Chương  
III
  
Thay Lời Kết Luận 
  
 
 
Giới Thiệu Mẫu Người Lý  
Tưởng
  
Ngài An Thế Cao khi chưa xuất gia một  
hành giả Phật tử, tinh thông phật pháp, đức hạnh thanh cao. Ngài đã có một  
cuộc sống giải thoát giữa cuộc đời đầy biến động. Ðộng cơ từ bỏ ngai  
vàng, truyền ngôi cho chú mà đi tu chắc chắn là do chí nguyện xuất gia  
chín muồi.
  
Với tư cách là một người Phật tử cư sĩ  
hiểu đạo và hành đạo giữa cuộc đời đầy ô nhiễm của lạc thú, Ngài  
hiểu rất rõ sự khó khăn của một cư sĩ hướng về con đường giải  
thoát. Ðồng thời Ngài cũng hiểu rõ vai trò và tác dụng của người cư  
sĩ đối với cuộc đời: Chuyển tải đạo lý vào đời sống xã hội, khai  
mở tuệ giác xây dựng hạnh phúc cho nhân thế một cách phổ cập,  
điều mà vai trò tu sĩ thoát tục rất khó thực hiện.
  
Ngài An Thế Cao đến Trung Hoa vào  
thời nhà Hán. Bấy giờ, người Hán chưa được phép xuất gia làm tăng. Trong  
quá trình phiên dịch kinh điển, Ngài có cộng sự là cư sĩ người Hán có  
trình độ thế học và Phật học cao như cư sĩ Trần Tuệ, Nghiêm  
Phù Ðiều, Hàm Lâm, Bì Nghiệp... cộng tác dịch thuật còn có Ngài An  
Huyền là người đồng hương với Ngài nhưng cũng là cư sĩ. Sau này cư  
sĩ Trần Tuệ, Bì Nghiệp sang giao châu mang theo một số kinh sách mà  
Ngài An Thế Cao đã dịch, họ đã tiếp tục sứ mạng của thầy mình  
truyền bá Phật giáo bằng con đường dịch thuật kinh điển. Trần  
Tuệ đã chú giải Kinh An Ban Thủ Ý và Thiền Sư Tăng Hội viết lời  
tựa.
  
Những tác phẩm mà Ngài An Thế Cao dịch  
phần lớn thuộc về hệ Nguyên thủy, là những tác phẩm cần thiết và  
hướng đến người tăng sĩ. Như vậy, chắc chắn Ngài đã đọc qua kinh  
Bát Niệm của Trung A Hàm. Trên cơ sở Tám Ðiều Suy Niệm của Bậc  
Ðại Nhân, Ngài thiết lập hệ thống tu tập qua Kinh Bát Ðại Nhân Giác  
mang sắc thái vừa Nguyên thủy vừa Ðại thừa và mục tiêu hướng đến là  
người cư sĩ.
  
Như đã giới thiệu ở phần nhận thức  
tổng quát đường lối tu tập của kinh Bát Niệm là đường lối tu tập  
đoạn trừ lậu hoặc và chứng quả A La Hán. Lộ trình tu tập của kinh Bát  
Niệm tiêu biểu cho đường lối tu tập truyền thống của Sangha. Lộ  
trình này gồm ba bước Giới - Ðịnh - Tuệ mà định là xương sống của  
pháp môn. Ðây là đường lối tu tập không thuận tiện cho người cư sĩ  
tại gia. Ðể thiết lập một lộ trình tu có tính phổ biến hơn, tích  
cực hơn, để nhằm đáp ứng nhu cầu tu tập và hoằng pháp trong một bối  
cảnh xã hội mới như xã hội Trung Hoa vào thời Hán, Phật giáo chưa được  
chấp nhận một cách đầy đủ, các vị tăng sĩ chưa được xuất gia, thành  
phần cư sĩ là chủ yếu. Vì vậy mà Kinh Bát Ðại Nhân Giác ra đời. Ðây  
như là sự kiện tất yếu, nghĩa là phải có một mô thức mới phù hợp  
với hoàn cảnh mới cho người cư sĩ tại gia thực hành, đặc biệt dành cho  
những người cư sĩ có đạo tâm lớn - tâm thì muốn xuất gia, thân thì ở  
thế tục. Con đường tu tập này không lấy Ðịnh làm cơ sở mà lấy chánh  
niệm làm cơ sở, từ đó ý chí và nguyện lực được thiết lập.
  
