[01]
        
LỄ UPOSATHA
(Bố-Tát hay Trai Giới)
        Luật 
qui định, các vị Tỳ-kheo mỗi nửa tháng một lần phải họp mặt để 
tụng đọc 
giới bổn pāṭimokkha. Ngày uposatha được ấn định là
ngày 
rằm và cuối tháng theo âm lịch.
        Có 3 trường hợp Bố-tát:
        1. Saṅgha-uposatha,
tăng bố-tát. Tức là hội chúng có 4 vị Tỳ-kheo trở lên họp 
mặt nơi 
Sīmā làm bố-tát; Tăng bố-tát phải làm theo cách tụng giới 
bổn 
Pāṭimokkha.
        2. Gaṇa-uposatha, 
nhóm bố-tát. Tức là hội chúng chỉ có 2 hoặc 3 vị Tỳ-kheo họp mặt
làm 
bố-tát; Trường hợp này không tụng giới mà chỉ làm bố-tát tỏ 
thanh tịnh
(parisuddhi-uposatha) với nhau.
        3. Puggala-uposatha, 
người bố-tát. Tức là chỉ đơn độc một vị Tỳ-kheo trong ngày 
bố-tát, không 
tụng giới cũng không tỏ thanh tịnh, mà chỉ bố-tát chú nguyện (adhitthāna-uposatha).
        
        -ooOoo-
        
CÁCH THỨC 
SAṄGHA-UPOSATHA
        Trước khi tụng giới phải 
cử hai vị Tỳ-kheo thông hiểu đứng ra hỏi và đáp các luật lệ 
trong ngày 
bố-tát.
        CÁCH VẤN ÐÁP NHƯ SAU:
        Vấn: Namo tassa bhagavato arahato 
sammā-sambuddhassa ... Suṇātu me bhante saṅgho yadi saṅghassa 
pattakallaṃ ahaṃ āyasmantaṃ "itthan-nāmaṃ" vinayaṃ puccheyyaṃ.
        Kính lễ Ðức Thế Tôn Ưng Cúng Chánh Biến Tri ... 
Bạch Ðức Tăng, xin Tăng hãy nghe tôi trình, nếu đã hợp thời với 
Tăng, 
tôi xin được hỏi luật Tôn-giả tên vậy.
        Ðáp: Namo tassa bhagavato arahato 
sammā-sambuddhassa ... Suṇātu me bhante saṅgho yadi 
saṅghassa 
pattakallaṃ ahaṃ āyasmatā "itthannā-mena" vinayaṃ puṭṭho 
vissajjeyyaṃ
        Kính lễ Ðức Thế Tôn Ưng Cúng Chánh Biến Tri ... 
Bạch Ðức Tăng, xin Tăng hãy nghe tôi trình, nếu đã hợp thời với 
Tăng, 
tôi phải đáp luật do Tôn-giả tên vậy đã hỏi.
        Vấn: Sammajjanī padīpo ca udakaṃ āsanena 
ca uposathassa etāni pubbakaranan'ti vuccati. Ukāsa sammajjanī?
        Việc quét dọn, đèn đuốc, nước nôi, chỗ ngồi, các 
việc đó là tiền sự trong ngày bố-tát. Vậy sự quét dọn là gì?
        Ðáp: Sammajjanakaranañca.
Là việc lau bụi quét rác sạch sẽ chỗ hành lễ.
        Vấn: Padīpo ca?
Sao là đèn đuốc?
        Ðáp: Padīpa-ujjalanañca. Idāni 
suriyālokassa natthitāya padīpakiccaṃ atthi. (hay là idāni
suri-yālokassa atthitāya padīpakiccaṃ natthi)
        Là việc thắp đèn đốt đuốc cho sáng. Bây giờ 
không có ánh sáng mặt trời, phải có đèn. (bây giờ giờ có ánh 
sáng mặt 
trời, không cần thắp đèn).
        Vấn: Udakaṃ āsanena ca?
Nước và chỗ ngồi là sao?
        Ðáp: Āsanena saha pānīyaparibhojanīya 
uda-kaṭṭhapanañca.
Là sự sắp đặt nước uống, nước rửa cùng với tọa cụ trải ngồi nơi 
hành lễ.
        Vấn:
Uposathassa
etāni 
pubbakaraṇan'ti vuccati?
Sao gọi là những tiền sự trong ngày bố-tát?
        Ðáp: Etāni cattāri vattāni 
sammajjanakara-ṇādīni saṅghasannipātato paṭhamaṃ kattabbattā 
uposathassa 
uposathakammassa pubbakaraṇan'ti vuc-cati pubbakaraṇānī'ti 
akkhātāni.
        Ðược gọi là tiền sự của Ngày bố-tát, vì bốn công 
việc đó như là quét dọn, v.v ... cần phải làm xong trước khi 
Tăng tụ 
họp. Nói rằng tiền sự là thế.
        Vấn: Chandapārisuddhi utukkhānaṃ 
bhik-khugaṇanā ca ovādo uposathassa etāni pubbakiccan'ti vuccati
chandapārisuddhi?
        Trình lời thoả hiệp, tỏ sự thanh tịnh, kể mùa 
tiết, đếm tăng số, việc giáo giới, những việc đó gọi là "tiền 
phận sự" 
của lễ bố-tát. Việc trình lời thoả hiệp và tỏ sự thanh tịnh là 
sao?
        Ðáp: Chandārahānaṃ bhikkhūnaṃ 
chanda-pārisuddhi āharanañca. Idha natthi.
        Là sự đem trình Tăng lời thoả hiệp và tịnh hạnh 
của những vị Tỳ-kheo đáng gởi lời 
[1].
Hôm nay không có 
[2].
        Vấn: Utukkhānaṃ?
Việc kể mùa tiết?
        Ðáp: Hemantādīnaṃ tiṇṇaṃ utūnaṃ etta-kaṃ 
atikkantaṃ ettakaṃ avasiṭṭhan'ti evaṃ utu ācikkhanaṃ utūnī'dha 
pana 
sāsane hemantagimha-vassānānaṃ vasena tīni honti.
        Ayaṃ hemanta-utu 
asmiṃ utumhi aṭṭha uposathā. Iminā pakkhena eko uposatho 
sampatto natthi 
uposatho atikkanto satta uposathā avasiṭṭhā.
        Trong Phật giáo có ba mùa: mùa lạnh, mùa nóng và 
mùa mưa, việc kể mùa tiết như sau, kể rằng đây là mùa nào trong 
ba mùa, 
đã trải qua bao nhiêu kỳ bố-tát? còn lại bao nhiêu kỳ? chẳng hạn
như:
        "Ðây là mùa lạnh, trong mùa này có tám kỳ 
bố-tát, nay là một kỳ bố-tát đang diễn ra, chưa có kỳ bố-tát nào
trải 
qua, vậy còn lại bảy kỳ bố-tát nữa". 
[3]
        Vấn: Bhikkhugaṇanā ca?
Việc đếm tăng số?
        Ðáp: Imasmiṃ uposathagge sannipati tānaṃ 
bhikkhūnaṃ gaṇanā "cattāro" bhikkhū honti.
Tại phòng bố-tát này có số lượng tỳ-kheo tụ hội là "bốn" 
[4]
vị tỳ-kheo.
        Vấn: Ovādo?
Việc giáo giới?
        Ðáp: Bhikkhunīnaṃ ovādo dātabbo. idāni 
pana tāsaṃ natthitāya so ca ovādo idha natthi.
        Là việc phải dạy đạo chư Tỳ-kheo ni. Nhưng hiện 
nay vì Tỳ-kheo ni không còn nữa nên việc dạy đạo ấy không có.
        Vấn: 
Uposathassa etāni 
pubbakiccan'ti vuccati?
        Sao gọi rằng các việc 
đó là tiền phận sự của lễ bố-tát?
        Ðáp: 
Etāni pañca kammāni 
chandāharaṇā-dīni 
pāṭimokkhuddesato paṭhamaṃ kattabbattā upo-sathassa 
uposathakammassa 
pubbakiccan'ti vuccati pubbakiccānī'ti akkhātāni.
        Gọi là tiền phận sự 
của lễ bố-tát, tức nói đến các phận sự tiên khởi của lễ bố-tát, 
năm việc 
đó như là đem trình lời thoả hiệp v.v ... cần phải làm xong 
trước khi 
tụng giới bổn.
        Vấn: 
uposatho yāvatikā ca bhikkhū 
kam-mappattā 
sabhāgāpattiyo ca na vijjanti vajjanīyā ca puggalā tasmiṃ na 
honti 
pattakallan'ti vuccati. Uposatho?
        Ngày bố-tát, chừng ấy Tỳ-kheo làm được tăng sự, 
không có đồng tội, trong chúng không có hạng người cần tránh, 
như thế 
gọi là hợp thời. Ngày bố-tát là gì?
        Ðáp: 
Tīsu uposathadivasesu 
catuddasīpaṇ-ṇara 
sīsamaggīsu. Ajjuposatho "paṇṇaraso".
        Có ba ngày làm bố-tát là ngày 14, ngày rằm và 
ngày hòa hợp tăng 
[5].
Ngày bố-tát hôm nay là "ngày rằm" 
[6]
        Vấn: 
Yāvatikā ca bhikkhū kammappattā?
Chừng nhiêu vị Tỳ-kheo làm được tăng sự?
        Ðáp: Yattakā ca bhikkhū tassa 
uposatha-kammassa pattāyuttā anurūpā sabbantimena paric-chedena 
cattāro 
bhikkhū pakatattā saṅghena anuk-khittā te ca kho hatthapāsaṃ 
avijjahitvā 
ekasīmā-yaṃ ṭhitā.
        Tối đa bao nhiêu vị Tỳ-kheo cũng được, cũng 
thích hợp làm tăng sự bố-tát cả, nhưng tối thiểu cũng là bốn vị 
Tỳ-kheo 
thanh tịnh không bị tăng nghị tội, và các vị ấy cùng trụ trong 
một giới 
Sīmā không cách biệt hắc tay.
        Vấn: 
Sabhāgāpattiyo ca na vijjanti?
Không có đồng tội là sao?
        Ðáp:
Vikālabhojanādivatthu sabhāgāpattiyo ca na vijjanti.
Là không có các tội bị phạm giống nhau như thể 
đồng phạm 
tội ăn phi thời chẳng hạn.
        Vấn: Vajjanīyā ca puggalā tasmiṃ na 
honti?
Trong chúng không có hạng người cần tránh là sao?
        Ðáp: gahaṭṭhapaṇḍakādayo ekavīsati 
vajja-nīyapuggalā hatthapāsato bahikaraṇavasena vajje-tabbā 
tasmiṃ na 
honti.
        Là trong chỗ tăng hội ấy không có 21 hạng người 
phải cách ly chẳng hạn như người thế tục, người bộ nấp v.v...
[7]
nên cách xa ngoài hắc tay.
        Vấn:
Pattakallan'ti vuccati?
Sao gọi là hợp thời?
        Ðáp: Saṅghassa uposathakammaṃ imehi 
ca-tūhi lakkhaṇehi saṅgahitaṃ pattakallan'ti vuccati 
pattakālavantan'ti 
akkhātaṃ.
        Gọi là hợp thời, tức nói đến tặng sự đúng thời 
điểm để làm, như việc bố-tát của tăng đã hội đủ bốn yếu tố này 
vậy.
        *
        Khi hỏi luật xong, vị vấn phải bạch thỉnh tụng giới 
như sau:
        Pubbakaraṇapubbakiccāni samāpetvā 
desitā-pattikassa samaggassa bhikkhusaṅghassa anumatiyā 
paṭimokkhaṃ 
uddisituṃ ārādhanaṃ karomi.
        Sau khi hoàn tất các 
tiền sự và phận sự tiên khởi, với sự đồng ý của tỳ-kheo tăng hòa
hợp và 
đã phát lồ tội lỗi, tôi cầu thỉnh tụng giới bổn.
        *
        Sau khi vấn đáp luật xong, một vị sẽ bắt đầu tụng 
giới (pāṭimokkhuddeso).
        Tụng giới, phải tụng thứ lớp năm phần uddesa 
là:
        
          1. Nidānuddesa. 
Thuyết giới khởi.
2. Pārājikuddesa. Thuyết giới triệt khai.
3. Saṅghādisesuddesa. Thuyết giới tăng tàng.
4. Aniyatuddesa. Thuyết giới bất định.
5. Vitthāruddesa. Thuyết giới tổng trì.
        
        Tụng xong cả năm phần ấy mới tụng kết.
        Trường hợp có điều trở ngại (antarāyika) thì 
được phép tụng giới tóm tắt.
        -ooOoo-
         THUYẾT 
DUYÊN KHỞI
(Nidānuddeso)
        Namo tassa bhagavato 
arahato sammāsam-buddhassa ...
        Kính lễ Ðức Thế Tôn 
bậc ưng cúng đấng chánh đẳng giác.
        Suṇātu me bhante saṅgho ajj'uposatho 
"paṇ-ṇaraso" 
[8].
yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho upo-sathaṃ kareyya pātimokkhaṃ
uddiseyya.
        Kiṃ saṅghassa pubbakiccaṃ? pārisuddhiṃ āyasmanto 
ārocetha pāṭimokkhaṃ uddisissāmi taṃ sabb'eva santā sādhukaṃ 
suṇoma 
manasikaroma yassa siyā āpatti so āvikareyya asantiyā āpattiyā 
tuṇhī 
bhavitabbaṃ. Tuṇhī bhāvena kho pan'āyas-mante parisuddhā'ti 
vedissāmi. 
yathā kho pana paccekapuṭṭhassa veyyākaraṇaṃ hoti. Evamevaṃ 
evarūpāya 
parisāya yāvatatiyaṃ anussāvitaṃ hoti. Yo pana bhikkhu 
yāvatatiyaṃ 
anussāviyamāne sara-māno santiṃ āpattiṃ n'āvikareyya 
sampajāna-musāvādassa hoti sampajānamusāvādo kho pan' āyasmanto 
antarāyiko dhammo vutto bhagavatā tas-mā saramānena bhikkhunā 
āpannena 
visuddhā-pekkhena santī āpatti āvikātabbā āvikatā hi'ssa phāsu 
hoti.
        Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto nidānaṃ.
        Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha 
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
        Parisuddh'etth'āyasmanto tasmā tuṇhī evame-taṃ 
dhārayāmi.
        Nidānuddeso niṭṭhito.
        
*
        Bạch Ðại Ðức Tăng, 
xin Tăng hãy nghe tôi nói, hôm nay là lễ bố-tát ngày rằm. Nếu đã
hợp 
thời, chúng tăng có thể cử hành lễ bố-tát thuyết giới 
ba-đề-mộc-xoa.
        Phận sự trước tiên của Tăng là gì? là các Tôn 
giả hãy bày tỏ sự thanh tịnh, tôi sẽ thuyết giới ba-đề-mộc-xoa. 
Khi tất 
cả thanh tịnh hãy lắng nghe hãy khéo tác ý giới bổn; vị nào có 
tội lỗi 
phải sám hối, vị không có tội thì nên im lặng. Do sự im lặng mà 
tôi biết 
rằng các Tôn-giả được thanh tịnh. Cũng như một người bị cật vấn 
phải trả 
lời thế nào thì cũng vậy giữa hội chúng nầy sẽ được bố cáo ba 
lần. Vị 
Tỳ-kheo nào khi được bố cáo ba lần,nhớ mà chẳng sám hối tội lỗi 
thì vị 
ấy phạm lỗi biết vẫn nói dối; Thưa các Tôn giả, sự biết vẫn nói 
dối là 
một pháp chướng ngại mà Ðức Thế Tôn đã nói; bởi thế với vị 
Tỳ-kheo đã 
phạm tội nhớ ra và muốn thanh tịnh thì cần phải sám hối tội lỗi,
khi đã 
sám hối thì vị ấy có sự an vui.
        Thưa chư Tôn giả, 
duyên khởi đã nói xong.
        Ở đây tôi xin hỏi các 
Tôn Giả; các vị có được thanh tịnh chăng? Tôi hỏi lần thứ nhì, 
các vị có 
được thanh tịnh chăng? Tôi hỏi lần thứ ba, các vị có được thanh 
tịnh 
chăng?
         DỨT PHẦN 
THUYẾT DUYÊN KHỞI.
        
        -ooOoo-
         THUYẾT 
GIỚI TRIỆT KHAI
(Pārājikuddeso)
        Tatr'ime cattāro 
pārājikā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
        1. Yo pana bhikkhu bhikkhūnaṃ 
sikkhāsājī-vasamāpanno sikkhaṃ appaccakkhāya dubbalyaṃ 
anāvikatvā 
methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyya anta-maso tiracchānagatāyapi 
pārājiko hoti 
asaṃvāso.
        2. Yo pana bhikkhu gāmā vā araññā vā adinnaṃ 
theyyasaṅkhātaṃ ādiyeyya yathārūpe adin-nādāne rājāno coraṃ 
gahetvā 
haneyyuṃ vā ban-dheyyuṃ vā pabbājeyyuṃ vā coro'si bālo'si mūḷho'
si 
theno'sī'ti tathārūpaṃ bhikkhu adinnaṃ ādiyamāno ayampi pārājiko
hoti 
asaṃvāso.
        3. Yo pana bhikkhu sañcicca manussavigga-haṃ 
jīvitā voropeyya satthahārakaṃ vā'ssa pariye-seyya maraṇavaṇṇaṃ 
vā 
saṃvaṇṇeyya maraṇāya vā samādapeyya ambho purisa kiṃ tuyh'iminā 
pāpakena 
dujjīvitena matante jīvitā seyyo'ti iticittamano citta-saṅkappo 
anekapariyāyena maraṇavaṇṇaṃ vā saṃ-vaṇṇeyya maraṇāya vā 
samādapeyya 
ayampi pārāji-ko hoti asaṃvāso.
        4. Yo pana bhikkhu anābhijānaṃ 
uttarima-nussadhammaṃ attūpanāyikaṃ alamariyaññāṇadas-sanaṃ 
samudācareyya iti jānāmi iti passāmī'ti tato aparena samayena 
samanuggāhiyamāno vā asama-nuggāhiyamāno vā āpanno 
visuddhāpekkho evaṃ 
vadeyya ajānaṃ evaṃ āvuso avacaṃ jānāmi apas-saṃ passāmi tucchaṃ
musāvilapin'ti aññatra adhi-mānā ayampi pārājiko hoti asaṃvāso.
        Uddiṭṭhā kho āyasmanto cattāro pārājikā dhammā 
yesaṃ bhikkhu aññataraṃ vā aññataraṃ vā āpajjitvā na labhati 
bhikkhūhi 
saddhiṃ saṃvāsaṃ yathā pure tathā pacchā pārājiko hoti asaṃvāso.
        Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha 
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
        Parisuddh' etthāyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ 
dhārayāmi.
        Pārājikuddeso niṭṭhito.
        
*
        Bạch chư Tôn giả, Bốn 
pháp triệt khai ở đây phải thuyết giới như sau:
        1. Vị Tỳ-kheo nào đã 
thọ trì học giới và hạnh sống của hàng Tỳ Kheo, khi chưa xả bỏ 
học giới, 
chưa bày tỏ sự yếu kém mà hành động dâm dục, thậm chí với loài 
thú vật, 
vị ấy bị tội triệt khai bất cộng trụ.
        2. Vị Tỳ-kheo nào lấy 
trộm cắp vật chưa được cho, ở nơi xóm làng hoặc ở rừng, nếu trộm
vật như 
thế nào mà khi vua bắt được kẻ trộm có thể giết hoặc cầm tù hoặc
lưu 
đày, trách rằng: Ngươi là tên trộm, người là kẻ ngu si, ngươi là
kẻ sai 
lạc, ngươi là đạo tặc". Vị Tỳ-kheo khi lấy trộm vật như thế phạm
tội 
triệt khai bất cộng trụ.
        3. Vị Tỳ-kheo nào cố 
ý đoạt mạng sống con người, hoặc tìm phương tiện khí giới cho 
người, 
hoặc khen ngợi sự chết,
hoặc 
xúi giục chết, nói rằng: Hỡi người, có ích gì cho ngươi với mạng
sống 
khổ xấu xa này, người nên chết tốt hơn là sống" suy nghĩ tính 
toán như 
vậy rồi dùng nhiều cách thức khen ngợi sự chết, xúi giục cho 
chết, thì 
vị này phạm tội Triệt khai bất cộng trụ.
        4. Vị Tỳ-kheo nào 
chưa chứng tri lại khoe khoang pháp thượng nhân tự thể nhập 
tương ứng 
thánh tri kiến, nói rằng: "Tôi biết tôi thấy như vậy", thời gian
sau đó 
dù có bị thẩm vấn hay không bị thẩm vấn, nhưng muốn được trong 
sạch bèn 
nói lại như sau: "Thưa chư hiền, tôi không biết như vậy mà tôi 
nói tôi 
biết, tôi không thấy mà nói tôi thấy, thành ra nói dối nói láo."
Dù thế 
vị này cũng phạm tội triệt khai bất cộng trụ, trừ phi tăng 
thượng mạn.
        Thưa chư Tôn giả, bốn 
pháp triệt khai đã được thuyết giới. Vị Tỳ-kheo phạm bất cứ một 
điều nào 
đều không được cộng trú với các vị Tỳ khưu, trước như thế nào 
thì sau 
cũng thế ấy, vị đó phạm triệt khai bất cộng trụ.
        Ở đây, tôi xin hỏi 
chư Tôn giả, các Ngài có thanh tịnh chăng?
        Lần thứ hai tôi xin 
hỏi, các Ngài có thanh tịnh chăng?
        Lần thứ ba tôi xin 
hỏi, các Ngài có thanh tịnh chăng?
        Chư Tôn giả ở đây 
thanh tịnh do đó mới im lặng,Tôi ghi nhận việc đó là vậy.
        
