XVII.1. Phẩm An-ban (1)
1. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn đến giờ đắp y ôm bát dẫn 
La-vân vào cổng thành Xá-vệ. Khi ấy Phật quay nhìn phía hữu bảo La-vân:
- Nay Thầy nên quán sắc là vô thường.
La-vân đáp:
      
- Thưa vâng, Thế Tôn. Sắc là vô thường.
Thế Tôn bảo:
- La-vân! Thọ, tưởng, hành, thức đều là vô 
thường.
La-vân đáp:
      
- Thưa vâng, Thế Tôn. Thọ, tưởng, hành, 
thức đều là vô thường.
Lúc này, Tôn giả La-vân lại nghĩ:
- Ðây có duyên cớ gì, mà nay mới đến cổng 
(phần vệ) thành khất thực đang ở giữa đường. Cớ sao Thế Tôn lại đối diện 
dạy dỗ ta? Nay ta hãy trở về chỗ mình, chẳng nên vào thành khất thực.
Bấy giờ Tôn giả La-vân giữa đường trở về 
Tịnh xá Kỳ Hoàn, đem y bát đến dưới gốc cây, chính thân, chính ý, ngồi 
kiết-già, chuyên chú nhất tâm, niệm sắc là vô thường; niệm thọ, tưởng, 
hành, thức là vô thường.
Bấy giờ Thế Tôn ở thành Xá-vệ khất thực 
xong, sau khi ăn, đi hành kinh ở Tịnh xá Kỳ Hoàn, dần dần đến chỗ La-vân. 
Ðến rồi, Thế Tôn bảo La-vân rằng:
- Thầy nên tu hành pháp An-ban. Tu hành 
pháp này, hễ có ý tưởng sầu lo đều sẽ trừ hết. Nay ông lại nên tu hành 
tưởng nhơ nhớp bất tịnh, nếu có tham dục nên diệt trừ hết. La-vân! Nay 
Thầy nên tu hành tâm từ, đã hành tâm từ thì hễ có sân giận đều sẽ trừ hết. 
La-vân! Nay Thầy nên hành tâm bi, đã hành tâm bi thì hễ có tâm hại ắt sẽ 
trừ hết. La-vân! Nay Thầy nên hành tâm hỉ, đã hành tâm hỉ thì hễ có tâm 
tật đố đều sẽ trừ hết. La-vân! Nay Thầy nên hành tâm hộ (xả). Ðã hành tâm 
xả thì hễ có kiêu mạn ắt sẽ trừ diệt hết.
Bấy giờ Thế Tôn hướng về La-vân mà nói kệ:
Chớ khởi tưởng nghĩ luôn,
Hằng nên tự thuận pháp,
Như thế người có trí,
Tên tuổi được lan truyền.
Cầm đuốc sáng cho người,
Khổ ở tối tăm lớn,
Trời, Rồng cung kính thờ,
Kính thờ bậc Sư trưởng.
Lúc này Tỳ-kheo La-vân lại dùng kệ đáp Thế 
Tôn:
      
Con không khởi trước tưởng,
Lại hằng thuận với pháp,
Như thế người có trí,
Thì hay thờ Sư trưởng.
      
Bấy giờ Thế Tôn dạy bảo xong, liền trở về 
tịnh thất. Lúc này Tôn giả La-vân lại nghĩ: "Nay làm sao ta hành An ban 
trừ bỏ được buồn lo, không có các tưởng?". Bấy giờ La-vân liền từ chỗ ngồi 
đứng dậy đi đến chỗ Thế Tôn, đến rồi cúi lạy và ngồi một bên. Chốc lát 
ngồi lui bạch Phật:
- Thế nào là tu hành An-ban trừ khử sầu lo 
không có các tưởng? Thu hoạch quả báo lớn, được vị cam lồ?
      
Thế Tôn bảo:
- Lành thay, lành thay, La-vân! Thầy có 
thể ở trước Như Lai rống tiếng sư tử mà hỏi nghĩa này. Thế nào là tu hành 
An-ban trừ bỏ sầu lo không có các tưởng, được đại quả báo, được vị cam lồ? 
La-vân! Nay Thầy hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ, Ta sẽ vì Thầy 
phân biệt đầy đủ.
      
