Mật tông
Phật thuyết Khổng Tước Chú Vương Kinh
Tác giả: Việt dịch: Tỳ kheo Thích Ấn Nghiêm
17/03/2553 21:24 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

QUYỂN HẠ: PHẬT THUYẾT ĐẠI KHỔNG TƯỚC CHÚ VƯƠNG KINH

Đời Đường. Tam tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh phụng chiếu dịch văn Phạn ra văn Hán. Thượng tọa Thích Ấn Nghiêm dịch văn Hán ra văn Việt.

Phật bảo:

-Này A Nan Đà, Khổng Tước Chú Vương này là của Đức Tỳ Bà Thi Như Lai, Chánh biến tri, tùy hỷ tuyên thuyết. Liền nói chú rằng:

ĐÁT ĐIỆT THA. AN LẶC TRỆ, YẾT LẶC TRỆ, MẠT ĐỂ MẠT ĐÀ MẠT ĐẠT NÊ, A PHẠT LỆ, NHIẾP PHẠT LỆ, ĐỔ LỆ ĐỔ LỆ, BỘ LỆ BỘ LỆ, NHIẾP PHẠT LỆ, BÁT NOA NHIẾP PHẠT LỆ, HÔ CHỦ HÔ CHỦ, HÔ CHỈ HÔ CHỈ, MẪU CHỈ MẪU CHỈ TÓA HA.

-A Nan Đà, Đại Khổng Tước Chú vương này là của Đức Như Lai Thi Khí, Chánh biến tri, tùy hỷ tuyên thuyết. Liền nói chú rằng:

ĐÁT ĐIỆT THA, NHẤT TRÍ, MẬT TRÍ, ÂU LỆ TỲ ÂU LỆ, HẾ LÍ HẾ LÍ, NHỈ LÍ NHỈ LÍ, KÊ ĐỔ MỘ LỆ, AM MẠT LỆ, AM BẠT LA PHẠT ĐỂ, ĐÀM THÍCH ĐỔ ĐÀM THÍCH, HẾ LÍ HẾ LÍ, CỔ CHỈ CỔ CHỈ, MẪU CHỈ MẪU CHỈ TÓA HA.

-A Nan Đà, Đại Khổng Tước Chú Vương này là của Đức Như lai Tỳ Xá Phù, Chánh biến tri, tùy hỷ tuyên thuyết. Liền nói chú rằng:

ĐÁT ĐIỆT THA, MỘ RỊ MỘ RỊ, KÊ PHẠT TRÍ, NAN ĐỂ NAN TRÌ TRÍ KẾ, YẾT LỆ YẾT LỆ YẾT LỆ, YẾT LỆ YẾT LỆ, , PHÍN LỆ PHÍN LỆ, PHÍN LỢI NỄ, ĐÀN ĐẾ ĐÀN ĐẾ NỄ, ĐÀN ĐỂ LỆ XÁ YẾT TRÍ, MẠC YẾT TRÍ NẠI ĐỂ NẠI ĐỊA NỄ, THẤT LÍ THẤT LÍ, THẤT LÍ TÓA HA.

-A Nan Đà, Đại Khổng Tước Chú Vương này là của Đức Câu Lưu Tôn Như Lai, Chánh biến tri, tùy hỷ tuyên thuyết. Liền nói chú rằng:

ĐÁT ĐIỆT THA, HẾ TRỈ HẾ TRỈ, CỦ TRỈ ĐÁT TRÍ, ĐỔ TRỈ AN TRỆ,, ĐÀN ĐỂ ĐÀN ĐỂ LÍ, THƯỚC YẾT RỊ CHƯỚC, YẾT RỊ THÁC YẾT RỊ, CAN CHIẾT NÊ CAN CHIẾT NA PHẠT ĐỂ, PHẠT LỆ PHẠT LỆ, PHẠT LỆ PHẠT LỆ, CHIẾC LỆ CHIẾC LỆ, ĐÀN ĐẾ TẤT ĐỊA TÓA HA.

-A Nan Đà, Đại Khổng Tước Chú Vương này là của Đức Như lai Yết Nặc Ca Mâu Ni, chánh biến tri, tùy hỷ tuyên thuyết. Liền nói chú rằng:

ĐÁT ĐIỆT THA, ĐÁT ĐÁT LỆ ĐÁT ĐÁT LỆ, ĐÁT ĐÁT LỆ, ĐÁT ĐA LÔ ĐÁT LỆ, TỲ LỆ TỲ CHIẾT DUỆ, TÙY ĐỔ ĐẠT LỆ, AN LẶC THỆ AN LẶC THỆ, TỲ LẶC THỆ, TỲ LẶC XÁ MẠT LỆ MẠT ĐỂ MA LỢI NỄ, MA LỢI NỄ TẤT ĐỊA, VĂN ĐỂ THẤT LÍ VĂN ĐỂ THỌ LỆ THỌ LỆ, THỌ LỆ THỌ LỆ, BẠT ĐẠT LA PHẠT ĐỂ TẤT ĐỊA, TÓA HA.

-A Nan Đà, Đại Khổng Tước Chú Vương này là của Đức Như Lai

Ca Nhiếp Ba, chánh biến tri, tùy hỷ tuyên thuyết. Liền nói chú rằng:

ĐÁT ĐIỆT THA, AN ĐẠT LỆ, BÀN ĐẠT LỆ, MẠN ĐẠT LỆ, TÁC ĐẠT LỆ CHIÊM BỘ, CHIÊM BỘ NẠI ĐỊA, CHIÊM BỘ PHẠT ĐỂ MẠT ĐẾ MẠN TRỊ ĐỂ KẾ, AM MẠT LỆ TĂNG KỲ, YẾT RA YẾT RA, YẾT RA YẾT RA, BÁT TUẤT BÁT TUẤT, BÁT TUẤT BÁT TUẤT, BÁT ĐỂ TẤT ĐỊA TÓA HA.

