[04]
        
TĂNG SỰ GIÁN NGHỊ 
(SAMANUBHĀSANĀ)
        Sự 
gián nghị - Samanubhāsanā, tức là sự can gián, ngăn cản, 
khuyên 
răn một vị Tỳ-kheo phạm lỗi để cho chừa bỏ lỗi lầm ấy.
        Khi một vị Tỳ-kheo hành động sai quấy, (giới tăng 
tàng bốn điều và giới ưng đối trị một điều), cần được chư 
Tỳ-kheo nhắc 
nhở cho thấy lỗi lầm và cải thiện, nếu được nhắc nhở nhiều lần 
vẫn không 
cải thiện thì Tăng phải họp lại làm tăng sự can gián bằng cách 
tứ bạch 
tuyên ngôn (ñatticatutthakam-mavācā).
        Nếu sau khi Tăng hành tăng sự can gián mà vị ấy từ 
bỏ khuyết điểm và sám hối tội thì tốt, bằng như vẫn cố chấp như 
cũ thì 
phạm tội với tội danh tùy theo luật đã chế định.
        Trong giới bổn Pāṭimokkha có 5 điều cần làm 
tăng sự gián nghị, như sau:
        
        1. Tỳ-kheo cố định chia rẽ tăng (saṅgha-bheda), 
giới tăng tàng, điều thứ 10.
2. Tỳ-kheo xu hướng chia rẽ tăng (bhe-dānuvattaka) 
giới tăng tàng, điều thứ 11.
3. Tỳ-kheo tính khó dạy giới (dubbacajātika) 
giới tăng tàng, điều thứ 12.
4. Tỳ-kheo làm xấu tục gia (kuladūsaka) giới 
tăng tàng, điều thứ 13.
5. Tỳ-kheo có tà kiến (ariṭṭha) giới ưng đối 
trị điều 68.
        
