Triết học
Luân Hồi Trong Lăng Kính Lăng Nghiêm
Thích Nữ Giới Hương Nhà Xuất Bản Văn Hóa Sài Gòn
09/10/2554 07:22 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

 

Chương 15. Kết khuyến

 

 

Phần Khai thị chỗ hư vọng của bảy loài để khuyến khích tu hành chánh pháp, Đức Phật dạy rằng xét rõ bảy loài (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người và thần tiên, trời và a-tu-la) như thế, đều là những tướng hữu vi tối tăm, giả dối tưởng tượng thụ sinh, giả dối tưởng tượng theo nghiệp; đối với tâm tính Diệu viên minh, bản lai không năng tác, sở tác, thì đều như hoa đốm giữa hư không, vốn không dính dáng; chỉ một cái hư vọng, chứ không có cỗi gốc manh mối gì.

Khai Thị về Nghiệp Nhân

A Nan, những chúng sinh đó, không nhận được tâm tính bản lai, chịu cái luân hồi như thế trong vô lượng kiếp, mà không chứng được chân tính thanh tịnh, đó đều do chúng thuận theo những sát, đạo, dâm, hoặc ngược lại ba cái đó, thì lại sinh ra không sát, không đạo, không dâm; có, thì gọi là loài quỷ, không, thì gọi là loài trời; có và không thay nhau, phát khởi ra tính luân hồi.

Chỉ Rõ Sự Tu Hành Chân Chánh

Nếu khéo tu tập phát huy phép Tam ma đề, thì trong bản tính thường diệu, thường tịch, cả hai cái có, cái không đều không và cái không có, không không cũng diệt, còn không có gì là bất sát, bất đạo, bất dâm, làm sao lại còn thuận theo được những việc sát, đạo, dâm.

Tổng Kết về Quả Báo Đồng Phận

A Nan, không đoạn được ba nghiệp, thì mỗi mỗi chúng sinh đều có phần riêng, nhân những cái riêng ấy, mà quả báo đồng phận chung của các cái riêng, không phải là không chỗ nhất định; đó là do vọng kiến của tự mình phát sinh ra; hư vọng phát sinh vốn không có nhân, không thể tìm xét nguồn gốc được.

Khuyên Đoạn Trừ

Thầy khuyên người tu hành, muốn được đạo Bồ đề, cốt yếu phải trừ Tam hoặc; tam hoặc không hết, thì dầu được thần thông, cũng đều là những công dụng hữu vi của thế gian; tập khí mê lầm đã không diệt, thì lạc vào đường ma; tuy muốn trừ cái vọng, nhưng lại càng thêm giả dối; Như Lai bảo là rất đáng thương xót. Như thế, đều do vọng kiến tự mình tạo ra, không phải là lỗi của tính Bồ đề.

Nói như thế ấy, tức là lời nói chân chính; nếu nói khác thế, tức là lời nói của Ma Vương[1].

Phần khai thị nghiệp nhân, Đức Phật nói có sát, đạo, dâm, vọng hay không sát, đạo, dâm, vọng, có và không thay nhau, phát khởi ra tánh luân hồi. Đó là ý nghĩa luân hồi trong lăng kính Lăng Nghiêm. Sát, đạo, dâm, vọng là phận trong, là ác và không sát, đạo, dâm, vọng là phận ngoài, là thiện, đều là tánh luân hồi.

Vì sao gọi là luân hồi?

Vì nhận giặc làm con, nên khi tôn giả A-nan gặp 32 hảo tướng của Đức Phật Thích Ca, chuyển về xuất gia, luân chuyển hai cuộc đời là từ một chàng thái tử vinh hoa phú quý thành một sa môn khất thực không nhà.

Gặp nàng Ma-đăng-già xinh đẹp là chuyển sắp phạm giới thể. Tâm bị chuyển biến tức mất cái tịch thường, mất cái bất động của căn bản bồ đề, thức tinh nguyên minh.

