức mạnh. Cầu nguyện cho bạn sống để tìm ra ý nghĩa phong phú nhất cho đời sống mới của bạn, sau khi họ mất đi. Hãy nhạy bén đối với nỗi đau lòng, hãy can đảm và kiên nhẫn. Trên tất cả, hãy nhìn vào cuộc đời bạn để tìm cách san sẻ niềm thương yêu của bạn một cách sâu xa hơn, đối với những người khác ngay bây giờ.

 

20- Kinh nghiệm cận tử : nấc thang lên trời

Ngày nay ở phương Tây chúng ta đã rất quen thuộc với kinh nghiệm cận tử, cái tên đặt cho một loạt những gì xảy đến cho những người chết hụt , và được họ kể lại sau khi thoát một tai nạn hay một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Kinh nghiệm cận tử này đã được kể khá nhiều, trong tất cả các truyền thống huyền học, bởi các văn sĩ, triết gia thuộc đủ trường phái khác nhau như Platon, Giáo hoàng Gregory, một vài bậc thầy giáo phái Sufisme, Toltoi và Carl Jung. Mẩu chuyện mà tôi thích nhất là mẩu chuyện của một sử gia Anh, thầy tu Bede, đã kể lại vào thế kỷ thứ 8.

Vào thời ấy, một phép lạ đáng chú ý, giống như những phép lạ ngày xưa, đã xảy ra ở Anh quốc. Ðể đánh thức những người đang sống mà tâm hồn đã chết, có một người đã chết trở về lại đời sống trong thân xác cũ của họ và kể nhiều chuyện mà y đã trông thấy. Một vài chuyện trong đấy tôi nghĩ là đáng nói vắn tắt ở đây. Có một gia chủ ở xứ Northumbrian, tên là Cunningham, sống một đời sùng tín. Ông ta ngã bệnh càng ngày càng nặng, cho đến vào đầu một đêm kia, ông chết. Nhưng đến lúc bình minh, ông thình lình sống lại, ngồi dậy trên giường trước nỗi kinh ngạc của mọi người đang khóc xung quanh xác ông. Họ vùng bỏ chạy, chỉ trừ bà vợ, người yêu thương ông hơn ai hết, ở lại bên ông mặc dù bà cũng run lên vì hãi sợ. Ông trấn an bà và bảo : “Ðừng sợ, vì tôi quả thực vừa thoát khỏi nanh vuốt thần chết, và tôi được phép sống lại giữa loài người. Nhưng từ đây tôi không được sống theo thói cũ, và phải có một lối sống hoàn toàn khác hẳn” . Không lâu sau đó, ông từ bỏ tất cả trách nhiệm ở đời và gia nhập tu viện Melrose...

Ông thường kể lại kinh nghiệm ông đã trải qua như sau :

“Một người đẹp trai trong chiếc áo rực rỡ, hướng dẫn tôi, và chúng tôi im lặng đi về hướng dường như là đông-bắc. Khi tiếp tục đi, chúng tôi gặp một thung lũng rộng, sâu, và có độ dài bất tận... Người ấy liền đưa tôi ra khỏi bóng tối, đến một bầu không khí có ánh sáng trong suốt, và khi người ấy dẫn tôi đi trong ánh sáng ấy, tôi thấy trước mặt một bức tường to lớn dường như có chiều cao và chiều dài vô tận. Vì tôi không trông thấy cửa ngõ, cửa sổ hay lối vào nào cả, tôi tự hỏi tại sao chúng tôi đi đến đấy làm gì. Nhưng vừa khi tới nơi, tôi không hiểu tại sao, chúng tôi đã ở trên nóc bức tường ấy. Bên trong có một cánh đồng khoáng đạt và vui vẻ trải ra... Ánh sáng tràn ngập trong đó, còn sáng chói hơn cả ánh mặt trời giữa ngọ...

Người hướng đạo nói : “Nay ngươi phải trở về nhập xác lại và sống giữa loài người một lần nữa, nhưng nếu ngươi cân nhắc hành động một cách cẩn thận và học hỏi để giữ cho lời nói và tư cách ngươi đều bình dị, có đạo đức, thì khi chết, ngươi cũng sẽ được một căn nhà trong đó và sống giữa những linh hồn hạnh phúc mà ngươi đã thấy. Vì khi ta rời ngươi trong chốc lát là để xem tương lai của ngươi sẽ là gì” . Khi ông ta nói thế, tôi rất miễn cưỡng trở về thân xác, vì tôi đâm ra mê mẩn trước vẻ đẹp và sự vui thú của cái nơi tôi đã thấy và những người trong đó. Nhưng tôi không dám hỏi người hướng đạo tôi, và trong khi ấy, không biết làm thế nào tôi chợt thấy mình sống lại”.

Bede chấm dứt câu chuyện với những lời này :

“Con người của Chúa trời này không kể chuyện này và những điều y đã thấy với những người sống bất cẩn, vô cảm, mà chỉ nói với những người sẵn sàng ghi nhớ những lời của y và tăng thêm sự thánh thiện”.

Kỹ thuật y khoa tân tiến đã đem lại một chiều hướng mới mẻ, hấp dẫn cho tầm mức kinh nghiệm cận tử ; bây giờ nhiều người đã sống lại sau một tai nạn, cơn suy tim hay bệnh nặng, hoặc trong khi giải phẫu, trong cuộc chiến. Kinh nghiệm cận tử đã là đề tài của một số lớn khảo cứu khoa học và tư duy triết học. Theo một cuộc trưng cầu ý kiến của viện Gallup năm 1982, có đến 8 triệu người Mỹ, hay một phần hai mươi dân số, đã có ít nhất một lần suýt chết.

Mặc dù kinh nghiệm cận tử không ai giống ai, cũng như không có hai người cùng có một kinh nghiệm giống nhau về cõi Trung Ấm, tuy thế có một mẫu mực chung về các giai đoạn khác nhau trong kinh nghiệm cận tử, một “kinh nghiệm cốt lõi” xuất hiện :

1- Họ đều cảm thấy một tâm trạng đổi khác, an lạc và thoải mái, không đau đớn, hoặc có những cảm thọ về thân, hoặc cảm thấy sợ hãi.

2- Họ có thể để ý đến một âm thanh ào ào hay vù vù, và cảm thấy mình rời khỏi xác. Ðây gọi là “kinh nghiệm thoát xác” : Họ có thể nhìn thấy cơ thể họ từ một điểm ở trên cao ; thị giác và thính giác của họ bén nhạy hơn, tâm thức họ sáng suốt và rất nhạy cảm, và họ còn có thể đi xuyên qua vách tường.

3- Họ ý thức đến một thực tại khác, đi vào một bóng tối, trôi nổi trong một không gian có chiều hướng, rồi di chuyển rất nhanh qua một đường hầm.

