Thiền học
Uyển Lăng Lục
H.T THÍCH THANH TỪ
07/06/2556 16:58 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng


Uyển Lăng là tên một huyện của Trung Quốc đời Đường. Khi đó tướng quốc Bùi Hưu đang trấn nhậm tại huyện này. Bùi Hưu mời ngài Hoàng Bá về đây dạy cho ông lý thiền. Vì vậy lối dạy ở đây sáng sủa rõ ràng, chớ không như lối dạy ngài Lâm Tế. Quyển sách này do ông Bùi Hưu ghi lại lời dạy của ngài Hoàng Bá tại Uyển Lăng, nên có tên là Uyển Lăng Lục.

Chúng ta phải hiểu người xưa, khi đối diện với người có các trình độ khác nhau, các ngài tùy duyên mà dạy, chớ không cố định. Đối với tướng quốc Bùi Hưu ngài nói trắng ra, nhưng với ngài Lâm Tế ngài chỉ đánh mà không nói một câu. Nếu chúng ta cả quyết cho rằng thiền sư Hoàng Bá chỉ đánh, chớ không nói thẳng trắng ra thì không đúng. Hoặc bảo ngài chỉ nói trắng mà không đánh cũng không đúng. Tùy theo người đối duyên mà các Tổ sử dụng phương tiện để đạt được kết quả tốt nhất. Hiểu chỗ này chúng ta mới thấy hiện giờ thiền tông cần phải nói thẳng ra là một điều hợp lý. Với tướng quốc Bùi Hưu, ông không rảnh nghiên cứu chỗ này chỗ kia, còn ngài Lâm Tế là một thiền tăng đang du phương cầu học, làm sao cho ngài nghi, nghi chừng nào tốt chừng ấy, hai người hai hoàn cảnh khác nhau.

Chúng ta bây giờ cũng vậy, thời này người ta bận rộn đa đoan, đâu thể nay xách gói đầu này hỏi, mai xách gói đầu kia hỏi. Vì vậy chúng ta phải nói thẳng để người học nhận biết, ứng dụng tu thì có lợi hơn. Tôi nói như thế để quí vị hiểu tinh thần người xưa và tinh thần hiện nay của chúng ta tuy thấy khác mà không khác.

CHÁNH VĂN:  

Bùi tướng công hỏi Ngài:

- Trong núi bốn năm trăm người, bao nhiêu người được pháp của Hòa thượng?

Ngài đáp:

- Người được không thể tính hết số. Vì sao? Vì đạo do tâm ngộ, không tại lời nói, nói năng chỉ là để giáo hoá kẻ đồng mông (trẻ thơ).

GIẢNG:  

Nói năng là để dạy những người đồng mông tức kẻ sơ cơ, chớ đúng ra thì ai cũng ngộ được hết, vì ai cũng có tâm chân thật. Cho nên người nhận được chỗ chân thật tính không hết, vì ai ai cũng có sẵn. Dùng nói năng diễn đạt, đó là phương tiện vì kẻ đồng mông.

CHÁNH VĂN:  

Hỏi: Thế nào là Phật?

Đáp: Tức tâm là Phật, không tâm là đạo. Chỉ không có cái tâm khởi tâm động niệm, có không, ngắn dài, ta người, năng sở… Tâm vốn là Phật, Phật vốn là tâm. Tâm như hư không, sở dĩ nói “chân pháp thân của Phật ví như hư không”. Không nên cầu riêng, có cầu đều khổ. Giả sử trải qua số kiếp như cát sông Hằng, tu hành lục độ vạn hạnh được Phật Bồ-đề cũng không phải cứu cánh. Vì cớ sao? Vì thuộc về nhân duyên tạo tác, nhân duyên nếu hết trở lại vô thường. Sở dĩ nói “Báo, Hóa không phải chân Phật, cũng không phải nói pháp”. Cốt biết tâm mình không ngã không nhân, xưa nay là Phật.

GIẢNG: 

Chỗ này chỉ thẳng nên khó. Hỏi “Thế nào là Phật?” Nếu chúng ta được hỏi câu này sẽ trả lời ra sao? Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Giảng như vậy thì chỉ biết ông Phật bên ngoài là đức Thích Ca thôi, chớ không biết được ông Phật của mình.