- Xin vâng, Thế Tôn!
Bấy giờ Tôn giả La-vân nhận lời Phật dạy, 
rồi Thế Tôn bảo:
- La-vân! Ở đây nếu có Tỳ-kheo vui ở chỗ 
vắng vẻ không người, rồi chánh thân, chánh ý, ngồi kiết-già, không có niệm 
khác, buộc niệm ở chót mũi, hơi thở ra dài biết thở ra dài, thở vào dài 
biết thở vào dài; thở ra ngắn biết thở ra ngắn, thở vào ngắn cũng biết thở 
vào ngắn; thở ra lạnh cũng biết thở ra lạnh, thở vào lạnh cũng biết thở 
vào lạnh; thở ra ấm cũng biết thở ra ấm, thở vào ấm cũng biết thở vào ấm. 
Quán khắp thân thể thở vào, thở ra thảy đều biết hết. Lúc có thở cũng lại 
biết có, còn lúc không thở cũng lại biết không. Nếu hơi thở từ tâm ra, 
cũng lại biết từ tâm ra. Nếu hơi thở từ tâm vào cũng lại biết từ tâm vào. 
Như vậy, này La-vân! Người hay tu hành An-ban, thì không có tưởng sầu lo 
não loạn, thu hoạch quả báo lớn, được vị cam lồ.
      
Bấy giờ Thế Tôn thuyết pháp vi diệu đầy đủ 
cho La-vân rồi, La-vân liền từ chỗ ngồi đứng lên, lạy Phật, nhiễu ba vòng 
rồi đi; đến dưới gốc cây tại vườn An-đà, chính thân, chính ý, ngồi 
kiết-già, không có niệm khác, buộc niệm ở chót mũi, thở ra dài cũng biết 
thở ra dài, thở vào dài cũng biết thở vào dài; thở ra ngắn cũng biết thở 
ra ngắn, thở vào ngắn cũng biết thở vào ngắn; thở ra lạnh cũng biết thở ra 
lạnh, thở vào lạnh cũng biết thở vào lạnh; thở ra ấm cũng biết thở ra ấm, 
thở vào ấm cũng biết thở vào ấm. Quán khắp thân thể, hơi thở ra thở vào 
thảy đều biết cả; lúc có hơi thở cũng lại biết có, lúc không hơi thở cũng 
lại biết không; nếu hơi thở từ tâm ra cũng lại biết từ tâm ra, nếu hơi thở 
từ tâm vào cũng lại biết từ tâm vào.
Bấy giờ La-vân tư duy như thế, dục tâm 
liền được giải thoát, không còn các điều ác, có giác, có quán niệm hoan hỉ 
khinh an lạc ở Sơ thiền. Có giác, có quán, trong tự quán hỷ, chuyên chú 
nhất tâm, nhập tam muội không giác, không quán, niệm hỷ, lạc ở Nhị thiền. 
Không còn niệm hỉ, tự giữ giác tri thân lạc, chỗ chư Thánh thường cầu, xả 
niệm hỉ, dạo ở Tam thiền. Khổ vui kia đã diệt lại không sầu lo, không khổ 
không vui, xả (hộ) niệm thanh tịnh, lạc ở Tứ thiền. Do tam-muội này, tâm 
thanh tịnh không bụi dơ, thân thể nhu nhuyến; biết từ đâu đến, nhớ việc 
mình đã làm, tự biết việc túc mạng vô số kiếp, cũng biết một đời, hai đời, 
ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi 
đời, năm mươi đời, trăm đời, ngàn đời, vạn đời, mấy ngàn vạn đời; kiếp 
thành, kiếp hoại; vô số kiếp thành, vô số kiếp hoại, ức năm không thể kể: 
"Ta từng sanh chỗ kia, tên gì, họ gì, ăn món ăn thế này, thọ khổ vui thế 