-A Nan Đà, Đại Khổng Tước Chú Vương này là của Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni, chánh biến tri tuyên thuyết.Vì muốn lợi ích cho chư Tăng, Tín chúng, cho nên nói chú rằng:

ĐÁT ĐIỆT THA, HẾ LÍ HẾ LÍ, KÊ LÍ NHỈ LÍ, Y LÍ LỆ YẾT ĐÁT LỆ, KÊ ĐỔ MỘ LỆ AN TRÀ BÁT LÍ, ĐẠC HÊ, ĐẠT THÁP TỶ BỘ LỘ, KÊ BỘ SÁCH ĐẾ NẠI LỘ KIẾN ĐỂ CA MẠT NỄ, CAM BỘ ĐẠT LỘ CHỈ, ĐÁT RÔ ĐÁT RÔ, PHẠT LẶC NỄ BÁT LẶC, NGẬT LẬT ĐỂ, THẤT SẮC THẤT LỆ, MẬT LỆ ĐÁT LỆ, NHẤT ĐỂ HA TẾ, AN CHIẾT LỆ, ĐỔ BẠT LỆ BẠT KIẾT LỆ, BẠT TRÍ BẠT TRÍ, KÊ PHẠT TRÍ BẠT TRÍ, CHIẾC TRA ĐAM THÍCH, AN TRÀ ĐAM THÍCH

(Đọc đoạn này, trai chủ muốn cầu nguyện chi thì cứ y như các đoạn văn trong quyển Trung mà cầu. Như bị nắng hạn nên cầu mưa, nếu thành tâm cầu nguyện thì sẽ có mưa rơi chan hòa thấm nhuần mặt đất)

NAM MÔ BẠT GIÀ PHẠT ĐA. CÂU MÔ ĐỒ ĐẠT KIẾN, BẠT BẠT ĐỔ.

NAM MÔ BẠT GIÀ PHẠT ĐA. Y RỊ THỆ Y.CÙ ĐỔ HẾ CA LÝ. BÍ LĂNG GIÀ RỊ CA Ý. KHA RÔ CHÁNH NA RÔ CHÁNH. AN LẠT THỆ MÔ BẠT THI NẠI LẠT THỊ. NẠI TRÍ NẠI TRÍ NẠI TRÍ BẠT CHIẾC LỆ NẠI TRA BẠT CHIẾC LỆ. Ô ĐÀ DIỄN NA TẤT LỢI Ý. AN LA ĐA LỆ CÂU LA ĐA LỆ. NA LA DIỄN NỄ. BA LA DIỄN NỄ BÁT PHIẾN NỄ. TIỆP BÁT RỊ PHIẾN NỄ. TẤT ĐIỆN ĐỖ ĐẠT LA NHỈ LA MANG ĐÁT RA BÁT ĐA. TÓA HA.

-A Nan Đà, như ta dạy ông thọ trì chú pháp cứu tỳ khưu Sa Để bị rắn độc cắn.

Vì Khổng Tước Chú Vương đây, ta vì chúng sanh tuyên thuyết. Nếu ai đọc tụng, thọ trì, sao chép thì các việc nguyện cầu sẽ được toại ý, an lạc như trước đã nói rộng rõ, ngay bản thân người thọ trì và quyến thuộc cũng dược thọ mạng bá niê,.

Lại nữa, A Nan Đà, Khổng Tước Chú Vương  này. Ngài Từ Thị Di Lặc Bồ Tát cũng như chư Phật tùy hỷ tuyên thuyết, đễ lảm lợi ích cho chúng sanh nên nói chú rằng:

ĐÁT ĐIỆT THA,THẤT RỊ THẤT RỊ, THẤT RỊ BẠT ĐIỆT LỆ, THỌ ĐỂ THỌ ĐỂ,THỌ ĐỂ BẠT ĐIỆT LỆ, YẾT LỆ YẾT LỆ, YẾT LỆ YẾT LỢI NỄ, ĐÁN ĐỂ NHIẾP PHẠT LỆ, THỨC KHÊ, DU LA BA NHỊ NỄ, BỒ ĐỊA BỒ ĐỊA BỒ ĐỊA, BỒ ĐỊA TÁT ĐỎA, BỒ ĐỊA BÁT RỊ, GIÁ RỊ, HỘ Ý, TÓA HA.

-A Nan Đà, Đại Khổng Tước Chú Vương này có Sách Ha Thế Giới Chủ Phạm Thiên Vương tùy hỷ tuyên nói chú rằng:

ĐÁT ĐIỆT THA, HẾ LÍ HẾ LÍ, NHỈ LÍ NHỈ LÍ, MA LÍ NỄ BÀN CÚ LỢI, CHỈ RỊ CHỈ RỊ, CHỈ RỊ CHỈ RỊ, CHỈ LÍ CHỈ LÍ, BẠT HA HÁM MA Ý, CÂU LAN TRẠCH KẾ, TỲ ĐỘ HA, TỲ MA HA PHỔ TẾ, ĐẠT RA ĐẠT RA, HA RA HA RA, HA LA HA LA, PHỔ RÔ PHỔ RÔ, PHỔ RÔ PHỔ RÔ, TÓA HA.