4- Họ trông thấy một ánh sáng, lúc đầu chỉ là một điểm ở đằng xa, rồi họ bị cuốn hút tới đó và được bao phủ trong ánh sáng và tình yêu thương. Nó được mô tả như ánh sáng chói chang rất đẹp, nhưng không hại mắt nhìn. Vài người kể lại, họ đã gặp “một thực thể thuần là ánh sáng”, một hiện diện bằng quang sắc có vẻ toàn năng mà một số người gọi là Thượng đế hay Chúa Ki-tô, có lòng từ mẫn. Ðôi khi trước hiện diện này, họ có thể chứng kiến toàn cảnh cuộc đời họ diễn lại ; thấy mọi việc họ đã làm lúc sống, cả tốt lẫn xấu. Họ nói chuyện bằng thần cảm với hiện diện ánh sáng ấy, và tự thấy mình ở trong một trạng thái phúc lạc, trong đó mọi khái niệm về thời gian và không gian đều vô nghĩa. Mặc dù kinh nghiệm ấy chỉ kéo dài một hai phút, nó vẫn là cái gì rất toàn vẹn và phong phú.

5- Một vài người thấy một thế giới nội tâm tràn đầy vẻ đẹp, dinh thự, phong cảnh thiên đường, với thiên nhạc, và họ có một cảm giác về nhất thể. Một vài người, dường như rất ít người, báo cáo thấy những hình ảnh ghê rợn của hỏa ngục.

6- Họ có thể đạt đến một biên giới mà họ không thể đi xa hơn; vài người gặp bà con bè bạn đã chết và nói chuyện với họ. Họ quyết định (thường rất miễn cưỡng) hoặc được bảo phải trở về lại thân xác và cuộc đời, đôi khi vì ý thức sứ mệnh và phụng sự, đôi khi vì để lo cho gia quyến, đôi khi chỉ để hoàn tất mục tiêu cuộc đời họ đang bị dang dở.

 

*

 

Khía cạnh quan trọng nhất của kinh nghiệm cận tử là sự chuyển hóa toàn diện trong sự sống, trong thái độ và trong tương giao của những người đã có kinh nghiệm ấy. Họ có thể không mất nỗi sợ hãi đối với nỗi đau và hấp hối, song chính cái chết thì họ không sợ. Họ trở nên bao dung hơn, đầy tình thương yêu, và quan tâm đến những giá trị tâm linh, đến con đường trí tuệ, và thường họ thiên về đời sống tâm linh nói chung, hơn là quan tâm đến những giáo điều của một tôn giáo.

Thế thì làm sao để giải thích kinh nghiệm cận tử ? Vài người Tây phương đọc Tử Thư Tây Tạng đã so sánh những kinh nghiệm cận tử này với các kinh nghiệm về thân Trung Ấm trong truyền thống Tử Thư. Nhìn qua thì có vẻ tương đồng, nhưng nói chính xác thì những chi tiết của kinh nghiệm cận tử liên hệ như thế nào với giáo lý Bardo ? Tôi nghĩ rằng việc này cần một khảo sát đặc biệt vượt ngoài tầm sách này, nhưng có một số điểm đồng và dị mà ta có thể thấy. 

 

Bóng tối và đường hầm

Có lẽ bạn cũng nhớ, giai đoạn cuối tiến trình tan rã của Bardo chết là khi kinh nghiệm tối đen của sự “thành tựu” xuất hiện “như một bầu trời trống trải trùng trong màn đêm tối mịt” . Ở điểm này, giáo lý nói đến một giây phút hỷ lạc hạnh phúc. Một trong những nét chính của kinh nghiệm cận tử là cái cảm tưởng di chuyển “với tốc độ kinh khủng” và “cảm giác vô trọng lực” qua một không gian tối đen, “một màu đen kỳ diệu, thanh bình, toàn triệt”, và đi xuống “một cái hầm đen dài” .

Một phụ nữ kể cho Kenneth Ring :

“Nó giống hệt một khoảng trống thoải mái thanh bình, đến nỗi bạn có thể tiếp tục đi tới. Chỉ toàn là màu đen, không có cảm giác nào cả... như là một đường hầm. Bạn cứ như là trôi giữa hư không”.

Và một bà khác kể :

“Ðiều đầu tiên tôi nhớ được là một tiếng xào xạc kinh khủng... Thực khó thể nói nên lời. Tôi có thể nói là nó như một cơn gió lốc, một trận cuồng phong kéo tôi đi. Và tôi đang được kéo từ một điểm chật hẹp đến một nơi rộng rãi” .

Một phụ nữ kể cho Margot Grey :

“Tôi đang ở một nơi giống như là một khoảng trống ngoài trời. Hoàn toàn tối đen, và tôi cảm thấy đang được lôi kéo về phía cuối một đường hầm. Tôi biết thế vì tôi có thể trông thấy một ánh sáng cuối đường. Tôi đang thẳng đứng và bị kéo về phía lối ra. Tôi biết đấy không phải là mộng mộng mị không xảy ra kiểu đó. Tôi không bao giờ tưởng tượng đó lại là mộng mị”.

 

Ánh sáng

Vào lúc chết, Ánh sáng Căn bản hay Linh quang xuất hiện với tất cả vẻ chói lọi quang vinh. Tử Thư Tây Tạng nói : “Hỡi thiện nam/nữ, tự tánh tâm ngươi là ánh sáng và koảng trống bất khả phân, nó trú như một vùng ánh sáng rộng lớn, vượt ngoài sống và chết ; quả thế, đấy là đức Phật với Ánh sáng không thay đổi” .

Melvin Morse, chuyên gia sưu tầm kinh nghiệm cận tử nơi trẻ em, có nhận xét : “Gần hết mọi kinh nghiệm cận tử của trẻ con (và một phần tư kinh nghiệm của người lớn) đều có yếu tố ánh sáng. Tất cả đều báo cáo rằng ánh sang xuất hiện ở giai đoạn cuối của kinh nghiệm cận tử, sau khi chúng ta đã có kinh nghiệm thoát xác, hoặc đã đi hết đường hầm” .

Một mô tả hay nhất về sự tiến gần ánh sáng được Margot Grey báo cáo :

Dần dần, bạn nhận ra rằng : rất xa ở đằng xa, một khoảng cách vô lượng, bạn có thể đạt đến cuối đường hầm, vì bạn có thể trông thấy một ánh sáng trắng, nhưng nó quá cách xa, tới độ tôi chỉ có thể so sánh nó như khi nhìn lên bầu trời mà thấy một vì sao duy nhất ở đằng xa. Nhưng bạn phải nhớ rằng mình đang nhìn qua một đường hầm, và ánh sáng ấy sẽ lấp đầy cuối đường hầm. Bạn có thể tập trung trên điểm sáng ấy vì khi bạn ngoi tới trước bạn sẽ gặp nó.