        
Cách tuyên ngôn trong tăng sự gián nghị.
        1) Tuyên ngôn gián 
nghị với Tỳ-kheo chia rẽ Tăng như vầy:
        Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
samaggassa saṅghassa bhedāya parakka-mati. So taṃ vatthuṃ 
nappaṭinissajjati. Yadi saṅ-ghassa pattakallaṃ saṅgho 
Itthannāmaṃ 
bhikkhuṃ samanubhāseyya tassa vatthussa paṭinissaggāya. Esā 
ñatti.
        Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
samaggassa saṅghassa bhedāya parakka-mati. So taṃ vatthuṃ 
nappaṭinissajjati. Saṅgho it-thannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāsati 
tassa 
vat-thussa paṭinissaggāya. Yass'āyasmato khamati it-thannāmassa 
bhikkhuno samanubhāsanā tassa vat-thussa paṭinissaggāya so 
tuṇh'assa 
yassa nakkha-mati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
        Suṇātu me bhante 
saṅgho . pe. so bhāseyya tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
        Suṇātu me bhante 
saṅgho ...pe... so bhāseyya. Samanubhaṭṭho saṅghena itthannāmo 
bhikkhu 
tassa vatthussa paṭinissaggāya. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. 
Evametaṃ 
dhārayāmi.
        *
        Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo 
Itthannāma  
[1]này
cố tình chia rẽ tăng. Vị ấy không từ bỏ việc đó. Nếu đã hợp thời
với 
Tăng, tăng nên can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho từ bỏ việc ấy. Ðó
là lời 
bố cáo.
        Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo 
Itthannāma nầy cố tình chia rẽ tăng. Vị ấy không từ bỏ chuyện 
đó. Tăng 
can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho từ bỏ chuyện ấy. Sự can gián 
Tỳ-kheo 
Itthannāma cho từ bỏ chuyện ấy, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im
lặng, 
bằng vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi 
tuyên bố ý 
nghĩa đó.
        Bạch đại đức tăng, 
hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. lần thứ ba tôi tuyên bố ý 
nghĩa đó.
        Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên 
nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng can gián cho từ bỏ 
chuyện ấy. 
Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc đó là vậy.
        2) Tuyên ngôn gián 
nghị đối với Tỳ-kheo xu hướng chia rẽ tăng, như vầy:
        Suṇātu me bhante 
saṅgho itthannāmo ca it-thannāmo ca bhikkhū Itthannāmassa 
bhikkhuno 
saṅghabhedāya parakkamantassa anuvattakā vagga-vādakā. Te taṃ 
vatthuṃ 
nappaṭinissajjanti. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho 
Itthannāmañca 
it-thannāmañca bhikkhū samanubhāseyya tassa vat-thussa 
paṭinissaggāya. 
Esā ñatti.
        Suṇātu me bhante saṅgho itthannāmo ca itthannāmo 
ca bhikkhū Itthannāmassa bhikkhuno saṅghabhedāya parakkamantassa
anuvattakā vagga-vādakā. Te taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjanti. 
Saṅgho 
Itthannāmañca Itthannāmañca bhikkhū samanubhā-sati tassa 
vatthussa 
paṭinissaggāya. Yass'āyasmato khamati Itthannāmassa ca 
Itthannāmassa ca 
bhik-khūnaṃ samanubhāsanā tassa vatthussa paṭinis-saggāya so 
tuṇh' assa 
yassa nakkhamati so bhā-seyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
        Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. 
Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
        Suṇātu me bhante saṅgho. pe. So bhāseyya 
Samanubhaṭṭhā saṅghena itthannāmo ca it-thannāmo ca bhikkhū 
tassa 
vatthussa paṭinissaggāya khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ
dhāra-yāmi".
        *
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma tùng bọn phe 
đảng với 
Tỳ-kheo Itthannāma quyết chia rẽ tăng. Họ không từ bỏ chuyện ấy.
Nếu đã 
hợp thời với Tăng, Tăng phải can gián các Tỳ-kheo Itthannāma và 
Itthannāma cho từ bỏ chuyện ấy. Ðó là lời bố cáo.
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma tùng bọn phe 
đảng với 
Tỳ-kheo Itthannāma quyết chia rẽ tăng. Họ không từ bỏ chuyện ấy.
Tăng 
can gián các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma cho từ bỏ chuyện 
ấy. Sự 
can gián các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma cho từ bỏ chuyện 
ấy, nếu 
Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng bằng vị nào không chấp nhận 
thì nên 
nói ra. Lần thứ nhì tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý 
nghĩa đó.
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Các Tỳ-kheo Itthannāma và 
Itthannāma 
đã được tăng can gián cho từ bỏ chuyện ấy, tăng chấp nhận mới in
lặng. 
Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
        