Ở đây ngài chỉ thẳng tức tâm là Phật, chính ngay tâm mình là Phật chớ không có Phật nào ở ngoài tâm. Nhưng nói không tâm là đạo thì có mâu thuẫn không? Trước nói tức tâm là Phật, bây giờ nói không tâm là đạo, như vậy có tâm không? Câu này nhiều người lầm lẫn. Tức tâm là Phật, không tâm là đạo, hai chữ tâm đó khác nhau chỗ nào? Tâm trước và tâm sau là một hay hai? Không phải một. Tâm trước là tâm chân thật bất sanh bất diệt cho nên gọi tức tâm là Phật, tâm đó là Phật. Không tâm là đạo là không tâm sanh diệt, tâm sau là tâm sanh diệt. Khi nào tâm sanh diệt lặng là đạo. Những chữ này không khéo rất dễ hiểu lầm, dường như mâu thuẫn vậy. Tức tâm là Phật, nghĩa là ngay nơi tâm chân thật của mình là Phật, không tâm là đạo nghĩa là không tâm sanh diệt, ấy là đạo.

Chỉ không có cái tâm khởi tâm động niệm, có không, ngắn dài, ta người, năng sở… không các tâm đó là đạo. Như vậy tìm đạo ở đâu? Bây giờ có người xách gói lên núi Cấm, núi Tà Lơn… để tìm đạo. Như vậy có đúng không? Ở chỗ không tâm, Lục Tổ nói xưa nay không một vật, không một vật thì có tâm gì? Thấy được chỗ đó là thấy đạo. Cho nên Ngũ Tổ mới gọi Lục Tổ vào thất giảng kinh Kim Cang cho nghe.

Không tất cả tâm niệm có không, ngắn dài, ta người, năng sở tức là không tất cả tâm niệm đối đãi. Ai lặng hết tâm đối đãi thì người đó thấy đạo. Như vậy đạo dễ tìm hay khó tìm? Chỉ cần mình lặng tâm đối đãi, nghĩ tốt nghĩ xấu, nghĩ phải nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua lặng xuống hết, ngay đó là đạo, không tìm kiếm đâu xa. Chúng ta ngày nay gần đạo hay xa đạo? Đạo rất gần, nhưng vì bọn phân chia phải quấy che mất nên không thấy, do không thấy thành xa. Nếu những phân biệt hơn thua, phải quấy lặng hết thì đạo ngay trước mắt, khỏi tìm kiếm đâu xa.

Người tu nào còn có tâm hơn thua phải quấy thì đạo vắng bóng, bao giờ tâm ấy lặng thì đạo hiện tiền. Tâm hơn thua phải quấy ai sắp đặt cho mình, Thượng đế sắp phải không? Nếu Thượng đế sắp thì đành chịu thua, đằng này quyền của mình khởi nghĩ, như vậy là chuyện nắm trong tay rồi. Chúng ta có quyền khởi, cũng có quyền bỏ. Việc gì thuộc quyền của mình thì đó là việc trong tầm tay. Việc trong tầm tay mà nói khó là chuyện vô lý. Nhưng nói dễ cũng không đúng, vì dễ tại sao bỏ không được. Như vậy mới thấy việc tu hành cũng dễ mà cũng khó. Ai một phen buông là buông tất cả thì rất dễ. Ai nửa buông nửa nắm thì suốt đời không thấy đạo. Cho nên người tu phải can đảm, một buông thì tất cả đều buông, có thế mới thỏng tay vào chợ được. Còn người nào vừa buông rồi tiếc nắm lại thì suốt đời không ra khỏi nhà lửa tam giới.

Tâm vốn là Phật, Phật vốn là tâm. Đây là xác định lại tâm mình. Tâm nào? Tâm liễu liễu thường tri, không sanh không diệt. Tâm đó là Phật. Cho nên nói tâm vốn là Phật, Phật vốn là tâm.

Tâm như hư không, sở dĩ nói “chân pháp thân của Phật ví như hư không”. Tại sao tâm như hư không? Câu này đa số người học Phật bị lầm lẫn. Nói tâm như hư không, như vậy tâm có hay không? Hư không thì trống rỗng, tâm như hư không thì tâm trống rỗng không có gì hết, sao gọi là Phật được? Đây là điều rất khó. Nếu không có kinh nghiệm trong sự tu, làm sao biết được chỗ này.