Dần dần, khi bạn du hành về phía điểm sáng ấy ở một tốc độ cực nhanh, ánh sáng càng ngày càng lớn. Toàn thể tiến trình này nhớ lại dường như kéo dài chỉ chừng một phút. Khi bạn từ từ tiến đến ánh sáng cực chói lọi ấy, thì không có cảm giác đường hầm đột ngột chấm dứt, đúng hơn bạn có cảm giác mình tan vào trong ánh sáng ấy. Khi đó, đường hầm đã ở sau bạn, và trước mặt là một ánh sáng màu trắng xanh rực rỡ tuyệt đẹp. Ánh sáng vô cùng rực rỡ hơn cả một ánh sáng sẽ làm lòa mắt bạn, nhưng ánh sáng này tuyệt nhiên không làm hại mắt bạn chút nào.

Nhiều người có kinh nghiệm cận tử đã tả ánh sáng ấy như sau :

Tôi sẽ tả về ánh sáng ấy là - vâng, đấy không phải là ánh sáng, mà là sự vắng mặt của bóng tối, toàn diện và viên mãn... Bạn thường nghĩ, ánh sáng lớn là ánh sáng chiếu trên mọi vật làm nên những cái bóng.v.v... Nhưng ánh sáng này thực sự là vắng mặt của bóng đen. Chúng ta không quen với khái niệm này, vì ta luôn luôn có một cái bóng từ nơi ánh sáng, nếu ánh sáng không bao quanh ta. Nhưng ánh sáng này toàn vẹn, tràn đầy tới nỗi bạn không nhìn vào nó, mà bạn ở trong nó.

Một người kể cho Kenneth Ring : “Nó không sáng. Nó như một ngọn đèn có chụp lại, hay gì ấy. Nhưng đó không phải là loại ánh sáng mà bạn có được từ ngọn đèn. Bạn biết nó ra sao không ? Giống như người nào đã để một cái chụp lên mặt trời. Nó làm cho tôi cảm thấy vô cùng an lạc. Tôi không còn sợ hãi. Mọi sự sẽ không sao cả” .

Một phụ nữ bảo Margot Grey : “Ánh sáng rực rỡ hơn bất cứ gì bạn có thể tưởng tượng nổi. Không có lời nào để mô tả nó. Tôi cảm thấy hạnh phúc khôn tả. Ðấy là một cảm giác an lành, một cảm giác kỳ diệu. Ánh sáng chói lọi tới nỗi bình thường có thể làm lòa mắt bạn, nhưng sao nó không làm ta đau mắt chút nào” .

Những người khác kể lại, họ không những trông thấy ánh sáng, mà còn có thể nhập vào đó, và kể về cảm giác ấy như sau : “Tôi không có cảm giác mình là cái gì tách biệt với ánh sáng. Tôi chính là ánh sáng, và là một với nó” .

Một phụ nữ đã qua hai cuộc giải phẫu lớn trong trong hai ngày, đã kể cho Margot Grey : “Chỉ có tinh chất của tôi được cảm thấy. Thời gian không còn là cái gì cả, và không gian thì tràn đầy phúc lạc. Tôi được tắm trong ánh sáng rực rỡ và chìm ngập trong hào quang của ánh cầu vồng. Mọi sự đều tan hòa vào nhau. Những âm thanh thuộc về một trật tự khác, hòa điệu, không tên (bây giờ thì tôi gọi là âm nhạc) ”.

Một người đàn ông khác khi đạt đến giai đoạn thể nhập ánh sáng đã tả :

“Loạt biến cố sau đây dường như xảy ra đồng thời, nhưng khi mô tả thì tôi phải làm tuần tự. Tôi có cảm giác về một thực thể thuộc loại nào đó, một năng lực, đúng hơn là một con người, một trí tuệ mà ta có thể nói chuyện với. Về tầm vóc thì “thực thể ấy” chiếm trọn khoảng không gian trước mặt ta, nuốt chửng tất cả mọi sự, bạn cảm thấy bạn cũng được bao bọc trong đó.

Ánh sáng ấy liền nói với bạn, đọc được ngay những làn sóng tư tưởng bạn, không cần ngôn ngữ. Thông điệp đầu tiên tôi nhận được là “Hãy thư giãn, mọi sự đều tốt đẹp, con không có gì phải sợ hãi”. Tôi liền được hoàn toàn thoải mái. Trong quá khứ nếu một người nào, như một bác sĩ, nói “Không sao, bạn không có gì phải lo sợ, không đau đâu”, thì thường có đau, nên bạn không thể tin được. Nhưng đây lại là cái cảm giác kỳ tuyệt nhất mà tôi từng biết đến, đầy thuần túy là tình yêu. Mọi cảm giác đều toàn hảo. Bạn cảm thấy ấp áp, nhưng không dính gì đến thời tiết cả. Mọi sự ở đấy tuyệt đối sống động và sáng sủa. Cái mà ánh sáng truyền thông cho bạn là một cảm giác về tình yêu chân thật và thuần tịnh. Lần đầu tiên bạn cảm thấy điều ấy. Bạn không thể so sánh nó với tình yêu của vợ con bạn. Tất cả những tình yêu trên thế gian góp lại cũng không sánh được với cảm giác bạn có được từ nơi ánh sáng ấy” .

Một người đàn ông suýt chết đuối vào năm 14 tuổi, đã kể :

“Khi tôi đạt đến nguồn gốc của Ánh sáng, tôi có thể nhìn vào. Tôi không thể nào khởi sự mô tả bằng ngôn ngữ con người những cảm giác mà tôi có về những gì tôi trông thấy. Ðấy là một thế giới vô biên, đầy sự an tĩnh, năng lực, vẻ đẹp và tình yêu. Dường như đời người không quan trọng khi so sánh với cái này. Tuy vậy, “nó” nhấn mạnh tầm quan trọng của đời sống, đồng thời cũng xin cầu cái chết như một phương tiện để đạt đến một đời sống khác tốt đẹp hơn. Ðấy là tất cả vẻ đẹp và ý  nghĩa của mọi hiện hữu. Ðó là tất cả năng lực vũ trụ”.