Chú này hay trừ ác độc, hay diệt ác độc. Phật lực trừ độc. Tam quả. Tứ hướng Thánh lực trừ độc. Thật ngữ giả trừ độc. Phạm Vương trượng lực Đế Thích Kim Cang sử lực Phệ Xuất nộ phi luân lực. Hỏa thiêu lực.Long Vưong quyển sách lực. A Tu La huyển lực.Long Vương điển lực. Hồ Rô Đạt La Tam Cổ Xoa lực. Tất Kiền lực. Hồ Rô Đạt La Tam Cổ Xoa lực. Tất Kiền Đà Sóc lực.Đại Khổng Tước Chú Vương lực, hay trừ tất cả độc, khiến độc này chôn vào đất, cho trai chủ......................và quyến thuộc được an ổn.

Lại các độc long, độc trùng, loài quỷ mỵ độc, người độc, phi nhơn độc, hùm, sói độc, lại mưa gió độc, rắn độc, chuột độc, ong độc, nhện độc, thuồng luồng độc, rít độc, bò cạp độc, các loại bệnh độc, ghẻ lác độc, ung thư độc, máu tuôn ra độc, các thứ thuốc độc, bùa chú độc,. Những sự độc hại như thế, nguyện xin đều trừ diệt. Trai chủ................và quyến thuộc đều trừ được độc khổ, các độc này tiêu tan nhập vào lòng đất TÓA HA.

-A Nan Đà, Đại Khổng Tước Chú Vương này, các vị Đế Thích Thiên Vương tùy hỷ tuyên thuyết chú rằng :

ĐÁT ĐIỆT THA, XẢ LÁ THIỆN ĐỐ RÁ, MA LA THIỆN ĐỐ LỆ, GIÁ TY ĐỂ THIỆN ĐỐ LỆ, MẠC KHÔI NỄ DÀ ĐÁT NỄ, YẾT LẠC TÁN NỄ, HA RỊ THẤT RỊ, ĐỘ ĐỂ THẤT RỊ, ĐÁT RÔ ĐÁT RÔ, ĐÁT RÔ NỘP PHẠT ĐỂ, KHA KHA KHA KHA KHA, TANG HÔ ĐIỆT ĐỊA ĐỂ, ĐIỆT ĐỊA ĐỂ, CỦ RÔ CỦ RÔ PHỆ LẠC THỆ, ĐỐ TRA ĐỐ TRA TỬ, PHẠT TRA PHẠT TRA TỬ, TỬ LÍ TỬ LÍ, KIẾP TẤT LỆ, KIẾP TẤT LA MỘ LỆ, KHA HẾ HÔ, TÁT BÀ ĐỘT SẮC TRA BÁT LẶC ĐỘT SẮC TRA NẪM, CHIÊM BẠT NẪM YẾT LÔ NHỈ, HÁT TẤT ĐÁ BA ĐÀ, ƯƠNG GIÀ BÁT LẠC ĐINH DÀ, NÊ YẾT LẠC HA YẾT LƯ NHỈ SÁCH HA, SẤT LÍ ĐẠT THẾ HẾ, ĐỀ BỆ HẾ, ÔN VI KÌ LÍ, TÔ LA BÁT ĐỂ, BẠT ĐỂ BẠT CHIẾC LA, BẠT CHIẾC LA BẠT CHIẾC LA, BẠT CHIẾC BÁT ĐỚI THƯỜNG, TÓA HA.

-A Nan Đà, Đại Khổng Tước Chú Vương này có Tứ Đại Thiên Vương tùy hỷ tuyên thuyết chú rằng:

THỤ LÁ THỤ LẶC NẢ, ĐÁP BA ĐÁP BA NẢ, ĐÀM MA ĐÀM MA NẢ, TÁT LẠC TÁT LẶC NOA, CỦ TRÍ CỦ TRÍ, MẪU TRÍ MẪU TRÍ, NHỈ TRÍ NHỈ TRÍ, TÁT RA TÁT RA, HA RA HA RA, ĐÁT RA ĐÁT LÍ, ĐÀ ĐÀ ĐÀ ĐÀ ĐÀ, BÀ BÀ BÀ BÀ BÀ, HA RA HA RA, HA RA HA RA HA RA, TẤT ĐỊA TẤT ĐỊA, TẤ ĐỊA TẤT ĐỊA TẤT ĐỊA, SA TẤT ĐỂ SA TẤT ĐỂ SA TẤT ĐỂ SA TẤT ĐỂ, SA TẤT ĐỂ.

Trai chủ....................và quyến thuộc cầu xin

Tất cả sứ giả như Diêm Ma sứ giả, Xà Da sứ giả, Trì Hắc Thắng Giả, Tử Vương phạt, Phạm Thiên phạt, Đế Thích phạt, Tiên Nhơn phạt, chư Thiên phạt, Rồng phạt, A Tu La phạt, Ma Lâu Đa phạt, Yết Lộ Trà phạt, Kiền Đạt Bà phạt, Khẩn Na La phạt, Mạc Hô Lạc Già phạt, Dược Xoa phạt, La Sát phạt, Tất Lệ Đa phạt, Tất Xá Giá phạt, Bộ Đa phạt, Câu Bàn Trà phạt, Bố Đơn Na phạt, Yết Tra Bố Đơn Na phạt, Tắc Kiền Đà phạt, Ôn Ma Đà phạt, Xa Da phạt, A Ba Tam Ma La phạt, Ô Tất Đa Lạc Ca phạt, Thích Đa La phạt, hình phạt của vua, hình phạt nước lửa, tất cả những chỗ đáng trách phạt cùng những điều trị phạt nhỏ nhặt thì nay chúng tôi cầu xin xa lìa tất cả sự xử phạt đối với trai chủ..............và quyến thuộc, đều mong nhờ các vị ấy ủng hộ, sống lâu trăm tuổi, hưởng phước trăm thu.

