Theo quan điểm của tôi, cả hai con đường (hay hai thừa )- A-la-hán đạo 
và Bồ tát đạo - có thể xem như những biểu hiện có giá trị về lời giảng 
dạy của Đức Phật. Tuy nhiên, cả hai phải tuân theo một số tiêu chuẩn 
chính thức. Về vấn đề nguyên tắc, cả hai phải tuân theo những giáo pháp 
căn bản như Tứ diệu đế, Bát Chánh Đạo, Tam pháp ấn, Lý Duyên khởi ; về 
vấn đề thực hành, cả hai phải biểu hiện nền tảng đạo đức tốt đẹp, tuân 
theo khuôn mẫu rèn luyện của tam vô lậu học về Giới, Định, và Tuệ. Tuy 
nhiên, ngay cả khi ba tiêu chuẩn ấy được hoàn thành, trong lúc đi tìm 
một sự hoà hợp lành mạnh của hai con đường này, chúng ta phải tránh cái 
mà tôi gọi là chủ trương dung hòa " nhẹ nhàng kiểu đế quốc" như lý 
thuyết Nhất Thừa, lý thuyết này cho rằng chỉ có Bồ tát thừa là rốt ráo 
và Thanh văn thừa chỉ là phương tiện. Lý thuyết này cuối cùng đưa đến 
việc hạ thấp giá trị những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật lịch sử. Lý 
thuyết này nói rằng những lời dạy của chính Đức Phật trong suốt 45 năm 
hành đạo chỉ là những lời mô phỏng của bầu không khí tôn giáo ở Ấn độ 
thời đại ấy và không diễn đạt được ý định của Ngài, mà những ý định này 
chỉ được làm sáng tỏ trong các kinh điển Đại thừa giảng giải giáo lý 
Nhất Thừa 400 trăm năm sau ngày Đức Phật nhập diệt. Công nhận giá trị 
ngang nhau của hai thừa (hay ba thừa, nếu kể thêm Độc giác thừa) cho 
phép chúng ta có một thái độ bao dung hơn, biết tôn trọng tính xác thực 
của Phật giáo Nguyên thủy và những sự kiện lịch sử về những lời giảng 
dạy nguyên thủy của Đức Phật. Điều này cũng trang bị tốt hơn cho chúng 
ta để công nhận khả năng của Phật giáo, trải qua nhiều biến chuyển đích 
thực của lịch sử, đã bộc lộ những tiềm năng còn tàng ẩn trong lời dạy 
của Đức Phật, những tiềm năng mà chính Đức Phật cũng không tiên liệu 
được, nhưng đã làm phong phú truyền thống phát xuất từ Ngài như là suối 
nguồn đầu tiên.
Khi chúng ta chấp nhận phương pháp này, chúng ta 
có thể thành tâm kính trọng những vị hành giả đã tích cực hoạt động để 
thực hiện mục đích cuối cùng của Phật pháp ngay trong hiện tại là chứng 
đắc Niết bàn, là sự chấm dứt mọi khổ đau, bằng cách tu tập theo Bát 
Chánh Đạo cho đến giai đọan cuối cùng. Chúng ta có thể tôn kính những vị
đã thắp sáng lời dạy của Đức Phật bằng cách chứng minh rằng những lời 
dạy này thực sự dẫn dắt chúng ta đến giải thoát rốt ráo, đưa đến trạng 
thái vô sinh bất diệt, mà Đức Phật vẫn thường ca ngợi, gọi đó là sự giải
thoát vi diệu, thuần tịnh,và vô thượng. Lại nữa, bằng cách dùng phương 
pháp này, chúng ta cũng có thể tôn kính những vị đầy lòng từ bi đã phát 
nguyện đi theo Bồ tát đạo, những vị đã phát đại nguyện này như một hành 
động vượt quá bổn phận của họ, họ làm như vậy không phải vì đó là điều 
kiện cần thiết cho sự giải thoát đích thực của chính họ. Chúng ta có thể
tôn trọng và trân quý lòng từ bi rộng lớn, những hạnh nguyện cao 
thượng, và tinh thần hy sinh phục vụ chúng sanh của họ. Phật giáo đích 
thực cần cả ba: những vị Phật, A-la-hán và Bồ tát. Phật giáo cần phải có
Đức Phật khám phá và giảng dạy con đường giải thoát; cần phải có các vị
A-la-hán đi theo con đường đó và xác nhận rằng Phật pháp đích thực đưa 
đến giải thoát, minh chứng cho lời giảng dạy đó bằng những tấm gương của
những vị đã sống cuộc đời phạm hạnh thuần tịnh; Phật giáo cũng cần 
những vị Bồ tát phát nguyện quyết tâm hoàn thiện đức hạnh để trong một 
thời điểm tương lai nào đó, gần hoặc xa, chính họ có thể trở thành Phật 
và một lần nữa lại tiếp tục chuyển Pháp Luân vô thượng của Đức Phật cho 
thế gian này.