này; thọ mạng dài ngắn, ở kia chết, sanh ở đây, đây chết sanh kia". Ngài 
dùng tam-muội này tâm thanh tịnh không vết nhơ, cũng không có kiết sử, 
cũng biết chỗ khởi tâm của chúng sanh. Ngài lại dùng thiên nhãn thanh tịnh 
không vết nhơ quán chúng sanh, người sống, người chết, sắc đẹp, sắc xấu, 
đường thiện, đường ác, hoặc tốt hoặc xấu, điều làm, điều tạo; như thật rõ 
biết. Hoặc có chúng sanh thân hành ác, miệng hành ác, ý hành ác, phỉ báng 
Hiền Thánh, thường hành tà kiến, tạo hành tà kiến, thân hoại mạng chung 
vào trong địa ngục. Hoặc lại có chúng sanh thân hành thiện, miệng hành 
thiện, ý hành thiện, chẳng phỉ báng Hiền Thánh, chẳng hằng hành chánh 
kiến, tạo hạnh chánh kiến, thân hoại mạng chung sanh chỗ, thiện lên Trời. 
Ðó là thiên nhãn thanh tịnh không vết nhơ, quán chúng sanh người sanh, 
người chết, sắc đẹp, sắc xấu, đường lành, đường ác, hoặc tốt, hoặc xấu, 
điều làm, điều tạo, như thật rõ biết, lại thêm bỏ ý, thành tựu tâm hết lậu 
hoặc.
Ngài quán sự khổ này, như thật mà biết. 
Ngài lại quán khổ tập, cũng biết khổ tận, cũng biết khổ xuất yếu, như thật 
rõ biết. Ngài do quán như thế, tâm dục lậu được giải thoát; liền được trí 
giải thoát, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, 
lại không còn thọ thân sau, như thật rõ biết. Lúc này Tôn giả La-vân liền 
thành A-la-hán. Tôn giả La-vân đã thành La-hán, liền từ chỗ ngồi đứng lên, 
sửa sang y phục đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên, bạch Thế Tôn:
- Ðiều con cầu đã được, các lậu đã trừ 
sạch.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Các vị đắc A-la-hán, không ai bằng 
La-vân. Các hữu lậu dứt hết cũng là Tỳ-kheo La-vân; luận về người trì cấm 
giới cũng là Tỳ-kheo La-vân. Vì sao thế? Vì chư Như Lai Ðẳng Chánh Giác 
đời quá khứ cũng có Tỳ-kheo La-vân này. Ta muốn nói là con Phật cũng là 
Tỳ-kheo La-vân, thân chính từ Phật sanh, là bậc thượng của Pháp.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Trong hàng Thanh văn của Ta, đệ tử bậc 
nhất trì cấm giới là Tỳ-kheo La-vân.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Ðầy đủ pháp cấm giới,
Các căn cũng thành tựu,
Dần dần sẽ đắc được,
Tất cả kiết sử hết.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
XVII.2 Phẩm An-ban (2)
1. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Hai người cùng xuất hiện ở đời là rất 
khó có được. Thế nào là hai người? Nghĩa là Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh 
Giác xuất hiện ở đời rất khó được. Chuyển luân Thánh vương xuất hiện ở đời 
rất khó được. Hai người cùng xuất hiện ở đời là rất khó có được.
      