Khi chúng ta khởi niệm phân biệt về người thì có bóng người, khởi nghĩ về cảnh liền có bóng cảnh, khi không khởi nghĩ tất cả mà vẫn thấy vẫn nghe v.v… thì cái thấy nghe đó có phải tâm không? Biết tức là tâm. Cái biết thấy nghe xúc chạm ấy không có tướng mạo. Do không tướng mạo nên giống như hư không. Vì vậy nói “chân pháp thân của Phật ví như hư không”. Pháp thân chân thật ví như hư không mà hằng giác. Đó là điểm đặc biệt. Đã hằng giác làm sao nói không, nhưng không có hình bóng làm sao nói có. Tâm chân thật hiện tiền đó chúng ta đang có nhưng không sử dụng được, chỉ sử dụng tâm sanh diệt đuổi theo cảnh theo người. Vì vậy tâm sanh diệt che phủ pháp thân chân thật của chính mình.

Không nên cầu riêng, có cầu đều khổ. Bởi vì tâm chân thật không có tướng mạo, làm sao tìm cầu. Nếu càng cầu, càng tìm thì càng xa, không có lợi ích gì hết nên đều khổ.

Giả sử trải qua số kiếp như cát sông Hằng, tu hành lục độ vạn hạnh được Phật Bồ-đề cũng không phải cứu cánh.Kinh Đại thừa dạy chúng ta tu các pháp lục độ vạn hạnh để chứng quả Bồ-đề, nhưng tại sao Tổ bảo nếu chứng được Bồ-đề cũng không phải cứu cánh. Đó là những vấn đề chúng ta cần phải hiểu rõ. Người còn tu là còn dùng phương tiện sanh diệt, chuộng tốt bỏ xấu đều là trong tướng sanh diệt tạo tác. Tuy tướng tốt đẹp nhưng sanh diệt tạo tác thì không phải chân thật, không phải chân thật tức là không cứu cánh. Mục đích chư Tổ dạy chúng ta tu đi đến chỗ chân thật, đó mới là cứu cánh, nên ở đây gọi là Tối thượng thừa.

Đại thừa là đạo Bồ-tát, tu Lục độ vạn hạnh. Thượng thừa là Phật đạo, như kinh Pháp Hoa nói một Phật thừa, đó là Thượng thừa. Còn Tối thượng thừa là đạo gì? Là đạo tâm, tâm tức là đạo, chỉ thẳng cái chân thật sẵn có nơi mỗi người. Tất cả những thành tựu đạt được do dụng công tu hành đều nằm trong phương tiện, chưa phải là cứu cánh. Chỗ cứu cánh chân thật bất sanh bất diệt, không do dụng công mà được cho nên gọi là Tối thượng thừa. 

Vì cớ sao? Vì thuộc về nhân duyên tạo tác, nhân duyên nếu hết trở lại vô thường. Tất cả công đức do chúng ta tạo ra đều nằm trong sanh diệt nên có ngày cũng hết, vì vậy nói vô thường.

Sở dĩ nói “Báo, Hoá không phải chân Phật, cũng không phải nói pháp”. Cốt biết tâm mình không ngã không nhân, xưa nay là Phật. Báo là báo thân Phật, Hóa là hóa thân Phật nói pháp. Hai thân này không phải Phật thật. Như chúng ta thấy Đức Phật Thích Ca sanh ra ở Ấn Độ, tu hành bao nhiêu năm khổ hạnh, đi giáo hóa bao nhiêu năm, đó là báo thân Phật. Báo thân Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tu hành đắc đạo giáo hóa chúng sanh, có vô lượng công đức. Nhưng bây giờ thân đó còn không? Không còn. Nếu Phật là thân đó thì Phật ắt là sanh diệt.

Chỉ có Phật từ nơi tâm mới là chân thật. Vì vậy cốt biết tâm mình là không ngã, không nhân, xưa nay là Phật, đó mới là Phật thật, không có sanh diệt. Phật này có cần chúng ta tu cho ngài không? Tất cả công phu tu của mình tô điểm cho Phật đẹp thêm hay sao? Phật nào thuộc tô điểm, Phật đó đều không thật. Phật thật không có tô điểm. Muốn nhận ra Phật thật chỉ đòi hỏi chúng ta một việc, đó là buông hết tất cả niệm sanh diệt đối đãi. Phật thật đã sẵn có từ thuở nào, mà chúng ta không thấy là vì kẹt trong sanh diệt. Bây giờ buông hết tất cả niệm sanh diệt thì Phật thật hiện ra, đó mới là chân Phật hay pháp thân Phật. Còn Phật do tu, có tướng tốt, đó là Phật sanh diệt. Chúng ta phải hiểu cho thấu đáo lý này, mới có thể tiến tu không nghi ngờ.