-A Nan Đà, phải thọ trì ba mươi lăm danh tự các vị vương chủ sông lớn, sông nhỏ. Nếu biết tên các vị ở khắp nơi sông lạch chảy ra bể cả, để khi vượt qua khỏi các ách nạn.

Tên các vị ấy là: Căn Dà Hà Vương, Tín Độ Hà Vương, Phược Xoa Hà Vương, Tư Đà Hà Vương, Thiết Đa Xã Rô Hà Vương, A Bố Đa Phạt Để Hà Vương, Diêm Mẫu Na Hà vương, Tú Ha Hà vương, Tì Đát Ta Hà Vương, Thiết Đa Đột Rô Hà Vương, Tỳ Ba Xà Hà vương, Đa Đột Rô Hà Vương, Tỳ Ba Xà Hà vương, Ế La Phạt Đế Hà Vương, Thiên Đạt La Bà Hà Vương, Tát Phạt Sa Để Hà Vương, Tác Xa Tỷ Nễ Hà Vương, Phôi Du Sắc Nễ Hà Vương, Ca Rị Bệ Hà Vương, Xích Đồng Sắc Hà Vương, Tát La Canh Hà Vương, Mạc Độ Mạc Để Hà Vương, Bệ Đát La Phạt Để Hà Vương, Y Sô Phạt Để Hà Vương, Tù Mạc Để Hà Vương, Thiết Ma Nộp Để Hà Vương, Nại Mạt Đà Hà Vương, Sắc Mật Đác Hà Vương, Tỳ Du Mật Đác La Hà Vương, Đa Mạc Ra Hà Vương, Bán Giá Ra Hà Vương, Tô Bà Túy Đổ Hà Vương, Đáp Bố Đà Hà Vương, Tỳ Mạt Ra Hà Vương, Nê Liên Thiện Na Hà Vương, Hế Lan Nhã Phạt Để Hà Vương, Cù Đà Phạt Rị Hà vương.

Các sông ngòi đó từ nơi ao sâu vô lượng nhiệt não, chảy ra bốn dòng sông lớn, chảy khắp  Nam Thiện Bộ Châu và các sông khác, như sông Hoài, sông Tế, nên các vị thần sông nương các sông mà ở khắp cả đại địa. Vì thế có những hình trạng sắc thái tùy sự an vui mà biến nhập vào thân thể thành tựu minh chú, xúc tác các việc tốt xấu. Các vị thần này và các quyến thuộc của họ cũng thọ trì chú vương. Cầu xin ủng hộ trai chủ.................và quyến thuộc được thọ mạng bá niên và xa lìa ưu não.

-A Nan Đà, phải thọ trì năm mươi hai Đại Sơn Vương có danh tự rõ ràng. Nếu rõ biết các vị ở núi non hang thẳm đồng trống, để tránh khỏi tai nạn sợ hãi , tùy ý an vui.

Các Sơn Vương ấy là: Diệu Cao Sơn Vương, Tuyết Sơn Vương, Hương Túy Sơn Vương, Bách Phong Sơn Vương, Yết Địa Lạc Ca Sơn Vương, Kim Hiếp Sơm vương, Trì Quang Sơn Vương, Ni Dân Đạt La Sơn Vương, Luân Vi Sơn Vương, Đại Luân Vi Sơn vương, Nhơn Đà La Sơn Vương, Phạm Trụ Sơn Vương, Hữu Kiết Tường Sơn Vương, Thiện kiến Sơn Vương, Quảng Đại Sơn Vương, Xuất Bảo Sơn Vương, Đà Trùng Sơn Vương, Bảo Đảnh Sơn Vương, Tỳ Ma Diệu Xảo Sơn Vương, Xuất Kim Cang Sơn Vương, A Tu La Băng Sơn vương, Hán Nộ Diện Xảo Sơn Vương, Điển Quang Sơn Vương, A Thuyết Tha Sơn Vương, Nguyệt Quang Sơn Vương, Nhật Quang Sơn Vương, Hiền Thạch Sơn vương, Đế Bảo Sơn vương, Diệu Xảo Phong Sơn Vương, Ma La Da Sơn Vương, Kim Phong Sơn vương, Tầng Đà Sơn Vương, Ba Li Da Đác La Sơn Vương, Diệu Tý Sơn Vương, Châu Anh Sơn Vương, Đô Ni Đà Sơn Vương, Tô Sư Na Sơn vương, Phạm Khẩn Sơn Vương, Tri Tịnh Sơn Vương, Khảm Hải Sơn Vương, Diệu Thế Sơn Vương, Đao Hình sơn vương, Đại Phong Sơn Vương, Dục Lâm Sơn Vương, Nhãn Dược Sơn Vương, Phóng Xả Sơn vương, Chú Thân Sơn Vương, Đạt Đạt Sơn Vương, Kê La Bà Sơn Vương, Tuyết Phong Sơn vương, Đại Thiên Chủ Sơn vương, Bà La Quân Sơn vương, .