         DỨT PHẦN 
THUYẾT GIỚI TRIỆT KHAI.
        -ooOoo-
         THUYẾT 
GIỚI TĂNG TÀNG
(Saṅghādisesuddeso)
        Ime kho pan'āyasmanto terasa saṅghādise-sā 
dhammā uddesaṃ āgacchanti.
        1. Sañcetanikā sukkavisaṭṭhi aññatra supi-nantā 
saṅghādiseso.
        2. Yo pana bhikkhu otiṇṇo vipariṇatena cit-tena 
mātugāmena saddhiṃ kāyasaṃsaggaṃ samā-pajjeyya hatthaggāhaṃ vā 
veṇiggāhaṃ vā aññata-rassa vā aññatarassa vā aṅgassa parāmasanaṃ
saṅ-ghādiseso.
        3. Yo pana bhikkhu otiṇṇo vipariṇatena citte-na 
mātugāmaṃ duṭṭhullāhi vācāhi obhāseyya yathā-taṃ yuvā yuvatiṃ 
methunūpasañhitāhi saṅghādiseso.
        4. Yo pana bhikkhu otiṇṇo vipariṇatena cit-tena 
mātugāmassa santike attakāmapāricariyāya vaṇṇaṃ bhāseyya 
etadaggaṃ 
bhagini pāricariyānaṃ yā mādisaṃ sīlavantaṃ kalyāna dhammaṃ 
brah-macāriṃ 
etena dhammena paricareyyā'ti methu-nūpasañhitena saṅghādiseso.
        5. Yo pana bhikkhu sañcarittaṃ samāpaj-jeyya 
itthiyā vā purisamatiṃ purisassa vā itthīmatiṃ jāyattane vā 
jārattane vā 
antamaso taṃkhaṇikāya pi saṅghādiseso.
        6. Saññācikāya pana bhikkhunā kutiṃ 
kāra-yamānena assāmikaṃ attuddesaṃ pamāṇikā kāre-tabbā tatridaṃ 
pamāṇaṃ 
dīghaso dvādasavidatthiyo sugatavidatthiyā tiriyaṃ sattantarā 
bhikkhū 
abhi-netabbā vatthudesanāya tehi bhikkhūhi vatthuṃ desetabbaṃ 
anārambhaṃ 
saparikkamanaṃ sāram-bhe ce bhikkhu vatthusmiṃ aparikkamane 
saññāci-kāya 
kutiṃ kareyya bhikkhū vā anabhineyya vat-thudesanāya pamāṇaṃ vā 
atikkāmeyya saṅghādiseso
        7. Mahallakaṃ pana bhikkhunā vihāraṃ 
kā-rayamānena sassāmikaṃ attuddesaṃ bhikkhū abhi-netabbā 
vatthudesanāya 
tehi bhikkhūhi vatthuṃ de-setabbaṃ anārambhaṃ saparikkamanaṃ 
sārambhe ce 
bhikkhuvatthusmiṃ aparikkamane mahallakaṃ vihāraṃ kāreyya 
bhikkhū vā 
anabhineyya vatthu-desanāya saṅghādiseso.
        8- Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ duṭṭho doso appatīto 
amūlakena pārājikena dhammena anud-dhaṃseyya appeva nāma naṃ 
imamhā 
brahmacariyā cāveyyan'ti tato aparena samayena 
samanuggāhi-yamāno vā 
asamanuggāhiyamāno vā amūlakañceva taṃ adhikaranaṃ hoti bhikkhu 
ca dosaṃ 
patiṭṭhāti saṅghādiseso.
        9.Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ duṭṭho doso appatīto 
aññabhāgiyassa adhikaraṇassa kiñci desaṃ lesamattaṃ upādāya 
pārājikena 
dhammena anud-dhaṃseyya appeva nāma naṃ imamhā brahmacariyā 
cāveyyan' ti 
tato aparena samayena samanuggāhi-yamāno vā asamanuggāhiyamāno 
vā 
aññabhāgiyañ-ceva taṃ adhikaranaṃ hoti koci deso lesamatto 
upādinno 
bhikkhu ca dosaṃ patiṭṭhāti saṅghādiseso.
        10. Yo pana bhikkhu samaggassa saṅghassa bhedāya 
parakkameyya bhedanasaṃvattanikaṃ vā adhikaranaṃ samādāya 
paggayha 
tittheyya. So bhik-khu bhikkhūhi evam-assa vacanīyo mā āyasmā 
sa-maggassa saṅghassa bhedāya parakkami bheda-nasaṃvattanikaṃ vā
adhikaraṇaṃ samādāya pag-gayha aṭṭhāsi samet'āyasmā saṅghena 
samaggo hi 
saṅgho sammodamāno avivadamāno ekuddeso phāsu viharatī' ti. 
Evañca so 
bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno tath' eva paggaṇheyya so bhikkhu 
bhikkhūhi 
yāvata-tiyaṃ samanubhāsitabbo tassa paṭinissaggāya 
yāva-tatiyañce 
samanubhāsiyamāno taṃ paṭinissajjeyya iccetaṃ kusalaṃ no ce 
paṭinissajjeyya saṅghādiseso.
        11. Tass'eva kho pana bhikkhussa bhikkhū honti 
anuvattakā vaggavādakā eko vā dve vā tayo vā te evaṃ vadeyyuṃ mā
āyasmanto etaṃ bhikkhuṃ kiñci avacuttha dhammavādī c'eso bhikkhu
c'eso 
bhikkhu amhākañc'eso bhikkhu chandañca ruciñca ādāya voharati 
jānāti no 
bhāsati amhākamp'etaṃ khamatī'ti. Te bhikkhū bhikkhūhi evam-assu
vacanī-yā mā āyasmanto evaṃ avacuttha na c'eso bhikkhu 
dhammavādī na 
c'eso bhikkhu vinayavādī mā āyas-mantānampi saṅghabhedo rucittha
samet' 
āyasman-tānaṃ saṅghena samaggo hi saṅgho sammodamāno avivadamāno
ekuddeso phāsu viharatī'ti. Evañca te bhikkhū bhikkhūhi 
vuccamānā 
tath'eva paggaṇhey-yuṃ te bhikkhū bhikkhūhi yāvatatiyaṃ 
samanubhā-sitabbā tassa paṭinissaggāya. Yāvatatiyañce 
sa-manubhāsiyamānā 
taṃ paṭinissajjeyyuṃ iccetaṃ kusalaṃ no ce paṭinissajjeyyuṃ 
saṅghādiseso.
        12. Bhikkhu pan'eva dubbacajātiko hoti 
udde-sapariyāpannesu sikkhāpadesu bhikkhūhi saha-dhammikaṃ 
vuccamāno 
attānaṃ avacanīyaṃ karoti mā maṃ āyasmanto kiñci avacuttha 
kalyānaṃ vā 
pāpakaṃ vā ahamp'āyasmante na kiñci vakkhāmi kalyānaṃ vā pāpakaṃ
vā 
viramath' āyamanto mama vacanāyā'ti. So bhikkhu bhikkhūhi 
evam-assa 
vaca-nīyo mā āyasmā attānaṃ avacanīyaṃ akāsi vaca-nīyameva 
āyasmā 
attānaṃ karotu āyasmāpi bhikkhū vadetu sahadhammena bhikkhūpi 
āyasmantaṃ 
vak-khanti sahadhammena evaṃ saṃvaḍḍhā hi tassa bhagavato parisā
yadidaṃ 
aññamaññavacanena añ-ñamaññavuṭṭhāpanenā' ti. Evañca so bhikkhu 
bhik-khūhi vuccamāno tath'eva paggaṇheyya so bhikkhu bhikkhūhi 
yāvatatiyaṃ samanubhāsitabbo tassa paṭi-nissaggāya. 
Yāvatatiyañce 
samanubhāsiyamāno taṃ paṭinissajjeyya iccetaṃ kusalaṃ no ce 
paṭinissajjeyya saṅghādiseso.
        13. Bhikkhu pan' eva aññataraṃ gāmaṃ vā nigamaṃ 
vā upanissāya viharati kuladūsako pāpasa-mācāro. Tassa kho 
pāpakā 
samācārā dissanti c'eva suyyanti ca kulāni ca tena duṭṭhāni 
dissanti 
c'eva suyyanti ca. So bhikkhu bhikkhūhi evam-assa vaca-nīyo 
āyasmā kho 
kuladūsako pāpasamācāro āyasmato kho pāpakā samācārā dissanti 
c'eva 
suyyanti ca ku-lāni c' āyasmatā duṭṭhāni dissanti c'eva suyyanti
ca 
pakkamat' āyasmā imamhā āvāsā alante idha vāsenā' ti. Evañca so 
bhikkhu 
bhikkhūhi vuccamāno te bhik-khū evaṃ vadeyya chandagāmino ca 
bhikkhū 
dosagā-mino ca bhikkhū mohagāmino ca bhikkhū bhayagā-mino ca 
bhikkhū 
tādisikāya āpattiyā ekaccaṃ pabbā-jenti ekaccaṃ na pabbā 
jentī'ti. So 
bhikkhu bhikkhū-hi evam-assa vacanīyo mā āyasmā evaṃ avaca na ca
bhikkhū 
chandagāmino na ca bhikkhū dosagāmino na ca bhikkhū mohagāmino 
na ca 
bhikkhū bhayagāmi-no āyasmā kho kuladusako pāpasamācāro āyasmato
kho 
pāpakā samācārā dissanti c'eva suyyanti ca kulāni c'āyasmatā 
duṭṭhāni 
dissanti c'eva suyyanti ca pakkamat' āyasmā imamhā āvāsā alante 
idha 
vāse-nā'ti. Evañca so bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno tath' eva 
paggaṇheyya 
so bhikkhu bhikkhūhi yāvatatiyaṃ samanubhāsitabbo tassa 
paṭinissaggāya. 
Yāvatati-yañce samanubhāsiyamāno taṃ paṭinissajjeyya icce-taṃ 
kusalaṃ no 
ce paṭinissajjeyya saṅghādiseso.
        Uddiṭṭhā kho āyasmanto terasa saṅghādisesā 
dhammā nava paṭhamāpattikā cattāro yāvatatiyakā. Yesaṃ bhikkhu 
aññataraṃ 
vā aññataraṃ vā āpaj-jitvā yāvatihaṃ jānaṃ paṭicchādeti 
tāvatihaṃ tena 
bhikkhunā akāmā parivatthabbaṃ parivutthapari-vāsena bhikkhunā 
uttariṃ 
chārattaṃ bhikkhumā-nattāya paṭipajjitabbaṃ. Ciṇṇamānatto 
bhikkhu 
yat-tha siyā vīsatigaṇo bhikkhusaṅgho tattha so bhik-khu 
abbhetabbo. 
Ekenapi ce ūno vīsatigano bhikkhu-saṅgho taṃ bhikkhuṃ abbheyya 
so ca 
bhikkhu anabbhito te ca bhikkhū gārayhā. Ayaṃ tattha sā-mīci.
        Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha 
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
        Parisuddh' etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ 
dhārayāmi.
        Saṅghādisesuddeso 
niṭṭhito.
        
*
        Thưa chư Tôn giả đây là mười ba pháp Tăng tàng 
được thuyết giới.
        1. Cố ý làm di tinh, phạm tăng tàng, ngoại trừ 
mộng tinh.
        2. Tỳ-kheo nào do tâm dục nhiễm dồn nén, xúc 
chạm thân người nữ, hoặc nắm tay hoặc nắm tóc hoặc rờ chạm bất 
cứ chi 
thể nào, phạm Tăng tàng.
        3. Tỳ-kheo nào do tâm dục nhiễm dồn nén, nói lời 
tục tĩu với phụ nữ, như thể trai với gái liên hệ dâm dục, phạm 
Tăng 
tàng.
        4. Tỳ-kheo nào do tâm dục nhiễm dồn nén, đối 
trước phụ nữ lại ca ngợi sự cung phụng dục lạc cho mình, nói 
rằng "Này 
cô em, sự cung phụng này là tối thượng, tức là cô nào với pháp 
dâm dục 
cung phụng bậc giới hạnh thiện hạnh phạm hạnh như tôi đây". Bởi 
liên hệ 
dâm dục, phạm Tăng tàng.
        5. Tỳ-kheo nào làm mai mối, là đem ý người nam 
nói với người nữ, hoặc đem ý người nữ nói với người nam, để làm 
vợ chồng 
hoặc để làm tình nhân, dù chỉ cho họ đến nhau chốc lát, phạm 
Tăng tàng.
        6. Thất liêu do Tỳ-kheo tự quyên góp xây cất, 
không có thí chủ, tự làm cho mình, thì cần phải làm đúng kích 
cỡ, trong 
điều này đúng kích cỡ là mười hai gang chiều dài, bảy gang chiều
ngang, 
theo gang tay Ðức Phật 
[9]
phải mời chư Tỳ-kheo để chỉ định nơi chốn, nơi chốn được tỳ-kheo
ấy chỉ 
định là chỗ không có trở ngại, có lối thông. Nếu vị Tỳ-kheo làm 
thất 
liêu do tự quyên góp, làm ở chỗ có trở ngại, không lối thông, 
cũng không 
mời các Tỳ-kheo để chỉ định nơi chỗ, vượt quá kích cỡ, phạm Tăng
Tàng.
        7. Tịnh xá lớn mà Tỳ-kheo xây dựng cho mình, có 
thí chủ cúng, phải mời chư Tỳ-kheo để chỉ định nơi chốn, nơi 
chốn được 
các Tỳ-kheo ấy chỉ định là chỗ không có trở ngại, có lối thông; 
nếu vị 
Tỳ-kheo làm tịnh xá lớn ở nơi có điều trở ngại, không lối thông,
lại 
không mời các Tỳ-kheo để chỉ định nơi chỗ, phạm Tăng Tàng.
        8. Tỳ-kheo nào phẫn nộ sân hận bất bình, vu 
khống vị Tỳ-kheo với tội triệt khai không căn cứ, nghĩ rằng làm 
vị ấy 
bại hoại phạm hạnh này. Sau lúc đó, có bị gạn hỏi hay chưa được 
gạn hỏi, 
sự tố tụng ấy là vô căn cứ và dù Tỳ-kheo này có nhìn nhận lỗi 
lầm vẫn 
phạm Tăng Tàng.
        9. Tỳ-kheo nào phẫn nộ sân hận bất bình, vịn cớ 
nhỏ nào đó của một sự vụ khác rồi vu khống vị Tỳ-kheo với tội 
triệt 
khai, nghĩ rằng làm vị ấy bại hoại phạm hạnh này. Sau lúc đó, bị
gạn hỏi 
hay chưa được gạn hỏi, nhưng sự tố tụng ấy là sự vụ khác được 
vịn lấy cớ 
nhỏ, và Tỳ-kheo này có nhìn nhận lỗi lầm vẫn phạm Tăng Tàng.
        10. Tỳ-kheo nào cố gắng phá vỡ hòa hợp Tăng, 
hoặc sống chấp giữ tranh sự dẫn đến chia rẽ; Tỳ-kheo ấy cần được
chư 
Tỳ-kheo nhắc bảo như sau: "Tôn giả chớ cố gắng phá vỡ hòa hợp 
tăng, hay 
đừng sống chấp giữ tranh sự dẫn đến chia rẽ, Tôn giả hãy đoàn 
kết với 
tăng, vì Tăng hòa hòa hợp hoan hỷ nhau, không tranh cãi, đồng 
quan điểm, 
sẽ trú an lạc". Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như vậy
mà vẫn 
cố chấp như thế Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo can gián ba lần 
cho bỏ 
sự ấy. Nếu khi được can gián ba lần mà bỏ sự ấy thì tốt, nếu 
không bỏ, 
phạm Tăng Tàng.
        11. Những vị Tỳ-kheo tùng bọn phe đảng của 
Tỳ-kheo chia rẽ ấy, có một, hoặc hai, hoặc ba vị; họ nói như 
sau: "Chư 
Tôn giả chớ nói gì vị Tỳ-kheo ấy, tỳ-kheo đó là bậc thuyết pháp,
thuyết 
luật, Tỳ-kheo đó lấy điều tâm tư nguyện vọng của chúng tôi mà tỏ
bày cảm 
thông và nói ra theo chúng tôi, vả lại chúng tôi cũng chấp 
nhận". Các 
Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo nhắc bảo rằng: "Các Tôn giả đừng
nói như 
vậy, Tỳ-kheo đó không phải là vị thuyết pháp, thuyết luật, các 
Tôn giả 
chớ vui thích chia rẽ tăng, các Tôn giả hãy đoàn kết với Tăng, 
vì Tăng 
hòa hợp, hoan hỷ nhau, không tranh cãi, đồng quan điểm, sẽ trú 
an lạc." 
Các vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như vậy mà vẫn 
cố chấp 
thì các Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo can gián ba lần cho bỏ 
sự ấy. 
Nếu khi được can gián ba lần mà bỏ sự ấy thì tốt, nếu không bỏ, 
phạm 
Tăng Tàng.
        12. Vị Tỳ-kheo có tánh khó dạy khi được chư 
Tỳ-kheo nhắc bảo đúng pháp theo những điều học liên quan giới 
bổn, tỏ ra 
mình không cần khuyên dạy rằng: "Các Tôn giả đừng nói chi đến 
tôi điều 
tốt hay xấu, tôi cũng không nói gì đến các Tôn giả điều tốt hay 
điều 
xấu; các Tôn giả hãy thôi khuyên dạy tôi". Vị Tỳ-kheo ấy cần 
được chư 
Tỳ-kheo nói như sau:
        "Xin Tôn giả chớ tỏ ra mình khó dạy, hãy làm 
người dễ dạy; Tôn giả hãy nhắc bảo chư Tỳ-kheo theo đúng pháp, 
chư 
Tỳ-kheo cũng sẽ nhắc bảo Tôn giả theo đúng pháp, như vậy hội 
chúng của 
Ðức Thế Tôn được tăng thịnh tức là nhờ sự nhắc bảo lẫn nhau, 
thức tỉnh 
lẫn nhau". Vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc nhở như vậy 
mà vẫn cố 
chấp thế ấy thì vị Tỳ-kheo đó cần được chư Tỳ-kheo can gián ba 
lần cho 
bỏ sự ấy. Nếu được can gián ba lần mà bỏ sự ấy thì tốt, nếu 
không bỏ, 
phạm Tăng Tàng.
        13. Vị Tỳ-kheo sống nương làng mạc hay thị trấn 
nào đó, làm nhơ nhà người, có hành vi xấu; những hành vi xấu của
vị ấy 
đều được thấy được nghe, các tục gia bị vị ấy làm nhơ cũng đều 
được thấy 
được nghe. Vị Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo khuyên nhắc như 
sau: "Tôn 
giả là kẻ làm nhơ nhà người, có hành vi xấu, những hành vi xấu 
của Tôn 
giả đều được thấy được nghe, các tục gia bị Tôn giả làm nhơ cũng
đều 
được thấy được nghe; Tôn giả hãy đi khỏi chỗ này; đủ rồi cuộc 
sống của 
ông tại đây!". Vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như 
vậy lại 
nói với chư Tỳ-kheo như sau; "chư Tỳ-kheo là tây vị thương, chư 
Tỳ-kheo 
tây vị ghét, chư Tỳ-kheo tây vị dốt nát, chư Tỳ-kheo tây vị sợ 
hãi; tội 
phạm như nhau mà có người đuổi đi, có người không đuổi". Vị 
Tỳ-kheo ấy 
cần được chư Tỳ-kheo khuyên bảo như vầy: "Tôn giả chớ có nói như
vậy, 
chư Tỳ-kheo không tây vị thương, chư Tỳ-kheo không tây vị ghét, 
chư 
Tỳ-kheo không tây vị dốt nát, chư Tỳ-kheo không tây vị sợ hãi 
đâu; Tôn 
giả là kẻ làm nhơ nhà người, có hành vi xấu, những hành vi xấu 
của Tôn 
giả đều được thấy được nghe, các tục gia bị Tôn giả làm nhơ cũng
đều 
được thấy được nghe; Tôn giả hãy đi khỏi chỗ này! đủ rồi cuộc 
sống của 
ông tại đây!". Vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc nhở như 
vậy mà 
vẫn cố chấp thế ấy thì vị Tỳ-kheo đó cần được chư Tỳ-kheo can 
gián ba 
lần cho bỏ sự ấy. Nếu được can gián ba lần mà bỏ sự ấy thì tốt, 
nếu 
không bỏ, phạm tăng tàng.
        Bạch chư Tôn giả, mười ba pháp tăng tàng đã được 
thuyết giới; có chín điều phạm ngay lúc đầu, bốn điều phạm sau 
ba lần 
can gián, vị Tỳ-kheo vi phạm bất cứ điều nào, biết mà che giấu 
đến bao 
nhiêu ngày thì Tỳ-kheo ấy phải bị biệt trú cưỡng bức bấy nhiêu 
ngày; 
Tỳ-kheo đã mãn hạ biệt trú cần phải thực hành thêm sáu đêm tự 
hối. 
Tỳ-kheo đã đủ thời tự hối, vị ấy phải được phục vị tại nơi mà có
Tỳ-kheo 
Tăng túc số hai mươi vị. Nếu Tỳ-kheo Tăng thiếu túc số hai mươi,
dù chỉ 
thiếu một, lại phục vị cho Tỳ-kheo ấy, thì vị Tỳ-kheo ấy vẫn 
không được 
phục vị, còn chư Tỳ-kheo kia đáng quở trách. Ðây là cách hợp 
thức hóa.
        Ở đây tôi xin hỏi chư Tôn giả, các ngài có thanh 
tịnh chăng? Lần thứ nhì, tôi xin hỏi, các ngài có thanh tịnh 
chăng? Lần 
thứ ba, tôi hỏi, các ngài có thanh tịnh chăng? Chư Tôn giả được 
thanh 
tịnh nên mới im lặng, tôi ghi nhận việc đó là vậy.
         DỨT THUYẾT GIỚI TĂNG TÀNG.
        --ooOoo--
         THUYẾT 
GIỚI BẤT ÐỊNH
(Aniyatuddeso)
        Ime kho pan'āyasmanto 
dve aniyatā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
        1. Yo pana bhikkhu mātugāmena saddhiṃ eko ekāya 
raho paṭicchanne āsane alaṅkammaniye nis-sajjaṃ kappeyya tamenaṃ
saddheyyavacasā upāsikā disvā tiṇṇaṃ dhammānaṃ aññatarena 
vadeyya 
pārā-jikena vā saṅghādisesena vā pācittiyena vā nisajjaṃ bhikkhu
paṭijānamāno tiṇṇaṃ dhammānaṃ añña-tarena kāretabbo pārājikena 
vā 
saṅghādisesena vā pācittiyena vā yena vā sā saddheyyavacasā 
upāsikā 
vadeyya tena so bhikkhu kāretabbo. Ayaṃ dhammo aniyato.
        2. Na h'eva kho pana paṭicchannaṃ āsanaṃ hoti 
n'ālaṅkammaniyaṃ alañca kho hoti mātugāmaṃ duṭṭhullāhi vācāhi 
obhāsituṃ. 
Yo pana bhikkhu tathārūpe āsane mātugāmena saddhiṃ eko ekāya 
raho 
nisajjaṃ kappeyya tamenaṃ saddheyyavacasā upāsikā disvā dvinnaṃ 
dhammānaṃ aññatarena vadeyya saṅghādisesena vā pācittiyena vā 
nisajjaṃ 
bhikkhu paṭijānamāno dvinnaṃ dhammānaṃ añña-tarena kāretabbo 
saṅghādisesena vā pācittiyena vā yena vā sā saddheyyavacasā 
upāsikā 
vadeyya tena so bhikkhu kāretabbo. Ayampi dhammo aniyato.
        Uddiṭṭhā kho
āyasmanto dve 
aniyatā dhammā.
        Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha 
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
        Parisuddh'etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ 
dhārayāmi.
        Aniyatuddeso 
niṭṭhito.
        