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
*
2. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Hai người cùng xuất hiện ở đời rất khó 
có được. Thế nào là hai người? Nghĩa là Bích-chi Phật xuất hiện ở đời là 
rất khó được, bậc lậu tận A-la-hán, đệ tử Như Lai xuất hiện ở đời rất là 
khó được. Này Tỳ-kheo! Ðó là hai người xuất hiện ở đời rất là khó có được.
      
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
*
3. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có hai pháp này ở tại thế gian rất là 
phiền não. Thế nào là hai pháp? Nghĩa là làm các ác, gốc khởi các oán 
hiềm; lại không tạo hạnh lành là gốc của các đức. Này Tỳ-kheo, đó là hai 
pháp rất phiều não. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên giác tri pháp phiền não này; 
cũng nên giác tri pháp không phiền não. Các pháp phiền não nên nhớ đoạn 
trừ, pháp không phiền não nên nhớ tu hành. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy 
học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
*
4. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Chúng sanh tà kiến, sự nhớ nghĩ, quy 
hướng, và các hành khác của họ đều không đáng quý. Người thế gian không 
(nên) ham thích. Vì sao thế? Vì tà kiến ấy chẳng lành. Ví như có hột trái 
đắng. Nghĩa là hột trái đắng, rau đắng, hột rau đay, hột tất-địa bàn-trì 
và các hột đắng khác. Nếu ở trên đất tốt trồng các hột này, sau đó nảy mầm 
vẫn đắng như cũ. Vì sao thế? Vì hột này vốn đắng. Chúng sanh tà kiến này 
cũng như thế. Việc làm của thân hành, khẩu hành, ý hành, sự quy hướng, 
nghĩ nhớ và các hạnh khác của họ, tất cả không đáng quý. Người thế gian 
không ham thích (ưa chuộng). Vì sao vậy? Vì tà kiến là ác, không lành. Thế 
nên, các Tỳ-kheo, nên trừ tà kiến, tập hành chánh kiến. Như vậy, này các 
Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
*
5. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Chúng sanh chánh kiến, sự suy nghĩ, chỗ 
quy hướng và các hạnh khác của họ, tất cả đều đáng quý kính. Người thế 
gian ưa chuộng. Vì sao thế? Vì chánh kiến rất hay. Ví như có các quả ngọt 
như mía, như quả bồ đào và tất cả các quả ngon ngọt khác. Có người sửa 
sang đất tốt rồi lấy trồng, sau đó sanh trái thảy đều ngon ngọt được người 
ưa thích. Vì sao thế? Vì hột quả này vốn ngon ngọt. Chúng sanh chánh kiến 
này cũng như thế, sự suy nghĩ, chỗ quy hướng và các hạnh khác, tất cả đều 
đáng ưa chuộng. Người đời ai cũng vui vẻ. Vì sao thế? Vì chánh kiến có rất 
hay. Thế nên các Tỳ-kheo, nên tập hành chánh kiến. Như vậy, này các 
Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
*
6. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Tôn giả A-nan ở chỗ vắng vẻ, tự tu 
duy một mình, rồi nghĩ: "Có các chúng sanh khởi lên tư tưởng ái dục rồi 
sanh dục ái, ngày đêm huân tập không nhàm chán".
Bấy giờ Tôn giả A-nan vào buổi chiều liền 
từ chỗ ngồi đứng lên, đắp y ngay ngắn rồi đến chỗ Thế Tôn, đến rồi cúi lạy 
và ngồi một bên. Bấy giờ Tôn A-nan bạch Thế Tôn:
- Vừa rồi con ở chỗ vắng vẻ liền sanh niệm 
này: "Có các chúng sanh khởi lên tưởng ái dục rồi sanh dục ái, miệt mài 
tập nhiễm không có nhàm chán".
Thế Tôn dạy:
- Ðúng vậy, A-nan! Như lời Thầy nói. Có 
những người khởi tưởng dục ái rồi tăng dục tưởng, miệt mài tập nhiễm, 
không có nhàm chán. Vì sao thế? A-nan! Ngày xưa ở đời quá khứ có Chuyển 
luân Thánh vương tên là Ðảnh Sanh dùng pháp cai trị không có loạn bậy, bảy 
báu thành tựu. Bảy báu là: xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ 
báu, cư sĩ báu, điển binh báu. Ðó là bảy báu. Lại có ngàn người con dũng 
mãnh, cường tráng, hay hàng phục các ác, thống lãnh bốn thiên hạ chẳng 
dùng dao gậy. A-nan nên biết! Bấy giờ Thánh vương Ðảnh Sanh liền nghĩ: "Ta 
nay có cõi Diêm-phù-đề này, nhân dân thịnh vượng, nhiều châu báu. Ta cũng 
đã theo các bậc trưởng lão kỳ cựu nghe: phía Tây có đất Cù-da-ni, nhân dân 
thịnh vượng, có nhiều châu báu. Ta nay nên đến thống lãnh quốc độ kia".
      
Bấy giờ, này A-nan, Ðảnh Sanh vừa sanh 
niệm này, liền đem bốn bộ binh từ cõi Diêm-phù này biến mất rồi đến đất 
Cù-da-ni. Bấy giờ người dân đất đó thấy Thánh vương đến, đều tới trước 
nghinh tiếp quỳ lễ thăm hỏi.
      
- "Kính chào Ðại vương! Nay nước Cù-da-ni 
nhân dân thịnh vượng, cúi mong Thánh vương hãy ở đây cai trị nhân dân 
khiến theo giáo pháp".
      