Các Sơn vương đại địa này có các vị Thiên Long, A Tu La, Ma Lâu Đa, Yết Rô Trà, Kiền Đạt Bà, Khẩn Na La, Mạc Hô La Già, Dược Xoa, La Sát, Tất Lệ Đa, Tất Xá Giá Bộ Đa, Cưu Bàn Trà, Bố Đơn Na, Yết Tra Bố Đơn Na, Tất Kiền Đa, Ôn Ma Đà, Xa Da, A Ba Tam Ma La, Ô Tất Đa Lạc Ca thành tựu minh chủ và các quyến thuộc của họ ở trên núi kia, cũng đều thọ trì Đại Khổng Tước Chú Vương. Xin ủng hộ trai chủ................và quyến thuộc sống lâu trăm tuổi và được tiêu trừ những điều hung dữ, gặp sự an lành, xa lìa các ưu não TÓA HA.

-A Nan Đà, phải biết thọ trì các danh hiệu thiên thần mặt trời, mặt trăng, các tinh tú có đại oai lực, thường lưu hành trên hư không, hiện ra các tướng lành dữ. Nếu người hiểu biết muốn lìa các lo sầu thì nên theo thời mà đem hương thơm, hoa đẹp cúng dường. Các vị tên là: Ngật Lật Để Ca, Hộ Lư Hế Nễ, Miệt Lật Giá Thi La, An Đạt La Bổ, Nại Phạt, Tô Bố Sái, A Thất Lệ Sái. Bảy vị thần tinh tú này ở cửa Đông giữ gìn phương Đông, cũng lấy Đại Khổng Tước Chú Vương thọ trì ủng hộ. Xin ủng hộ trai chủ................và quyến thuộc thọ mạng bá niên, xa lìa ưu não.

Bảy vị thần tinh tú ở cửa Nam giữ gìn phương Nam là: Mạc Già, Tiền Phín Rô Lậu Noa, Hậu Phín Rô Lậu Noa, Ha Tất Đá, Chất Đát La, Sa Ha, Tỳ Xá Khê, cũng lấy Đại khổng Tước Chú Vương thường ủng hộ. Xin ủng hộ trai chủ..............và quyến thuộc thọ mạng bá niên, lìa các ưu não.

Bảy vị thần tinh tú ở cửa Tây, giữ gìn phương Tây là: A Nô La Đà, Bổ Sắc Tra, Mô Lá, Tiền A Sa Trà, Hậu A Sa Trà, A Tất Lí Xả, Thất La Mạc Noa, cũng lấy Đại khổng Tước Chú Vương thọ trì thường ủng hộ. Xin ủng hộ trai chủ.........và quyến thuộc thọ mạng bá niên, xa lìa các ưu não.

Bảy vị thần tinh tú ở cửa Bắc, giữ gìn phương Bắc là: Đản Nễ sắc Thát, Thiết Đa Bệ Sái, Tiền Bạt Đạt La Bát Đà, Hậu Bạt Đạt La Bát Đà, Hiệt Lâu Ly Phạt Để A Thuyết Nhĩ, Bạt Lật Nễ, cũng lấy Đại khổng Tước Chú Vương thọ trì thường ủng hộ. Xin ủng hộ trai chủ...............và quyến thuộc thọ mạng bá niên, xa lìa các ưu não.

-A Nan Đà, phải nhớ biết danh hiệu của chín loại Thiên Thần cầm giữ. Các vị Thiên Thần này ở nơi hai mươi tám vì sao vận chuyển thời giờ ngày đêm tăng giảm, khiến cho thế gian được mùa hay mất mùa, vui hay khổ. Các vị ấy gọi là: A Điệt Để, Tô Ma, Bí Lật Ha, Táp Bát Để, Thúc Yết La, San Ni Chiết La, Ương Già Ca, Bộ Đa, Yết Ra Hổ Kê Đổ.

Chín vị Thiên Thần nắm giữ này có đại oai lực lớn, cũng lấy Đại khổng Tước Chú Vương thọ trì ủng hộ. Xin ủng hộ trai chủ............và quyến thuộc sống lâu trăm tuổi.

Sao có hai mươi tám

Mỗi bảy chia bốn phương

Chấp Tinh lại có bảy

Mặt Trời, Trăng thành chín

Gồm có ba mươi bảy

Dũng mãnh oai thần lớn

Mọc lặn chiếu thế gian

Chỉ bày tướng lành dữ

Cùng với đời thêm bớt

Có thế sáng suốt lớn

Đều lấy tâm thanh tịnh

Tùy hỷ với chú này.

Những tinh tú này cũng đều lấy Đại Khổng Tước Chú Vương thường ủng hộ. Xin ủng hộ trai chủ...........và quyến thuộc được sống lâutrăm tuổi.

-A Nan Đà, phải ghi nhớ thọ trì các danh hiệu sáu mươi tám Đại Tiên Nhơn, các Tiên Nhơn đều vâng giữ cấm giới , thường tu khổ hạnh, có ánh sáng lớn. Các vị ở sông, ngòi, núi, rừng, suối, ao, khe, rạch. Thao tác các điều thiện ác, chú nguyện điều cát hung, theo lời nói mà thành tựu việc làm, có đủ oai lực, hình thành năm thứ thông, tự tại bay đi trong hư không, không chướng ngại.