Phật dạy tu Lục độ vạn hạnh, nghĩa là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ, tất cả đều nằm trong tướng sanh diệt. Nếu tu được hết những pháp này thì chúng ta sạch mọi lỗi lầm, không còn gây đau khổ cho người khác, đem lại sự anvui cho chúng sanh.

Nhưng đó chỉ là tướng sanh diệt, chưa phải cứu cánh. Cứu cánh phải trở về với Phật thật của chính mình. Phật đó không cần chúng ta tu, chỉ cần chúng ta nhận ra bằng cách buông bỏ hết những tướng sanh diệt đang che lấp Phật thật của mình. Như vậy là tu.     

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Thánh nhân không tâm tức là Phật, phàm phu không tâm đâu không chìm nơi không lặng?

Đáp: Pháp không có phàm thánh, cũng không có chìm lặng. Pháp vốn chẳng có, chớ khởi thấy không; pháp vốn chẳng không, chớ khởi thấy có. Có cùng với không đều là tình kiến (thấy biết tình chấp), ví như huyễn ế (như huyễn thuật, như mắt bệnh). Sở dĩ nói “thấy nghe như huyễn ế, tri giác là chúng sanh”. Trong môn này Tổ sư chỉ nói “dứt cơ quên kiến, nên nói quên cơ thì Phật đạo thạnh, phân biệt thì quân ma lừng”.

GIẢNG: 

Thánh nhân không tâm tức là Phật, Thánh nhân không có những tâm sanh diệt nên Thánh nhân là Phật. Phàm phu không tâm đâu không chìm nơi không lặng? Ngoại nhân cho rằng phàm phu không tâm tức là chìm lặng chỗ không ngơ, đâu thành Phật được. Đây cũng là chỗ nghi của nhiều người tu thiền. Khi tu tới lặng hết tâm sanh diệt thì đâm hoảng, mình tu tới chỗ không ngơ như vầy sao? Ở đây ngài trả lời: 

Pháp không có phàm thánh, cũng không có chìm lặng. Pháp chân thật này không có đối đãi, đây phàm kia thánh, cũng không chìm lặng. Tại sao? Pháp vốn chẳng có, chớ khởi thấy không; pháp vốn chẳng không, chớ khởi thấy có. Pháp là chỉ cho đạo, chỉ cho Phật. Phật vốn chẳng có vì nó không hình tướng. Tâm hằng tri hằng giác của chúng ta không hình tướng nên nói vốn chẳng có. Chớ khởi thấy không, nó không có rồi thấy không sao được? Không là đối với có, mà nó không phải có thì làm gì chấp không.

Pháp vốn chẳng không, chớ khởi thấy có, chẳng không là có. Bây giờ cái liễu liễu thường tri hằng có nơi mỗi chúng ta, khi mình đang sống. Nó không thiếu nhưng ai diễn tả được. Diễn tả bằng lời nói hay bằng mực viết? Vẽ cái liễu liễu thường tri được không? Như nghĩ về mặt trăng, người họa sĩ tưởng tượng vẽ ra mặt trăng được. Còn không nghĩ về cái gì hết mà thường tri, thì cảm giác thế nào, hứng khởi thế nào để họa ra được? Tuy không diễn tả được mà nó hằng giác hằng tri, làm sao nói không. Vì vậy nên nói pháp vốn chẳng không, chớ khởi thấy có.

Tâm liễu liễu thường tri của chúng ta không có hình dáng thì đừng bao giờ nghĩ nó là một pháp, vì có một vật là có hình tướng. Cái liễu liễu thường tri lúc nào cũng có, thì đừng bao giờ nghĩ nó chìm trong không. Như chúng ta ngồi thiền tới lúc lặng lẽ hết các niệm, lại sợ mình rơi vào không. Tại sao ta không nhận ra ai biết lặng lẽ hết các niệm? Cái gì biết? Còn có cái biết tại sao nói rơi vào không? Rơi vào không tức không biết gì hết, mà còn biết lặng lẽ làm sao nói rơi vào không? Đó là sự lầm lẫn của đa số người tu thiền. Khi đang lặng lẽ mình thấy rõ ràng lúc này tâm đang lặng lẽ. Lặng lẽ là cái chân thật rõ ràng thường biết, chớ đâu phải không biết.    