Lúc bấy giờ, này A-nan, Thánh vương Ðảnh 
Sanh liền ở Cù-da-ni thống lãnh nhân dân, trải qua vài trăm ngàn năm. Rồi 
lúc khác Thánh vương Ðảnh Sanh lại nghĩ: "Ta có Diêm-phù-đề, nhân dân 
thịnh vượng, nhiều trân bảo, cũng có mưa bảy báu ngập đến đầu gối. Nay 
cũng lại có đất Cù-da-ni này, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo. Ta 
từng theo các bậc trưởng lão kỳ cựu nghe còn có nước Phất-vu-đệ, nhân dân 
thịnh vượng, có nhiều trân bảo. Nay ta hãy đến thống lãnh quốc độ kia, 
dùng pháp cai trị".
Bấy giờ, này A-nan, Thánh vương Ðảnh Sanh 
vừa sanh niệm đó, liền đem bốn bộ binh, từ Cù-da-ni biến mất, rồi đến 
Phất-vu-đệ. Bấy giờ nhân dân đất kia thấy Thánh vương đến, đều tới trước 
nghinh tiếp quỳ lễ thăm hỏi; khác miệng đồng thanh mà nói:
- "Kính chào Ðại vương! Nay nước 
Phất-vu-đệ này, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo. Cúi mong Ðại 
vương nên ở đây cai trị nhân dân khiến theo giáo pháp".
      
Bấy giờ, này A-nan, Thánh vương Ðảnh Sanh 
liền ở nước Phất-vu-đệ thống lãnh nhân dân, trải qua trăm ngàn vạn năm. 
Khi ấy Thánh vương Ðảnh Sanh vào lúc khác nảy sanh niệm này: "Ta ở 
Diêm-phù-đề, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo, có mưa bảy báu ngập 
đến đầu gối. Nay lại cũng có Cù-da-ni, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân 
bảo; nay lại cũng có nước Phất-vu-đệ này, nhân dân thịnh vượng, có nhiều 
trân bảo. Ta cũng từng theo trưởng lão kỳ cựu nghe có Uất-đan-việt, nhân 
dân thịnh vượng, nhiều trân bảo, việc làm tự do không có cố thủ, sống lâu 
không yểu, chánh thọ ngàn tuổi. Ở đó hết tuổi thọ ắt sanh lên trời chẳng 
đọa đường khác, mặc áo kiếp-ba-dục, ăn cơm gạo tự nhiên. Nay ta nên đến 
thống lãnh quốc độ đó, dùng pháp cai trị".
Bấy giờ, này A-nan, Thánh vương Ðảnh Sanh 
vừa sanh niệm đó liền đem bốn bộ binh từ Phất-vu-đệ biến mất, rồi đến 
Uất-đan-việt, xa thấy đất đó màu xanh rậm rì, thấy rồi liền hỏi quần thần:
- "Các Khanh có thấy khắp cõi này màu sắc 
xanh um không?"
Quần thần đáp:
      
- "Quả nhiên là thấy".
Vua bảo quần thần:
- "Ðây là cỏ mềm mại, mịn như áo trời 
không khác. Chư hiền hãy ngồi ở đây".
      
Chốc lát lại đi tới trước, xa thấy đất kia 
màu vàng rực. Vua liền bảo quần thần:
- "Các Khanh có thấy khắp đất này màu vàng 
rực không?"
Quần thần đáp:
      
- "Ðều thấy hết".
Ðại vương nói:
- Ðây gọi là lúa gạo tự nhiên. Các bậc 
Hiền ở đây thường ăn thức ăn này. Như các Khanh bây giờ cũng sẽ ăn lúa gạo 
này".
Bấy giờ, một lát sau Thánh vương lại đi 
đến trước, thấy đất kia bằng phẳng, xa thấy đài cao hiện ra rất đặc thù, 
lại bảo quần thần:
- "Các Khanh có thấy đất này khắp nơi bằng 
phẳng không?"
Quần thần đáp:
      
- "Ðúng vậy, tất cả đều thấy thế".
Ðại vương bảo:
- "Ðây là áo thứ cây kiếp-ba-dục. Các 
Khanh cũng lại sẽ mặc áo cây này".
Bấy giờ, này A-nan, nhân dân cõi đó thấy 
Ðại vương đến, đều tới trước nghinh tiếp, quỳ lại thăm hỏi, khác tiếng 
đồng vang mà nói:
- "Kính chào Thánh vương! Ðất Uất-đan-việt 
này, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo. Cúi mong Ðại vương hãy ở đây 
cai trị nhân dân khiến theo giáo pháp".
      