Melvin Morse đã viết rất cảm động về kinh nghiệm cận tử của trẻ em, và kể lại cách chúng mô tả ánh sáng với sự hùng hồn đơn giản : “Cháu có một điều bí mật kỳ diệu để nói với chú. Cháu đã leo lên một cái thang bắc lên thiên đàng” . “Cháu chỉ muốn đi đến Ánh sáng ấy, quên thân thể cháu, quên tất cả mọi sự. Cháu chỉ muốn đạt đến Ánh sáng ấy” . “Có một Ánh sáng thực đẹp trong đó có đủ mọi điều tốt lành. Trong chừng một tuần lễ sau đó, cháu có thể thấy những tia nhỏ của Ánh sáng ấy nơi tất cả mọi sự” . “Khi cháu ra khỏi cơn hôn mê trong bệnh viện, cháu mở mắt và trông thấy những mẩu của Ánh sáng ấy ở khắp nơi. Cháu có thể thấy được mọi sự trong thế giới ăn khớp nhau như thế nào”.

 

Ðiểm tương đồng với Trung Ấm tái sanh

Trong kinh nghiệm cận tử, tâm tạm thời thoát khỏi thân xác, và kinh quá một số kinh nghiệm gần giống những gì mà một thân ý sanh trải qua trong cõi Bardo tái sanh.

1- Kinh nghiệm thoát xác

Kinh nghiệm cận tử thường khởi đầu bằng một kinh nghiệm thoát xác : người ta có thể trông thấy thân thể của chính họ, cũng như thấy hoàn cảnh chung quanh. Ðiều này trùng hợp với điều đã được nói trong Tử Thư :

“Tôi nhớ mình tỉnh dậy khỏi hôn mê, rồi trôi giạt và tự thấy mình đã ra khỏi xác, đang lơ lửng trên không nhìn xuống cái thân xác của tôi. Tôi chỉ biết mình có một óc não và đôi mắt, mà không nhớ đã có một xác thân” .

Một người đàn ông đã qua một cơn suy tim kể với Kenneth Ring : “Nó như thể là tôi đang ở trên không trung và chỉ có tâm tôi đang hoạt động. Không có cảm giác cơ thể, cũng như óc não tôi cũng ở trên không. Tôi không có gì ngoài tâm tôi. Mất trọng lượng, tôi không có gì cả” .

2- Ngắm nhìn thân quyến một cách vô vọng

Trong Trung Ấm tái sanh, tôi đã tả rằng những người chết có thể thấy và nghe bà con đang sống của họ, nhưng không thể nào liên lạc được với họ, và điều này làm họ tức tối. Một phụ nữ ở Florida kể cho Michael Sabom, nàng đã nhìn xuống mẹ nàng như thế nào, từ một điểm gần cái trần nhà : “Ðiều to tát nhất tôi nhớ được là tôi cảm thấy vô cùng buồn bã vì không thể làm sao để nói cho họ biết tôi không sao cả”.

Và một phụ nữ khác kể cho Michael Sabom : “Tôi đang ngồi tuốt trên cao nhìn chính tôi đang co giật, còn mẹ tôi và tớ gái thì la lớn lên vì họ tưởng tôi đã chết. Tôi thương hại cho họ... Một nỗi buồn vô tận. Nhưng tôi cảm thấy mình đã tự do ở trên cao ấy, và không lý gì để đau khổ” .

3- Thân thể toàn vẹn, Di động và Sáng suốt

Trong Tử Thư Tây Tạng, thân ý sanh ở trong Trung Ấm tái sanh được mô tả là “như một thân thể của thời đại hoàng kim” , và có năng lực di động và sáng suốt phi thường. Kinh nghiệm cận tử cũng thấy rằng hình dạng mà họ có là toàn vẹn và ở độ tuổi thanh xuân. “Tôi đang trôi nổi, và tôi là một người trẻ hơn rất nhiều... Cái cảm tưởng tôi lúc ấy là tôi có thể nhìn thấy chính mình qua một phản chiếu hay qua một cái gì đó mà làm cho tôi trẻ lại hơn 20 năm tuổi tôi lúc ấy” .

Họ cũng thấy mình có thể du hành rất nhanh, chỉ bằng năng lực của tâm ý. Một cựu chiến binh Việt Nam đã kể với Michael Sabom rằng :

“Tôi có cảm tưởng tôi nghĩ tới nơi nào là có mặt ngay ở đấy... Tôi khoái chí vì cảm giác về năng lực thần thông này. Tôi có thể làm bất cứ gì mình muốn... Ðiều ấy còn thực hơn là chuyện tôi hiện đang ở đây nữa, thực đấy”.

“Bỗng chốc tôi nhớ mình trở lại nơi chiến trường, chỗ tôi đã chết... Dường như thể là bạn hiện thân ra ngay ở đấy, rồi một giây sau, bạn đã ở đây, như một cái chớp mắt”.

Nhiều người chết đi sống lại cũng đã báo cáo họ có một cảm thức toàn tri “từ khởi thủy cho đến chung cuộc của thời gian”. Một phụ nữ kể với Rayond Moody : “Bỗng chốc, tôi có được hiểu biết về mọi sự từ vô thủy đến vô chung. Trong một giây, tôi có thể biết được bí mật của các thời đại, biết được ý nghĩa của vũ trụ, trăng sao, biết tất cả”.

“Có một giây phút trong đó dường như tôi biết tất cả mọi sự... Trong giây lát, ở đấy, dường như ngôn từ không cần thiết. Tôi nghĩ rằng tất cả điều gì tôi muốn biết là có thể biết ngay”.

“Khi ở đấy, tôi cảm thấy mình ở trung tâm điểm của sự vật. Tôi cảm thấy mình sáng suốt và trong sạch. Tôi cảm thấy mình có thể thấy được ý nghĩa cốt yếu trong mọi sự. Mọi sự đều khít khao, đều có ý nghĩa của nó, ngay cả những lúc đen tối nhất. Nó như thể là những mảnh vụn của một trò chơi nối ráp đã được kết lại vừa khít”.

4- Gặp gỡ người khác

Tử Thư Tây Tạng mô tả thân ý sanh trong Bardo tái sanh là có gặp những người chết khác trong cõi Trung Ấm tương tự, người chết đi sống lại cũng thường (trong lúc chết) có thể nói chuyện với người đã chết.

Cựu chiến binh Việt Nam kể cho Michael Sabom, khi ông ta nằm bất tỉnh trên chiến trường, ngắm cái thi thể mình :

“13 ba đứa đã bị tử trận vào ngày hôm trước, mà tôi đã cho vào túi nylon, bây giờ đang ở đấy với tôi. Hơn thế nữa, suốt trong tháng năm ấy, trung đoàn tôi chết 42 người. Tất cả 42 người đều có mặt ở đấy. Họ không ở trong hình dạng mà ta thấy như người thường... Nhưng tôi biết họ ở đấy. Tôi cảm thấy hiện diện của họ. Chúng tôi liên lạc với nhau không cần ngôn ngữ, lời nói”.