*
        Thưa Tôn giả, Ðây là 
hai pháp bất định được thuyết giới:
        1. Vị Tỳ-kheo nào cùng với người nữ, một với 
một, ngồi ở nơi che đậy kín đáo, chỗ có thể hành động quấy có 
người cận 
sự nữ tín ngôn thấy được bèn tố cáo một tội nào trong ba tội là 
triệt 
khai hoặc Tăng tàng hoặc ưng đối trị; và nếu vị Tỳ-kheo thú nhận
có ngồi 
thật thì cần xử trị theo một tội nào trong ba tội là triệt khai 
hoặc 
tăng tàng hoặc ưng đối trị. Bằng như người cận sự nữ tín ngôn ấy
tố cáo 
ngay tội nào thì vị Tỳ-kheo ấy phải được xử theo tội đó. Ðây là 
pháp bất 
định.
        2. Mặc dù chỗ ngồi không che kín đáo, chỗ không 
thể hành động quấy, nhưng là nơi đủ để chọc ghẹo người nữ bằng 
lời dâm 
tục. Vị Tỳ-kheo nào cùng với người nữ, một với một ngồi ở nơi 
khuất vắng 
như thế; có người cận sự nữ tín ngôn thấy được bèn tố cáo một 
tội nào 
trong hai tội là tăng tàng hoặc ưng đối trị, và nếu vị Tỳ-kheo 
thú nhận
có ngồi thật thì cần xử trị theo một tội nào trong hai tội là
tăng 
tàng hoặc ưng đối trị. Bằng như người cận sự nữ tín ngôn ấy tố 
cáo ngay 
tội nào thì vị Tỳ-kheo ấy phải được xử theo tội đó. Ðây cũng là 
pháp bất 
định.
        Bạch chư Tôn giả, hai pháp bất định đã được tổng 
thuyết. Ở đây tôi xin hỏi các Tôn giả, các Ngài có thanh tịnh 
chăng?
        Lần thứ nhì, tôi xin hỏi, các ngài có thanh tịnh 
chăng?
        Lần thứ ba, tôi xin hỏi, các ngài có thanh tịnh 
chăng?
        Ở đây các Tôn giả được thanh tịnh bởi thế mới im 
lặng, tôi ghi nhận sự việc đó là vậy. 
        
        DỨT THUYẾT 
GIỚI BẤT ÐỊNH.
        
        -ooOoo- 
        
THUYỀT GIỚI ƯNG XẢ 
ÐỐI TRỊ
(Nissaggiyapācittiye vitthāruddeso)
        Ime kho pan'āyasmanto 
tiṃsa nissaggiyā pā-cittiyā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
        1. Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatas-miṃ 
kaṭhine dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāre-tabbaṃ taṃ 
atikkāmayato 
nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
        2. Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatas-miṃ 
kaṭhine ekarattampi ce bhikkhu ticīvarena vip-pavaseyya aññatra 
bhikkhu 
sammatiyā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
        3. Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatas-miṃ 
kaṭhine bhikkhuno pan'eva akālacīvaraṃ uppaj-jeyya ākaṅkhamānena
bhikkhunā paṭiggahetabbaṃ paṭiggahetvā khippameva kāretabbaṃ no 
c'assa 
pā-ripūri māsaparamantena bhikkhunā taṃ cīvaraṃ nikkhipitabbaṃ 
ūnassa 
pāripūriyā satiyā paccāsāya. Tato ce utariṃ nikkhipeyya satiyāpi
paccāsāya nis-saggiyaṃ pācittiyaṃ.
        4. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuniyā 
purāṇacīvaraṃ dhovāpeyya vā rajāpeyya vā ākoṭā-peyya vā 
nissaggiyaṃ 
pācittiyaṃ.
        5. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuniyā 
hatthato cīvaraṃ paṭigganheyya aññatra pārivaṭṭa-kā nissaggiyaṃ 
pācittiyaṃ.
        6. Yo pana bhikkhu aññātakaṃ gahapaṭiṃ vā 
gahapatāniṃ vā cīvaraṃ viññāpeyya aññatra samayā nissaggiyaṃ 
pācittiyaṃ. 
Tath' āyaṃ samayo acchin-nacīvaro vā hoti bhikkhu naṭṭhacīvaro 
vā. Ayaṃ 
tattha samayo.
        7. Tañce aññātako gahapati vā gahapatānī vā 
bahūhi cīvarehi abhihaṭṭhuṃ pavāreyya santarut-taraparamantena 
bhikkhunā 
tato cīvaraṃ sāditab-baṃ tato ce uttariṃ sādiyeyya nissaggiyaṃ 
pācit-tiyaṃ.
        8. Bhikkhuṃ pan'eva uddissa aññātakassa 
gahapatissa vā gahapatāniyā vā cīvaracetāpanaṃ upakkhataṃ hoti: 
Iminā 
cīvaracetāpanena cīvaraṃ cetāpetvā Itthannāmaṃ bhikkhuṃ cīvarena
acchā-dessāmī'ti. Tatra ce so bhikkhu pubbe appavārito 
upasaṅkamitvā 
cīvare vikappaṃ āpajjeyya sādhu va-ta maṃ āyasmā iminā 
cīvaracetāpanena 
evarūpaṃ vā evarūpaṃ vā cīvaraṃ cetāpetvā acchādehī'ti 
kal-yānakamyataṃ 
upādāya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
        9. Bhikkhuṃ pan'eva uddissa ubhinnaṃ 
añ-ñatakānaṃ gahapatīnaṃ vā gahapatānīnaṃ vā 
pac-cekacīvaracetāpanā 
upakkhatā honti imehi mayaṃ paccekacīvaracetāpanehi 
paccekacīvarāni 
cetāpetvā Itthannāmaṃ bhikkhuṃ cīvarehi acchādessāmā'ti. Tatra 
ce so 
bhikkhu pubbe appavārito upasaṅkami-tvā cīvare vikappaṃ 
āpajjeyya sādhu 
vata maṃ ayasmanto imehi paccekacīvaracetāpanehi evarūpaṃ vā 
evarūpaṃ vā 
cīvaraṃ cetāpetvā acchādetha ubho va santā ekenāti 
kalyānakamyataṃ 
upādāya nissag-giyaṃ pācittiyaṃ.
        10. Bhikkhuṃ pan'eva uddissa rājā vā rāja-bhoggo 
vā brāhmaṇo vā gahapatiko vā dūtena cīva-racetāpanaṃ pahineyya 
iminā 
cīvaracetāpanena cīvaraṃ cetāpetvā Itthannāmaṃ bhikkhuṃ cīvarena
acchādehī' ti. So ce dūto taṃ bhikkhuṃ upasaṅka-mitvā evaṃ 
vadeyya idaṃ 
kho bhante āyasmantaṃ uddissa cīvaracetāpanaṃ ābhataṃ 
paṭigganhātu 
āyasmā cīvaracetāpanan'ti. Tena bhikkhunā so dū-to evam-assa 
vacanīyo na 
kho mayaṃ āvuso cīva-racetāpanaṃ paṭigganhāma cīvarañca kho 
mayaṃ 
paṭiggaṇhāma kālena kappiyan' ti. So ce dūto taṃ bhikkhuṃ evaṃ 
vadeyya 
atthi pan'āyasmato koci veyyāvaccakaro'ti. Cīvaratthikena 
bhikkhave 
bhik-khunā veyyāvaccakaro niddisitabbo ārāmiko vā upā-sako vā 
eso kho 
āvuso bhikkhūnaṃ veyyāvaccaka-ro'ti. So ce dūto taṃ 
veyyāvaccakaraṃ 
saññāpetvā taṃ bhikkhuṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadeyya yaṃ kho 
bhante āyasmā 
veyyāvaccakaraṃ niddisi sañ-ñatto so mayā upasaṅkamatu āyasmā 
kālena 
cīvare-na taṃ acchādessatī'ti cīvaratthikena bhikkhave bhikkhunā
veyyāvaccakaro upasaṅkamitvā dvittik-khattuṃ codetabbo sāretabbo
attho 
me āvuso cīva-renā'ti. Dvittikkhattuṃ codayamāno sārayamāno taṃ 
cīvaraṃ 
abhinipphādeyya iccetaṃ kusalaṃ no ce abhinipphādeyya 
catukkhattuṃ 
pañcakkhattuṃ chak-khattuparamaṃ tuṇhībhūtena uddissa ṭhātabbaṃ.
Catukkhattuṃ pañcakkhattuṃ chakkhattuparamaṃ tuṇhīhūto uddissa 
tiṭṭhamāno taṃ cīvaraṃ abhinip-phādeyya iccetaṃ kusalaṃ no ce 
abhinipphādeyya tato ce uttariṃ vāyamamāno taṃ cīvaraṃ 
abhinip-phādeyya 
nissaggiyaṃ pācittiyaṃ. No ce abhinip-phādeyya yat'assa 
cīvaracetāpanaṃ 
ābhataṃ tattha sāmaṃ vā gantabbaṃ dūto vā pāhetabbo yaṃ kho 
tumhe 
āyasmanto bhikkhuṃ udissa cīvaracetāpanaṃ pahinittha na taṃ 
tassa 
bhikkhuno kiñci atthaṃ anubhoti yuñjant' āyasmanto sakaṃ mā vo 
sakaṃ 
vinassā' ti. Ayaṃ tattha samīci.
        Cīvaravaggo 
paṭhamo
        11. Yo pana bhikkhu kosiyamissakaṃ santha-taṃ 
karāpeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
        12. Yo pana bhikkhu suddhakāḷakānaṃ 
eḷa-kalomānaṃ santhataṃ kārāpeyya nissaggiyaṃ pācit-tiyaṃ.
        13. Navaṃ pana bhikkhunā santhataṃ kāra-yamānena 
dve bhāgā suddhakāḷakānaṃ eḷakalomā-naṃ ādātabbā tatiyaṃ 
odātānaṃ 
catutthaṃ gocari-yānaṃ. Anādā ce bhikkhu dve bhāge 
suddhakāḷa-kānaṃ 
eḷakalomānaṃ tatiyaṃ odātānaṃ catutthaṃ gocariyānaṃ navaṃ 
santhataṃ 
kārāpeyya nissaggi-yaṃ pācittiyaṃ.
        14. Navaṃ pana bhikkhunā santhataṃ kārā-petvā 
chabbassāni dhāretabbaṃ. Orena ce channaṃ vassānaṃ taṃ santhataṃ
vissajjetvā vā avissajjetvā vā aññaṃ navaṃ santhataṃ kārāpeyya 
aññatra 
bhikkhusammatiyā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
        15. Nisīdanasanthataṃ pana bhikkhunā 
kāra-yamānena purāṇasanthatassa sāmantā sugatavidat-thi ādātabbā
dubbaṇṇakaraṇāya. Anādā ce bhikkhu purāṇasanthatassa sāmantā 
sugatavidatthiṃ navaṃ nisīdanasanthataṃ kārāpeyya nissaggiyaṃ 
pācit-tiyaṃ.
        16. bhikkhuno paneva addhānamaggappaṭi-pannassa 
eḷakalomāni uppajjeyyuṃ ākaṅkhamānena bhikkhunā paṭiggahetabbāni
paṭiggahetvā tiyojana-paramaṃ sahatthā hāretabbāni asante 
hārake. Tato 
ce uttariṃ hareyya asantepi hārake nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
        17. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhu-niyā 
eḷakalomāni dhovāpeyya vā rajāpeyya vā vija-tāpeyya vā 
nissaggiyaṃ 
pācittiyaṃ.
        18. Yo pana bhikkhu jātarūparajataṃ uggaṇ-heyya 
vā uggaṇhāpeyya vā upanikkhittaṃ vā sādi-yeyya nissaggiyaṃ 
pācittiyaṃ.
        19. Yo pana bhikkhu nānappakārakaṃ 
rūpi-yasaṃvoharaṃ samāpajjeyya nissaggiyaṃ pācitti-yaṃ.
        20. Yo pana bhikkhu nānappakārakaṃ kaya-vikkayaṃ 
samāpajjeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
        Kosiyavaggo 
dutiyo.
        21. Dasāhaparamaṃ atirekapatto dhāretabbo taṃ 
atikkāmayato nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
        22. Yo pana bhikkhu ūnapañcabandhanena pattena 
aññaṃ navaṃ pattaṃ cetāpeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ. Tena 
bhikkhunā so 
patto bhikkhupari-sāya nissajjitabbo yo ca tassā bhikkhuparisāya
pattapariyanto so ca tassa bhikkhuno padātabbo ayante bhikkhu 
patto yāva 
bhedanāya dhāretabbo' ti. Ayaṃ tattha sāmīci.
        23. Yāni kho pana tāni gilānānaṃ bhik-khūnaṃ 
patisāyanīyāni bhesajjāni seyyathīdaṃ sappi navanītaṃ telaṃ 
madhu 
phāṇitaṃ tāni paṭiggahetvā sattāhaparamaṃ sannidhikārakaṃ 
paribhuñjitabbāni taṃ atikkāmayato nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
        24. Māso seso gimhānanti bhikkhunā 
vassi-kasātikacīvaraṃ pariyesitabbaṃ aḍḍdhamāso seso gimhānanti 
katvā 
nivāsetabbaṃ. Orena ce māso seso gimhānanti vassikasātikacīvaraṃ
pariyeseyya oren' aḍḍdhamāso seso gimhānanti katvā nivāseyya 
nis-saggiyaṃ pācittiyaṃ.
        25. Yo pana bhikkhu bhikkhussa sāmaṃ cīva-raṃ 
datvā kupito anattamāno acchindeyya vā acchin-dāpeyya vā 
nissaggiyaṃ 
pācittiyaṃ.
        26. Yo pana bhikkhu sāmaṃ suttaṃ viññā-petvā 
tantavāyehi cīvaraṃ vāyāpeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
        27. Bhikkhum pan'eva uddissa aññātako ga-hapati 
vā gahapatānī vā tantavāyehi cīvaraṃ vāyā-peyya. Tatra ce so 
bhikkhu 
pubbe appavārito tanta-vāye upasaṅkamitvā cīvare vikappaṃ 
āpajjeyya idaṃ 
kho āvuso cīvaraṃ maṃ uddissa vīyati āyatañ ca ka-rotha 
vitthatañca 
appitañca suvītañca suppavāyi-tañca suvilekhitañca 
suvitacchitañca 
karotha appeva nāma mayampi āyasmantānaṃ kiñci mattaṃ 
anup-padajjeyyāmā'ti. Evañca so bhikkhu vatvā kiñci mat-taṃ 
anuppadajjeyya antamaso piṇḍapātamattampi nissaggiyaṃ 
pācittiyaṃ.
        28. Dasāhānāgataṃ kattikatemāsipuṇṇamaṃ 
bhikkhuno paneva accekacīvaraṃ uppajjeyya acce-kaṃ maññamānena 
bhikkhunā 
paṭiggahetabbaṃ pa-ṭiggahetvā yāvacīvarakālasamayaṃ 
nikkhipitabbaṃ. Tato 
ce uttariṃ nikkhipeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
        29. Upavassaṃ kho pana kattikapuṇṇamaṃ yāni kho 
pana tāni āraññakāni senāsanāni sāsaṅ-kasammatāni sappaṭibhayāni
tathārūpesu bhikkhu senāsanesu viharanto ākaṅkhamāno tiṇṇaṃ 
cīvarā-naṃ 
aññataraṃ cīvaraṃ antaraghare nikkhipeyya siyā ca tassa 
bhikkhuno 
koci-d-eva paccayo tena cīvarena vippavāsāya chārattaparamantena
bhikkhu-nā tena cīvarena vippavasitabbaṃ tato ce uttariṃ 
vippavaseyya 
aññatra bhikkhusammatiyā nissaggi-yaṃ pācittiyaṃ.
        30. Yo pana bhikkhu jānaṃ saṅghikaṃ lā-bhaṃ 
pariṇataṃ attano pariṇāmeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
        Pattavaggo tatiyo.
        Uddiṭṭhā kho 
āyasmanto tiṃsa nissaggiyā pācittiyā dhammā.
        Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha 
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
        Parisuddh'etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ 
dhārayāmi.
        Nissaggiyā pācittiyā 
niṭṭhitā.
        