3) 
Tuyên ngôn gián nghị đối với Tỳ-kheo
khó dạy, 
như vầy: 
        "Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
bhikkhūhi sahadhammikaṃ vuccamāno attā-naṃ avacanīyaṃ karoti. So
taṃ 
vatthuṃ nappaṭi-nissajjati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho 
it-thannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāseyya tassa vat-thussa 
paṭinissaggāya. 
Esā ñatti.
        Suṇātu me bhante 
saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu bhikkhūhi sahadhammikaṃ vuccamāno
attā-naṃ avacanīyaṃ karoti. So taṃ vatthuṃ nappaṭinis-sajjati. 
Saṅgho 
Itthannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhā-sati tassa vatthussa 
paṭinissaggāya. 
Yass' āyasman-to khamati Itthannāmassa bhikkhuno samanubhāsa-nā 
tassa 
vatthussa paṭinissaggāya so tuṇh' assa yas-sa nakkhamati so 
bhāseyya. 
Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
        Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. 
Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
        Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. 
Samanubhaṭṭho saṅghena itthannāmo bhikkhu tassa vatthussa 
paṭinissaggāya. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ 
dhārayāmi". 
        *
        Bạch đại đức tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy khi được chư Tỳ-kheo nhắc 
bảo theo 
đúng pháp lại tỏ ra mình khó dạy. Vị ấy không từ bỏ chuyện đó. 
Nếu đã 
hợp thời với Tăng, Tăng phải nên can gián Tỳ-kheo cho bỏ chuyện 
ấy đi. 
Ðó là lời bố cáo.
        Bạch đại đức tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy khi được chư Tỳ-kheo nhắc 
bảo theo 
đúng pháp lại tỏ ra mình khó dạy. Vị ấy không từ bỏ chuyện đó. 
Tăng can 
gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ chuyện ấy Ṣự can gián Tỳ-kheo 
Itthannāma 
cho bỏ chuyện ấy, nếu vị Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như 
vị nào 
không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi tuyên bố ý nghĩa
đó.
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi ... nt... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý 
nghĩa đó.
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được 
Tăng can 
gián cho từ bỏ chuyện ấy. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi 
nhận việc 
đó như vậy.
        4) Tuyên ngôn gián 
nghị đối với Tỳ-kheo làm xấu tục gia, như vầy:
        "Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
saṅghena pabbājanīyakammakato bhikkhū chandagāmitā dosagāmitā 
mohagāmitā 
bhayagāmitā pāpeti. So taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjati. Yadi 
saṅ-ghassa 
pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāseyya tassa 
vatthussa 
paṭinissaggāya. Esā ñatti.
        Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
saṅghena pabbājanīyakammakato bhikkhū chandagāmitā dosagāmitā 
mohagāmitā 
bhayagāmitā pāpeti. So taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjati. Saṅgho 
Itthannāmaṃ 
bhikkhuṃ samanubhāsati tassa vat-thussa paṭinissaggāya. 
Yass'āyasmato 
khamati it-thannāmassa bhikkhuno samanubhāsanā tassa vat-thussa 
paṭinissaggāya so tuṇh'assa yassa nakkha-mati so bhāseyya. 
Dutiyampi 
etamatthaṃ vadāmi.
        Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. 
Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
        Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya 
samanubhaṭṭho saṅghena itthannāmo bhikkhu tassa vatthussa 
paṭinissaggāya. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ 
dhārayāmi" .
        *
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma bị chư tăng xử lý trục xuất lại
bêu xấu 
chư Tỳ-kheo là thiên vị thương, ghét, ngu, sợ. Vị ấy không từ bỏ
chuyện 
đó. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên can gián Tỳ-kheo 
Itthannāma 
cho từ bỏ chuyện đó. Ðây là lời bố cáo.
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma này bị chư tăng xử lý trục xuất
lại bêu 
xấu chư Tỳ-kheo là thiên vị thương, ghét, ngu, sợ. Vị ấy không 
từ bỏ 
chuyện đó. Tăng can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho từ bỏ chuyện đó.
Sự can 
gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ chuyện đó nếu Tôn giả nào chấp 
nhận thì 
im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai 
tôi 
tuyên bố ý nghĩa đó.
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý 
nghĩa đó.
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được 
Tăng can 
gián cho từ bỏ chuyện đó. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi 
nhận việc 
đó như vậy.
        