Có cùng với không đều là tình kiến (thấy biết tình chấp), ví như huyễn ế (như huyễn thuật, như mắt bệnh). Sở dĩ nói “thấy nghe như huyễn ế, tri giác là chúng sanh”. Trong môn này Tổ sư chỉ nói “dứt cơ quên kiến, nên nói quên cơ thì Phật đạo thạnh, phân biệt thì quân ma lừng”. Ở đây nói tất cả khởi thấy có không là tình kiến, tức cái chấp. Ngài nói thấy chìm lặng là không, thấy Phật là có. Thấy có, thấy không đều thuộc tình kiến, tức thấy biết theo tình chấp của mình. Cái thấy biết theo tình chấp giống như con mắt bệnh, nhìn ra hư không giữa trưa, thấy hoa đóm lung tung cả bầu trời. Như vậy hoa đốm rối loạn trên bầu trời thực có hay tại con mắt bệnh? Tại mắt bệnh, chớ bầu trời không có hoa đốm.

Tâm chấp có chấp không, bên này bên nọ là bị che phủ, không thấy được lẽ chân thật. Cho nên nói “thánh thì có, phàm thì không” hay “phàm thì mê, thánh thì ngộ”. Đó là thấy hai bên, thấy hai bên chưa phải cứu cánh. Ngài dẫn trong kinh dạy “thấy nghe như huyễn ế, tri giác là chúng sanh”. Nếu cái thấy cái nghe giống như người có con mắt bệnh là thấy lầm nghe lầm, không đúng chân lý. Tri giác là hiểu biết, còn hiểu biết phân biệt là chúng sanh.

Trong môn này Tổ sư chỉ nói “dứt cơ quên kiến, nên nói quên cơ thì Phật đạo thạnh, phân biệt thì quân ma lừng”. Dứt cơ là dứt cái gì? Cơ là chỉ cho căn cơ chậm lụt, căn cơ phàm thánh, tức sự sai biệt trình độ cao thấp. Còn khởi đây là phàm kia là thánh, đây là thông minh trí tuệ kia là ngu si v.v… tất cả phân biệt chia chẻ cao thấp hơn thua, đó là kiến. Còn phân biệt phải quấy tốt xấu v.v… là phân biệt. Quên hết các kiến chấp cao thấp, phàm thánh, ngu trí v.v… tất cả không còn dính kẹt thì Phật đạo thạnh. Nếu khởi phân biệt giỏi thì quân ma lừng.

Chúng ta tự kiểm xem nơi mình ma thạnh hay Phật thạnh? Tu theo Phật sao để ma thạnh, điều này thật khó hiểu. Tu theo Phật thì Phật thạnh chớ sao lại để ma thạnh. Nếu ma thạnh thì chúng ta đi đường nào? Đường ma. Bao nhiêu đó đủ thấy khổ rồi, tu theo Phật mà đi đường ma. Đi đường ma làm sao thấy được đạo. Bởi vậy các Thiền sư tu hay thường như ngu như ngơ. Các ngài không muốn phân biệt chi hết, mình cho là ngu. Còn chúng ta khôn quá, lanh quá nên gần với ma. Chừng nào mình như ngu như ngơ mới đi đường của Phật được. Mỗi vị tự kiểm sẽ biết mình đang đi trên đường Phật hay đang đi trên đường ma. Một ngày ta đi trên đường Phật chừng bao nhiêu phút, đi đường ma bao nhiêu phút? Kiểm như vậy thì biết ngay mình như thế nào.

Việc tu thực ra hết sức dễ, không tốn công tốn của chi hết. Chỉ cần khởi nghĩ liền buông. Chỉ buông thôi, thì cả ngày chơi chớ làm gì. Chuyện gì tới buông, như vậy cả ngày không dính. Nếu phải lượm cái này, mót cái kia, gom nhóp lại cho nhiều thì cực khổ. Như học trò đi học là cực khổ, phải dồn bài này vô, bài kia vô, phải nhớ nên cực. Còn người tu chỉ buông thôi, thật là khoẻ. Vậy mà có người than tu khổ quá. Khổ là tại không dám buông, cứ bám giữ hoài.