Sự ra đời của kinh Bát Ðại Nhân Giác một  
mặt lấy nền tảng tu tập của Kinh Bát Niệm, mặt khác dựa vào giáo  
nghĩa Ðạĩi thừa mà lúc bấy giờ công cuộc vận động Ðại thừa đang lên  
cao. Chắc chắn Ngài An Thế Cao đã thừa hưởng sắc thái của truyền  
thống Ðại thừa một cách trọn vẹn nên những điều giác ngộ cuối đã  
chuyển hướng sang sắc thái Ðại thừa một cách triệt để. Kinh Bát  
Ðại Nhân Giác rõ ràng là một hướng đi mới cho một điều kiện và  
xã hội mới. Ðường lối ấy mệnh danh là Bồ Tát đạo và mục tiêu hướng  
đến là người cư sĩ tại gia. Ngài An Thế Cao đã gởi gấm lòng mình  
qua mẫu người thực hành Bồ Tát hạnh, giới thiệu một mẫu người lý  
tưởng để kiến tạo một xã hội lý tưởng, xã hội Phật hóa ... Con  
đường tu tập này, chúng tôi cho rằng có thể chia làm sáu bước:
  
- Bước một: Xây dựng một con  
người có đầy đủ nhận thức sáng suốt về bản chất của cuộc sống, có  
một tầm nhìn chính xác và rộng rãi về cuộc đời, về vũ trụ thiên  
nhiên, về đời sống xã hội, về đời sống cá nhân gồm cả hai mặt  
thân thể vật lý và hoạt động tâm lý (điều giác ngộ thứ  
nhất) có được một tầm nhìn như vậy gọi là có chánh kiến.
  
Giáo dục trang bị tri thức hoàn chỉnh và  
căn bản là bước đi đúng hướng, cần thiết như Ðức Phật dạy trong kinh  
Bốn Mươi Pháp:  "Chánh kiến đi hàng đầu trong lộ trình tu tập".  
Một người Phật tử chân chính là người có cái nhìn sáng suốt và hiểu  
sâu về bản chất của hiện tượng giới.
  
- Bước thứ hai: Xây dựng  
đạo đức bản thân qua lối sống thiểu dục và tri túc. Ði vào thực tiễn  
của đời sống và dưới sự soi chiếu của nhận thức chánh kiến, người  
Phật tử khép mình vào kỷ luật đạo đức qua tu tập hạnh thiểu dục và  
tri túc. Cần chú ý là trong kinh Bát Niệm nói dứt khoát là vô dục  
chứ không nói là thiểu dục. Vô dục của kinh Bát Niệm là đường lối  
Thánh đạo vô nhiễm, vô trước của người xuất gia. Thiểu dục tức là ít  
ham muốn, nghĩa là còn các dục nhưng hạn chế chúng tới mức tối  
thiểu. Nhờ đời sống kiềm chế nhu cầu tiêu thụ và hưởng thụ,  
đạo đức của người cư sĩ trở nên tăng trưởng và vững chãi. Nếu cứ  
để cho lòng ham muốn phát triển không có giới hạn chắc chắn sẽ phát  
sinh cướp đoạt, lừa đảo, gian trá và hãm hại...
  