5) 
Tuyên ngôn để gián nghị đối với 
Tỳ-kheo tà 
kiến, như vầy:
        "Suṇātu me bhante saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno 
evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppan-naṃ tathā' haṃ bhagavatā 
dhammaṃ 
desitaṃ ājānā-mi yathā ye' me antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā 
te 
paṭisevati n' ālaṃ antarāyāyā' ti. So taṃ diṭṭhiṃ 
nappaṭinissajjati. 
Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅ-gho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ 
samanubhāseyya 
tassā diṭṭhiyā paṭinissaggāya. Esā ñatti.
        Suṇātu me bhante saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno 
evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppan-naṃ tathā' haṃ bhagavatā 
dhammaṃ 
desitaṃ ājānāmi yathā ye' me antarāyikā dhammā vuttā bha-gavatā 
te 
paṭisevato n'ālaṃ antarāyāyā'ti. So taṃ diṭṭhiṃ 
nappaṭinissajjati. 
Saṅgho Itthannāmaṃ bhik-khuṃ samanubhāsati tassā diṭṭhiyā 
paṭinissaggāya. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno 
samanubhāsanā tassā diṭṭhiyā paṭinissaggāya so tuṭh'assa yassa 
nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
        Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... So bhāseyya. 
Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
        Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... So bhāseyya. 
Samanubhaṭṭho saṅghena itthannāmo bhikkhu tassā diṭṭhiyā 
paṭinissaggāya 
khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhāra-yāmi".
        *
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, đối với Tỳ-kheo Itthannāma có ác tà kiến sanh khởi
như 
sau: "Theo tôi biết pháp do Ðức Thế Tôn thuyết thì những pháp mà
Ngài 
nói là chướng ngại, thật sự không đủ để làm trở ngại cho người 
hành theo 
đâu". vị ấy không từ bỏ tà kiến đó. Nếu đã hợp thời với Tăng, 
Tăng phải 
nên can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ tà kiến ấy. Ðó là lời bố 
cáo.
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, đối với Tỳ-kheo Itthannāma có có ác tà kiến sanh 
khởi như 
sau: "theo tôi biết pháp do Ðức Thế Tôn thuyết thì những pháp mà
Ngài 
nói là chướng ngại, thật sự không đủ để làm trở ngại cho người 
hành theo 
đâu". Vị ấy không từ bỏ tà kiến đó. Tăng can gián Tỳ-kheo 
Itthannāma cho 
bỏ tà kiến ấy. Sự can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ tà kiến ấy,
nếu Tôn 
giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì 
nên nói 
ra. Lần thứ nhì tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
        Bạch đại đức tăng, 
hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý 
nghĩa đó.
        Bạch Ðại đức Tăng, 
hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được 
tăng can 
gián cho bỏ tà kiến ấy. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận
sự việc 
đó như vậy.
        
        DỨT TĂNG SỰ 
GIÁN NGHỊ
        
        -ooOoo-
         
        
TĂNG SỰ PHÊ CHUẨN 
CHỖ XÂY 
CẤT
(VATTHUDESANĀ)
        Luật 
Tỳ-kheo có qui định việc vị Tỳ-kheo xây dựng am cốc (kuṭi)
và đại 
tịnh xá (mahalla-kavihāra), phải làm ở một vị trí thuận 
lợi an 
ổn, tức là chỗ không có điều khả nghi, chỗ có lối thông chung 
quanh. Am 
cốc xây dựng còn có thêm qui định về kích cỡ nữa. Bất cứ trường 
hợp nào, 
về chỗ xây cất đều phải được chư tăng xác minh và phê chuẩn mới 
được 
phép làm. Luật tăng tàng, điều sáu và điều bảy.
        Việc chư tăng xác minh và phê chuẩn vị trí xây cất, 
phải qua tăng sự nhị bạch tuyên ngôn (ñattidutiyakamma). 
Tăng sự 
được tiến hành hai giai đoạn, cử người xác minh (olokana),
và phê 
chuẩn (desanā).
        