Mình nhận cái biến hoá làm mình: tôi khát ngưỡng Đức Phật, tôi rúng động bởi sắc nước hương trời của nàng Ma-đăng-già, thành mình bị biến hoá, mới có chuyện luân chuyển. Vì thấy thiện là hay, là không sát, đạo, dâm, vọng, là gặp 32 hảo tướng thành ra mình vẫn bám lấy nó, nên chuyển. Nay biết ngay cả thiện cũng do chuyển, thì đừng chuyển, nghĩa là gặp thiện thì cứ làm, nhưng mà biết theo duyên, theo duyên mà làm, nếu không đủ duyên thì thôi không sao, thì chúng ta sẽ được tự tại không bị chuyển. Ngay duyên thiện cũng cũng không chuyển huống là duyên ác.

Chợt gặp duyên thiện thì tâm thiện khởi lên.

Chợt gặp duyên ác thì tâm ác khởi lên.

Cho nên chuyển động tâm mình.

Mình phải sáng suốt làm chủ.

An định tinh thần.

Nếu không an định, mình chuyển theo thiện, mình lộ vẻ mừng rỡ thì phải đề phòng, chốc nữa gặp duyên khác, tâm lại chuyển động theo đó khóc cười. Vì nó luôn chạy theo, nên nếu gặp ác nó lại chuyển theo ác, đề phòng những chuyển động của các loại tâm này.

Lúc duyên thiện, tuy mình biết là thiện, mình theo mình làm thiện, nhưng mà làm chủ sáng suốt chứ không để những chuyển biến nó làm chủ thì Phật sự thành ma sự, cho nên dù gặp những thắng thiện mà không đủ duyên thực hiện cũng không tiếc, không trách cứ.

Những thắng thiện là gì?

Ngay cả mình ngồi thiền buông những sắc, âm thanh, động loạn diệt hết, kiến văn giác tri, không sát, đạo, dâm, vọng chỉ giữ một u nhàn thì cũng là pháp trần phân biệt ảnh sự.

Bỏ trần sáng thì gặp tối (đối với mắt),

Bỏ trần động thì gặp tĩnh (đối với tai),

Bỏ thông thì gặp tĩnh (đối với mũi),

Bỏ vị thì gặp nhạt (đối với nếm),

Bỏ xúc thì gặp không xúc chạm (đối với thân),

Bỏ sanh thì gặp diệt (đối với ý).

Như vậy bỏ sáu mặt của động, đạt được sáu mặt tĩnh thì vẫn là pháp trần phân biệt ảnh sự vi tế thì dù đạt Tứ Thiền (sắc giới) và Tứ Không (vô sắc giới) thì cũng vẫn chưa hết chủng tử đọa lạc, thì cũng vẫn chưa hết lầm chấp vọng tưởng vi tế (nắm giữ u nhàn) tức vẫn tưởng đến các tướng hư vọng của tiền trần và vẫn bị luân chuyển.

Cho nên những thắng thiện này mình không tiếc, bởi vì nó biến hoá, đừng nhắm mắt theo sự biến hoá của nó, chợt nó thiện, chợt nó ác, mình phải sáng suốt làm chủ. Nếu mình còn tiếc cái thiện, cái định của các cảnh giới thiền gọi là thù thắng tốt đẹp của cõi trời hay thiện của người thì mình còn lên xuống, vì mình còn nắm lấy nó, sống với nó.

Sống ở trong vô thường còn lấy cái biến hoá, nhận làm tâm tánh của mình, nhận làm thân thể của mình tức đã sống với biến hoá vô thường thì làm sao bình an, yên ổn nên sanh diệt nối tiếp.

Trước giờ mình sống với cái dụng sai, bây giờ nhận lấy cái thể và đứng vững với cái thật thể của tâm mình.

Hễ thanh tịnh thì làm thánh. Hễ nhiễm ô thì làm phàm.