Một phụ nữ bị đứng tim vì thuốc gây mê trong lúc nhổ răng, đã nói :

“Khi ấy tôi thấy mình đang ở trong một phong cảnh đẹp đẽ, cỏ xanh hơn bất cứ thứ gì tôi đã thấy trên mặt đất, nó có một ánh sáng, một vẻ rực rỡ đặc biệt. Những màu sắc đẹp vượt ngoài mô tả, không có màu gì ở trên đời có thể so sánh được... Ở chỗ này, tôi thấy lại những người tôi biết đã chết. Không có lời trao đổi, nhưng dường như tôi biết được họ đang nghĩ gì, đồng thời tôi biết họ biết tôi đang nghĩ gì”.

5- Những cảnh giới khác nhau

Trong Bardo tái sanh, ngoài các loại thấy khác, thân ý sanh còn thấy được những ảnh tượng và dấu hiệu của những cảnh giới khác nhau. Một số ít trong những người chết đi sống lại thuật về những cảnh tượng của thế giới nội tâm, về những cõi thiên đường, đô thị ánh áng, với âm nhạc siêu trần.

Một phụ nữ kể với Raymond Moody :

“Ở tuốt đằng xa... tôi có thể trông thấy một đô thị. Có những tòa nhà riêng rẻ, sáng chói, rực rỡ. Người ta sống hạnh phúc trong đó. Có hồ nước, suối nước tung tóe... cả một đô thị ánh sáng, tôi có thể nói : thật tuyệt vời. Lại có âm nhạc tuyệt diệu. Mọi thứ đều sáng chói, diệu kỳ... Nhưng, nếu tôi vào trong đó, thì tôi nghĩ tôi đã không bao giờ trở lại... Tôi được bảo cho biết rằng nếu vào đấy thì tôi không thể trở về... rằng tôi có quyền quyết định”.

Một người khác kể với Margot Grey :

“Tôi dường như thấy mình ở trong một cái gì như là một dinh thự, nhưng tôi không thể nhớ được có tường vách nào. Chỉ có một ánh sáng vàng ròng lan khắp... Tôi để ý quanh tôi nhiều người dường như đang tản bộ, mỉm cười ; họ dường như không phải đang đi, mà họ đang lướt qua. Tôi không cảm thấy có gì ngăn cách với họ ; tất cả cảm giác tôi nhớ nhất về họ là, một cảm thức toàn triệt về nhất thể ; tôi là một phần của tất cả mọi thứ quanh tôi”.

6- Cảnh tượng địa ngục

Nhưng không phải tất cả mọi người chết đi sống lại đều mô tả những cảnh tượng tích cực lạc quan, vì bạn cũng đã thấy nói trong Tử Thư Tây Tạng. Vài người kể họ đã kinh quá những nỗi sợ hãi kinh hoàng, cô độc, buồn sầu ảm đạm, rất giống với cảnh tượng mô tả trong Trung Ấm tái sanh.

Theo báo cáo của Margot Grey, một người đã kể : họ “như bị hút vào trong một vực nước xoáy rộng lớn, đen ngòm”, và những người đã làm ác thì thấy mình đang du hành xuống phía dưới thay vì hướng lên trên, giống như Tử Thư mô tả những người sắp bị rơi vào những đọa xứ trong Trung Ấm tái sanh :

Tôi đang di chuyển như một phần của một dòng sông âm thanh - tiếng người lải nhải bất tận... Tôi thấy mình chìm vào trong đó, trở thành một phần của dòng nước và từ từ bị chìm ngập. Một nỗi kinh hoàng tóm lấy tôi, như thể tôi biết rằng một khi bị nuốt chửng bởi cái khối lượng tiếng ồn càng lúc càng tăng này, thì tôi sẽ chết mất.

Tôi đang dòm xuống một cái hố rộng sâu, đầy những sương mù cuồn cuộn. Từ dưới ấy có vô số những bàn tay và cánh tay vươn lên cố chụp bắt lấy tôi, kéo tôi vào đấy. Có tiếng rên siết kinh khủng, đầy tuyệt vọng.

(Trở về từ cõi chết, trang 32)

Những người khác kinh quá những điều mà ta chỉ có thể gọi là cảnh tượng địa ngục, với hơi nóng ngột ngạt và khí lạnh kinh hồn, và nghe những âm thanh của sự kêu la do bị hành hạ, hay tiếng gì như tiếng thú rừng. Theo báo cáo của Margot Grey, một phụ nữ đã kể :

“Tôi thấy mình ở một nơi xung quanh toàn là sương mù mờ mịt. Tôi cảm thấy mình đang ở địa ngục. Có một cái hố thật lớn từ trong đó hơi nóng tuôn ra, có những bàn tay và cánh tay đưa lên cố níu lấy tay tôi... Tôi kinh hoảng, sợ rằng bàn tay ấy sắp sửa tóm lấy tôi mà kéo vào trong địa ngục với họ... Từ phía khác, một con sư tử khổng lồ nhảy chồm về phía tôi, tôi thét lên. Tôi không sợ con sư tử, mà sợ nó sẽ làm cho tôi mất chân đứng và xô tôi vào cái hố sâu kinh khủng ấy... Dưới đó vô cùng nóng và luồng hơi dưới ấy tuôn lên cũng nóng khủng khiếp”.

(Grey, Trở về từ cõi chết, trang 63)

  Một người đàn ông bị đứng tim đã kể lại :

“Tôi đang đi xuống, xuống sâu trong lòng đất. Có nỗi giận dữ, và tôi cảm thấy sợ hãi vô cùng. Mọi sự đều một màu xám. Có tiếng ồn náo khủng khiếp như những con thú điên dại đang gầm gừ nghiến răng”.

(Trở về từ cõi chết, trang 70)

Raymond Moody viết : Có nhiều người cho rằng họ đã thấy những người dường như đã bị mắc bẫy do không thể đầu hàng cái khuynh hướng bám víu thế giới vật lý : tài sản, người, tập quán. Một phụ nữ nói về những con người “lạc loài” ấy như sau :

“Ðầu họ cúi xuống, họ có những vẻ buồn thảm tuyệt vọng, họ dường như đang lê bước, như bị xiềng chung lại với nhau, không biết mình đang đi đâu, không biết có ai để đi theo, hay có cái gì để tìm kiếm. Khi tôi đi qua, họ không buồn ngẩng lên nhìn xem cái gì. Họ dường như nghĩ : “Thôi, thế là xong. Tôi đang làm gì ? Tất cả chuyện này có nghĩa gì ?”. Chỉ thuần một tư thái vô vọng như thế, không biết mình phải làm gì, phải đi đâu, không biết mình là ai, hay gì cả. Họ dường như đi mãi, đi mãi tới trước, chứ không phải chỉ ngồi một chỗ, nhưng không có một hướng đặc biệt nào. Họ cứ đi thẳng tới, quay qua trái vài bước, rồi lại quay qua phải. Và tuyệt đối không có một việc gì để làm. Họ đang tìm kiếm, nhưng tìm cái gì tôi không biết được”.