*
        Bạch chư Tôn giả, đây 
là ba mươi pháp ưng xả đối trị được thuyết giới.
        PHẨM 1: PHẨM Y
        1. Khi y đã làm xong, hạn Kaṭhina đã xả Tỳ-kheo 
chỉ được cất giữ y dư lâu lắm là mười ngày, quá hạn ấy phạm ưng 
xả đối 
trị.
        2. khi y đã làm xong, hạn Kaṭhina đã xả nếu 
Tỳ-kheo xa lìa tam y, dù chỉ một đêm, phạm ưng xả đối trị, ngoại
trừ 
Tỳ-kheo được cho phép.
        3. Khi y đã làm xong, hạn Kaṭhina đã xả có vải y 
ngoại thời phát sanh cho vị Tỳ khưu, Tỳ-kheo cần thì được nhận, 
nhận 
xong phải nhanh chóng may mặc, nếu không đủ vải thì y ấy Tỳ-kheo
chỉ nên 
giữ lại lâu lắm là một tháng để đợi bù vào chỗ thiếu; nếu giữ 
lại quá 
hạn ấy dù có mong tìm, cũng phạm ưng xả đối trị.
        4. Tỳ-kheo nào khiến Tỳ-kheo ni không phải thân 
quyến, giặt hoặc nhuộm hoặc vắt xả y cũ, phạm ưng xả đối trị.
        5. Tỳ-kheo nào thọ nhận y từ tay tỳ-kheo ni 
không phải thân quyến, phạm ưng xả đối trị, ngoại trừ trao đổi.
        6. Tỳ-kheo nào xin y nơi nam gia chủ, hoặc nữ 
gia chủ không phải thân quyến, phạm ưng xả đối trị, ngoại trừ có
trường 
hợp. Ở đây có trường hợp là Tỳ-kheo y bị cướp đoạt hoặc y bị hư 
hoại, 
đây là trường hợp trong điều này vậy.
        7. Nếu có nam gia chủ hay nữ gia chủ không phải 
thân quyến xin được dâng tặng nhiều y đến Tỳ-kheo ấy, Tỳ-kheo 
chỉ nên 
vui nhận nhiều lắm là bộ nội ngoại y thôi, nếu thích hơn số ấy, 
phạm ưng 
xả đối trị.
        8. Có nam gia chủ hay nữ gia chủ không phải thân 
quyến để dành tiền sắm y cho vị Tỳ khưu, nghĩ rằng: "Ta sẽ mua 
sắm y với 
tiền sắm y này rồi dâng y cho vị Tỳ-kheo tên ấy mặc" Trong
việc 
này nếu vị Tỳ-kheo ấy chưa được yêu cầu trước mà đi đến kèo nài 
việc y 
như sau: "tốt lắm, Ðạo hữu hãy sắm y như vầy, dâng cho tôi mặc".
Vì muốn 
đẹp, phạm ưng xả đối trị.
        9. Có hai nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải 
thân quyến để dành tiền sắm y cổ phần dâng cho vị Tỳ khưu, nghĩ 
rằng: 
"Chúng ta sẽ lấy cổ phần tiền sắm y này mà mua y cổ phần rồi
dâng 
vị Tỳ-kheo tên ấy mặc". Trong việc này, nếu vị Tỳ-kheo ấy chưa 
được yêu 
cầu trước mà đi đến kéo nài việc y như sau: "Tốt lắm, các đạo 
hữu hãy 
lấy các cổ phần tiền sắm y nầy mà mua y như vầy, như vầy, dâng 
cho tôi 
mặc, hai người chung một" Vì muốn đẹp, phạm ưng xả đối trị
        10. Ðức vua, quan lại, bà-la-môn hoặc gia chủ 
gởi theo sứ giả số tiền sắm y, nói rằng: "Ngươi hãy lấy số tiền 
sắm y 
này mua y rồi dâng cho vị Tỳ-kheo tên ấy mặc". Nếu vị sứ giả ấy 
đi đến 
vị Tỳ-kheo nọ và nói như sau: "Bạch Tôn giả, số tiền sắm y này 
được để 
dành cho Ngài, xin Ngài hãy nhận lãnh số tiền sắm y" vị Tỳ-kheo 
nọ nên 
bảo sứ giả rằng: "Này đạo đạo hữu, chúng tôi không thọ nhận tiền
sắm y, 
chúng tôi chỉ nhận lãnh y hợp thời thôi"Nếu vị sứ giả ấy nói với
vị 
Tỳ-kheo nọ rằng: "Có ai là người phục dịch cho Tôn giả chăng?"
        Nầy chư Tỳ khưu, vị Tỳ-kheo có nhu cầu y thì nên 
chỉ ra người phục dịch hoặc người hộ tự hoặc một cận sự nam: này
đạo 
hữu, đó là người phục dịch của chư Tỳ khưu". Nếu vị sứ giả ấy 
giao việc 
cho người phục dịch kia rồi, bèn đến vị Tỳ-kheo nọ mà nói như 
sau: "Bạch 
Tôn giả, người phục dịch mà Ngài đã chỉ ra, người ấy được tôi 
giao việc 
rồi, Tôn giả hãy đến họ và họ sẽ dâng y hợp thời cho Ngài mặc".
        Nầy chư Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo có nhu cầu y nên đến 
người phục dịch mà thông báo gợi ý đôi ba lần rằng: "Ðạo hữu, 
tôi cần 
y". Khi thông báo gợi ý đôi ba lần, có được y ấy, như thế là 
tốt; bằng 
không thành thì phải đứng im lặng trước mặt họ bốn năm lần; 
nhiều lắm là 
sáu lần; khi đứng im lặng trước họ bốn, năm, sáu lần mà 
có được y 
ấy như thế là tốt, nếu không thành mà cố gắng vượt quá hạn ấy, 
thành tựu 
y, phạm ưng xả đối trị. Nếu vẫn không thành thì từ đâu đưa tiền 
sắm y, 
phải tự mình đến đấy hoặc phái người đi, nói rằng: "các đạo hữu,
tiền 
sắm y mà các ông đã gởi để dâng vị Tỳ-kheo, tiền đó không thành 
tựu lợi 
ích gì cho vị Tỳ-kheo ấy; các ông hãy đòi lại vật sở hữu, đừng 
bỏ phí 
vật sở hữu của các ông". Ðây là cách làm đúng trong trường hợp 
này.
        PHẨM 2: PHẨM TƠ TẰM
        11. Vị Tỳ-kheo nào khiến làm ngọa cụ trộn lẫn tơ 
tằm, phạm ưng xả đối trị.
        12.Vị Tỳ-kheo nào khiến làm ngọa cụ toàn bằng 
lông cừu màu đen, phạm ưng xả đối trị.
        13. Khi vị Tỳ-kheo khiến làm ngọa cụ mới phải 
lấy lông cừu hai phần màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ 
tư màu 
đỏ. Nếu vị Tỳ-kheo khiến làm ngọa cụ mới mà không lấy lông cừu 
hai phần 
đen, phần thứ ba trắng, phần thứ tư đỏ, phạm ưng xả đối trị.
        14. Khi đã cho làm ngọa cụ mới, vị Tỳ-kheo phải 
giữ xài đến sáu năm. Nếu dưới sáu năm mà bỏ ngọa cụ ấy, hoặc 
không bỏ, 
rồi khiến làm ngọa cụ mới khác, phạm ưng xả đối trị, ngoại trừ 
vị 
Tỳ-kheo được cho phép.
        15. Khi vị Tỳ-kheo khiến làm tọa cụ phải lấy một 
mảnh vuông của tấm tọa cụ cũ, cỡ gang tay Ðức Phật, để làm hoại 
sắc. Nếu 
vị Tỳ kheo khiến làm tọa cụ mới mà không lấy một mảnh vuông của 
tấm tọa 
cụ cũ, cỡ gang tay Ðức Phật, để hoại sắc, phạm ưng xả đối trị.
        16. Khi vị Tỳ-kheo đi đường xa có phát sanh lông 
cừu, nếu cần thì nhận; khi nhận rồi, không có người mang giúp, 
thì chỉ 
nên tự mình mang đi xa lắm là ba do tuần 
[10]
nếu không có người mang giúp mà tự mang đi quá giới hạn ấy, phạm
ưng xả 
đối trị.
        17. Vị Tỳ-kheo nào sai Tỳ-kheo ni không phải 
thân nhân, giặt hoặc nhuộm hoặc chải lông cừu, phạm ưng xả đối 
trị.
        18. Vị Tỳ-kheo nào nhận lấy vàng và bạc, hoặc 
sai nhận lấy, hoặc vui thích của để dành cho, phạm ưng xả đối 
trị.
        19. Vị Tỳ-kheo nào dự việc mậu dịch tài sản bằng 
mọi hình thức phạm ưng xả đối trị.
        20. Vị Tỳ-kheo nào dự việc thương mãi bằng mọi 
hình thức, phạm ưng xả đối trị.
        PHẨM 3: PHẨM BÌNH BÁT
        21. Bình bát dư chỉ nên giữ lâu lắm là mười 
ngày, vượt quá hạn ấy, phạm ưng xả đối trị.
        22. Vị Tỳ-kheo nào có bình bát nứt bể chưa tới 
năm dấu mà sắm tìm bình bát mới khác, phạm ưng xả đối trị. Bình 
bát ấy 
cần được vị Tỳ-kheo đó xả bỏ giữa hội chúng Tỳ-kheo; bình bát 
nào là bát 
cuối cùng của hội chúng tỳ-kheo ấy, bát đó nên giao cho vị 
Tỳ-kheo đó, 
bảo rằng; Này Tỳ-kheo, đây là bình bát của Ngài, cần phải giữ 
cho đến 
khi bể thôi". Ðây là cách hợp thức trong việc này.
        23. Các thứ thuốc cần dùng mà để cho các vị 
Tỳ-kheo bệnh, như là bơ đặc, bơ tươi, dầu mè, mật ong, nước 
đường; sau 
khi thọ nhận chỉ nên cất giữ thọ dùng lâu lắm là bảy ngày, quá 
hạn ấy, 
phạm ưng xả đối trị.
        24. Còn một tháng cuối mùa nóng, Tỳ-kheo nên tìm 
kiếm y tắm mưa; nửa tháng cuối mùa nóng, mới nên may mặc. Nếu 
chưa đến 
tháng cuối mùa nóng mà tìm kiếm y tắm mưa, chưa đến nửa tháng 
cuối mùa 
nóng mà may mặc, phạm ưng xả đối trị.
        25. Tỳ-kheo nào chính mình đã cho y đến vị 
Tỳ-kheo rồi giận hờn bất bình mà cướp lại, hoặc sai cướp lại, 
phạm ưng 
xả đối trị.
        26. Tỳ-kheo nào chính mình xin chỉ vải rồi biểu 
thợ dệt, dệt thành y, phạm ưng xả đối trị.
        27. Có nam gia chủ hay nữ gia chủ không phải 
quyến thuộc, biểu thợ dệt y để dâng vị Tỳ khưu. Trường hợp này 
nếu vị 
Tỳ-kheo ấy khi không được yêu cầu trước mà đi đến các thợ dệt, 
kèo nài 
việc y, rằng: "Ðạo hữu, y này được dệt cho tôi, vậy ông 
hãy làm 
khổ dài, khổ rộng, làm cho khít khao, đều đặn, dẻ dặt, mịn màng,
mướt 
láng; chúng tôi sẽ ban thưởng cho các đạo hữu thêm chút ít cái 
chi nhé!" 
vị Tỳ-kheo ấy nói như vậy rồi ban thưởng cho chút gì đó, thậm 
chí chỉ là 
vật thực, cũng phạm ưng xả đối trị.
        28. Còn mười ngày nữa sẽ đến ngày rằm tháng 
Kattikatemāsikā 
[11]
(tháng 9 âl), có biệt thí y 
[12]
phát sanh đến vị Tỳ khưu; vị Tỳ-kheo nghĩ là y biệt thí thì được
nhận, 
khi nhận rồi chỉ nên cất giữ trong hạn kỳ y 
[13],
nếu quá hạn ấy, phạm ưng xả đối trị.
        29. Ðến ngày rằm tháng 9 âl (kattikapuṇ-ṇamī) 
mãn an cư, như ở rừng, chỗ bị khả nghi, có nguy hiểm vị Tỳ-kheo 
trú ngụ 
những trú xứ như vậy, nếu muốn gởi lại trong xóm một y nào trong
tam y, 
vì có duyên cớ chi cho vị Tỳ-kheo ấy xa lìa y đó; thì vị Tỳ-kheo
chỉ nên 
xa lìa y đó lâu lắm là sáu đêm, quá hạn ấy, phạm ưng xả 
đối trị, 
ngoại trừ vị Tỳ-kheo được cho phép.
        30. vị Tỳ-kheo nào biết rõ lợi lộc đã hiến thuộc 
về Tăng lại sang đoạt về mình, phạm ưng xả đối trị.
        Bạch chư Tôn giả, ba 
mươi pháp ưng xả đối trị đã được tổng thuyết. Ở đây, tôi xin hỏi
các Tôn 
giả, các ngài được thanh tịnh chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi 
các Tôn 
giả, các ngài được thanh tịnh chăng? Lần thứ ba, tôi xin hỏi các
Tôn 
giả, các ngài được thanh tịnh chăng?
        Chư Tôn giả trong đây 
thanh tịnh, do đó im lặng. Tôi xin ghi nhận sự việc này như vậy. 
        DỨT 
PHÁP 
ƯNG XẢ ÐỐI TRỊ.
        -ooOoo-
        