- Bước thứ ba: Qua quá trình  
tu tập ít ham muốn và biết đủ, người Phật tử sẽ tạo được cho tâm  
thức mình một xu hướng mới: Xu hướng vượt thoát bản năng, tâm thức trở  
nên hướng thượng thanh cao. Từ con người mang nặng dấu ấn thế tục bắt  
đầu hình thành con đường giải thoát, đó là một cuộc cách mạng tâm  
lý, đòi hỏi có sự nỗ lực lớùn để tạo một chuyển hóa đột  
phá trong tâm cũng như ngoại giới (điều giác ngộ thứ tư).
  
Khi mà đời sống dục lạc, ham muốn vật chất  
giảm, xu hướng trí tuệ tăng, người Ph`ật tử có một hướng đi rõ: Những  
gì đưa đến tăng trưởng trí tuệ đều được quan tâm, coi trí  
tuệ là sự nghiệp của mình, do đó nhận thức càng sâu sắc và toàn  
diện (điều giác ngộ thứ năm).
  
- Bước thứ tư: Tri thức và  
trí tuệ đã vươn tới tầm cao, điều đó có thể tạo ra một hướng  
đi phi thực tiễn, trở nên cô độc, duy lý. Vì vậy để có sự quân  
bình, người Phật tử hướng tâm và tuệ của mình vào đời sống thực tiễn  
để hiểu và cảm thông với nỗi đau của quần chúng, những thái độ  
bạo động, hằn học, căm thù xuất phát từ sự nghèo túng khốn đốn về  
đời sống vật chất. Người Phật tử sử dụng năng lực trí tuệ để  
phát triển tình thương yêu cứu giúp mọi người, tu tập hạnh bố thí  
để quân bình trái tim và khối óc, đồng thời để tích lũy công đức  
trợ duyên cho đời sống tu tập và chí nguyện độ sanh dễ thành tựu  
(điều giác ngộ thứ sáu).
  
- Bước thứ năm: Ðiều  
hòa Bi-Trí song hành tạo được sự thăng bằng về tâm. Nhưng vì đời sống  
cư sĩ tại gia có những ràng buộc, những hệ lụy về tình ái nên dễ  
bị thối tâm và khó phát khởi tâm từ bi đến chỗ không giới hạn. Vì  
vậy đến trình độ này, người Phật tử bắt đầu thực hành phạm hạnh coi  
nhẹ tình ái hay chấm dứt tình ái vị kỷ để khai mở cánh cửa đại bi  
tâm. Từ đây ảnh hưởng của người Phật tử đã có tác dụng rộng, trước  
hết là đời sống gia đình được thuần hóa, sau đó là môi trường xã  
hội xung quanh đã có những ảnh hưởng đạo đức của mình.
  
- Bước thứ sáu: Bước cuối  
cùng, trí tuệả thấu suốt bản chất nỗi khổ của chúng sanh. Vì vậy  
đại bi tâm mở rộng, tâm hồn của người Phật tử thể nhập vào thế  
giới chúng sanh, cảm thông và chia sẻ niềm đau của quần chúng. Người  
Phật tử không sợ đau khổ, dũng cảm dấn thân vào đời, thấy mình ở trong  
chúng sanh, chúng sanh ở trong mình, chúng sanh và mình là một. Vì vậy  
niềm đau của con người cũng chính là niềm đau của mình, nên không  
thể thờ ơ trước nỗi đau khổ của nhân loại. Họ dấn thân vào  
đời với trí tuệ vô ngã siêu việt, với trái tim thương yêu không  
giới hạn dưới mọi hình thức, dùng mọi phương tiện để đạt  
được mục đích đưa con người đến chỗ giải thoát an vui.
  
* 
 
 Sáu bước đi của một người cư sĩ thực  
hành Bồ Tát hạnh như vậy không phải là những bước đi siêu thực, mà đó  
là những bước đi hiện thực, là những điều kiện cho một con  
người toàn diện hay con người lý tưởng cho một xã hội lý tưởng:  
Một xã hội bình đẳng, an lạc, văn minh và giải thoát.