(Moody, Tư duy, trang 19)

Trong những tường thuật mà ta có về kinh nghiệm cận tử, người ta thỉnh thoảng thấy có một ranh giới, một điểm ở đấy không thể có chuyện trở về. Ở ranh giới ấy, đương sự chọn lựa, hay được ánh sáng hiện diện bảo phải chọn lựa, trở về đời sống. Dĩ nhiên trong giáo lý Trung Ấm của Tây Tạng không có điều này, vì Tử Thư thì mô tả về những người đã chết thực sự. Tuy nhiên ở Tây Tạng có một số người gọi là déloks, cũng có cái gì gần giống với kinh nghiệm cận tử, và những gì họ thuật lại giống nhau một cách lạ lùng.

 

Délok : một kinh nghiệm cận tử của Tây Tạng

Một hiện tượng lạ lùng, ít được biết ở Tây phương, nhưng rất quen thuộc ở Tây Tạng, là délok. Tạng ngữ délok có nghĩa “trở về từ cõi chết”, và truyền thống délok là những người dường như “chết” do hậu quả một cơn bệnh, và tự thấy mình du hành trong cõi Trung Ấm. Họ đi thăm các cõi địa ngục, ở đấy họ chứng kiến sự phán xét người chết và những thống khổ ở địa ngục, và đôi khi họ lên thiên đường hay những cõi Phật. Họ có thể được một thiên thần mang đi, người bảo vệ họ và giải thích cho họ những gì xảy đến. Sau một tuần, người chết trở về thân xác với một thông điệp của Diêm vương gởi cho những người sống, giục họ phải tu hành và có một đời sống lợi lạc. Thông thường, những người déloks này rất khó mà làm cho người ta tin được những gì họ kể, và họ dành suốt đời còn lại để kể cho người khác nghe những kinh nghiệm của mình, để làm cho người ta tiến đến con đường tuệ giác. Có vài tiểu sử những déloks nổi tiếng được ghi lại thành vè, và được những người hát rong ca khắp xứ Tây Tạng. Một số khía cạnh của kinh nghiệm những déloks không những tương đương với giáo lý Trung Ấm trong Tử Thư Tây Tạng, mà còn tương đương với kinh nghiệm cận tử.

Lingza Chokyi là một délok nổi tiếng, xuất thân từ vùng quê tôi ở Tây Tạng và sống vào thế kỷ 16. Trong tiểu sử của bà, bà kể rằng bà không nhận ra mình đã chết, bà thấy mình thoát xác, thấy xác một con heo nằm trong giường bà, mặc áo quần của bà. Bà cuống cuồng cố một cách vô vọng để liên lạc với gia đình, khi họ đang khởi sự công việc cầu nguyện cho cái chết của bà. Bà đâm ra tức giận họ, khi họ tỉnh bơ không để ý gì tới mình, và không dọn thức ăn cho mình. Khi những con cái bà khóc lóc, bà cảm thấy như “một trận mưa đá đầy cả máu mủ” tuôn xuống, làm cho bà đau đớn vô cùng. Bà cho chúng ta biết bà rất vui khi thấy làm lễ cầu siêu cho bà, và cuối cùng một niềm hạnh phúc vô lượng dâng lên khi bà đến trước bậc thầy đang làm lễ cho bà, đang an trú trong tự tánh tâm, và khi ấy tâm bà với tâm thầy trở thành một.

Sau một lúc bà nghe tiếng gọi của người mà bà nghĩ là thân phụ mình, và bà đi theo ông. Bà đến cõi Trung Ấm, mà bà trông giống như một xứ sở. Từ đấy, bà kể, có một cây cầu dẫn xuống các cõi địa ngục, nơi mà Diêm vương đang kể những hành vi thiện ác của người chết. Trong cõi này, bà gặp nhiều người kể cho bà nghe chuyện của họ, và bà trông thấy một thiền giả vĩ đại đã xuống địa ngục để giải cứu các chúng sanh.

Cuối cùng Lingza Chokyi được trả về thế gian, vì có sự lầm lẫn về lý lịch, bà chưa tới số chết. Với thông điệp từ Diêm vương cho những người sống, bà trở về nhập xác và bình phục. Bà đã dành cuộc đời còn lại để kể những gì bà đã học được. Hiện tượng délok không chỉ có trong quá khứ, mà vẫn tiếp diễn đến rất gần đây, ở Tây Tạng. Ðôi khi một người như vậy rời bỏ thân xác chừng một tuần, gặp những người đã chết, đôi khi là những người họ hoàn toàn không quen biết. Những người này gửi gắm những thông điệp để mang về trần gian cho bà con họ, bảo bà con phải làm lễ này, lễ nọ nhân danh họ. Người chết hụt khi trở về sẽ nói lại những thông điệp ấy cho những thân quyến của người kia. Ở Tây Tạng, việc này được xem là thường, và có những phương pháp tinh vi để thử xem nhữngn gười sống lại ấy là thật hay giả. Con gái của Dilgo Khientse Rinpoche kể cho Francoise Pommaret, tác giả một quyển sách về các délok, rằng ở Tây Tạng, trong khi người délok đang trải qua cơn hôn mê, thì các lỗ trên thân xác của họ được bít lại bằng bơ và bột lúa mạch trát lên mặt họ. Nếu bơ không chảy ra, mặt nạ lúa mạch không nứt ra thì vị délok ấy được xác nhận là có chết thực. Truyền thống déloks vẫn tiếp tục ở Tây Tạng và vùng Hy Mã Lạp Sơn cho đến ngày nay. Những déloks là những người hoàn toàn bình thường, thường là những phụ nữ sùng tín. Họ “chết” vào những ngày đặc biệt trong lịch Phật giáo, chết đi vài giờ, và nhiệm vụ chính của họ là làm những sứ giả giữa người chết với người sống.

 

Thông điệp của kinh nghiệm cận tử

Như ta đã thấy, có những giống nhau giữa kinh nghiệm cận tử và giáo lý về cõi trung gian, nhưng cũng có những khác nhau. Sự khác nhau lớn nhất dĩ nhiên là người có kinh nghiệm cận tử chưa thực chết, trong khi giáo lý Bardo thì nói về những gì xảy ra sau khi thân xác thực sự chết, và khi họ tái sanh. Sự kiện rằng kinh nghiệm cận tử không tiếp tục đi cuộc hành trình xa hơn vào cõi chết - vài người nói họ chỉ “chết” trong một phút - phần nào giải thích được sự khác nhau giữa hai bên.