Ta nay nói tên các vị ấy là: An Sắc Tra Ca Đại Tiên, Bà Mạc Ca Đại Tiên, Bà Ma Đề Đại Tiên, Ma Lợi Chi Đại Tiên, Bát Lợi Noa Ma Đại Tiên, Mạc Kiến Đề Dã Đại Tiên, An Ẩn Tri Thức Đại Tiên, Bà Tư Sắc Đà Đại Tiên, Bạt Di Đa Đại Tiên, Ca Nhiếp Ba Đại Tiên, Lão Ca Nhiếp Ba Đại Tiên, Tỳ Lật Cửu Đại Tiên, Ương Kỳ La Đại Tiên, Ương Kỳ Lặc Ca Đại Tiên, Ương Kỳ Lặc Tứ Đại Tiên, Hữu Tướng Phần Đại Tiên, Hữu Tứ Đại Tiên, Bố Lặc Tu Đại Tiên, Lộc Tu Đại Tiên, Diêm Ma Hỏa Đại Tiên, Châu Chử Đại Tiên, Hắc Châu Chử Đại Tiên, Ha Lợi Để Đại Tiên, Ha Lợi Đa Dã Na Đại Tiên, Thậm Thâm Đại Tiên, Tam Mạn Kỳ La Đại Tiên, Ôn Yết Đa Đại Tiên, Tam Một Yết Đa Đại Tiên, Thuyết Nhẫn Đại Tiên, Danh Xưng Đại Tiên, Thiện Danh Xưng Đại Tiên, Tôn Trọng Đại Tiên, A Thuyết La Dã Na Đại Tiên, Kiếp Bố Đắc Ca Đại Tiên, Hương Sơn Đại Tiên, Trụ Thuyết Sơn Đại Tiên, Hổ Tướng Đại Tiên, Nan Trụ Đại Tiên, Mạc Đạc Na Đại Tiên, Thiết Lạp Bà Đại Tiên, Điều Phục Đại Tiên, Tôn Giã Đại Tiên, Anh Võ Đại Tiên, Tỉ Ha Bát Đế Đại Tiên, Võng Luân Đại Tiên, San Ni Chiết La Đại Tiên, Giác Ngộ Đại Tiên, Thượng Cu Li Đại Tiên, Kiền Đà La Đại Tiên, Độc Giác Đại Tiên, Tiên Giác Đại Tiên, Yết Dà Đại Tiên, Đơn Trà Dã Na Đại Tiên, Thiên Đa Dã Na Đại Tiên, Ma Đăng Già Đại Tiên, Khả Úy Ma Đăng Già Đại Tiên, Kiều Đáp Ma Đại Tiên, Huỳnh Sắc Đại Tiên, Bạch Sắc Đại Tiên, Xích Mã Đại Tiên, Bạch Mã Đại Tiên, Trì Mã Đại Tiên, Diệu Nhãn Đại Tiên, Châu Mục Đại Tiên, Bà La Khi Lá Đại Tiên, Na Lặc Dà Đại Tiên, Sơn Cư Đại Tiên, Ngật Lật Di La Đại Tiên.

Các Vị Tiên này là đại Tiên cố cựu, tạo ra tứ minh luận, am hiểu giỏi chú thuật.

Các vị ấy làm đủ các việc lợi mình, lơi người và cũng thọ trì Đại Khổng Tước Chú Vương ủng hộ đời, cầu cho trai chủ............và quyến thuộc được sống lâu trăm tuổi, xa lìa các ưu não.

Liền thuyết chú rằng:

ĐÁT ĐIỆT THA, HA RỊ, HA RỊ, HA RỊ, YẾT RỊ, BÁT RỊ BÁT RỊ, HÔ RỊ NHỈ RỊ, XUẤT RỊ YẾT RỊ, HẾ LÍ NHỈ LÍ, ĐẠP PHỔ ĐẠP PHỔ, ĐẠT THÁP PHỔ, YẾT LẶC TÁN NỄ, MẠC KHÔI NỄ, ĐẠT HÁN NỄ, DÀ ĐÁN NỄ, BA CHIẾC NỄ, BA CHIẾC NỄ, BA ĐÁT NỄ, BA ĐÁT NỄ, HÁN NẠI NỄ, HÁN NẠI NỄ, ĐẠC HA ĐẠC HA ĐẠC HA, ĐẠT RA ĐẠT RA, ĐÀ LẶC NỄ, BA TRA NỄ, MẠC HẢN NỄ, TẤT ĐÀM BẠT NỄ, CHIÊM BẠT NỄ, TÓA HA.

-A Nan Đà, phải ghi nhớ thọ trì trong đại địa này, có các vị thuốc cực độc, nếu ai biết được thì chẳng bị các thuốc độc làm hại.

Danh vị các vị là: An Đạt La, Bát Đạt La, Yết La Nại, Kê Du Lá, Bộ Đăng Cấp Ma, Bộ Đa Bát Để, Tần Độ Bát Để, Thất Lợi Bát Để, Đệ Xả Bát Để, Đế Xả Ác Yết la, Bát Để Da Xá Bát Để, Da Xá Ác Yết La. Bát Để, A Lá, Ra Đác, La Ra, Đác La Độc Đác Ra, Đạt Đa Đạt Ha, Thệ La Ta Ra, Cụ Rô Chí Ra, Đàm Đố La, Y Lí Chỉ Lí Thiết Đởm Đổ La, Tỳ Bố Lí Nặc Ác Lí, Kê Lật Tỉ, Đát Lan Dà, Hiệt Lật Sát Tra, A Một La Mạt Để, Chiêm Bộ Mật Để, Mạc Xả Mạc Để, A Nạt Ê, Tỳ Mạc Lệ, Quân Trà, Lê An Trỉ Nại Trỉ, Bạt Bộ Kế, Bộ Đa Bộ Đế, Phạt Sai Na Tiết, Mạc Ha Yết Lệ, Lam Tiết, Đổ Lam Tiết, Tóa Ha.