Một ví dụ hết sức cụ thể, như quí vị ở trong chúng, bất thần nghe ai nói xấu mình, thì sao? Mặt bừng bừng lên, cãi om sòm với nhau. Lúc đó vui hay mệt? Khởi nghĩ cãi vả là đã nghe nóng bức trong lòng, bực bội khó chịu. Ngược lại, nghe huynh đệ nói xấu, mình cười, không có gì hết. Khỏe không? Nó nhẹ như bong bóng. Nếu mình đặt câu hỏi phải quấy “tôi nói hồi nào?” để cãi hơn thua thì trong lòng nóng hay nguội? Nóng lên rồi phiền não. Người nào một ngày có năm ba người tới mách kiểu đó thì sao? Bực bội cả ngày nên thấy tu phiền não quá. Nếu biết buông, không có gì quan trọng, giả sử một chục người mách mình cũng buông hết thì khoẻ ru, có việc gì phiền não đâu.

Như vậy buông khoẻ hay nắm để cãi hơn thua khoẻ? Người buông là người khôn hay người chấp hơn thua là người khôn? Nếu theo đạo thì người bám vào hơn thua phải quấy để sanh phiền não là người ngu, còn người buông xả tất cả phiền não, không dính dáng gì là người khôn. Bây giờ ai chịu làm người khôn? Ai chịu làm người ngu? Việc làm dễ như trở bàn tay chúng ta không làm, còn những việc sanh phiền não bực bội, đôi khi nhỏ xíu thôi mà bên này giành khôn cãi qua, bên kia giành khôn cãi lại, cãi một hồi thành việc lớn. Có khi bực bội muốn xách gói đi luôn, coi như cả đời tu chỉ vì việc hơn thua làm mình hư hỏng. Tự nhiên mình làm khổ mình khổ người. Vậy mà bị chê tu ít không chịu, nói tôi tu dữ lắm, tu dữ lắm nên cãi cũng dữ luôn. Đó là những lầm lẫn quá lớn. Chúng ta phải hiểu rõ quên cơ thì Phật đạo thạnh, phân biệt thì quân ma lừng. Thuộc lòng như thế để mà tu.

CHÁNH VĂN:  

Hỏi: Tâm đã xưa nay là Phật, lại cần tu lục độ vạn hạnh chăng?

Đáp: Ngộ tại tâm không quan hệ gì lục độ vạn hạnh. Lục độ vạn hạnh đều là cửa hóa đạo, là việc bên tiếp vật độ sanh. Giả sử Bồ-đề, chân như, thực tế, giải thoát, pháp thân thẳng đến Thập địa, bốn quả vị thánh đều là cửa hóa độ, không quan hệ Phật tâm. Tâm tức là Phật nên nói “tất cả trong cửa tiếp độ, Phật tâm là bậc nhất”. Chỉ không tâm sanh tử phiền não… tức không cần đến pháp Bồ-đề… nên nói “Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm, ta không tất cả tâm, đâu dùng tất cả pháp”. Từ Phật đến Tổ không luận việc gì khác, chỉ luận một tâm, cũng nói là “nhất thừa”, nên nói “tìm kỹ mười phương lại không có thừa khác, chúng sanh này không còn nhánh lá, chỉ có các hạt chắc”. Bởi vì ý này khó tin nên Tổ Đạt Ma sang xứ này đến hai nước Lương, Ngụy chỉ có một mình Huệ Khả Đại sư thầm tin tâm mình, ngay một câu nói liền lãnh hội “tức tâm là Phật”. Thân tâm đều không, ấy là đại đạo. Đại đạo xưa nay bình đẳng, nên nói: “tin sâu chúng hàm sanh đồng một chân tánh, tâm tánh không khác, tức tánh tức tâm, tâm không khác tánh, gọi đó là Tổ”. Lại có câu “khi nhận được tâm tánh, nên nói không nghĩ bàn”.           

GIẢNG: 

Tâm mình xưa nay đã là Phật rồi, cần tu lục độ vạn hạnh không?