Nhờ các bậc thánh giảng dạy khiến cho mình biết ngửa lên mong cầu những cái cao thượng, tốt đẹp về tinh thần gọi là có lý tưởng. Phần này gọi là ngoại phận bởi vì đây là nhờ Phật, Bồ tát, thánh hiền giảng dạy mình mới biết mà mong cầu mà khát ngưỡng, cho nên đây là phần tưởng tức là ngoại phận.

Phần tình là mừng, giận, thương, lo, buồn, tủi đó là chuyện của chúng ta, gọi là nội phận.

Nặng về phần tình thì đi xuống khốn khổ.

Nhẹ về tình tức nghiêng về phần tưởng thì đi lên, làm thánh, giải thoát, sung sướng.

Thế cho nên nội phận là phần tình và ngoại phận là phần tưởng, vì có tình tưởng xen lộn nên mới có bảy thú (trời, a-tu-la, thần tiên, người, địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh). Nhẹ thì lên trời, nặng thì xuống địa ngục nên có bảy thú lên xuống khổ, vui, cũng là do một tâm mình mà ra cả.

Thế nào là nhân quả cõi trời? tâm tu thập thiện, thiền định là nhân, kết quả có thân ông trời ở cõi trời. Bản gốc là nhân, mạt là quả. Nhân tức là bản gốc là tâm địa tu thập thiện, thiền định, nên kết quả hiện lên hình tướng là ông trời và cảnh giới cõi trời, đó là chữ mạt. Cả nhân địa tu thập thiện và quả tâm địa là Như lai tạng. Ông trời, cảnh trời cũng là từ Như lai tạng biến ra, cho nên cả gốc lẫn ngọn cũng đều là Như lai tạng diệu chân như tánh, rốt ráo từ đầu đến đuôi đều là Như lai tạng diệu chân như tánh biến ra. Vì tất cả nhân quả, bản mạt, cứu cánh rốt ráo đều là thật tướng. Đây là ý nghĩa của thập như thị trong kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh.

Cõi trời là cõi toàn gây mê, toàn những cái vui, cho nên con mắt, cái tai, lỗ mũi, cái miệng, cái thân và cái ý suốt ngày bị mê muội. Đã mê muội thì đi về ngu si. Cho nên ngu si là gốc khổ, do vậy Đức Phật khuyên đệ tử của ngài không cầu sanh về cõi trời.

Vì để chỉ thật tướng ấy, nên Đức Phật nói kinh Thủ Lăng Nghiêm. Nhân quả ở cõi trời cho đến nhân quả ở địa ngục cũng đều do tâm thức hiện ra mà thôi, cho nên nói tất cả vạn pháp đều do tâm thức cả.

Vì tất cả nhân quả, bản mạt, cứu cánh rốt ráo đều là thật tướng, nên nói tất cả vạn pháp đều do tâm thức cả. Kinh Hoa nghiêm cũng chủ trương vạn pháp duy tâm. Bây giờ chúng ta thấy ra: mình, người, sơn hà, đại địa, ngọn cỏ, sợi dây, thắt nút... chung quy chỉ có một tâm tánh mình biến ra thôi. Tâm tánh mình ở khắp pháp giới chứ không phải thu lu ở trong cái thân đất, nước, gió, lửa nhỏ bé này.

Do chúng ta theo nội phận tức yêu ghét của mình là tình trong thân này. Sở dĩ gọi nội phận là tình vì chúng ta nhận nó là mình, mình là nó, còn tâm thanh tịnh chơn tâm thì bây giờ chúng ta còn học tập, để trở về cho nên gọi là ngoại phận, ước mong tưởng cho nên gọi phận ngoại, bên ngoài.

Theo ngoại phận, lý tưởng để khát ngưỡng tốt đẹp thì đi lên. Còn theo vọng tình cứ yêu ghét, mừng, giận, thương lo buồn tủi thì đó là đường đi xuống gọi là cảnh khổ.

Tu là quay về tâm mình, buông vọng tình để khát ngưỡng lý tưởng.