Vài người cho rằng kinh nghiệm cận tử diễn tả những giai đoạn của tiến trình tan rã trong Bardo  cái chết. Tôi nghĩ còn quá sớm để cố liên hệ kinh nghiệm cận tử một cách chính xác với các mô tả về Trung Ấm, vì người kinh quá kinh nghiệm cận tử chỉ có “suýt” chết mà thôi. Tôi thuật cho thầy Dilgo Khientse Rinpoche tính chất kinh nghiệm cận tử, và thầy gọi đó là một hiện tượng thuộc về cõi trung gian tự nhiên của cuộc đời này, vì tâm thức chỉ tạm rời khỏi thân xác của người “chết” và lang thang trong các cõi.

Dilgo Khientse Rinpoche ngụ ý rằng những người chết đi sống lại đang kinh quá sự chết lâm sàng ở trong cõi trung gian tự nhiên của đời này. Có lẽ họ đang ở ngưỡng cửa của các cõi Trung Ấm, chứ chưa thực sự đi vào trong ấy rồi trở về. Dù họ kinh quá những gì đi nữa, họ cũng vẫn đang còn trong phạm vi Bardo tự nhiên của đời này. Kinh nghiệm về ánh sáng của họ có giống với sự xuất hiện Ánh sáng Căn bản chăng ? Có thể chăng ngay trước khi mặt trời to rộng ấy mọc lên, họ đã nhìn thấy được những tia sáng đầu tiên của bình minh ?

Dù ý nghĩa tối hậu của những chi tiết kinh nghiệm cận tử ra sao, tôi vẫn rất xúc động trước nhiều báo cáo mà tôi đã đọc hoặc nghe nói, nhất là trước những thái độ tuôn phát từ những kinh nghiệm ấy, những thái độ đã phản ảnh một cách phong phú nhân sinh quan của đạo Phật. Hai thái độ tôi đã đề cập là sự chuyển hóa sâu xa, sự bừng tỉnh về tâm linh xảy ra nơi những người chết đi sống lại, và những ý nghĩa mà “toàn cảnh cuộc đời” đem lại cho đời sống chúng ta. Tất cả những người chết đi sống lại đều có cái kinh nghiệm này, thấy toàn cảnh cuộc đời mình diễn lại, và điều ấy chứng minh rõ ràng tính cách không thể trốn tránh của nghiệp, những hậu quả lâu xa và mãnh liệt của tất cả hành động, lời nói và ý nghĩ chúng ta. Thông điệp chính mà những người chết đi sống lại đem về cuộc đời này, hay hiện diện của “thực thể ánh sáng”, là giống hệt như thông điệp của Phật và giáo lý Trung Ấm : những đức tính cốt yếu và quan trọng nhất trong đời là yêu thương và hiểu biết, từ bi và trí tuệ. Những người ấy chắc chắn bắt đầu thấy cái mà giáo lý Trung Ấm dạy chúng ta rằng : sống và chết ở ngay trong tâm. Và niềm tin mà phần nhiều họ có được sau khi chết đi sống lại cũng phản chiếu phần nào cái tri kiến sâu xa hơn của họ.

Còn có những tương đồng lạ lùng giữa kinh nghiệm cận tử và hậu quả nó, với những trạng thái thần bí và tâm thức đổi khác. Chẳng hạn, một số hiện tượng bất thường đã được những người chết đi sống lại báo cáo. Một vài người sau đó đã có những linh kiến tiên tri, nói trước nhiều việc xảy ra trong đời mà về sau quả đã thành sự thực. Sau khi chết đi sống lại, nhiều người dường như kinh quá năng lực kundalini, nhiều người cảm thấy họ có năng lực thần thông hoặc chữa lành bệnh tật.

Nhiều người sống lại đã nói một cách lưu loát về vẻ đẹp, tình yêu, sự bình an, hạnh phúc và trí tuệ của cái mà họ đã trải qua trong giây phút chết. Với tôi, điều này có vẻ như họ có được một thoáng nhìn thấy vẻ sáng chói của tự tánh tâm, và do vậy không đáng ngạc nhiên chút nào khi cái nhìn ấy đã đem lại sự chuyển hóa tâm linh nơi họ. Nhưng như Margot Grey nhận xét : “Chúng ta không cần phải đợi suýt chết mới kinh quá được một thực tại tâm linh cao cả”. Thực tại ấy ở ngay đây, vào lúc này, trong cuộc đời, nếu ta có thể khám phá và thể nhập.

Tôi lại muốn đưa ra một đề phòng cốt yếu : Xin bạn đừng để những tường thuật về kinh nghiệm cận tử - dù cũng khá hấp dẫn thật đấy - ru ngủ bạn đến chỗ tin rằng muốn an trú trong những trạng thái thanh bình an lạc ấy, bạn chỉ cần chết là được. Không phải và không thể giản dị thế đâu.

Ðôi khi người ta gặp lúc quá đau khổ, tưởng chừng không chịu nổi nữa, mà nghe nói về những kinh nghiệm cận tử, họ có thể bị cám dỗ chấm dứt mọi sự bằng cách tự sát. Ðiều này có vẻ là một cách giải quyết đơn giản, nhưng họ quên một sự kiện rằng, bất cứ cái gìø ta trải qua đều là một phần của cuộc đời. Không thể trốn chạy. Nếu trốn chạy kiểu đó, bạn sẽ phải đối mặt với nỗi đau khổ một cách sâu đậm hơn về sau.

Ngoài ra, trong khi quả thực đa số kinh nghiệm cận tử được sưu tập đều là những kinh nghiệm tốt đẹp, ta vẫn phải còn xét lại xem điều này nó có nghĩa là có rất hiếm kinh nghiệm ghê gớm, tiêu cực, hay chỉ có nghĩa là những kinh nghiệm này khó nhớ lại. Có thể người ta không muốn nhớ lại những chuyện đen tối khủng khiếp. Lại nữa, những người có kinh nghiệm cận tử cũng nhấn mạnh rằng, điều mà họ học được là sự quan trọng của việc cải hóa cuộc đời ngay bây giờ, khi ta còn sống, vì họ bảo, chúng ta “có một sứ mạng quan trọng hơn trong lúc ta ở trên đời” .

Sự chuyển hóa cuộc đời ta ngay bây giờ là điều cấp thiết cốt yếu. Phải chăng thực là bi đát nếu cái thông điệp cốt tủy này của kinh nghiệm cận tử - rằng đời sống là thiêng liêng, và cần phải sống một cách nhiệt tình, có mục đích - lại bị che lấp, bị mất hút trong thái độ hời hợt là thi vị hóa cái chết ? Và có phải càng bi đát hơn, nếu thái độ lạc quan dễ dãi ấy càng đào sâu thêm thói xem nhẹ trách nhiệm đối với bản thân và với cuộc đời, một thói đang đe dọa sự sống còn của hành tinh trái đất ?