-A Nan Đà, dù các loại thuốc cực độc này hay là thần dược, cũng thọ trì Đại khổng Tước Chú Vương ủng hộ thế gian. Xin các vị ủng hộ trai chủ....................và quyến thuộc sống lâu trăm tuổi.

Lại nữa, A Nan Đà, Đại Khổng Tước Chú Vương này là bảy vị Chánh Biến Tri tuyên nói. Đó là: Tỳ Bà Thi Chánh Biến tri, Thi Khí Chánh Biến Tri, Tỳ Xá Phù, Câu Lưu Tôn, Yết Lặc Ca, Mâu Ni, Ca Diếp Ba. Nay ta Thích Ca Mâu Ni Chánh Biến Tri, cũng lại tùy hỷ nói Đại Khổng Tước Chú Vương.Từ Thị Bồ Tát cũng lại tuyên nói. Chủ cõi Sách Ha thế giới, Trời Phạm Thiên vương, Đế Thích, Trì Quốc Thiên Vương và Kiền Đạt Bà chủ lãnh hai mươi tám vị tướng. Tăng Trưởng Thiên Vương cùng với Câu Bàn Trà chủ lãnh hai mươi tám vị tướng. Quảng Mục Thiên Vương cùng Rồng chủ lãnh hai mươi tám vị tướng, đều nói Đại Khổng Tước Chú Vương. Chủ Đại Dược Xoa Bát Chi La, Ha Lợi Để và năm trăm ngưới con cùng các quyến thuộc đều tùy hỷ cũng tuyên nói Đại Khổng Tước Chú Vương này.

-A Nan Đà, Đại Khổng Tước Chú Vương này chẳng nên khinh mạn, chẳng nên chống trái.

Nếu có Trời, Rồng, A Tu La, Ma Lâu Đa, Yết lộ Trà, Kiền Thát Bà, Khẩn Na La, Mạc Hô Lạc Dà, Dược Xoa, Yết Lặc Sát La, Tất Lệ Đa, Tất Xá Giá, Bộ Đa, Câu Bàn Trà, Bố Đơn Na, Yết Tra Bố Đơn Na, Tất Kiền Đà, Ô Ma Đà, Sa Dạ, A Ba Tam Ma La, Ô Tất Đa Lặc Ca, Nặc Sát Đát La, Lê Ba, các vị thiên thần này chẳng được chống trái Đại Khổng Tước Chú Vương này.

Lại có các vị thần ăn tinh khí, vị ăn thai, vị uống huyết, vị ăn thịt, vị ăn mỡ nước, vị ăn óc tủy, vị ăn các chi tiết cơ thể, vị ăn đồ sống, vị nuốt sinh mạng, vị ăn đồ cúng tế, vị ăn không khí, vị ăn mùi hương, vị ăn lông tóc, vị ăn hoa, vị ăn quả, vị ăn ngũ cốc, vị ăn than lửa, vị ăn máu mủ, vị ăn đồ đại tiện, tiểu tiện, vị ăn đàm rãi, vị ăn nước miếng, vị ăn nước mũi, vị ăn thức ăn thừa, vị ăn đồ nôn mửa, vị ăn các đồ ô uế, vị uống các nước dơ bẩn...Các quỷ thần ăn uống ghê tởm như vậy cũng chẳng dám trái vượt Khổng Tước Chú Vương này.

Nếu lại có kẻ nào làm các chú thuật trù ếm, yểm loại trùng mị, phi hành trong hư không. Như các vị: Ngật Lật Đế, Yết Ma Noa, Ca Cô Ôn Đà, Chỉ Lặc Noa, Bệ Đa Trà, An Đà Bệ Đa Trà, Chất Giả, Tất Lệ Sách Ca, chuyên uống huyết tủy, biến người làm kẻ sai khiến. Hô triệu quỷ thần, tạo các ác nghiệp, ăn đồ ghê tởm, thân hình hung ác, mắt nhìn dữ tợn, tạo phù chú ác, làm các ác thuật siêu độ. Có các điều ác như thế, hiện thời đều phải ủng hộ chúng tôi. Trai chủ.............khiến xa lìa các ưu khổ.

Lại dù gặp các sự kinh sợ như giặc cướp, vua quan, nạn nước lửa, đao binh, nạn đói khát làm cho sợ hãi và chết chóc, nạn động đất, nạn ác thú rượt đuổi, những kẻ ác tri thức khủng bố làm cho chết. các việc sợ hãi như trên, xin chư vị ủng hộ chúng tôi, trai chủ...........đều được thoát khỏi ách nạn ấy.

Hoặc có các bệnh như: lác ngứa, chảy máu mủ, ghẻ độc lở lói, bệnh ung thư, thân thể da trổ đen nám hôi rít. Hoặc đau cả đầu, đau nửa đầu, Ăn uống chẳng tiêu, mắt, tai, mũi, lưỡi, răng, miệng, yết hầu đều đau nhức. Hoặc lưng, hông, bụng, bắp vế, tay, chân và cả chỗ sâu kín đều đau nhức. Suy tim mệt nhọc, khô khan, lả người, toàn thân bệnh khổ đau đớn, xin được tiêu trừ.