Ngộ tại tâm không quan hệ gì lục độ vạn hạnh. Lục độ vạn hạnh đều là hóa đạo, là việc bên tiếp vật độ sanh. Thường thường nói tu lục độ vạn hạnh là hay lắm mà ở đây lại nói ngộ tại tâm, không quan hệ gì đến lục độ vạn hanh. Ngộ là nhận chân được tâm bất sanh bất diệt ngay nơi mình, chớ không phải tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục… mới được tâm đó. Tu các pháp như thế là tu bên ngoài, còn nhận được ngay nơi tâm mình mới là chỗ chân  thật. Nên nói lục độ vạn hạnh là cửa hóa đạo, là việc bên tiếp vật độ sanh.

Cửa hóa đạo là cửa để truyền bá Phật pháp cho mọi người. Vì người đời chưa thể trực nhận được tâm chân thật của mình, nên dạy họ phương tiện làm cho tham sân si giảm. Từ tham sân si giảm dần dần, mới đi tới chỗ nhận được tâm chân thật. Bởi vậy lục độ dạy bố thí để bớt tham, nhẫn nhục bớt sân v.v… Còn tâm chân thật vượt hết tất cả các thứ. Gốc nhận được thì tất cả ngọn ngành đều thuộc bên ngoài. Vì vậy nói cửa hóa đạo là bên tiếp vật độ sanh. Ở đây chỉ thẳng tâm chân thật nên gọi là Tối thượng thừa.

Giả sử Bồ-đề, chân như, thực tế, giải thoát, pháp thân thẳng đến Thập địa, bốn quả vị thánh đều là cửa hóa độ, không quan hệ Phật tâm. Những từ Bồ-đề, chân như, giải thoát, pháp thân v.v… đều là cửa hóa đạo, không phải Phật tâm. Với người mê dạy họ tu để được Bồ-đề là giác, vì giác là dẹp mê. Nếu người bị trói buộc phiền lụy dạy họ tu để được giải thoát. Tất cả những pháp ấy là phương tiện để diệt các thứ bệnh chúng sanh đang kẹt, cho tới quả vị Thanh văn hay hàng Thập địa cũng là cửa hóa đạo thôi, chưa phải chỗ tột cùng nên không quan hệ với Phật tâm. Phật tâm tức là tâm Phật sẵn có nơi mỗi chúng sanh.

Tâm tức là Phật nên nói “tất cả trong cửa tiếp độ, Phật tâm là bậc nhất”. Trong cửa tiếp độ chỉ có Phật tâm là trên hết. Nếu lấy cấp bậc để so sánh đối chiếu, như tứ quả Thanh văn, Thập địa Bồ-tát v.v… thì thấy có cao thấp, nhưng đó là vì căn cơ chúng sanh không đồng, người thích tu thế này, người thích tu thế kia nên Phật đặt ra như thế để dẫn dắt từ từ. Kỳ thật chỉ có tâm Phật của chính mình là trên hết, không dính dáng với tất cả cấp bậc quả chứng. Vì tâm Phật không có thứ lớp, không cao thấp, không đối đãi, đó mới là cứu cánh. Những gì có thứ lớp, cao thấp đều chưa phải là chỗ tột cùng. Vì vậy nói: “tất cả trong cửa tiếp độ, Phật tâm là bậc nhất”.

Chỉ không tâm sanh tử phiền não… tức không cần đến pháp Bồ-đề… nên nói “Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm, ta không tất cả tâm, đâu dùng tất cả pháp”. Tâm gì là tâm sanh tử, tâm gì là tâm phiền não? Tâm dấy tạo nghiệp là tâm sanh tử, vì tâm tạo nghiệp thiện ác cho nên mới sanh trong lục đạo luân hồi. Nếu không có tâm chạy theo đối đãi thiện ác thì không đi trong Lục đạo luân hồi. Tâm gì là tâm phiền não? Buồn thương, giận ghét, hơn thua, phải quấy… là tâm phiền não. Có người nào nói tôi không buồn, không thương, không ghét ai… không? Lúc nào cũng phê bình huynh đó dễ thương, huynh kia dễ ghét quá. Cho nên tâm phiền não không lúc nào hết. Người dễ ghét mà ở cùng một phòng, giờ ăn giờ ngủ cũng gần một bên thì sao? Thì phiền não. Nếu mình không thèm ghét ai hết, đối diện với ai mình cũng không phiền não. Còn buồn thương giận ghét là còn phiền não. Ai không buồn thương giận ghét thì hết phiền não. Cho nên nói chỉ không tâm sanh tử phiền não… tức không cần đến pháp Bồ-đề…