        *
        
Tăng sự phê chuẩn chỗ thất liêu.
        Am cốc - Kuti, là 
chỗ ở cá nhân của vị Tỳ-kheo, nếu tự mình quyên góp để xây dựng 
cho 
mình, không có thí chủ đứng ra chịu tổn phí cho, thì phải cất 
với kích 
cỡ qui định là ngang 5,25 mét (7 gang tay Phật) dài 9
mét
(12 gang tay Phật); và chỗ nền xây cất phải xin chư 
Tỳ-kheo xác 
minh phê chuẩn.
        Vị Tỳ-kheo cốc chủ ấy phải tìm đến Tăng và trước 
hết yêu cầu chư Tăng xác minh chỗ nền xây thất. Mặc y vai trái, 
đảnh lễ 
những vị trưởng lão, ngồi chồm hổm và tác bạch rằng:
        Ahaṃ bhante saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo 
assāmikaṃ attuddesaṃ. So' haṃ bhante saṅghaṃ kuṭivatthu-olokanaṃ
yācāmi. 
Dutiyampi ...pe... Tatiyampi ...pe... 
        Bạch đại đức tăng, tôi muốn làm ngôi am cốc cho 
mình không có thí chủ, do tự quyên góp. Bạch Tăng, tôi xin Tăng 
xem xét 
nền cốc. Lần thứ nhì ... nt ... Lần thứ ba ... nt ...
        Chư Tăng nên cử ra hai vị Tỳ-kheo hiểu luật để đi 
đến chỗ ấy xem xét nền cốc có hợp lý không, bằng cách tuyên ngôn
đề cử 
như sau:
        Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ 
kuṭivatthu-olokanaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho 
Itthannāmañca Itthannāmañca bhikkhū sammanneyya Itthannāmas-sa 
bhikkhuno 
kuṭivatthuṃ oloketuṃ. Esā ñatti.
        Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ 
kuṭivatthu-olokanaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmañca Itthannāmañca 
bhikkhū 
sammannati Itthannāmassa bhikkhuno kuṭivatthuṃ olo-ketuṃ. 
Yass'āyasmato 
khamati Itthannāmassa ca Itthannāmassa bhikkhūnaṃ sammati 
Itthannāmassa 
bhikkhuno kuṭivatthuṃ oloketuṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so
bhāseyya. sammatā saṅghena itthan-nāmo ca itthannāmo ca bhikkhū 
Itthannāmassa bhikkhuno kuṭivatthuṃ oloketuṃ. Khamati saṅghassa 
tasmā 
tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi am cốc cho 
mình, 
không có thí chủ, do tự quyên góp. Vị ấy xin Tăng xét nền cốc. 
Nếu đã 
hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cử các Tỳ-kheo Itthannāma và 
Itthannāma 
xem xét nền cốc của Tỳ-kheo. Ðó là lời bố cáo.
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi am cốc cho 
mình, 
không có thí chủ, do tự quyên góp. Vị ấy xin Tăng xem xét nền 
cốc. Tăng 
cử các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma xem xét nền cốc của 
Tỳ-kheo 
Itthannāma. Việc cử các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma xem xét
nền cốc 
của Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, 
như vị 
nào không chấp nhận thì nên nói ra. Các Tỳ-kheo Itthannāma và 
Itthannāma 
được tăng cử đi xem xét nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma, Tăng 
chấp nhận 
mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
        Hai vị Tỳ-kheo được Tăng 
cử đi, hãy đến chỗ ấy để xem xét địa thế, thấy như thế nào thì 
trở lại 
trình Tăng rõ; khi đã xác minh thấy là chỗ xây cất được hợp lý 
thì Tăng 
phê chuẩn cho phép Tỳ-kheo cốc chủ tiến hành xây cất. Sự phê 
chuẩn ấy 
cũng phải qua tăng sự nhị bạch tuyên ngôn.
        Tỳ-kheo cốc chủ ngỏ lời xin Tăng phê chuẩn rằng:
        Ahaṃ bhante 
saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So'haṃ bhante 
saṅghaṃ 
kuṭivatthudesanaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tati-yampi ...pe...
        Bạch đại đức Tăng, tôi muốn làm am thất cho 
mình, không có thí chủ, do tự quyên góp. Bạch Tăng, tôi xin Tăng
phê 
chuẩn chỗ nền cốc. Lần thứ nhì ... nt ... Lần thứ ba ... nt ...
        Tiếp đến Tăng cần được thông qua bằng tuyên ngôn 
như sau:
        Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ 
kuṭivatthudesanaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho 
Itthannāmassa bhikkhuno kuṭivatthuṃ deseyya. Esā ñatti.
        Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ 
kuṭivatthudesanaṃ yācati. saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno 
kuṭivatthuṃ 
dese-ti. Yass' āyasmanto khamati Itthannāmassa bhik-khuno 
kuṭivatthussa 
desanā so tuṇh' assa yassa nak-khamati so bhāseyya. Desitaṃ 
saṅghena 
itthannā-massa bhikkhuno kuṭivatthuṃ khamati saṅghassa tasmā 
tuṇhī. 
Evametaṃ dhārayāmi" .
        Bạch đại đưc Tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm am cốc cho mình, 
không có 
thí chủ, do tự quyên góp. vị ấy xin Tăng phê chuẩn chỗ nền cốc. 
Nếu đã 
hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên phê chuẩn chỗ nền cốc của 
Tỳ-kheo 
Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm am cốc cho mình, 
không có 
thí chủ, do tự quyên góp. Vị ấy xin Tăng phê chuẩn chỗ nền cốc. 
Tăng phê 
chuẩn chỗ nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma. Việc phê chuẩn nền cốc
của 
Tỳ-kheo Itthannāma nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị
nào 
không chấp nhận thì nên nói ra. Nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma 
đã được 
phê chuẩn, tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó 
như vậy.
        