Cho đến gió cũng do tâm động mà cảm thành.

Cho đến đất cũng do si ám mà thấy thành chướng ngại.

Cho đến nước cũng do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ nó chảy lên. Nước ái dục nặng nề.

Tham ái, ngã ái, ngã chấp, ngã kiến đều là gốc đọa lạc, chỉ là tâm chúng ta chứ không chi khác.

Trong thì mừng giận thương lo, ngoài thì những cảnh sáu trần mình đang sống đây cũng là tâm mình; rồi đến đất, nước, gió, lửa cũng chính là tâm mình, không có gì to hay nhỏ, không có gì ngoài tâm về phương diện trực chỉ của con người. Vọng thân là tâm đã đành mà ngay vọng cảnh cũng từ tâm biến ra, nên chung quy là học tâm.

Cố gắng sống trong chân thật, buông xả tâm mình bình an, an ổn, sẽ được an vui mãi mãi. Nếu sống với vọng thân, vọng tâm thì cứ vật vờ ở trong mê muội, kiếp này sang kiếp khác. Chúng ta từ vô thủy tới giờ nghĩa là con số kiếp, không biết bao nhiêu là cùng mà chúng ta cứ cam phận ở trong mê muội mãi, cho nên Đức Phật nhắc cho chúng ta tỉnh ra. Yêu ghét, mừng, giận, thương, lo, buồn, tủi đều là những chuyện huyễn vọng, đừng khư khư theo nó nữa.

Phải chơn thật nhận ra mới biết kinh Thủ Lăng Nghiêm có chân giá trị, quý hơn những gì có trên thế gian này.

Tùy duyên sống theo mọi người. Cũng tùy duyên sống như mọi người nhưng chính mình phải biết đây là hư vọng.

Làm thế nào để thoát cái luân hồi sanh tử? Xin đừng đâm đầu vào bể sanh tử làm gì nữa.

Mặc ai sống chết trong sanh tử, hãy lo cho mình giải thoát đã, chắc là phải vậy thôi. Chúng ta phải học cho mình biết bơi rồi mới có đủ sức để kéo người khác.

Không bỏ được cái mê, không nhận được chân tâm tức là vẫn sống trong đường mê.

Không bỏ được cái mê tức là vẫn chưa tỉnh được cái chân thật, thì vẫn chưa nhận được cái chân thật.

Thế cho nên, chúng ta phải học đi, học lại hoài, phải cố gắng hấp thụ bộ Thủ Lăng Nghiêm để tìm lối sống thật cho mình.

Sống với chân thật thì sẽ được an vui vĩnh viễn mà nếu sống với vọng thân, vọng tâm hư vọng thì cứ vật vờ ở trong mê muội, kiếp này sang kiếp khác. Chúng ta từ vô thủy tới giờ nghĩa là con số kiếp không biết bao nhiêu là cùng mà chúng ta cứ cam phận ở trong mê muội mãi cho nên Đức Phật nhắc nhở để chúng ta tỉnh ra.

Cái động cơ thúc đẩy khiến cho chúng sanh sanh tử tương tục là nghiệp. Nghiệp là hành động được biểu hiện qua thân, miệng và ý thức, trong đó ý thức là then chốt.

Xuất gia học Phật, giữ giới luật là nhân chính để ngăn chặn đường luân hồi, để thúc liễm thân, khẩu, ý thuần tịnh. Thấy sự sát sanh của thế gian, quả báo sự thù hận không có dừng nghỉ, bổn phận của chúng ta là may mắn được học Phật, giữ giới không sát sanh, trộm cắp, nói láo, lại được học kinh sách để biết nghĩa lý, nguyên nhân, đạo đức, tánh phật của mình. Có thân người là có chất liệu giác tỉnh, đời này cố gắng ra khỏi vòng luân hồi này.