Ở đây dẫn lời Lục tổ “Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm, ta không tất cả tâm, đâu dùng tất cả pháp”. Như người nóng nảy ráng tu pháp nhẫn nhục, người tham lam tu pháp bố thí. Bây giờ không tham không sân… thì tu pháp gì? Cho nên Lục Tổ khẳng định “Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm, ta không tất cả tâm, đâu dùng tất cả pháp”. Nhưng tại sao ở đây chúng ta có dùng pháp tu? Tại vì còn tâm tham sân si đủ thứ hết, cho nên phải dùng pháp tu để tiêu mòn từ từ.

Từ Phật đến Tổ không luận việc gì khác, chỉ luận một tâm, cũng nói là “nhất thừa”, nên nói “tìm kỹ mười phương lại không có thừa khác, chúng sanh này không còn nhánh lá, chỉ có các hạt chắc”. Kinh Pháp Hoa nói cuối cùng không có hai, chỉ một pháp Nhất thừa “tìm kỹ mười phương lại không có thừa khác”“chúng sanh này không còn nhánh lá, chỉ có các hạt chắc”, nhánh lá để chỉ cho những phần chi tiết nhỏ nhặt như Thanh văn, Duyên giác…  “chỉ có các hạt chắc”  là chỉ còn có một Phật thừa.

Bởi vì ý này khó tin nên Tổ Đạt Ma sang xứ này đến hai nước Lương, Ngụy chỉ có một mình Huệ Khả Đại sư thầm tin tâm mình, ngay một câu nói liền lãnh hội “tức tâm là Phật”. Tổ Đạt Ma sang Trung Quốc bao nhiêu năm mà chỉ có một người tin được điều này. Cho nên vua Lương Võ Đế học kinh thâm nhập rất nhiều, giảng kinh rất hay mà cũng tin không nổi. Chỉ có Tổ Huệ Khả tin được tâm mình, nghĩa là buông hết tất cả tâm sanh diệt rồi thì tâm chân thật hiện tiền. Tổ Huệ Khả tin nhận được điều đó.

“Thân tâm đều không, ấy là đại đạo”. Thân này là rỗng, tại sao? Vì còn duyên thì hợp hết duyên thì tan, nó không thật, nên nói tánh không. Tâm sanh diệt cũng không. Thấy rõ hai thứ này rồi là đại đạo. Hồi xưa hỏi thế nào là đại đạo các Tổ chỉ đường cái ở trước sân. Sự thực biết các pháp tự tánh không, biết tất cả niệm sanh diệt là không, đó là trở về với đại đạo. Chúng ta ngày nay thấy các pháp thật, thấy tâm buồn thương giận ghét thật, cho nên không thấy đại đạo.

Đại đạo xưa nay bình đẳng, nên nói: “tin sâu chúng hàm sanh đồng một chân tánh, tâm tánh không khác, tức tánh tức tâm, tâm không khác tánh, gọi đó là Tổ”. Đại đạo xưa nay bình đẳng. Tại sao bình đẳng? Bởi vì nơi mọi người đều có, mà đã bình đẳng thì ai cũng có khả năng thành Phật hết. Nên nói: “tin sâu chúng hàm sanh đồng một chân tánh”, đồng có tánh giác như nhau. Tất cả mọi chúng sanh đều có tánh giác. “Tâm tánh không khác”, tâm tánh mình và tâm tánh mọi người không khác nhau. “Tức tánh tức tâm”, nói tánh mà cũng nói tâm, tánh là chỉ cho Phật tánh, tâm là tâm chân như hay tâm chân thật. “Tâm không khác tánh, gọi đó là Tổ”, người nào tâm luôn luôn sống được với cái chân thật bình đẳng, người đó là Tổ.

Lại có câu “khi nhận được tâm tánh, nên nói không nghĩ bàn”. Khi người nhận được tâm tánh rồi thì không thể nghĩ bàn. Tại sao? Vì chỗ đó khởi nghĩ bàn thì không còn tâm tánh nữa, chỗ đó là chỗ không nghĩ bàn. Nghe nói không nghĩ bàn rồi cho rằng chỗ đó quá sức mầu nhiệm, linh thiêng thì lầm lẫn. Không nghĩ bàn là chỗ chân thật không còn một niệm nghĩ suy bàn tính.