Tăng sự phê chuẩn chỗ làm đại tịnh xá.
        Ðại tịnh xá. 
Mahallakavihāra, là một ngôi chùa riêng, có khuôn viên rộng 
lớn, 
được thí chủ làm cúng cho Tỳ-kheo; dù không giới hạn kích cỡ, 
nhưng cũng 
phải được Tăng xác minh phê chuẩn vị trí tọa lạc.
        Trước hết, vị Tỳ-kheo chủ nhân phải tìm đến Tăng để 
xin xem xét vị trí nền tịnh xá, lời tác bạch như sau: 
        Ahaṃ bhante mahallakaṃ vihāraṃ kat-tukāmo 
sassāmikaṃ attuddesaṃ. So' haṃbhante saṅ-ghaṃ 
vihāravatthu-olokanaṃ 
yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tatiyampi ...pe... 
        Bạch đại đức Tăng, tôi muốn làm ngôi đại tịnh xá 
cho mình, có thí chủ cúng. Bạch Tăng, tôi xin Tăng xem xét nền 
tịnh xá. 
Lần thứ nhì ... nt ... Lần thứ ba ... nt ...
        Tăng cần được thông qua bằng nhị bạch tuyên ngôn để 
cử hai vị đi xác minh, như sau:
        Suṇātu me bhante 
saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu mahallakaṃ vihāraṃ kattukāmo 
sassāmi-kaṃ 
attuddesaṃ Ṣo saṅghaṃ vihāravatthu-oloka-naṃ yācati. Yadi 
saṅghassa 
pattakallaṃ saṅgho it-thannāmañca Itthannāmañca bhikkhū 
sammanney-ya 
Itthannāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ oloke-tuṃ. Esā ñatti .
        Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
mahallakaṃ vihāraṃ kattukāmo sassāmi-kaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ 
vihāravatthu-oloka-naṃ yācati. Saṅgho Itthannāmañca 
Itthannāmañca 
bhikkhū sammannati Itthannāmassa bhikkhuno vihā-ravatthuṃ 
oloketuṃ. 
Yass' āyasmato khamati it-thannāmassa ca Itthannāmassa ca 
bhikkhūnaṃ 
sammati Itthannāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ oloketuṃ so tuṇh' 
assa 
yassa nakkhamati so bhāsey-ya. Sammatā saṅghena itthannāmo ca 
itthannāmo 
ca bhikkhū Itthannāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ oloketuṃ. 
khamati 
saṅghassa tasmā tuṇhī. Evame-taṃ dhārayāmi".
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi đại tịnh xá 
cho mình, 
có thí chủ cúng. Vị ấy xin Tăng xem xét nền tịnh xá. Nếu đã hợp 
thời với 
Tăng, Tăng hãy nên cử các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma đi 
xem xét 
nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi đại tịnh xá 
cho mình, 
có thí chủ cúng. Vị ấy xin Tăng xem xét nền tịnh xá. Tăng cử các
Tỳ-kheo 
Itthannāma và Itthannāma đi xem xét nền tịnh xá của Tỳ-kheo 
Itthannāma. 
Việc cử Tỳ-kheo Itthannāma và itthan-nāma xem xét nền tịnh xá 
của 
Tỳ-kheo itthan-nāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như 