Vòng bảy đạo này luôn xoay chuyển, chúng ta vừa mới ở bào thai, giờ đây sáu căn đang tiếp xúc sáu trần, chúng ta phải tập giác tỉnh, học Phật để làm chủ cái tâm, trở về tánh vô lượng thọ, tánh A-di-đà của mình. Dừng vòng luân hồi lại, chính hiện tại chúng ta đang có tập khí về vòng luân hồi, vô minh nó lôi cuốn mà biến ra 12 loài chúng sanh.

Hễ mê là chúng sanh mà giác là Phật. Hễ mê là có vọng kiến, tâm nó cuồng, nó loạn suốt thì gọi là người điên, là chúng sanh, còn không cuồng loạn thì gọi Phật, là bậc giác tỉnh. Hai hạng người khác nhau.

Trong mục hai điều nạn hỏi, Đức Phật đã từ bi hỏi vặn lại để chúng ta phản quang tự kỷ nhìn lại mình:

Ngài đã phát minh đại nghĩa, sao chúng ta còn chẳng chịu quay về?

Chúng ta cũng vừa thoát khỏi các loài này mà được vào bào thai người, bây giờ tạm được thân người. Thân người là cửa ải để ra khỏi những nạn này. Ra khỏi thì thoát mà không thì trở lại vào địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, rồi làm người. Những nghiệp trước và nghiệp sau ràng buộc lẫn nhau.

Bây giờ chúng ta có đủ nhân, đủ duyên được làm thân người có bộ óc, có khả năng giác tỉnh, chứ chó mèo không thể tỉnh được, cho nên hàng ngày trong đời sống của chúng ta, hoặc là tu thiền định nhĩ căn viên thông như đức Quan-thế-âm, hoặc niệm Phật như Bồ tát Đại Thế Chí bồ tát để vượt ra khỏi vòng lẩn quẩn này. May cho chúng ta vừa thoát được những loài này mà giờ vào làm người đây thì phải để ý chỗ này, nhìn xuống tam đồ sâu hun hút để cầu về cực lạc mà giải thoát vĩnh viễn.

Cầu về cõi Phật chẳng những hưởng bình an, yên ổn, để có cơ hội gần các bồ tát, thánh chúng mà giải thoát tiếp. Tỉnh được mà ra khỏi được thì tinh thần đi lên, bảo đảm giải thoát. Còn về cõi nào trong bảy cõi này thì vẫn ở trong đường mê, vẫn trong cái lẩn quẩn đáng sợ đầy nguy hiểm, nên phải một lòng tha thiết cầu thoát ra đám mây mù vô minh, nương ngón tay tam-ma-đề chỉ để thấy vầng trăng sáng trên không.

Đức Phật nhắc để chúng ta tỉnh ngộ, quan trọng là lúc nào cũng quay về mình, sáng suốt mà làm chủ lấy mình. Tam giới và luân hồi trong thất thú chỉ vì một chữ vọng mà ra. Tự tánh bồ đề của chúng ta vốn không có vọng, cũng chẳng có chân.

Bầu trời trong sáng

Không trăng, có trăng

Bóng trăng ảnh hiện

Đâu chẳng là trăng?

Mỏi gối tìm trăng

Ngập nắng hoàng hôn

Không đợi trung thu

Vầng trăng chiếu sáng.

 

 Thư phòng chùa Phước Hậu,

 Thích Nữ Giới Hương


 

 

SÁCH THAM KHẢO

 

- Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Minh biên dịch, Nhà Xuất bản Tp HCM, 1999.

- Nghi Thức Tụng Niệm Hàng Ngày, HT Thiện Thanh dịch, Chùa Phật Tổ, CA.

- Sống Chết Bình An (từ cuốn Tạng Thư Sống Chết – The Book of Dealth, Sogyal Ripoche soạn, do Ni Sư Trí Hải dịch), Tỳ-kheo-ni Diệu Khiết trích đoạn, 1997.

- Thích Nữ Giới Hương, Vòng Luân Hồi, Nhà xuất bản Phương Đông, 2008.

 


[1] Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 745-50.