THUYẾT GIỚI ƯNG ÐỐI 
TRỊ
(Pācittiye
vitthāruddeso)
        Ime kho pan' 
āyasmanto dvenavuti pācittiyā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
        1. Sampajānamusāvāde pācittiyaṃ.
        2. Omasavāde pācittiyaṃ.
        3. bhikkhupesuññe pācittiyaṃ.
        4. Yo pana bhikkhu anupasampannaṃ padaso dhammaṃ 
vāceyya pācittiyaṃ.
        5. Yo pana bhikkhu anupasampannena 
utta-ridvirattatirattaṃ saha seyyaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
        6. Yo pana bhikkhu mātugāmena saha sey-yaṃ 
kappeyya pācittiyaṃ.
        7. Yo pana bhikkhu mātugāmassa 
uttarichap-pañcavācāhi dhammaṃ deseyya aññatra viññunā 
purisaviggahena 
pācittiyaṃ.
        8. Yo pana bhikkhu anupasampannassa 
utta-rimanussadhammaṃ āroceyya bhūtasmiṃ pācitti-yaṃ.
        9. Yo pana bhikkhu bhikkhussa duṭṭhullaṃ āpattiṃ 
anupasampannassa āroceyya aññatra bhik-khusammatiyā pācittiyaṃ.
        10. Yo pana bhikkhu paṭhaviṃ khaṇeyya vā 
khaṇāpeyya vā pācittiyaṃ.
        Musāvādavaggo 
paṭhamo.
        11. Bhūtagāmapātabyatāya pācittiyaṃ.
        12. Aññavādake vihesake pācittiyaṃ.
        13. Ujjhāpanake khīyanake pācittiyaṃ.
        14. Yo pana bhikkhu saṅghikaṃ mañcaṃ vā pīṭhaṃ 
vā bhisiṃ vā kocchaṃ vā ajjhokāse santha-ritvā vā santharāpetvā 
vā taṃ 
pakkamanto n'eva uddhareyya na uddharāpeyya anāpucchaṃ vā 
gac-cheyya 
pācittiyaṃ.
        15. Yo pana bhikkhu saṅghike vihāre seyyaṃ 
santharitvā vā santharāpetvā vā taṃ pakkamanto n'eva uddhareyya 
na 
uddharāpeyya anāpucchaṃ vā gaccheyya pācittiyaṃ.
        16. Yo pana bhikkhu saṅghike vihāre jānaṃ 
pubbūpagataṃ bhikkhuṃ anupakhajja seyyaṃ kap-peyya yassa 
sambādho 
bhavissati so pakkamissatī'ti etadeva paccayaṃ karitvā anaññaṃ 
pācittiyaṃ.
        17. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ kupito anat-tamano 
saṅghikā vihārā nikkaḍḍheyya vā nikkaḍ-ḍhāpeyya vā pācittiyaṃ.
        18. Yo pana bhikkhu saṅghike vihāre 
upari-vehāsakuṭiyā āhaccapādakaṃ mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā 
abhinisīdeyya vā 
abhinipajjeyya vā pācittiyaṃ.
        19. Mahallakaṃ pana bhikkhunā vihāraṃ 
kārayamānena yāva dvārakosā aggalaṭṭhapanāya 
ālo-kasandhiparikammāya 
dvitticchadanassa pariyāyaṃ appaharite ṭhitena adhiṭṭhātabbaṃ. 
Tato ce 
uttariṃ appaharitepi ṭhito adhiṭṭhaheyya pācittiyaṃ.
        20. Yo pana bhikkhu jānaṃ sappāṇakaṃ uda-kaṃ 
tiṇaṃ vā mattikaṃ vā siñceyya vā siñcāpeyya vā pācittiyaṃ.
        Bhūtagāmavaggo 
dutiyo.
        21. Yo pana bhikkhu asammato bhikkhuniyo 
ovadeyya pācittiyaṃ.
        22. Sammatopi ce bhikkhu atthaṅgate suriye 
bhikkhuniyo ovadeyya pācittiyaṃ.
        23. Yo pana bhikkhu bhikkhunūpassayaṃ 
upasaṅkamitvā bhikkhuniyo ovadeyya aññatra sama-yā pācittiyaṃ. 
Tatth' 
āyaṃ samayo gilānā hoti bhik-khunī ayaṃ tattha samayo.
        24. Yo pana bhikkhu evaṃ vadeyya āmisahe-tu 
bhikkhū bhikkhuniyo ovadantī'ti pācittiyaṃ.
        25. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuni-yā 
cīvaraṃ dadeyya aññatra parivaṭṭakā pācittiyaṃ.
        26. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuniyā 
cīvaraṃ sibbeyya vā sibbāpeyya vā pācittiyaṃ.
        27. Yo pana bhikkhu bhikkhuniyā saddhiṃ 
saṃvidhāya ekaddhānamaggaṃ paṭipajjeyya antama-so gāmantarampi 
aññatra 
samayā pācittiyaṃ. Tatth' āyaṃ samayo satthagamaniyo hoti maggo 
sāsaṅka-sammato sappaṭibhayo. Ayaṃ tattha samayo.
        28. Yo pana bhikkhu bhikkhuniyā saddhiṃ 
saṃvidhāya ekanāvaṃ abhirūheyya uddhagāminiṃ vā adhogāminiṃ vā 
aññatra 
tiriyantaraṇāya pācit-tiyaṃ.
        29. Yo pana bhikkhu jānaṃ bhikkhunīpari-pācitaṃ 
piṇḍapātaṃ bhuñjeyya aññatra pubbe gihisa-mārambhā pācittiyaṃ.
        30. Yo pana bhikkhu 
bhikkhuniyā saddhiṃ eko ekāya raho nisajjaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
        Ovādavaggo tatiyo.
        31. Agilānena bhikkhunā eko āvasathapiṇḍo 
bhuñjitabbo tato ce uttariṃ bhuñjeyya pācittiyaṃ.
        32. Gaṇabhojane aññatra samayā pācittiyaṃ. 
Tatth' āyaṃ samayo gilānasamayo cīvaradānasamayo 
cīvarakārasamayo 
addhānagamanasamayo nāvābhi-rūhanasamayo mahāsamayo 
samaṇabhattasamayo. 
Ayaṃ tattha samayo.
        33. Paramparabhojane aññatra samayā pācit-tiyaṃ. 
Tatth' āyaṃ samayo gilānasamayo cīvara-dānasamayo 
cīvarakārasamayo. Ayaṃ 
tattha samayo.
        34. Bhikkhu pan'eva kulaṃ upagataṃ pūvehi vā 
manthehi vā abhihaṭṭhuṃ pavāreyya. Ākaṅkha-mānena bhikkhunā 
dvittipattapūrā paṭiggahetabbā. Tato ce uttariṃ paṭiggaṇheyya 
pācittiyaṃ. Dvittipat-tapūre paṭiggahetvā tato nīharitvā 
bhikkhūhi 
sad-dhiṃ saṃvibhajitabbaṃ. Ayaṃ tattha sāmīci.
        35. Yo pana bhikkhu bhuttāvī pavārito 
ana-tirittaṃ khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā khādeyya vā bhuñjeyya 
vā 
pācittiyaṃ.
        36. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ bhuttāviṃ pavāritaṃ 
anatirittena khādanīyena vā bhojanīyena vā abhihaṭṭhuṃ pavāreyya
handa 
bhikkhu khāda vā bhuñja vā'ti jānaṃ āsādanāpekkho bhuttasmiṃ 
pācit-tiyaṃ.
        37. Yo pana bhikkhu vikāle khādanīyaṃ vā 
bhojnīyaṃ vā khādeyya vā bhuñjeyya vā pācittiyaṃ.
        38. Yo pana bhikkhu sannidhikārakaṃ khā-danīyaṃ 
vā bhojanīyaṃ vā khādeyya vā bhuñjeyya vā pācittiyaṃ.
        39. Yāni kho pana tāni paṇītabhojanāni 
sey-yathīdaṃ sappi navanītaṃ telaṃ madhu phāṇitaṃ maccho maṃsaṃ 
khīraṃ 
dadhi. Yo pana bhikkhu evarūpāni paṇītabhojanāni agilāno attano 
atthāya 
viññāpetvā bhuñjeyya pācittiyaṃ.
        40. Yo pana bhikkhu adinnaṃ mukhadvāraṃ āhareyya 
aññatra udakadantapoṇā pācittiyaṃ.
        Bhojanavaggo 
catuttho.
        41. Yo pana bhikkhu acelakassa vā 
paribbā-jakassa vā paribbājikāya vā sahatthā khādanīyaṃ vā 
bhojanīyaṃ vā 
dadeyya pācittiyaṃ.
        42. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ evaṃ vadey-ya eh' 
āvuso gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisis-sāmā'ti tassa dāpetvā 
vā 
adāpetvā vā uyyojeyya gac-ch' āvuso na me tayā saddhiṃ kathā vā 
nisajjā 
vā phāsu hoti ekakassa me kathā vā nisajjā vā phāsu hotī'ti. 
etadeva 
paccayaṃ karitvā anaññaṃ pācit-tiyaṃ.
        43. Yo pana bhikkhu sabhojane kule anupa-khajja 
nisajjaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
        44. Yo pana bhikkhu mātugāmena saddhiṃ raho 
paṭicchanne āsane nisajjaṃ kappeyya pācitti-yaṃ.
        45. Yo pana bhikkhu mātugāmena saddhiṃ eko ekāya 
raho nisajjaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
        46. Yo pana bhikkhu nimantito sabhatto sa-māno 
santaṃ bhikkhuṃ anāpucchā purebhattaṃ vā pacchābhattaṃ vā kulesu
cārittaṃ āpajjeyya aññatra samayā pācittiyaṃ. Tatth' āyaṃ samayo
cīvaradāna-samayo cīvarakārasamayo, ayaṃ tattha samayo.
        47. Agilānena bhikkhunā 
cātummāsappacca-yappavāraṇā sāditabbā aññatra punappavāraṇāya 
aññatra 
niccappavāraṇāya tato ce uttariṃ sādiyeyya pācittiyaṃ.
        48. Yo pana bhikkhu uyyuttaṃ senaṃ dassa-nāya 
gaccheyya aññatra tathārūpappaccayā pācitti-yaṃ.
        49. Siyā ca tassa bhikkhuno koci deva pac-cayo 
senaṃ gamanāya dvirattatirattaṃ tena bhik-khunā senāya 
vasitabbaṃ. Tato 
ce uttariṃ vaseyya pācittiyaṃ.
        50. Dvirattatirattañce bhikkhu senāya vasa-māno 
uyyodhikaṃ vā balaggaṃ vā senabyūhaṃ vā anīkadassanaṃ vā 
gaccheyya 
pācittiyaṃ.
        Acelakavaggo 
pañcamo.
        51. Surāmerayapāṇe pācittiyaṃ.
        52. Aṅgulippatodake pācittiyaṃ.
        53. Udake hassadhamme pācittiyaṃ.
        54. Anādariye pācittiyaṃ.
        55. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ bhiṃsāpeyya 
pācittiyaṃ.
        56. Yo pana bhikkhu agilāno visīvanāpekkho jotiṃ 
samādaheyya vā samādahāpeyya vā aññatra tathārūpappaccayā 
pācittiyaṃ.
        57. Yo pana bhikkhu oren'aḍḍhamāsaṃ nahā-yeyya 
aññatra samayā pācittiyaṃ. Tatth'āyaṃ sama-yo diyaḍḍho māso seso
gimhānanti vassānassa paṭha-mo māso iccete aḍḍhateyyamāso 
uṇhasamayo 
pari-ḷāhasamayo gilānasamayo kammasamayo addhā-nagamanasamayo 
vātavuṭṭhisamayo. Ayaṃ tattha samayo.
        58. Navaṃ pana bhikkhunā cīvaralābhena tiṇṇaṃ 
dubbaṇṇakaraṇānaṃ aññataraṃ dubbaṇṇa-karaṇaṃ ādātabbaṃ nīlaṃ vā 
kaddamaṃ 
vā kāḷasā-maṃ vā. Anādā ce bhikkhu tiṇṇaṃ dubbaṇṇakara-ṇānaṃ 
aññataraṃ 
dubbaṇṇakaraṇaṃ navaṃ cīvaraṃ paribhuñjeyya pācittiyaṃ.
        59. Yo pana bhikkhu bhikkhussa vā bhikkhu-niyā 
vā sikkhamānāya vā sāmaṇerassa vā sāmaṇe-riyā vā sāmaṃ cīvaraṃ 
vikappetvā appaccuddhāra-kaṃ paribhuñjeyya pācittiyaṃ.
        60. Yo pana bhikkhu bhikkhussa pattaṃ vā cīvaraṃ 
vā nisīdanaṃ vā sūcigharaṃ vā kāyaban-dhanaṃ vā apanidheyya vā 
apanidhāpeyya vā anta-maso hassāpekkhopi pācittiyaṃ.
        Surāpāṇavaggo chaṭṭho
        61. Yo pana bhikkhu sañcicca pāṇaṃ jīvitā 
voropeyya pācittiyaṃ.
        62. Yo pana bhikkhu jānaṃ sappāṇakaṃ udakaṃ 
paribhuñjeyya pācittiyaṃ.
        63. Yo pana bhikkhu jānaṃ yathādhammaṃ 
nihatādhikaranaṃ punakkammāya ukkoteyya pācit-tiyaṃ.
        64. Yo pana bhikkhu bhikkhussa jānaṃ duṭṭhullaṃ 
āpattiṃ paṭicchādeyya pācittiyaṃ.
        65. Yo pana bhikkhu jānaṃ ūnavīsativassaṃ 
puggalaṃ upasampādeyya so ca puggalo anupasam-panno te ca 
bhikkhū 
gārayhā idaṃ tasmiṃ pācitti-yaṃ.
        66. Yo pana bhikkhu jānaṃ theyyasatthena saddhiṃ 
saṃvidhāya ekaddhāmaggaṃ paṭipajjeyya antamaso gāmantarampi 
pācittiyaṃ.
        67. Yo pana bhikkhu mātugāmena saddhiṃ 
saṃvidhāya ekaddhānamaggaṃ paṭipajjeyya anta-maso gāmantarampi 
pācittiyaṃ.
        68. Yo pana bhikkhu evaṃ vadeyya tathā' haṃ 
bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā ye' me antarāyikā dhammā
vuttā 
bhagavatā te paṭise-vato n' ālaṃ antarāyāyā' ti. So bhikkhu 
bhikkhūhi 
evam-assa vacanīyo mā āyasmā evaṃ avaca mā bhagavantaṃ 
abbhācikkhi na hi 
sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ na hi bhagavā evaṃ vadeyya 
aneka-pariyāyena 
āvuso antarāyikā dhammā vuttā bhaga-vatā alañca pana te 
paṭisevato 
antarāyāyā'ti. Evañca so bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno Tath' eva 
paggaṇ-heyya so bhikkhu bhikkhūhi yāvatatiyaṃ samanu-bhāsitabbo 
tassa 
paṭinissaggāya yāvatatiyañce sama-nubhāsiyamāno taṃ 
paṭinissajjeyya 
iccetaṃ kusalaṃ no ce paṭinissajjeyya pācittiyaṃ.
        69. Yo pana bhikkhu jānaṃ tathāvādinā bhik-khunā 
akaṭānudhammena taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissaṭ-ṭhena saddhiṃ 
sambhuñjeyya vā 
saṃvaseyya vā saha vā seyyaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
        70. Samaṇuddeso pi ce evaṃ vadeyya tathā' haṃ 
bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā ye' me antarāyikā dhammā
vuttā 
bhagavatā te paṭise-vato n' ālaṃ antarāyāyā' ti. So samaṇuddeso 
bhik-khūhi evamassa vacanīyo mā āvuso samanuddesa evaṃ avaca mā 
bhagavantaṃ abbhācikkhi na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ na hi
bhagavā 
evaṃ vadeyya anekapariyāyena āvuso samaṇuddesa anta-rāyikā 
dhammā vuttā 
bhagavatā alañca pana te paṭi-sevato antarāyāyā'ti. Evañca so 
samaṇuddeso bhik-khūhi vuccamāno Tath'eva paggaṇheyya so 
sama-ṇuddeso 
bhikkhūhi evam-assa vacanīyo ajjatagge te āvuso samaṇuddesa na 
c'eva so 
bhagavā satthā apadisitabbo yampi c' aññe samaṇuddesā labhanti 
bhikkhūhi 
saddhiṃ dvirattatirattaṃ sahaseyyaṃ sā'pi te natthi cara pire 
vinassā' 
ti. Yo pana bhikkhu jānaṃ tathānāsitaṃ samaṇuddesaṃ upalāpeyya 
vā 
upaṭṭhāpeyya vā sambhuñjeyya vā saha vā seyyaṃ kappeyya 
pācittiyaṃ.
        Sappāṇakavaggo 
sattano.
        71. Yo pana bhikkhu 
bhikkhūhi sahadham-mikaṃ vuccamāno evaṃ vadeyya na tā v'ā haṃ 
āvu-so 
etasmiṃ sikkhāpade sikkhissāmi yāva n' aññaṃ bhikkhuṃ byattaṃ 
vinayadharaṃ paripucchāmī' ti pācittiyaṃ. Sikkhamānena bhikkhave
bhikkhunā aññatabbaṃ paripucchitabbaṃ paripañhitabbaṃ. Ayaṃ 
tattha 
sāmīci.
        72. Yo pana bhikkhu pāṭimokkhe uddis-sa-māne 
evaṃ vadeyya kimpan' imehi khuddānukhud-dakehi sikkhāpadehi 
uddiṭṭhehi 
yāvadeva kukkuc-cāya vihesāya vilekhāya saṃvattantī' ti. 
Sikkhāpa-davivaṇṇanake pācittiyaṃ.
        73. Yo pana bhikkhu anvaḍḍhamāsaṃ pāṭi-mokkhe 
uddissamāne evaṃ vadeyya idān'eva kho ahaṃ jānāmi ayampi kira 
dhammo 
suttāgato sutta-pariyāpanno anvaḍḍhamāsaṃ uddesaṃ āgacchatī' ti.
Tañce 
bhikkhuṃ aññe bhikkhū jāneyyuṃ nisinna-pubbaṃ iminā bhikkhunā 
dvittikkhattuṃ pāṭimok-khe uddissamāne ko pana vādo bhiyyo'ti na
ca 
tassa bhikkhuno aññāṇakena mutti atthi yañca tattha āpattiṃ 
āpanno tañca 
yathādhammo kāretabbo uttariñc' assa moho āropetabbo tassa te 
āvuso 
alā-bhā tassa te dulladdhaṃ yaṃ tvaṃ paṭimokkhe ud-dissamāne na 
sādhukaṃ 
aṭṭhikatvā manasikarosī' ti. Idaṃ tasmiṃ mohanake pācittiyaṃ.
        74. Yo pana bhikkhu bhikkhussa kupito 
anat-tamano pahāraṃ dadeyya pācittiyaṃ.
        75. Yo pana bhikkhu bhikkhussa kupito anattamano 
talasattikaṃ uggireyya pācittiyaṃ.
        76. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ amūlakena 
saṅghādisesena anuddhaṃseyya pācittiyaṃ.
        77. Yo pana bhikkhu bhikkhussa sañcicca 
kukkuccaṃ upadaheyya iti' ssa muhuttampi aphāsu bhavissatī' ti. 
Etadeva 
paccayaṃ karitvā anaññaṃ pācittiyaṃ.
        78.Yo pana bhikkhu bhikkhūnaṃ bhaṇḍa-najātānaṃ 
kalahajātānaṃ vivādāpannānaṃ upas-sutiṃ tiṭṭheyya yaṃ ime 
bhanissanti 
taṃ sossāmī' ti. Etadeva paccayaṃ karitvā anaññaṃ pācittiyaṃ.
        79. Yo pana bhikkhu dhammikānaṃ kam-mānaṃ 
chandaṃ datvā pacchā khīyanadhammaṃ apajjeyya pācittiyaṃ.
        80. Yo pana bhikkhu saṅghe vinicchayaka-thāya 
vattamānāya chandaṃ adatvā utthāy' āsanā pakkameyya pācittiyaṃ.
        81. Yo pana bhikkhu samaggena saṅghena cīvaraṃ 
datvā pacchā khīyanadhammaṃ āpajjeyya yathā santhutaṃ bhikkhū 
saṅghikaṃ 
lābhaṃ pari-ṇāmentī' ti pācittiyaṃ.
        82. Yo pana bhikkhu jānaṃ saṅghikaṃ lā-bhaṃ 
pariṇataṃ puggalassa pariṇāmeyya pācittiyaṃ.
        Sahadhammikavaggo aṭṭhamo
        83. Yo pana bhikkhu rañño khattiyassa 
mud-dhābhisittassa anikkhantarājake aniggataratanake pubbe 
appaṭisaṃvidito indakhīlaṃ atikkāmeyya pā-cittiyaṃ.
        84. Yo pana bhikkhu ratanaṃ vā ratana-sammataṃ 
vā aññatra ajjhārāmā vā ajjhāvasathā vā uggaṇheyya vā 
uggaṇhāpeyya vā 
pācittiyaṃ. Rata-naṃ vā pana bhikkhunā ratanasammataṃ vā 
ajjhā-rāme vā 
ajjhāvasathe vā uggahetvā vā uggahāpetvā vā nikkhipitabbaṃ yassa
bhavissati so harissatī' ti. Ayaṃ tattha sāmīci.
        85. Yo pana bhikkhu santaṃ bhikkhuṃ anā-pucchā 
vikāle gāmaṃ paviseyya aññatra tathārūpā accāyikā karaṇīyā 
pācittiyaṃ.
        86. Yo pana bhikkhu aṭṭhimayaṃ vā danta-mayaṃ vā 
visānamayaṃ vā sūcigharaṃ kārāpeyya bhedanakaṃ pācittiyaṃ.
        87. Navaṃ pana bhikkhunā mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā 
kārayamānena aṭṭhaṅgulapādakaṃ kāre-tabbaṃ sugataṅgulena aññatra
heṭṭhimāya aṭaniyā taṃ atikkāmayato chedanakaṃ pācittiyaṃ.
        88. Yo pana bhikkhu mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā 
tūlonaddhaṃ kārāpeyya uddālanakaṃ pācittiyaṃ.
        89. Nisīdanaṃ pana bhikkhunā kārayamāne-na 
pamāṇikaṃ kāretabbaṃ tatridaṃ pamāṇaṃ dī-ghaso dve vidatthiyo 
sugatavidatthiyā tiriyaṃ diyad-dhaṃ dasā vidatthī taṃ 
atikkāmayato 
chedakaṃ pā-cittiyaṃ.
        90. Kaṇḍuppaṭicchādiṃ pana bhikkhunā 
kārayamānena pamāṇikā kāretabbā tatridaṃ pamā-naṃ dīghaso 
catasso 
vidatthiyo sugatavidatthiyā tiri-yaṃ dve vidatthiyo taṃ 
atikkāmayato 
chedanakaṃ pācittiyaṃ.
        91. Vassikasāṭikaṃ pana bhikkhunā kāraya-mānena 
pamānikā kāretabbā tatridaṃ pamānaṃ dīghaso cha vidatthiyo 
sugatavidatthiyā tiriyaṃ aḍ-ḍhateyyā taṃ atikkāmayato chedanakaṃ
pācittiyaṃ.
        92. Yo pana bhikkhu sugatacīvarappamānaṃ cīvaraṃ 
kārāpeyya atirekaṃ vā chedanakaṃ pācit-tiyaṃ. Tatridaṃ sugatassa
sugatacīvarappamānaṃ dīghaso nava vidatthiyo sugatavidatthiyā 
tiriyaṃ 
cha vidatthiyo. Idaṃ sugatassa sugatacīvarappamāṇaṃ.
        Ratanavaggo 
navamo.
        Udditthā kho 
āyasmanto dvenavuti pācittiyā dhammā, Tatth' āyasmante pucchāmi 
kacci'ttha parisuddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha 
pari-suddhā? 
Tatiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
        Parisuddh'etth' 
āyasmanto tasmā tuṇhī evametaṃ dhārayāmi.
        Pācittiyā niṭṭhitā.
        *
        Bạch chư Tôn giả, đây là chín mươi hai pháp ưng 
đối trị được tổng thuyết như sau:
        PHẨM 1: PHẨM NÓI DỐI
        1. Biết rõ lại nói dối, phạm ưng đối trị.
        2. Chửi mắng vị khác, phạm ưng đối trị.
        3. Nói đâm thọc Tỳ-kheo, phạm ưng đối trị.
        4. Vị Tỳ-kheo nào dạy pháp thể thơ kệ cho người 
chưa thọ cụ túc giới (đọc chung) phạm ưng đối trị.
        5. Vị Tỳ-kheo nào ngủ chung với người chưa thọ 
cụ túc giới quá hai ba đêm, phạm ưng đối trị.
        6. Vị Tỳ-kheo nào ngủ chung với phụ nữ (một 
nhà), phạm ưng đối trị.
        7. Vị Tỳ-kheo nào nói pháp cho người nữ quá năm 
sáu lời, phạm ưng đối trị, ngoại trừ được người nam tỉnh táo 
chứng kiến.