vị nào 
không chấp nhận thì nên nói ra. Các Tỳ-kheo Itthannāma và 
Itthannāma đã 
được Tăng cử đi xem xét nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma, Tăng
chấp 
nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
        Hai vị được Tăng cử đi, hãy đến chỗ ấy xem xét nền 
xây dựng tịnh xá, nếu thấy thích hợp rồi thì trở lại trình Tăng 
rỏ; về 
vị Tỳ-kheo chủ nhân phải tác bạch xin Tăng phê chuẩn chỗ làm 
tịnh xá ấy, 
như sau:
        Ahaṃ bhante 
mahallakaṃ vihāraṃ kattu-kāmo sassāmikaṃ attuddesaṃ. So' haṃ 
bhante 
saṅ-ghaṃ vihāravatthudesanaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... 
Tatiyampi 
...pe...
        Bạch đại đức Tăng, tôi muốn làm ngôi đại tịnh xá 
cho mình, có thí chủ cúng. Bạch Tăng, Tôi cầu xin Tăng phê chuẩn
nền 
tịnh xá. Lần thứ nhì ... nt ... Lần thứ ba ... nt...
        Tiếp đến Tăng phải được thông qua bằng nhị bạch 
tuyên ngôn để phê chuẩn, như sau:
        "Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
mahallakaṃ vihāraṃ kattukāmo sassāmi-kaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ 
vihāravatthudesanaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho 
itthan-nāmassa 
bhikkhuno vihāravatthuṃ deseyya. Esā ñatti.
        Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
mahallakaṃ vihāraṃ kattukāmo sassāmi-kaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ 
vihāravatthudesanaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno 
vihāravat-thuṃ deseti. Yass' āyasmato khamati Itthannāmas-sa 
bhikkhuno 
vihāravatthudesanā so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. 
Desitaṃ 
saṅghena itthan-nāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ. khamati 
saṅ-ghassa 
tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi đại tịnh xá 
cho mình, 
có thí chủ cúng. Vị ấy xin Tăng phê chuẩn nền tịnh xá. Nếu đã 
hợp với 
Tăng, Tăng hãy nên phê chuẩn nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma.
Ðó là 
lời bố cáo.
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi đại tịnh xá 
cho mình, 
có thí chủ cúng. Vị ấy xin Tăng phê chuẩn nền tịnh xá. Tăng phê 
chuẩn 
nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma. Việc phê chuẩn nền tịnh xá 
của 
Tỳ-kheo Itthannāma nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị
nào 
không chấp nhận thì nên nói ra. Nền tịnh xá của Tỳ-kheo 
Itthannāma đã 
được tăng phê chuẩn. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận 
việc đó 
như vậy.
        