Hoặc bị bệnh ngược, lên cơn sốt một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày, nửa tháng, một tháng. Hoặc bị cách nhật, sốt trong giây lát, hoặc sốt liên miên. Nóng sốt nói sàm, biến thành tà bệnh, quỷ thần dựa nhập, sốt dữ dội, phong nhiệt, đàm ấm. Hoặc tổng tập bệnh, bị quỷ giữ hồn, bị người ác hại, hoặc kẻ phi nhơn hại. Các bệnh quá ác như vậy xảy ra, xin chư vị ủng hộ chúng tôi, trai chủ...........cùng quyến thuộc được thoát khỏi các bệnh khổ ấy.

Chúng tôi nay kiết giới, kiết địa, trì tụngchú này cầu được an ổn Sa Ha và xin đọc bài tụng:

Nguyện ngày an lành, đêm an lành

Tất cả các thời đều an lành

Kính xin chư Phật thường hộ niệm.

Lại nữa, A Nan Đà, nếu có người xưng danh hiệu Đại khổng Tước Chú Vương này dể cầu nguyện cho người và cũng nguyện gia hộ cho mình, hoặc lấy dây kết gút đeo trên thân. Người này đáng lẽ bị tội tử hình, cho thế vật mới được thả ra, hoặc đáng lẽ phạt bằng roi trượng rồi mới được tha, hoặc bị quở mắng mới được thả ra. Thế mà trong lúc bị quở mắng lại  được giải thoát, tất cả bệnh khổ đều được tiêu trừ, không còn có sự hành hạ nào khác đối với người này nữa. Cũng không bị nạn vua quan, nạn nước lửa, hoặc bị dao gậy xâm hại. Khi ngủ, lúc thức đều an ổn, trong chiêm bao thường mộng thấy điềm lành, đi đứng nằm ngồi, không gặp sự tác hại, thêm được sống lâu. Trừ ra có tạo nghiệp đoản mạng đời trước thì chính quả báo ấy phải tự thọ mà thôi.

-A Nan Đà, nếu gặp lúc mưa lụt, hoặc gặp nắng hạn lâu ngày, nếu thành tâm đọc tụng Khổng Tước Chú Vương thì chư Long Thiên đều hoan hỷ gia hộ cho. Như mưa lâu được tạnh ráo, nắng hạn được mưa nhuần. Còn người nam, người nữ muốn cầu nguyện điều chi tốt đẹp đều được thành tựu

-A Nan Đà, chỉ nhớ nghĩ đến Khổng Tước Chú Vương này cũng thường trừ diệt được tất cả sợ hãi lo rầu, huống chi đọc tụng, thọ trì kinh chú Đại Khổng Tước Chú Vương này ư? Vì muốn giữ gìn lợi ích cho bốn chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ô ba sách ca, Ô ba tư ca , lìa các sợ hãi nên thuyết chú rằng:

ĐÁT ĐIỆT THA, ĐIỆP BÀN ĐỂ, ĐÀ ĐỂ, ĐẠT CÁT RỊ, ĐỔ RÔ ĐỔ RÔ, TÓA HA.

Tham dục, giận hờn, si

Là ba độc thế gian

Đức Phật đã dứt sạch

Thật ngữ, độc tiêu trừ.

 

Tham dục, giận hờn, si

Là ba độc thế gian

Chánh pháp đã quét sạch

Thật ngữ, độc tiêu trừ.

 

Tham dục, giận hờn, si

Là ba độc thế gian

Tăng già đều đoạn sạch

Thật ngữ, độc tiêu trừ.

 

Tất cả Phật Thế Tôn

Có đại oai thần lực

La Hán danh xưng đủ

Trừ độc khiến an ổn.

Lúc bấy giờ Tôn giả A Nan Đà nghe Đức Thế Tôn nói kinh này xong, liền đảnh lễ nơi chân Phật, đi nhiễu quanh bên hữu ba vòng, xá Phật mà đi đến chỗ Tỳ kheo Sa Để, lập đàn kiết giới, kiết địa, giúp cho Tỳ kheo Sa Để được lợi ích, trừ được khổ não.

Bấy giờ Tỳ kheo Sa Để, thân được an ổn, khổ độc tiêu tan, thầy cảm tạ Tôn giả A Nan Đà, rồi cùng đi đến chỗ Phật đảnh lễ chân Phật, đem tất cả sự việc xảy ra bạch lên Thế Tôn và đứng sang một bên.

Phật bảo A Nan Đà, do nhơn duyên như thế nên đem Đại khổng Tước Chú Vương dạy truyền cho bảy chúng: Tỳ khưu, Tỳ khưu Ni, Thức xoa ma na, Sa di, Sa di Ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, Quốc vương, đại thần, khuyên họ nhất tâm thọ trì đọc tụng khiến được thông lợi, vì người giải nói rõ suốt mọi việc.

Nên biên chép kinh chú này lưu bố rộng ra. Dùng hương hoa , các thức ăn uống tùy phần cúng dường , làm cho chúng sanh đều lìa ưu khổ, thường được an vui, hưởng phước không lường, thật khó nghĩ bàn.

Phật nói kinh chú pháp này xong, ngài A Nan Đà và đại chúng Thiên Long, Dược Xoa, Kiền Thát Bà, A Tu La, Ma Lầu Đa, Yết Lộ Trà, Khẩn Na La, Mạc Hô Lạc Dà, Người, phi Nhơn. tất cả nghe lời Phật dạy xong rồi thảy đều vui mừng tin nhận phụng hành.

KHỔNG TƯỚC CHÚ VƯƠNG KINH

( Quyển Hạ hết)