        8. Vị Tỳ-kheo nào tiết lộ pháp cao nhân đã thực 
chứng với người chưa thọ cụ túc giới, phạm ưng đối trị.
        9. Vị Tỳ-kheo nào tiết lộ tội lỗi của Tỳ-kheo 
với người chưa thọ cụ túc giới, phạm ưng đối trị ngoại trừ vị 
Tỳ-kheo 
được phép.
        10. Vị Tỳ-kheo nào đào bới đất hoặc sai đào bới, 
phạm ưng đối trị.
        PHẨM 2: PHẨM THẢO MỘC
        11. Phá hại thảo mộc, phạm ưng đối trị.
        12. Nói tráo 
trở gây khó khăn, phạm ưng đối trị.
        13. kích bác chỉ trích, phạm ưng đối trị.
        14. Vị Tỳ-kheo nào lấy giường của Tăng hoặc ghế 
hoặc nệm hoặc gối trải ra nơi trống hay sai trải ra rồi khi đi 
khỏi 
không thu dọn cũng không nhờ thu dọn hoặc đi không từ giã, phạm 
ưng đối 
trị.
        15. Vị Tỳ-kheo nào trải dọn chỗ nằm, hoặc sai 
trải dọn, trong tịnh thất của Tăng rồi khi rời khỏi chỗ ấy không
thu dọn 
cũng không nhờ thu dọn hoặc đi không cáo từ phạm ưng đối trị.
        16. Vị Tỳ-kheo nào biết trong tịnh thất của Tăng 
có vị Tỳ-kheo đã đến trước, vẫn chen vào trải dọn chỗ ngủ nghĩ 
rằng ai 
bực bội thì đi ra; chỉ có nguyên nhân đó không việc gì khác cũng
phạm 
tội ưng đối trị.
        17. Vị Tỳ-kheo nào sân giận bất bình với Tỳ-kheo 
rồi kéo lôi hoặc sai kéo lôi ra khỏi tịnh thất của tăng, phạm 
ưng đối 
trị.
        18. Vị Tỳ-kheo nào ngồi hoặc nằm trên giường ghế 
kê tạm ở gác lửng trong tịnh xá của tăng, phạm ưng đối trị.
        19. Khi vị tỳ-kheo cho làm tịnh thất lớn, cần 
phải đứng ở khoảng cách cửa cái để mở then gài, để sơn phết cửa 
sổ; đứng 
tại chỗ không phải ruộng rẩy để lợp mái, chỉ lợp hai ba lớp. Nếu
thực 
hiện vượt quá cách đó, dù đứng tại chỗ không phải ruộng rẫy, 
cũng phạm 
ưng đối trị.
        20. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ nước có sinh vật lại 
đổ hoặc sai đổ trên cỏ hay mặt đất, phạm ưng đối trị.
        PHẨM 3: PHẨM GIÁO ÐẠO
        21. Vị Tỳ-kheo nào chưa được cho phép mà giáo 
đạo các Tỳ-kheo ni, phạm ưng đối trị.
        22. Vị Tỳ-kheo mặc dù đã được cho phép nhưng 
giáo đạo các Tỳ-kheo ni lúc mặt trời đã lặn, phạm ưng đối trị.
        23. Vị Tỳ-kheo nào đi đến cư xá ni chúng mà giáo 
đạo chư Tỳ-kheo ni, phạm ưng đối trị, ngoại trừ có trường hợp. 
Trường 
hợp ở đây là có Tỳ-kheo ni bị bệnh.
        24. Vị Tỳ-kheo nào nói như sau "chư Tỳ-kheo
giáo đạo Tỳ-kheo ni vì 
nhân lợi lộc" 
phạm ưng đối trị.
        25. Vị Tỳ-kheo nào cho y đến Tỳ-kheo ni không 
phải quyến thuộc, phạm ưng đối trị, ngoại trừ trao đổi.
        26. Vị Tỳ-kheo nào may hoặc nhờ may y cho 
Tỳ-kheo ni không phải quyến thuộc, phạm ưng đối trị.
        27. Vị Tỳ-kheo nào rủ 
nhau với vị Tỳ-kheo ni hành trình chung một đường dài, thậm chí 
dù chỉ 
qua một khoảng xóm, phạm ưng đối trị, ngoại trừ có trường hợp. 
Trường 
hợp ở đây là con đường cần đi thành đoàn, có điều nghi ngờ, có 
sự nguy 
hiểm.
        28. Vị Tỳ-kheo nào rủ nhau với Tỳ-kheo ni ngồi 
chung một thuyền, đi xuôi hoặc đi ngược dòng, phạm ưng đối trị, 
trừ khi 
băng đò ngang.
        29. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ vẫn ăn thực phẩm do 
Tỳ-kheo ni sắp đặt, phạm ưng đối trị, trừ khi người cư sĩ khởi 
xướng 
trước.
        30. Vị Tỳ-kheo nào cùng với Tỳ-kheo ni, một với 
một, ngồi chỗ vắng vẻ, phạm ưng đối trị.
        PHẨM 4: PHẨM VẬT THỰC
        31. Với Tỳ-kheo vô bệnh, thức ăn tại bố thí 
đường chỉ nên dùng một lần, nếu thọ dụng hơn hạn ấy, phạm ưng 
đối trị.
        32. Thọ thực chung nhóm, phạm ưng đối trị, ngoại 
trừ có trường hợp. Ở đây có trường hợp là lúc bị bệnh, lúc lễ 
dâng y, 
lúc bận làm y, lúc đi đường xa, lúc đi thuyền, lúc đại hội, lúc 
tu sĩ 
thí thực. Ðây là trường hợp trong điều học này.
        33. Thọ thực hậu thỉnh phạm ưng đối trị, ngoại 
trừ có trường hợp. Ở đây trường hợp này là lúc bị bệnh, lúc lễ 
dâng y, 
lúc bận làm y. Ðây là trường hợp trong điều học này.
        34. Vị Tỳ-kheo đi đến tư gia, có người yêu cầu 
để cúng dường bánh hoặc lương khô. Nếu vị Tỳ-kheo muốn thì chỉ 
nên thọ 
nhận hai-ba bát đầy. Nếu thọ nhận quá hạn ấy phạm ưng đối trị. 
Sau khi 
thọ nhận hai ba bát đầy, đem khỏi nơi ấy cần phải phân chia với 
các vị 
Tỳ khưu. Ðây là cách làm đúng trong điều học này.
        35. Vị Tỳ-kheo nào đã ăn xong, đã ngăn thực, lại 
ăn hoặc thưởng thức vật thực loại cứng hay loại mềm phi tàn 
thực, phạm 
ưng đối trị.
        36. Vị Tỳ-kheo nào nài ép dâng cho Tỳ-kheo đã ăn 
xong và ngăn vật thực rồi, bằng thức ăn loại cứng hay loại mềm 
phi tàn 
thực, bảo rằng: "Này Tỳ-kheo hãy ăn, hãy thọ dùng" biết rõ nhưng
muốn 
chỉ trích; khi vị đó ăn xong, vị này phạm ưng đối trị.
        37. Vị Tỳ-kheo nào nhai ăn hoặc thọ dùng vật 
thực loại cứng hay loại mềm trong phi thời, phạm ưng đối trị.
        38. Vị Tỳ-kheo nào nhai ăn hoặc thọ dùng vật 
thực loại cứng hay loại mềm đã dự trử, phạm ưng đối trị.
        39. Những thức ăn thượng vị nào như là bơ tươi, 
bơ đặc, dầu mè, mật ong, đường, cá, thịt, sữa tươi, sữa đông; vị
Tỳ-kheo 
nào vô bệnh vì lợi mình mà xin những thức ăn thượng vị như vậy 
rồi thọ 
dùng, phạm ưng đối trị.
        40. Vị Tỳ-kheo nào đưa vào miệng thứ vật thực 
chưa được cho, phạm ưng đối trị ngoại trừ nước lả và tăm xỉa 
răng.
        PHẨM 5: PHẨM LÕA THỂ
        41. Vị Tỳ-kheo nào tự tay cho thức ăn loại cứng 
hoặc loại mềm đến tu sĩ lỏa thể hay nam du sĩ hay nữ du sĩ, phạm
ưng đối 
trị.
        42. Vị Tỳ-kheo nào nói với Tỳ-kheo khác như sau: 
"này hiền giả hãy đi, chúng ta sẽ vào làng hay thị trấn để khất 
thực; 
nhưng rồi khi đã bố thí cho vị ấy hoặc chưa bố thí lại xua đuổi 
về: hãy 
đi đi này hiền giả nói chuyện với ông hay ngồi lại với ông, tôi 
không 
thoải mái, thà tôi nói chuyện một mình hay ngồi một mình mà an 
vui hơn". 
Chỉ có nguyên nhân ấy không chi khác, phạm ưng đối trị.
        43. Vị Tỳ-kheo nào xen vào ngồi trong gia đình 
đôi vợ chồng, phạm ưng đối trị.
        44. Vị Tỳ-kheo nào ngồi trong chỗ che dừng kín 
đáo với người phụ nữ, phạm ưng đối trị.
        45. Vị Tỳ-kheo nào ngồi khuất vắng với người phụ 
nữ, một với một, phạm ưng đối trị.
        46. Vị Tỳ-kheo nào được mời thỉnh nhận đi thọ 
thực, nếu chưa từ giã vị Tỳ-kheo đang có mặt lại đi thăm viếng 
các gia 
đình khác trước hoặc sau thời ngọ trai, phạm ưng đối trị., ngoại
trừ có 
trường hợp. Trường hợp ở đây là lúc lễ dâng y, lúc đang làm y. 
Ðây là 
trường hợp trong điều học này.
        47. Với vị Tỳ-kheo vô bệnh chỉ nên vui nhận vật 
dụng yêu cầu thời hạn bốn tháng, nếu vui nhận quá thời hạn ấy, 
phạm ưng 
đối trị, ngoại trừ có lời yêu cầu tiếp tục hay được yêu cầu vĩnh
viễn.
        48. Vị Tỳ-kheo nào đi xem quân đội diễn tập, 
phạm ưng đối trị. Ngoại trừ có duyên cớ thích đáng.
        49. Ðối với vị Tỳ-kheo có duyên cớ chi phải đến 
gia binh thì vị Tỳ-kheo ấy chỉ nên ngụ lại trong gia binh hai ba
đêm. 
Nếu ngụ quá hạn ấy, phạm ưng đối trị.
        50. Nếu vị Tỳ-kheo khi đang cư ngụ tại gia binh 
hai ba đêm mà đi đến chỗ tập trận, chỗ đóng quân, chỗ tập hợp 
quân hoặc 
chỗ duyệt binh, phạm ưng đối trị.
        PHẨM 6: PHẨM UỐNG RƯỢU
        51. Uống rượu ngâm, rượu cất, phạm ưng đối trị.
        52. Chơi thọc cù lét, phạm ưng đối trị.
        53. Giỡn nước, phạm ưng đối trị.
        54. Thái độ bất cần, phạm ưng đối trị.
        55. Vị Tỳ-kheo nào hù nhát Tỳ-kheo, phạm ưng đối 
trị.
        56. Vị Tỳ-kheo nào vô bệnh, đốt lửa muốn sưởi ấm 
hoặc sai đốt lửa, phạm ưng đối trị, ngoại trừ có duyên cớ hợp 
lẽ.
        57. Vị Tỳ-kheo nào chưa tới nửa tháng mà tắm, 
phạm ưng đối trị. ngoại trừ có trường hợp. Ở đây có trường hợp 
là còn 
một tháng rưỡi cuối mùa nóng, tháng đầu của mùa mưa, đó là hai 
tháng 
rưỡi thời gian oi bức; trường hợp thời tiết nực nội; trường hợp 
bệnh 
hoạn; trường hợp làm việc nhọc; trường hợp đi đường xa; trường 
hợp mưa 
gió. Ðây là duyên cớ trong điều học này.
        58. Vị Tỳ-kheo nhận được y mới phải lấy một 
trong ba màu tối để làm hoại sắc, là màu xanh, màu bùn hay màu 
đen. Nếu 
vị Tỳ-kheo không lấy một trong ba màu tối làm hoại sắc mà sử 
dụng y mới, 
phạm ưng đối trị.
        59. Vị Tỳ-kheo nào tự mình ký gởi y cho Tỳ-kheo 
hoặc Tỳ-kheo ni hoặc học nữ hoặc sa-di hoặc sa-di ni, chưa rút 
lời mà sử 
dụng, phạm ưng đối trị.
        60. Vị Tỳ-kheo nào cất giấu hoặc bảo cất giấu 
bình bát của Tỳ khưu, hoặc y hoặc tọa cụ hoặc ống đựng kim hoặc 
dây 
lưng. Dù chỉ để vui cười. phạm ưng đối trị.
        PHẨM 7: PHẨM CÓ SINH VẬT
        61. Vị Tỳ-kheo nào cố ý đoạt mạng sống sinh vật, 
phạm ưng đối trị.
        62. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ nước có sinh vật mà 
vẫn sử dụng, phạm ưng đối trị
        63. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ vụ kiện tụng đã được 
xử theo pháp vẫn khơi dậy để xử lại, phạm ưng đối trị.
        64. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ lại che giấu tội xấu 
xa của Tỳ khưu, phạm ưng đối trị.
        65. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ người chưa đủ hai 
mươi tuổi mà truyền cụ túc giới, phạm ưng đối trị; người ấy 
không đắc cụ 
túc giới và chư Tỳ-kheo ấy đáng bị quở trách.
        66. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ mà rủ nhau hành trình 
chung đường dài cùng với bọn lậu thương, dù chỉ đi qua một 
khoảng xóm 
cũng phạm ưng đối trị.
        67. Vị Tỳ-kheo nào rủ nhau hành trình chung 
đường dài với người phụ nữ, dù chỉ qua một khoảng xóm cũng phạm 
ưng đối 
trị.
        68. Vị Tỳ-kheo nào nói như sau: "theo tôi hiểu 
biết pháp do Ðức Thế Tôn đã thuyết thì những pháp mà Ðức Thế Tôn
bảo là 
pháp tai hại, những pháp ấy thật không đủ gây tai hại cho người 
hành 
theo đâu". Vị Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo khuyên bảo như 
vầy: "Tôn 
giả chớ có nói như vậy, chớ có xuyên tạc Ðức Thế Tôn, sự xuyên 
tạc Ðức 
Thế Tôn chắc chắn là không tốt; bởi lẽ đức Thế Tôn không hề nói 
như vậy, 
này hiền giả các pháp tai hại được đức Thế Tôn dùng nhiều phương
tiện 
tuyên bố hại thì những pháp ấy hẳn đúng là gây tai hại cho người
hành 
theo". Vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như vậy mà 
vẫn cố 
chấp như cũ thì vị Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo can gián ba 
lần cho 
bỏ lời ấy; nếu khi được can gián ba lần mà bỏ thì là điều tốt, 
bằng nếu 
không bỏ, phạm ưng đối trị.
        69. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ vẫn ăn chung hoặc ở 
chung hoặc ngủ chung với Tỳ-kheo người nói quấy không hành theo 
pháp, 
không bỏ tà kiến ấy, phạm ưng đối trị.
        70. Nếu có vị sa-di nói như sau: "theo tôi hiểu 
pháp Ðức Thế Tôn đã thuyết, thì những pháp mà Ðức Thế Tôn tuyên 
bố là 
tai hại, những pháp ấy thật sự không đủ để làm tai hại cho người
thực 
hành đâu". Vị sa-di ấy cần được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như sau: 
"Này ông 
sa-di, ngươi chớ có nói như vậy, chớ xuyên tạc Ðức Thế Tôn, vì 
sự xuyên 
tạc Ðức Thế Tôn là không tốt, chắc chắn Ðức Thế Tôn không tuyên 
bố như 
vậy; này ông sa-di những pháp tai hại đã được Ðức Thế Tôn dùng 
nhiều 
phương tiện tuyên bố thì những pháp ấy hẳn đúng là gây tai hại 
cho người 
thực hành" Vị sa-di ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như vậy vẫn
cố chấp 
thì vị sa-di ấy cần được chư Tỳ-kheo nói rằng: " kể từ hôm nay 
này ông 
sa-di, Ðức Thế Tôn không cần ngươi bái làm bậc Ðạo Sư nữa; lợi 
đắc nào 
mà các vị sa-di khác có được như quyền đồng cư với chư Tỳ-kheo 
hai ba 
đêm, lợi đắc ấy ngươi không có, hỡi kẻ xấu hãy đi mất đi". Vị 
Tỳ-kheo 
nào biết rõ vị sa-di đã bị tẩn xuất như thế lại dụ dỗ hoặc sai 
phục dịch 
hoặc ăn chung hoặc ngủ chung, phạm ưng đối trị .
        PHẨM 8: PHẨM THEO PHÁP
        71. Vị Tỳ-kheo nào 
khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo đúng pháp lại nói như sau: "Nầy 
chư hiền 
cho đến khi nào tôi chưa hỏi vị Tỳ-kheo khác thông thạo trì luật
thì đến 
chừng ấy tôi vẫn chưa chịu học tập điều học đó đâu" nói vậy phạm
ưng đối 
trị. Này chư Tỳ khưu, với vị Tỳ-kheo cầu học cần phải tìm hiểu, 
cần phải 
học hỏi, cần phải nghi vấn. Ðây là điều hợp lý trong pháp này.
        72. Vị Tỳ-kheo nào khi giới bổn đang được thuyết 
tụng lại nói như sau: "có ích gì với những điều học nhỏ nhặt 
tiểu tiết 
này, chỉ là dẫn đến sự hối tiếc, ray rứt bận tâm thôi". Vì thái 
độ chê 
bai học giới, phạm ưng đối trị.
        73. Vị Tỳ-kheo nào khi giới bổn được thuyết tụng 
mỗi nửa tháng một lần, lại nói như sau: "tới nay tôi mới biết là
pháp 
này được tổng thuyết mỗi nửa tháng lại có liên quan đến kinh 
luật, hệ 
thuộc kinh luật". Các vị Tỳ-kheo khác vẫn biết rõ đối với 
Tỳ-kheo này đã 
từng ngồi nghe thuyết tụng giới bổn đôi ba lần, huống chi là 
nhiều hơn 
nữa. Ðối với Tỳ-kheo ấy không thoát tội do sự thiếu hiểu biết, 
vị đó có 
phạm tội gì thì cần được trị phạt theo pháp tội ấy; thêm nữa cần
phải 
giải tỏa sự u mê của vị ấy, rằng: "này hiền giả thật bất lợi cho
ông, 
thật thiệt hại cho ông về việc này, việc mà ông không chú tâm 
khéo tác ý 
khi giới bổn đang được thuyết tụng". Trong vụ này vì việc giả 
khờ, phạm 
ưng đối trị.
        74. Vị Tỳ-kheo nào sân giận bất bình vị Tỳ-kheo 
khác rồi đánh đập, phạm ưng đối trị.
        75. Vị Tỳ-kheo nào sân giận bất bình vị Tỳ-kheo 
khác rồi giá tay dọa, phạm ưng đối trị.
        76. Vị Tỳ-kheo nào vu cáo vị Tỳ-kheo với tội 
tăng tàng vô căn cớ, phạm ưng đối trị.
        77. Vị Tỳ-kheo nào cố tình gây áy náy cho Tỳ 
khưu, nghĩ rằng: "làm cho vị ấy chỉ bất an một chút thôi". Chỉ 
có duyên 
cớ đó không chi khác, phạm ưng đối trị.
        78. Vị Tỳ-kheo nào trong khi các Tỳ-kheo xung 
đột cãi vã tranh luận, lại đứng rình rập, nghĩ rằng: "Những vị 
này nói 
gì ta sẽ nghe điều ấy". Chỉ có duyên cớ đó không chi khác, phạm 
ưng đối 
trị.
        79. Vị Tỳ-kheo nào khi đã đưa lời thỏa thuận 
trong vụ tăng sự đúng pháp, về sau lại hiềm trách, phạm ưng đối 
trị.
        80. Vị Tỳ-kheo nào giữa cuộc xét xử đang tiến 
hành trong tăng, chưa đưa lời thỏa hiệp mà đứng dậy khỏi chỗ 
ngồi bỏ đi, 
phạm ưng đối trị.
        81. Vị Tỳ-kheo nào khi Tăng hòa hợp giao y rồi 
mà về sau lại hiềm trách rằng: "Chư Tỳ-kheo theo pháp vị thân mà
cưỡng 
đoạt lợi lộc của Tăng", phạm ưng đối trị.
        82. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ lợi lộc được dâng 
hiến thuộc về tăng, lại cưỡng đoạt cho một cá nhân, phạm ưng đối
trị.
        PHẨM 9: PHẨM CHÂU BÁU
        83. Vị Tỳ-kheo nào chưa báo tin trước mà đi vào 
hậu cung của vua Sát-đế-lỵ đã được tôn vương, khi vua và hoàng 
hậu chưa 
ngự ra ngoài, phạm ưng đối trị.
        84. Vị Tỳ-kheo nào nhặt lấy hoặc sai nhặt lấy 
báu vật hay vật được định là của báu, phạm ưng đối trị. ngoại 
trừ trong 
chùa hoặc nơi cư ngụ, khi vị Tỳ-kheo nhặt được hoặc bảo người 
nhặt báu 
vật hay vật được định là của báu, trong vòng chùa hoặc chỗ cư 
ngụ thì 
nên giữ lại nghĩ rằng là của ai người ấy sẽ mang đi. Ðây là cách
làm tốt 
trong điều này.
        85. Vị Tỳ-kheo nào chưa từ giã Tỳ-kheo hiện 
diện, mà đi vào xóm lúc phi thời, phạm ưng đối trị, trừ phi có 
việc cấp 
thiết chính đáng .
        86. Vị Tỳ-kheo nào sai làm ống đựng kim bằng 
xương hoặc bằng nanh hoặc bằng sừng, phạm ưng đối trị, vật phải 
đập bể.
        87. Giường hay ghế mới mà vị Tỳ-kheo sai làm ra, 
cần phải cho làm chân cao tám ngón, tính theo ngón tay Ðức Phật 
[14],
đo từ thanh diềm dưới, vượt quá mức ấy phạm ưng đối trị, vật 
phải cắt 
bỏ.
        88. Vị Tỳ-kheo nào sai làm giường hay ghế lót 
nệm gòn, phạm ưng đối trị, nệm phải xé bỏ.
        89. Tọa cụ mà Tỳ-kheo nhờ làm, phải cho làm theo 
kích cỡ, kích thước ở đây là chiều dài hai gang tay, chiều rộng 
một gang 
rưỡi, bìa 1 gang, tính theo gang Ðức Phật 
[15],
làm vượt quá cỡ ấy phạm ưng đối trị, vật phải cắt bỏ .
        90. Băng rịt ghẻ mà Tỳ-kheo nhờ làm, phải cho 
làm theo kích cỡ, kích thước ở đây là dài 4 gang, rộng 2 gang, 
tính theo 
gang Ðức Phật; quá cỡ ấy phạm ưng đối trị, vật phải cắt bỏ. 
        91. Choàng tắm mưa mà Tỳ-kheo nhờ làm, phải cho 
làm theo kích cỡ, kích thước ở đây là dài 6 gang, rộng 2 gang 
rưởi, theo 
gang Ðức Phật, quá kích cỡ ấy phạm ưng đối trị, vật phải cắt bỏ.
        92. Vị Tỳ-kheo nào nhờ làm y bằng cỡ y của Ðức 
Phật hoặc rộng hơn, phạm ưng đối trị, y phải cắt bỏ. Ở đây, kích
thước y 
của Ðức Phật là chiều dài 9 gang chiều ngang 6 gang, theo gang 
tay Ðức 
Phật, đây là kích thước tấm y của Ðức Thiện Thệ.
        Bạch chư Tôn giả, chín mươi hai pháp ưng đối trị 
đã được tổng thuyết.
        Ở đây tôi xin hỏi chư Tôn giả, các Ngài được 
thanh tịnh chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi các Ngài được thanh 
tịnh 
chăng? lần thứ ba, tôi xin hỏi các Ngài được thanh tịnh chăng? 
chư Tôn 
giả trong đây được thanh tịnh, do đó im lặng, tôi xin ghi nhận 
sự việc 
ấy như vậy. 
        