        DỨT TĂNG SỰ 
PHÊ CHUẨN CHỖ XÂY CẤT.
        -ooOoo-
         
        
TĂNG SỰ CHO PHÉP 
LÌA TAM 
Y
(TICĪVARĀVIPPAVĀSASAMMATI)
        Trong 
luật Tỳ-kheo, giới Ưng xả đối trị (nissag-giyapācittiya), điều
thứ hai có nói: Vị Tỳ-kheo xa lìa tam y cách đêm phạm ưng xả đối
trị, 
ngoại trừ vị Tỳ-kheo được cho phép.
        Tỳ-kheo có 3 trường hợp được phép lìa xa tam y cách 
đêm không phạm tội, là đang trong thời gian hưởng quyền lợi Kaṭhina,
đang cư ngụ trong phạm vi ticīvarāvippavāsasīmā, có sự 
cho phép 
của Tăng vì lý do bệnh.
        Trường hợp vị Tỳ-kheo bệnh muốn ra đi đến nơi khác 
để điều trị mà không thể mang theo tam y bên mình, thì nên xin 
phép Tăng 
cho xa lìa tam y, nhất là y Saṅghāṭi. Vậy mới không phạm 
tội ưng 
xả.
        Vị Tỳ-kheo ấy phải đến 
tác bạch với Tăng như sau:
        Ahaṃ bhante gilāno na sakkomi ticīva-raṃ ādāya 
pakkamituṃ. So' haṃ bhante saṅghaṃ ticīva-rena 
avippavāsasammatiṃ 
yācāmi. Dutiyampi ... pe ... tatiyampi ... pe ...
        Bạch chư Tăng, tôi bị bệnh không thể đi mang 
theo tam y. Bạch chư Tăng, tôi cầu xin Tăng cho phép lìa xa tam 
y.
        Tăng phải chấp thuận bằng tăng sự nhị bạch tuyên 
ngôn, như vầy:
        "Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
gilāno na sakkoti ticīvaraṃ ādāya pakka-mituṃ. So saṅghaṃ 
ticīvarena 
avippavāsasammatiṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho 
itthan-nāmassa bhikkhuno ticīvarena avippavāsasammatiṃ dadeyya. 
Esā 
ñatti.
        Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu 
gilāno na sakkoti ticīvaraṃ ādāya pakka-mituṃ. So saṅghaṃ 
ticīvarena 
avippavāsasammatiṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno 
ticīvarena 
avippavāsasammatiṃ deti. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa 
bhikkhuno 
ticīvarena avippavāsasam matiyā dānaṃ so tuṇh' assa yassa 
nakkhamati so 
bhāseyya. Dinnā saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno ticīvarena 
avippavāsasammati. khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ 
dhārayāmi."
        Bạch đại đức Tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy bị bệnh không thể đi mang 
theo tam 
y. Vị ấy xin Tăng cho phép lìa xa tam y. Nếu đã hợp thời với 
Tăng, Tăng 
hãy nên cho phép lìa xa tam y đối với Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là 
lời bố 
cáo.
        Bạch Ðại Ðức Tăng, 
hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy bị bệnh không thể đi mang 
theo tam 
y. Vị ấy xin Tăng cho phép lìa xa tam y. Tăng cho phép lìa xa 
tam y đối 
với Tỳ-kheo Itthannāma. Việc cho phép lìa xa tam y đối với 
Tỳ-kheo 
Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào 
không chấp 
nhận thì nên nói ra. Ðối với Tỳ-kheo Itthannāma, Tăng đã cho 
phép lìa xa 
tam y. Tăng chấp nhận nên mới im lặng Tôi xin ghi nhận Việc đó 
như vậy.
        Sau khi được tăng chấp 
thuận, Tỳ-kheo bệnh ấy có quyền xa lìa một trong tam y cách đêm 
không 
phạm tội; nhưng hiệu lực của sự cho phép, chỉ trong thời gian 
còn bệnh, 
khi hết bệnh thì hết hiệu lực của chỉ thị.
        
        DỨT TĂNG SỰ 
CHO PHÉP LÌA XA TAM Y
        
        -ooOoo-
        
        
          
[1] Itthannāma: 
"tên vậy 
vậy". Khi ám chỉ ai thì nói tên người ấy. 
 
       
      
      
-ooOoo-