 

Ý nghĩa kinh nghiệm cận tử

Dĩ nhiên vài người cố tình chứng minh rằng những chuyện xảy ra trong lúc chết đi sống lại không có gì là kinh nghiệm tâm linh cả. Những nhà khoa học cố giải thích quấy quá những kinh nghiệm ấy là do những ảnh hưởng vật lý, thần kinh, hóa học hay tâm lý. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, cũng là bác sĩ và khoa học gia, thì lại bác bỏ từng điểm một của giải thích ấy một cách minh bạch, và nhấn mạnh rằng họ không thể giải thích toàn thể kinh nghiệm cận tử. Melvin Morse viết cuốn tác phẩm vĩ đại của ông “Gần ánh sáng hơn” , học từ kinh nghiệm cận tử của trẻ em :

“Nhưng kinh nghiệm cận tử có vẻ là một chùm biến cố mà người ta không thể hiểu được toàn diện bằng cách nhìn từng mảnh vụn khác nhau của nó. Ta không thể hiểu âm nhạc bằng cách nghiên cứu những tần số âm thanh khác nhau đã tạo nên mỗi nốt nhạc, ta cũng không cần phải thấu hiểu vật lý học về âm thanh mới thưởng thức được Mozart. Kinh nghiệm cận tử vẫn còn là một sự huyền bí”. (tr.40)

Melvin Morse còn nói :

“Tôi nghĩ rằng chỉ cốt hiểu được kinh nghiệm cận tử, đó là bước đầu của chúng ta để hàn gắn sự phân chia lớn lao giữa khoa học và tôn giáo, khởi đầu với Isaac Newton gần 300 năm trước. Việc giáo dục những y sĩ, điều dưỡng viên, và chính chúng ta về những gì người ta kinh quá vào những giờ phút cuối cùng ấy, sẽ lung lay tận gốc những thành kiến ta trong đường lối suy nghĩ của ta về y học và đời sống”.

Nói cách khác, tiến bộ thực sự của kỹ thuật y khoa đồng thời cung cấp phương tiện cho nó tự cách mạng chính nó. Melvin Morse nói :

“Tôi thấy điều thực mỉa mai là chính kỹ thuật y khoa của chúng ta đã đưa đến vô số những kinh nghiệm cận tử như thế... Trải hàng thế kỷ, đã có nhiều kinh nghiệm cận tử, nhưng chỉ có 20 năm sau này ta mới có được kỹ thuật để phục sinh bệnh nhân. Bây giờ họ đang kể cho chúng ta nghe những kinh nghiệm của họ, vậy ta hãy lắng nghe họ nói. Ðiều này tôi cho là một thử thách cho xã hội ta... Kinh nghiệm cận tử, theo tôi nghĩ, là tiến trình tâm lý tự nhiên liên hệ đến cái chết. Tôi dám tiên đoán rằng, nếu ta có thể hội nhập tri kiến này vào đời sống xã hội ta, thì không những nó sẽ giúp cho những bệnh nhân sắp chết, mà còn giúp cho xã hội nói chung. Tôi thấy y khoa ngày nay thiếu hẳn tâm hồn... Không có lý do nào kỹ thuật và tâm linh không thể hiện hữu bên nhau được”.

Một trong những lý do tôi viết sách này là để chứng tỏ tôi tin điều Melvin Morse nói là có thể thực hiện. Kỹ thuật và tâm linh có thể, và cần phải, hiện hữu song hành, nếu ta muốn phát triển tiềm năng con người chúng ta một cách toàn vẹn. Phải chăng một nền khoa học nhân bản hoàn toàn hữu ích sẽ có can đảm khám phá những dữ kiện huyền bí về cái chết, những dữ kiện được khải thị trong kinh nghiệm cận tử và trong sách này ?

Bruce Greyson, một trong những tác giả quan trọng trong ngành nghiên cứu kinh nghiệm cận tử đã nói :

“Khoa học nên cố giải thích kinh nghiệm cận tử, vì trong đó có chìa khóa của sự tăng tiến khoa học... Lịch sử đã cho ta thấy chỉ nhờ cố giải thích những hiện tượng vượt ngoài tầm của ta mà khoa học đã phát huy được những phương pháp mới. Tôi tin kinh nghiệm cận tử là một trong những nạn để có thể bắt buộc các nhà khoa học phải phát triển một phương pháp mới, một phương pháp bao gồm một nguồn tri thức, không những chỉ tri thức lô-gích của học giả, hay quan sát thực nghiệm của nhà vật lý, mà còn cả kinh nghiệm trực giác của nhà thần bí nữa”.

Bruce Greyson cũng nói, ông tin kinh nghiệm cận tử xảy ra vì một lý do : “Căn cứ trên sự canh chừng những kinh nghiệm cận tử bao năm nay, tôi nghĩ rằng chúng ta có những kinh nghiệm như thế là để mà học cách giúp đỡ người khác”.

Kenneth Ring lại con thấy một khả năng và ý nghĩa kỳ diệu trong kinh nghiệm cận tử. Ông ta hỏi tại sao ngày nay có quá nhiều người có kinh nghiệm ấy như vậy, và có sự chuyển hóa tâm linh vào thời đại này. Trong nhiều năm làm một trong những tiên phong gan dạ nhất trong lĩnh vực nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, ông đã dần dần thấy kinh nghiệm cận tử như là “sứ giả của hy vọng”, nó cho thấy một thực tại tâm linh cao cả hơn, và nhắc nhở chúng ta thay đổi một cách khẩn thiết mọi khía cạnh của lối sống ta hiện tại ; nhắc ta chấm dứt mọi tranh chấp, chia rẽ giữa những tôn giáo, dân tộc, và bảo vệ, cứu lấy sinh môi.

“Tôi tin rằng nhân loại nói chung đang cùng nhau nỗ lực để thức dậy một hình thái tâm thức mới mẻ hơn và cao cả hơn, và kinh nghiệm cận tử có thể được xem như một phương tiện tiến hóa để đem lại sự thay đổi này, qua thời gian vài năm, trong hàng triệu con người”.

(Tiến về Omega, tr.7)

Có thể rằng điều này đúng hay không, còn tùy ở tất cả chúng ta : chúng ta có thực can đảm đối diện với những ý nghĩa hàm ẩn trong kinh nghiệm cận tử và giáo lý về Trung Ấm hay không, và có thể nhờ sự cải hóa mình, mà chuyển hóa được thế giới xung quanh ta, - và lần lượt qua từng giai đoạn, chuyển hóa toàn thể tương lai nhân loại - hay không.