        DỨT THUYẾT 
GIỚI ƯNG ÐỐI TRỊ.
        
        -ooOoo-
         THUYẾT 
GIỚI ƯNG PHÁT LỘ
(Pātidesanīye vitthāruddeso)
        Ime kho pan' 
āyasmanto cattāro pāṭidesanīyā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
        1. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuniyā 
antaragharaṃ paviṭṭhāya hatthato khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā 
sahatthā 
paṭiggahetvā khādeyya vā bhuñjeyya vā paṭidesetabbaṃ tena 
bhikkhunā 
gāray-haṃ āvuso dhammaṃ āpajjiṃ asappāyaṃ pāṭidesa-nīyaṃ taṃ 
paṭidesemī' 
ti.
        2. Bhikkhū pan'eva kulesu nimantitā bhuñ-janti. 
Tatra ce bhikkhunī vosāsamānarūpā ṭhitā hoti idha sūpaṃ detha 
idha 
odanaṃ dethā ' ti. Tehi bhik-khūhi sā bhikkhunī apasādetabbā 
apasakka 
tāva bhagini yāva bhikkhū bhuñjantī' ti. Ekassapi ce bhikkhuno 
nappaṭibhāseyya taṃ bhikkhuniṃ apa-sādetuṃ apasakka tāva bhagini
yāva 
bhikkhū bhuñ-jantī'ti paṭidesetabbaṃ tehi bhikkhūhi gārayhaṃ 
āvuso 
dhammā āpajjimhā asappāyaṃ pāṭidesanīyaṃ taṃ paṭidesemā' ti.
        3. Yāni kho pana tāni sekkhasammatāni kulāni. Yo 
pana bhikkhu tathārūpesu sekkhasamma-tesu kulesu pubbe 
animantito 
agilāno khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā sahatthā paṭiggahetvā 
khādeyya vā 
bhuñjeyya vā paṭidesetabbaṃ tena bhikkhunā gāray-haṃ āvuso 
dhammaṃ 
āpajjiṃ asappāyaṃ paṭidesa-nīyaṃ taṃ paṭidesemī'ti.
        4. Yāni kho pana tāni āraññakāni senāsanāni 
sāsaṅkasammatāni sappaṭibhayāni. Yo pana bhik-khu tathārūpesu 
senāsanesu 
viharanto pubbe appaṭi-saṃviditaṃ khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā 
ajjhārāme 
sahatthā paṭiggahetvā agilāno khādeyya vā bhuñ-jeyya vā 
paṭidesetabbaṃ 
tena bhikkhunā gārayhaṃ āvuso dhammaṃ āpajjiṃ asappāyaṃ 
pāṭidesanīyaṃ 
taṃ paṭidesemī ' ti.
        Uddiṭṭhā kho āyasmanto cattāro pāṭi-desa-nīyā 
dhammā.
        Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha 
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
        Parisuddh'etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ 
dhārayāmi.
        Pāṭidesanīyā 
niṭṭhitā.
        *
        Bạch chư Tôn giả, đây là bốn pháp ưng phát lộ 
được tổng thuyết như sau:
        1. Vị Tỳ-kheo nào ăn hoặc dùng vật thực loại 
cứng hay loại mềm nhận từ tay vị Tỳ-kheo ni không phải thân 
quyến vừa 
mới đi vào xóm, vị Tỳ-kheo ấy cần phải phát lộ rằng: "Thưa hiền 
giả, tôi 
đã phạm điều ưng phát lộ, không thích hợp, đáng quở trách, tôi 
xin sám 
hối điều ấy".
        2. Các vị Tỳ-kheo được thỉnh mời, đang thọ thực 
tại những tư gia. Nếu tại đấy có vị Tỳ-kheo ni đứng chiêu đãi, 
bảo rằng: 
"Hãy cho canh ở đây, hãy cho cơm ở đây". Vị Tỳ-kheo ni ấy cần 
được chư 
Tỳ-kheo này đuổi ra: "Sư tỷ hãy tránh đi cho đến khi nào chư 
Tỳ-kheo thọ 
thực xong". Nếu không có một vị Tỳ-kheo nào lên tiếng đuổi 
Tỳ-kheo ni ấy 
đi ra để chư Tỳ-kheo thọ thực thì chư Tỳ-kheo này đáng phải phát
lộ như 
sau: "Này hiền giả, chúng tôi đã phạm điều ưng phát lộ, không 
thích hợp, 
đáng bị quở trách, chúng tôi xin sám hối điều ấy."
        3. Có những gia đình được thừa nhận là bậc thánh 
hữu học. Vị Tỳ-kheo nào vô bệnh, chưa được thỉnh mời trước mà tự
tay thọ 
nhận rồi ăn hoặc dùng vật thực loại cứng hay loại mềm tại những 
gia đình 
thánh hữu học ấy, thì vị Tỳ-kheo ấy cần phải phát lộ như sau: 
"này hiền 
giả, tôi đã phạm điều ưng phát lộ, không thích hợp, đáng bị quở 
trách, 
tôi xin sám hối điều ấy."
        4. Có những trú xứ ở rừng mà được cho rằng đáng 
khả nghi, có sự nguy hiểm. Vị Tỳ-kheo nào cư ngụ tại những trú 
xứ như 
thế vô bệnh lại tự tay thọ nhận rồi ăn hoặc dùng những thức ăn 
loại 
cứng, loại mềm, không thông báo trước, với vị Tỳ-kheo ấy cần 
phải phát 
lộ như sau: "này hiền giả, tôi đã phạm điều ưng phát lộ, không 
thích 
đáng, đáng bị quở trách, tôi xin sám hối điều ấy."
        Bạch chư Tôn giả, bốn pháp ưng phát lộ đã được 
tổng thuyết. Ở đây tôi xin hỏi chư Tôn giả, các Ngài có được 
thanh tịnh 
chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi các Ngài có được thanh tịnh 
chăng? lần 
thứ ba, tôi xin hỏi, các Ngài có được thanh tịnh chăng? Chư Tôn 
giả 
trong đây được thanh tịnh bởi thế mới im lặng. Tôi xin ghi nhận 
sự việc 
đó là vậy. 
        DỨT 
PHẦN 
ƯNG PHÁT LỘ
        -ooOoo- 
        
THUYẾT GIỚI ƯNG HỌC 
PHÁP
(Sekhiyadhamme vitthāruddeso)
        Ime kho pan' āyasmanto (pañcasattati) se-khiyā 
dhammā uddesaṃ āgacchanti .
        1. Parimaṇḍalaṃ nivāsissāmī' ti sikkhā 
kara-ṇīyā.
        2. Parimaṇḍalaṃ pārupissāmī ' ti sikkhā 
ka-raṇīyā.
        3. Suppaṭicchanno antaraghare gamissāmī' ti 
sikkhā karaṇīyā.
        4. Suppaṭicchanno antaraghare nisīdissāmī' ti 
sikkhā karaṇīyā.
        5. Susaṃvuto antaraghare gamissāmī ' ti sik-khā 
karaṇīyā.
        6. Susaṃvuto antaraghare nisīdissāmī'ti sik-khā 
karaṇīyā.
        7. Okkhittacakkhu antaraghare gamissāmī ' ti 
sikkhā karaṇīyā.
        8. Okkhittacakkhu antaghare nisīdissāmī'ti 
sikkhā karaṇīyā.
        9. Na ukkhittakāya antaraghare gamissāmī ' ti 
sikkhā karaṇīyā.
        10. Na ukkhittakāya antaraghare nisīdis-sāmī'ti 
sikkhā karaṇīyā.
        Parimaṇḍalavaggo paṭhamo
        11. Na ujjagghikāya antaraghare gamissāmī ' ti 
sikkhā karaṇīyā.
        12. Na ujjagghikāya antaraghare nisīdissā-mī'ti 
sikkhā karaṇīyā.
        13. Appasaddo antaraghare gamissāmī'ti sikkhā 
karaṇīyā.
        14. Appasaddo antaraghare nisīdissāmī'ti sikkhā 
karaṇīyā.
        15. Na kāyappacālakaṃ antaraghare gamis-sāmī'ti 
sikkhā karaṇīyā.
        16. Na kāyappacālakaṃ antaraghare 
nisī-dissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
        17. Na bāhuppacālakaṃ antaraghare ga-missāmī ' 
ti sikkhā karaṇīyā.
        18. Na bāhuppacālakaṃ antaraghare 
ni-sīdissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
        19. Na sīsappacālakaṃ antaraghare ga-mis-sāmī'ti 
sikkhā karaṇīyā.
        20. Na sīsappacālakaṃ antaraghare 
nisī-dissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
        Ujjagghikavaggo dutiyo.
        21. Na khambhakato antaraghare gamissāmī' ti 
sikkhā karaṇīyā.
        22. Na khambhakato antaraghare nisīdis-sāmī'ti 
sikkhā karaṇīyā.
        23. Na Oguṇṭhito antaraghare gamissāmī'ti sikkhā 
karaṇīyā.
        24. Na Oguṇṭhito antaraghare nisīdissāmī'ti 
sikkhā karaṇīyā.
        25. Na ukkuṭikāya antaraghare gamissāmī'ti 
sikkhā karaṇīyā.
        26. Na pallatthikāya antaraghare nisīdis-sāmī'ti 
sikkhā karaṇīyā.
        Chabbīsati sāruppā
        27. Sakkaccaṃ piṇḍapātaṃ paṭiggahessāmī' ti 
sikkhā karaṇīyā.
        28. Pattasaññī piṇḍapātaṃ paṭiggahessāmī' ti 
sikkhā karaṇīyā.
        29. Samasūpakaṃ piṇḍapātaṃ paṭiggahes-sāmī'ti 
sikkhā karaṇīyā.
        30. Samatittikaṃ piṇḍapātaṃ paṭiggahes-sāmī'ti 
sikkhā karaṇīyā.
        Khambhakatavaggo tatiyo.
        31. Sakkaccaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā 
karaṇīyā.
        32. Pattasaññī piṇḍapātaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā 
karaṇīyā.
        33. Sapadānaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā 
karaṇīyā.
        34. Samasūpakaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā 
karaṇīyā.
        35. Na thūpato omadditvā piṇḍapātaṃ 
bhuñ-jissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
        36. Na sūpaṃ vā byañjanaṃ vā odanena 
pa-ṭicchādessāmī'ti bhuyyokamyataṃ upādāyā'ti sik-khā karaṇīyā.
        37. Na sūpaṃ vā odanaṃ vā agilāno attano atthāya 
viññāpetvā bhuñjissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
        38. Na ujjhānasaññī paresaṃ pattaṃ olokes-sāmī' 
ti sikkhā karaṇīyā.
        39. N'ātimahantaṃ kabalaṃ karissāmī'ti sikkhā 
karaṇīyā.
        40. Parimaṇḍalaṃ ālopaṃ karissāmī'ti sik-khā 
karaṇīyā.
        Sakkaccavaggo catuttho
        41. Na anāhaṭe kabale mukhadvāraṃ vi-varissāmī' 
ti sikkhā karaṇīyā.
        42. Na bhuñjamāno sabbaṃ hatthaṃ mukhe 
pakkhipissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
        43. Na sakabalena mukhena byāharissāmī'ti sikkhā 
karaṇīyā.
        44. Na piṇḍukkhepakaṃ bhuñjissāmī'ti sik-khā 
karaṇīyā.
        45. Na kabalāvacchedakaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā 
karaṇīyā.
        46. Na avagaṇḍakārakaṃ bhuñjissāmī'ti sik-khā 
karaṇīyā.
        47. Na hatthaniddhūnakaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā 
karaṇīyā.
        48. Na sitthāvakārakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā 
karaṇīyā.
        49. Na jivhānicchārakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā 
karaṇīyā.
        50. Na capucapukārakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā 
karaṇīyā.
        Kabalavaggo pañcamo.
        51. Na surusurukārakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā 
karaṇīyā.
        52. Na hatthanillehakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā 
karaṇīyā.
        53. Na pattanillehakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā 
karaṇīyā.
        54. Na oṭṭhanillehakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā 
karaṇīyā.
        55. Na sāmisena hatthena pānīyathālakaṃ 
paṭiggahessāmī' ti sikkhā karaṇīyā.
        56. Na sasitthakaṃ pattadhovanaṃ an-taraghare 
chaḍḍessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        Samattiṃsa bhojanappaṭisaṃyuttā.
        57. Na chattapāṇissa agilānassa dhammaṃ 
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        58. Na daṇḍapāṇissa agilānassa dhammaṃ desessāmī 
' ti sikkhā karaṇīyā.
        59. Na satthapāṇissa agilānassa dhammaṃ 
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        60. Na āvudhapāṇissa agilānassa dhammaṃ 
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        Surusuruvaggo chaṭṭho.
        61. Na pādukārūḷhassa agilānassa dhammaṃ 
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        62. Na upāhanārūḷhassa agilānassa dham-maṃ 
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        63. Na yānagatassa agilānassa dhammaṃ desessāmī 
' ti sikkhā karaṇīyā.
        64. Na sayanagatassa agilānassa dhammaṃ 
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        65. Na pallaṭṭhikāya nisinnassa agilānassa 
dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        66. Na veṭhitasīsassa agilānassa dhammaṃ 
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        67. Na oguṇṭhitasīsassa agilānassa dham-maṃ 
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        68. Na chamāyaṃ nisīditvā āsane nisinnassa
agilānassa dhammaṃ 
desessāmī ' ti 
sikkhā karaṇīyā.
        69. Na nīce āsane nisīditvā ucce āsane 
nisin-nassa agilānassa dhammaṃ desessāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
        70. Na ṭhito nisinnassa agilānassa dham-maṃ 
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        71. Na pacchato gacchanto purato gacchan-tassa 
agilānassa dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā ka-raṇīyā.
        72. Na uppathena gacchanto pathena gac-chantassa 
agilānassa dhammaṃ desessāmī' ti sik-khā karaṇīyā.
        Soḷasa dhammadesanāpaṭisaṃyuttā.
        73. Na ṭhito agilāno uccāraṃ vā passāvaṃ vā 
karissāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        74. Na harite agilāno uccāraṃ vā pas-sāvaṃ vā 
kheḷaṃ vā karissāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        75. Na udake agilānassa uccāraṃ vā pas-sāvaṃ vā 
kheḷaṃ vā karissāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
        Tayo pakiṇṇakā niṭṭhitā.
        Pādukāvaggo 
sattamo.
        Uddiṭṭhā kho āyasmanto (pañcasattati) sekhi-yā 
dhammā.
        Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha 
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
        Parisuddh'etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ 
dhārayāmi.
        Sekhiyā niṭṭhitā.
        
*
        Bạch chư Tôn giả, đây là bảy mươi lăm ưng học 
pháp được tổng thuyết như sau:
        PHẨM 1: PHẨM TỀ CHỈNH
        1. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ vận y tề 
chỉnh.
        2. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ choàng y tề 
chỉnh.
        3. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ mặc kín đáo đi 
giữa xóm nhà.
        4. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ mặc kín đáo 
ngồi giữa xóm nhà.
        5. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ khéo thu thúc 
đi giữa xóm nhà.
        6. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ khéo thu thúc 
ngồi giữa xóm nhà.
        7. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ đi vào xóm nhà 
mắt nhìn xuống.
        8. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ ngồi trong xóm 
nhà mắt nhìn xuống.
        9. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ đi trong xóm 
nhà không vén y lên.
        10. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ ngồi trong 
xóm nhà không vén y lên
        PHẨM 2: PHẨM CƯỜI GIÒN
        11. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ đi giữa xóm 
nhà không cười giòn.
        12. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ ngồi trong 
xóm nhà không cười giòn.
        13. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ nhỏ tiếng khi 
đi giữa xóm nhà.
        14. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ nhỏ tiếng khi 
ngồi giữa xóm nhà.
        15. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không uốn éo 
người khi đi giữa xóm nhà.
        16. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không uốn éo 
người khi ngồi giữa xóm nhà.
        17. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không múa tay 
chân khi đi giữa xóm nhà.
        18. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không múa tay 
chân khi ngồi giữa xóm nhà.
        19. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không lắc đầu 
khi đi giữa xóm nhà.
        20. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không lắc đầu 
khi ngồi giữa xóm nhà.
        PHẨM 3: PHẨM CHỐNG NẠNH
        21. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không chống 
nạnh khi đi giữa xóm nhà.
        22. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không chống 
nạnh khi ngồi giữa xóm nhà.
        23. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không trùm 
đầu khi đi giữa xóm nhà.
        24. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không trùm 
đầu khi ngồi giữa xóm nhà.
        25. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đi nhón 
gót giữa xóm nhà.
        26. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ngồi bó 
gối giữa xóm nhà.
        Dứt hai mươi sáu điều hảo tướng.
        27. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ nhận thực 
phẩm một cách nghiêm trang.
        28. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ nhận thực 
phẩm, tưởng nhìn ngay bát.
        29. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ nhận thực 
phẩm canh cơm bằng nhau.
        30. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ nhận thực 
phẩm vừa đủ dùng.
        PHẨM 4: PHẨM NGHIÊM TRANG
        31. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực một 
cách nghiêm trang.
        32. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực chỉ 
tưởng nhìn trong bát.
        33. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực cho 
đều.
        34. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực cơm 
canh vừa nhau.
        35. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực 
không đùa cơm vun lên.
        36. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không lấy cơm 
che lấp canh hoặc thức ăn vì ý muốn được nhiều thêm.
        37. Ðiều cần phải học tập là ta vô bệnh sẽ không 
xin canh hoặc cơm cho chính mình ăn.
        38. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không nhìn 
ngó bát của vị khác có ý tìm lỗi.
        39. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không làm vắt 
cơm quá lớn.
        40. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ vắt vật thực 
tròn đều.
        PHẨM 5: PHẨM VẮT CƠM
        41. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không há 
miệng khi vắt cơm chưa đưa tới.
        42. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đút 
trọn các ngón tay vào miệng khi đang ăn.
        43. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không nói 
chuyện khi miệng còn vật thực.
        44. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn bằng 
cách tung hứng vắt cơm.
        45. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn bằng 
cách cắn vỡ vắt cơm.
        46. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn độn 
cơm phình má.
        47. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn rảy 
búng ngón tay.
        48. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn làm 
rơi đổ cơm.
        49. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn thè 
lưỡi ra.
        50. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn chép 
miệng thành tiếng.
        PHẨM 6: PHẨM HÚP THÀNH TIẾNG
        51. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn húp 
thành tiếng.
        52. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn liếm 
tay.
        53. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn liếm 
bát.
        54. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn liếm 
môi.
        55. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không cầm đồ 
đựng nước với tay dính vật thực.
        56. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đổ nước 
rửa bát có cặn thức ăn ra ngoài đất trống.
        Dứt ba mươi hai điều liên quan vật thực.
        57. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết 
pháp đến người vô bệnh tay cầm dù.
        58. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết 
pháp đến người vô bệnh tay cầm gậy.
        59. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết 
pháp đến người vô bệnh tay cầm dao.
        60. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết 
pháp đến người vô bệnh tay cầm vũ khí.
        PHẨM 7: PHẨM DÉP GIÀY
        61. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết 
pháp đến người vô bệnh mang dép.
        62. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết 
pháp đến người mang giày.
        63. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết 
pháp đến người vô bệnh đi trên xe thuyền.
        64. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết 
pháp đến người vô bệnh mà nằm.
        65. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết 
pháp đến người vô bệnh ngồi bó gối.
        66. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết 
pháp đến người vô bệnh đầu đội khăn nón.
        67. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết 
pháp đến người vô bệnh đầu trùm kín.
        68. Ðiều cần phải học tập là khi ngồi trên đất 
trệt ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh ngồi trên chỗ 
trãi.
        69. Ðiều cần phải học tập là khi ngồi trên chỗ 
thấp ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh ngồi trên chỗ 
cao.
        70. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đứng 
thuyết pháp đến người vô bệnh ngồi.
        71. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đi phía 
sau thuyết pháp đến người vô bệnh đang đi phía trước.
        72. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đi phía 
lề đường thuyết pháp đến người vô bệnh đi chính giữa đường.
        Dứt mười sáu điều 
liên quan việc thuyết pháp.
        73. Ðiều cần phải học tập là ta vô bệnh sẽ không 
đứng đại tiện hoặc tiểu tiện.
        74. Ðiều cần phải học tập là ta vô bệnh sẽ không 
đứng đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trên thảo mộc xanh 
tươi.
        75. Ðiều cần phải học tập là ta vô bệnh sẽ không 
đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trong nước sạch.
        Dứt ba điều linh tinh
        Bạch chư Tôn giả, bảy 
mươi lăm điều ưng học pháp đã được tổng thuyết. Ở đây tôi xin 
hỏi các 
Tôn giả, các Ngài được thanh tịnh chăng? lần thứ hai, tôi xin 
hỏi các 
Ngài được thanh tịnh chăng? lần thứ ba, tôi xin hỏi các Ngài 
được thanh 
tịnh chăng? Các Tôn giả trong đây được thanh tịnh bởi thế mới im
lặng, 
tôi xin ghi nhận sự việc đó như vậy. 
        
        DỨT THUYẾT 
GIỚI ƯNG HỌC PHÁP.
        -ooOoo-
         THUYẾT 
GIỚI ÐIỀU DIỆT TRANH.
(Adhikaraṇasamathe vitthār'uddeso)
        Ime kho pan'āyasmanto 
satta adhikara-ṇasamathā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
        Uppannuppannānaṃ adhikaraṇānaṃ sama-thāya 
vūpasamāya sammukhāvinayo daàtabbo sativi-nayo dātabbo 
amūḷhavinayo 
dātabbo paṭiññāya kāre-tabbaṃ yebhuyyasikā tassa pāpiyasikā 
tiṇavatthā-rako' ti.
        Uddiṭṭhā kho āyasmanto satta adhikaraṇa-samathā 
dhammā.
        Tatth' āyasmante pucchāmi kacci' ttha 
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
        Parisuddh' etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ 
dhārayāmi.
        Adhikaraṇasamathā niṭṭhitā.
        *
        Bạch chư Tôn giả, đây là bảy pháp diệt tranh 
được tổng thuyết như sau:
        Ðể lắng yên, hòa giải những vụ tố tụng đã khởi 
dậy, cần được đưa ra luật xử hiện diện, cần được đưa ra luật 
thừa nhận 
kẻ chánh niệm, cần được đưa ra luật thừa nhận kẻ bất si, cần 
được xử trị 
theo lời thú tội, giải quyết theo phần đông ý kiến, giải quyết 
theo mức 
tội phạm của đương sự, giải quyết nhượng bộ như cỏ che phủ.
        Bạch chư Tôn giả, bảy pháp diệt tranh đã được 
tổng thuyết. Ở đây tôi xin hỏi các Tôn giả, các Ngài được thanh 
tịnh 
chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi, các Ngài được thanh tịnh chăng?
lần thứ 
ba, tôi xin hỏi các Ngài được thanh tịnh chăng? Các Tôn giả 
trong đây 
được thanh tịnh nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc đó như 
vậy.
         DỨT PHÁP DIỆT TRANH.
        -ooOoo- 
        
TỤNG PHẦN KẾT
        Uddiṭṭhaṃ kho 
āyasmanto nidānaṃ.
        Uddiṭṭhā cattāro 
pārājikā dhammā.
        Uddiṭṭhā terasa 
saṅghādisesā dhammā.
        Uddiṭṭhā dve aniyatā 
dhammā.
        Uddiṭṭhā tiṃsa 
nissaggiyā pācittiyā dhammā.
        Uddiṭṭhā dvenavuti 
pācittiyā dhammā.
        Uddiṭṭhā cattāro 
pāṭidesaniyā dhammā.
        Uddiṭṭhā 
(pañcasattati) sekhiyā dhammā.
        Uddiṭṭhā satta 
adhikaraṇasamathā dhammā.
        Ettakaṃ tassa 
bhagavato suttāgataṃ suttapa-riyāpannaṃ anvaḍḍhamāsaṃ uddesaṃ 
āgacchati. 
Tattha sabbeh'eva samaggehi sammodamānehi avi-vadamānehi 
sikkhitabban' 
ti.
        Viṭṭhāruddeso 
niṭṭhito
        
*
        Bhikkhuppātimokkhaṃ 
niṭṭhitaṃ.
        Bạch chư Tôn giả, 
duyên khởi đã được thuyết; bốn pháp triệt khai đã được thuyết; 
mười ba 
pháp tăng tàng đã được thuyết; hai pháp bất định đã được thuyết;
ba mươi 
pháp ưng xả đối trị đã được thuyết; chín mươi hai pháp ưng đối 
trị đã 
được thuyết; bốn pháp ưng phát lộ đã được thuyết; bảy mươi lăm 
ưng học 
pháp đã được thuyết; bảy pháp diệt tranh đã được thuyết. Bao 
nhiêu đó là 
giới, kinh điển pháp của Ðức Thế Tôn, phải tụng đọc mỗi nửa 
tháng. Nơi 
đây cần được tất cả chúng ta học tập với sự hòa hợp hoan hỷ vô 
tranh.
         DỨT PHẦN THUYẾT TỔNG GIỚI
DỨT GIỚI BỔN TỲ KHƯU.
        
        -ooOoo- 
        
CÁCH TỤNG GIỚI BỔN 
TÓM TẮT
(SAṄKHEPA)
        Trong ngày bố-tát, nếu 
lúc sắp tụng giới bổn, có xảy ra một trong mười trở ngại (antarāyika)
thì chư tăng có thể tụng giới bổn tóm tắt, không phạm tội tác 
ác. Mười 
trở ngại ấy như sau:
        
        1. Trở ngại vì
vua đến (rājantarāyika).
2. Trở ngại vì trộm cướp (corantarāyika).
3. Trở ngại vì hỏa hoạn (aggi-antarāyika).
4. Trở ngại vì nước lụt (udakantarāyika).
5. Trở ngại vì đông người (manussantarā-yika).
6. Trở ngại vì phi nhơn (amanussantarāyika)
7. Trở ngại vì thú dữ (vālantarāyika)
8. Trở ngại vì rắn rít (siriṃsapantarāyika)
9. Trở ngại vì thiệt mạng (jīvitantarāyika)
10. Trở ngại vì nguy phạm hạnh (brahma-cariyantarāyika).
        CÓ BỐN CÁCH TỤNG GIỚI BỔN TÓM TẮT:
        I- Tụng giới bỏ bớt phần Vitthāruddeso, 
sau đó tụng phần kết thúc như vầy:
        Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto nidānaṃ, uddiṭṭhā 
cattāro pārājikā dhammā, uddiṭṭhā terasa saṅghā-disesā dhammā, 
uddiṭṭhā 
dve aniyatā dhammā. Sutā kho pan' āyasmantehi tiṃsa 
nissaggiyāpācittiyā 
dhammā, dvenavuti pācittiyā dhammā cattāro pāṭi-desanīyā dhammā 
(pañcasattati) sekhiyā dhammā satta adhikaraṇasamathā dhammā. 
Ettakaṃ 
tassa bhagavato suttāgataṃ suttapariyāpannaṃ anvaḍ-ḍhamāsaṃ 
uddesaṃ 
āgacchati. Tattha sabbeh' eva samaggehi sammodamānehi 
avivadamānehi 
sikkhi-tabban'ti.
        Bhikkhuppāṭimokkhaṃ niṭṭhitaṃ.
        *
        Bạch chư Tôn giả, 
duyên khởi đã được thuyết; bốn pháp triệt khai đã được thuyết; 
mười ba 
pháp tăng tàng đã được thuyết; hai pháp bất định đã được thuyết.
Còn lại 
các Tôn giả đã được nghe rồi như là ba mươi pháp ưng xả đối trị,
chín 
mươi hai pháp ưng đối trị, bốn pháp ưng phát lộ, (bảy mươi lăm) 
ưng học 
pháp, bảy pháp diệt tranh. Bao nhiêu đó là kinh giới pháp điển 
của Ðức 
Thế Tôn, phải tụng đọc mỗi nửa tháng. Ở đây tất cả chúng ta cần 
học tập 
với sự hòa hợp hoan hỷ vô tranh.
        Dứt giới bổn tỳ-kheo.
        II- Tụng giới bỏ bớt 
phần Aniyatuddeso và Vitthāruddeso, sau đó tụng 
phần kết 
thúc như vầy:
        Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto nidānaṃ, uddiṭṭhā 
cattāro pārājikā dhammā, uddiṭṭhā terasa saṅghādi-sesā dhammā. 
Sutā kho 
pan' āyasmantehi dve aniya-tā dhammā tiṃsa nissaggiyā pācittiyā 
dhammā, 
dve-navuti pācittiyā dhammā cattāro pāṭidesanīyā dham-mā, 
(pañcasattati) 
sekhiyā dhammā, satta adhikara-ṇasamathā dhammā. Ettakaṃ tassa 
bhagavato 
sut-tāgataṃ suttapariyāpannaṃ anvaḍḍhamāsaṃ udde-saṃ āgacchati. 
Tattha 
sabbeh' eva samaggehi sam-modamānehi avivadamānehi 
sikkhitabban'ti.
        Bhikkhuppāṭimokkhaṃ niṭṭhitaṃ.
        *
        Bạch chư Tôn giả, 
duyên khởi đã được thuyết; bốn pháp triệt khai đã được thuyết; 
mười ba 
pháp tăng tàng đã được thuyết; Còn lại đã được chư Tôn giả nghe 
rồi như 
là hai pháp bất định, ba mươi pháp ưng xả đối trị, chín mươi hai
pháp 
ưng đối trị, bốn pháp ưng phát lộ, (bảy mươi lăm) ưng học pháp, 
bảy pháp 
diệt tranh. bao nhiêu đó là kinh giới pháp điển của Ðức Thế Tôn,
phải 
đọc tụng mỗi nửa tháng. Ở đây tất cả chúng ta cần phải học tập 
với sự 
hòa hợp hoan hỷ vô tranh.
        Dứt giới bổn tỳ-kheo.
        III- Chỉ tụng giới 
hai phần là Nidānuddeso, và Pārājikuddeso rồi tụng
phần 
kết như sau:
        Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto nidānaṃ, uddiṭṭhā 
cattāro pārājikā dhammā. Sutā kho pan' āyasmantehi terasa 
saṅghādisesā 
dhammā dve aniyatā dhammā tiṃsa nissaggiyā pācittiyā dhammā 
dvenavuti 
pā-cittiyā dhammā cattāro pāṭidesanīyā dhammā (pañcasattati) 
sekhiyā 
dhammā satta adhikaraṇasa-mathā dhammā. Ettakaṃ tassa bhagavato 
suttāga-taṃ suttapariyāpannaṃ anvaḍḍhamāsaṃ uddesaṃ āgacchati. 
Tattha 
sabbeh' eva samaggehi sammo-damānehi avivadamānehi 
sikkhitabban'ti.
        Bhikkhuppāṭimokkhaṃ niṭṭhitaṃ.
        *
        Bạch chư Tôn giả, 
duyên khởi đã được thuyết; bốn pháp triệt khai đã được thuyết. 
Còn lại 
đã được chư Tôn giả nghe rồi như là mười ba pháp tăng tàng, hai 
pháp bất 
định, ba mươi pháp ưng xả đối trị, chín mươi hai pháp ưng đối 
trị, bốn 
pháp ưng phát lộ, (bảy mươi lăm) ưng học pháp, bảy pháp diệt 
tranh. Bao 
nhiêu đó là kinh giới điển pháp của Ðức Thế Tôn, phải tụng đọc 
mỗi nửa 
tháng. Ở đây cần được tất cả chúng ta học tập với sự hòa hợp, 
hoan hỷ, 
vô tranh.
        Dứt giới bổn tỳ-kheo.
        IV- Chỉ tụng giới một 
phần là Nidānuddeso, rồi tụng phần kết như sau:
        Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto. Sutā kho pan' 
āyasmantehi cattāro pārājikā dhammā, terasa saṅ-ghādisesā dhammā
dve 
aniyatā dhammā tiṃsa nis-saggiyā pācittiyā dhammā dvenavuti 
pācittiyā 
dhammā cattāro pāṭidesanīyā dhammā (pañcasat-tati) sekhiyā 
dhammā satta 
adhikaraṇasamathā dhammā. Ettakaṃ tassa bhagavato suttāgataṃ 
sut-tapariyāpannaṃ anvaḍḍhamāsaṃ uddesaṃ āgac-chati. Tattha 
sabbeh' eva 
samaggehi sammodamā-nehi avivadamānehi sikkhitabban'ti.
        Bhikkhuppāṭimokkhaṃ niṭṭhitaṃ.
        *
        Bạch chư Tôn giả, 
duyên khởi đã được thuyết. Còn lại đã được chư Tôn giả nghe rồi 
như là 
bốn pháp triệt khai, mười ba pháp tăng tàng, hai pháp bất định, 
ba mươi 
pháp ưng xả đối trị, chín mươi hai pháp ưng đối trị, bốn pháp 
ưng phát 
lộ, (bảy mươi lăm) ưng học pháp, bảy pháp diệt tranh. Bao nhiêu 
đó là 
kinh giới điển pháp của Ðức Thế Tôn, phải tụng đọc mỗi nửa 
tháng. Ở đây 
cần được tất cả chúng ta học tập với sự hòa hợp, hoan hỷ, vô 
tranh.
         Dứt giới bổn 
tỳ-kheo.
        
        Ðến đây đã kết
thúc cách thức Tăng bố-tát (saṅgha-uposatha).
        
        -ooOoo-
        
CÁCH THỨC GAṆA-UPOSATHA
        Làm lễ bố-tát chỉ có hai 
hoặc ba vị Tỳ-kheo thì không tụng pāṭimokkha mà chỉ làm 
bằng cách 
phát lộ sự thanh tịnh. Cách bố-tát nầy vì vậy cũng được gọi là 
Parisuddhi-uposatha (thanh tịnh bố-tát).
        Nếu chúng có ba vị thì phải tuyên ngôn trước khi 
mỗi vị phát lộ thanh tịnh, như sau:
        Suṇantu me āyasmantā ajjuposatho paṇṇa-raso 
[16].
Yad' āyasmantānaṃ pattakallaṃ mayaṃ añ-ñamaññaṃ 
parisuddhi-uposathaṃ 
kareyyāma.
        Thưa các Tôn giả, xin hãy nghe tôi, hôm nay là 
ngày bố-tát rằm. Nếu đã hợp thời với các Tôn giả, chúng ta phải 
làm 
thanh tịnh bố-tát lẫn nhau.
        Sau khi tuyên ngôn, mỗi vị sẽ tuần tự hạ lạp phát 
lộ thanh tịnh, như sau:
        Vị lớn hạ nhất hãy nói ba lần:
        Parisuddho ahaṃ āvuso parisuddho' ti maṃ 
dhāretha. Dutiyampi parisuddho ... pe ... Tatiyampi parisuddho 
.. pe ..
        Các hiền giả tôi thanh tịnh, xin các vị nhận 
biết tôi là người được thanh tịnh. Lần thứ hai ... Lần thứ ba 
...
        Các vị nhỏ hạ nói sādhu, rồi phát lộ 3 lần 
như vầy:
        Ukāsa parisuddho ahaṃ bhante parisuddho' ti maṃ 
dhāretha. Dutiyampi parisuddho ...pe... Tatiyampi parisuddho 
...pe...
        Thưa các Ngài, tôi thanh tịnh, xin các Ngài nhận 
biết tôi là người được thanh tịnh. Lần thứ hai ... Lần thứ ba...
        Một vị phát lộ xong các vị khác đều nói Sādhu.
        Nếu gana-uposatha chỉ có hai vị Tỳ-kheo thì 
không cần tuyên ngôn, chỉ tự mỗi vị phát lộ thanh tịnh cho biết 
nhau là 
được.
        Vị lớn hạ phát lộ:
        Parisuddho ahaṃ āvuso parisuddho' ti maṃ 
dhārehi. Dutiyampi parisuddho ... pe ... Tatiyampi parisuddho ..
pe ..
        Nầy Hiền giả, tôi thanh tịnh; ông hãy nhận biết 
là tôi thanh tịnh. Lần thứ nhì ... lần thứ ba ...
        Vị nhỏ hạ phát lộ:
        Parisuddho ahaṃ bhante parisuddho' ti maṃ 
dhāretha 
[17].
Dutiyampi parisuddho ... pe ... Tatiyampi parisuddho .. pe ..
        Bạch Ngài, tôi thanh tịnh, xin Ngài nhận biết là 
tôi thanh tịnh. Lần thứ nhì ... Lần thứ ba ...
        
         DỨT GAṆA-UPOSATHA
        
        -ooOoo- 
        
CÁCH THỨC 
PUGGALA-UPOSATHA
        Puggala-uposatha
tức là Ðơn thân bố-tát. 
Khi vị 
Tỳ-kheo tại trú xứ vào ngày bố-tát không có các vị khác đến cùng
làm lễ 
bố-tát thì một cũng phải làm lễ bố-tát bằng cách chú nguyện 
rằng:
        Ajja me uposatho, Hôm 
nay là ngày bố-tát của ta.
        Hoặc nguyện khác:
        Ajja me uposatho 
paṇṇaraso' ti adhiṭṭhāmi, ta chú nguyện rằng hôm nay ngày rằm là
ngày 
bố-tát của ta.
        
        DỨT 
PUGGALA-UPOSATHA
DỨT LỄ BỐ TÁT
        
        -ooOoo-
        
        
          
[1] Những vị Tỳ-kheo ngụ 
trong 
chùa cùng một ranh Sīmā, khi Tăng tụ họp làm tăng sự mà
vị 
Tỳ-kheo nào bị bệnh hay hữu sự không thể vào tăng hội để dự 
tăng sự 
thì vị ấy phải nhắn gởi lời thoả hiệp (chanda) với một 
vị khác 
nhờ trình Tăng thì Tăng sự mới tiến hành tốt đẹp; nếu là tăng 
sự 
bố-tát (uposatha) thì ngoài việc gởi lời thoả hiệp (chanda),
vị Tỳ-kheo ấy phải tỏ sự thanh tịnh (parisuddhi) của
mình 
để nhờ trình tăng. 
 
        
          
[2] Nếu trong ngày Bố-tát
ấy 
không có vị nào gởi lời Chandapāri- suddhi thì nói "idha
natthi", còn nếu có vị Tỳ-kheo bệnh gởi lời thì phải nói "idha
atthi" và để cho vị nào trách nhiệm nhận lời đứng ra trình
tăng.
 
        
          
[3] Việc kể mùa tiết xác 
định 
thời điểm bố-tát (utukkhānaṃ), vị Tỳ-kheo đáp luật phải
rành rẽ 
cách tính, như thông thường mỗi mùa có 8 kỳ bố-tát, riêng mùa 
mưa 
(vāssāna utu) thì có 7 kỳ bố-tát và 1 kỳ tự tứ (satta 
ca 
uposathā ekā ca pavāraṇā); gặp năm nhuần, mùa có tháng 
nhuần thì 
có 10 kỳ bố-tát (dasa uposathā), phải kể: nay là mùa 
gì, trong 
mùa có mấy kỳ bố-tát, hiện đang kỳ bố-tát, đã trải qua mất kỳ 
hay chưa 
trải qua (natthi uposatho atikkanto); sẽ còn mấy
kỳ hay 
đã đủ (aṭṭha uposathā paripuṇṇā). 
 
        
          
[4] Tùy theo số Tỳ-kheo 
tăng hội 
mà nói như hiện có 5 vị thì nói gaṇanā pañca bhikkhū honti.
Hiện có 8 vị thì nói gaṇanā aṭṭha bhikkhū honti .v.v...
 
        
          
[5] Theo lịch Ấn Độ thời 
xưa, 
tính một tháng có hai thời kỳ: Sukkhapakkha (thời sáng 
trăng) 
được 15 ngày, và kāḷapakkha (thời tối trăng) được 15 
ngày hoặc 
14 ngày (tháng đủ, tháng thiếu). Ngày cuối của mỗi thời (pakkha)
gọi là paṇṇarasī (nhằm ngày rằm và 30 âl), ngày 
cuối của hạ 
huyền (kālapakkha) tháng thiếu gọi là catuddasī (nhằm
ngày 29 âl tháng thiếu). ngày paṇṇarasī và ngày catuddasī
nhất định là ngày bố-tát; còn ngày samaggī, tức là 
ngày hòa 
hợp, nghĩa là chư tỳ-kheo trước có bất hòa nhưng nay hòa hợp 
lại, thì 
ngày hòa hợp bất luận là ngày nào trong tháng cũng đều phải 
làm bố-tát 
để thanh tịnh Tăng. Nên nói có 3 ngày làm bố-tát là vậy. 
 
        
          
[6] Nếu lễ bố-tát hôm ấy 
là ngày 
nào thì phải nói rõ. 
 
        
          
[7] Hai mươi mốt hạng 
người không 
nên cho vào tăng sự bố-tát là: người thế tục, Tỳ-kheo ni, học 
nữ, 
sa-di, sadi ni, người xả giới, người phạm tội cực nặng, người 
bị treo 
tội vì nghi, người bị treo tội vì không hối cải, người bị treo
tội vì 
không bỏ ác kiến, người lại cái, người giả tu, người ngoại 
giáo, loài 
súc sanh, người giết mẹ, người giết cha, người giết vị 
A-La-Hán, người 
dâm Tỳ-kheo ni, người chia rẽ tăng, người trích máu Phật, 
người lưỡng 
tính. 
 
        
          
[8] Thay đổi tên này lễ 
bố-tát:
paṇṇaraso hoặc catuddaso hoặc samaggo. 
 
        
          
[9] Về đơn vị đo lường, 1
gang 
tay Ðức Phật khó xác định là bao nhiêu; có nhiều sách giải 
thích khác 
nhau, chỉ biết rằng 1 gang của Ðức Phật bằn g 3 gang người 
thường (20 
cm x 3 = 60 cm). Như vậy có thể tịnh thất 4,20 m x 7,20 m.
 
        
          
[10] Một do tuần (yojana)
bằng 16 km; tuy nhiên có vài sách giải thích khác nhau về đơn 
vị đo 
nầy. 
 
        
          
[11] Tháng Kattika
có hai:
1) pubbakattika hay còn gọi là kattikate-māsikā 
(tháng 9 
âl) và 2) pacchimakattika hay còn gọi là kattikacātumāsika
(tháng 10 âl) .
 
        
          
[12] Biệt thí y 
(accekacīvaraṃ) là y đặc biệt, ngoại lệ.
 
        
          
[13] Hạn kỳ cho phép giữ 
y, là 1 
tháng cuối mùa mưa, nếu có quả báo Kaṭhina thì thêm 
thời hạn 4 
tháng mùa lạnh.
 
        
          
[14] Lối 5 dm (5
tấc 
tây). Theo chú giải, 1 ngón tay của Ðức Phật bằng 3 ngón tay 
người 
thường. 
 
        
          
[15] Ðã dẫn chú thích 
trong điều 
6 của giới Tăng tàng (saṅghādisesa).
 
        
          
[16] Ngày rằm hay 30 âl 
đều nói 
là paṇṇaraso nếu là 
ngày 29 
âl của tháng thiếu thì nói là catuddaso .
 
        
          
[17] Vì cung kính nên 
dùng động 
từ số nhiều, dù chỉ nói với một vị trưởng lão. 
 
      
      
-ooOoo-