Bấy giờ, này A-nan, Thánh vương Ðảnh Sanh 
liền ở Uất-đan-việt thống lãnh nhân dân, trải qua trăm ngàn vạn năm. Rồi 
trong lúc khác, Thánh vương Ðảnh Sanh lại nảy sanh niệm này: "Nay ta có 
đất Diêm-phù, nhân dân thịnh vượng, nhiều thứ trân bảo, cũng có mưa bảy 
báu ngập đến đầu gối, nay ta cũng lại có đất Cù-da-ni, Phất-vu-đệ và 
Uất-đan-việt này, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo. Ta cũng từng 
theo các trưởng lão kỳ cựu nghe có cõi trời Ba mươi ba khoái lạc không đâu 
bằng, thọ mạng rất lâu, cơm áo tự nhiên, ngọc nữ vây quanh không kể xiết. 
Nay ta nên đến thống lãnh Thiên cung đó, dùng pháp cai trị".
Bấy giờ, này A-nan! Thánh vương Ðảnh Sanh 
vừa sanh niệm này, liền đem bốn bộ binh, từ Uất-đan-việt biến mất, rồi lên 
đến cõi trời Ba mươi ba. Lúc đó, Thiên Ðế Thích từ xa thấy Thánh vương 
Ðảnh Sanh đến, liền nói:
      
- "Chào mừng Ðại vương! Mời đến đây 
ngồi!".
      
Bấy giờ, này A-nan, Thánh vương Ðảnh Sanh 
liền cùng Thích-đề-hoàn-nhân ngồi chung một tòa. Hai người cùng ngồi không 
thể phân biệt được, nhan mạo, cử động, ngôn ngữ, âm thanh không khác một 
chút nào.
Bấy giờ, này A-nan, Thánh vương Ðảnh Sanh 
ở đó trải qua vài trăm ngàn năm, rồi liền sanh niệm này: "Nay ta có đất 
Diêm-phù này, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo, cũng có mưa bảy báu 
ngập đến đầu gối; cũng có Cù-da-ni, lại cũng có Phất-vu-đệ, cũng lại có 
Uất-đan-việt, nhân dân thịnh vượng, nhiều thứ trân bảo. Nay ta đến cõi 
trời Ba mươi ba này; giờ ta nên hại Thiên Ðế Thích này, rồi ở đây riêng 
làm vua chư Thiên".
Bấy giờ, này A-nan, Thánh vương Ðảnh Sanh 
vừa sanh niệm này, liền từ trên tòa tự rơi xuống đến đất Diêm-phù và bốn 
bộ binh cũng đều đọa lạc. Lúc đó, xe báu cũng mất chẳng biết ở đâu, voi 
báu, ngựa báu đồng thời chết hết, châu báu tự diệt, ngọc nữ báu, cư sĩ 
báu, điển binh báu đều mạng chung.
      
Bấy giờ Thánh vương Ðảnh Sanh thân bị bịnh 
nặng. Các tông tộc, thân thuộc đều tụ tập hỏi thăm bệnh vua:
      
- "Thế nào, Ðại vương, giả sử Ðại vương 
mạng chung rồi, có người đến hỏi nghĩa này: "Ðại vương Ðảnh Sanh lúc mạng 
chung có lời dạy nào?" Nếu có người hỏi như thế sẽ đáp ra sao?"
      
Thánh vương Ðảnh Sanh đáp:
      
- "Nếu như ta mạng chung, sau khi mạng 
chung có người đến hỏi thì đáp: "Vua Ðảnh Sanh thống lãnh bốn thiên hạ này 
mà không chán đủ, lại đến cõi trời Ba mươi ba, ở đó trải qua vài trăm ngàn 
năm; ý còn sanh tham muốn hại Thiên Ðế rồi tự đọa lạc mà mạng chung".
A-nan! Nay Thầy chớ ôm lòng hoài nghi, vua 
Ðảnh Sanh lúc đó đâu phải người nào khác. Chớ xem như thế!! Vì cớ sao? Vua 
Ðảnh Sanh chính là thân Ta vậy. Lúc đó, Ta thống lãnh bốn thiên hạ này và 
đến cõi trời Ba mươi ba ở trong ngũ dục không có chán đủ. A-nan! Hãy dùng 
cách thức này chứng biết chỗ hướng đến; vì nỗi lòng tham dục, tăng thêm 
tưởng này, ở trong ái dục không biết chán đủ. Muốn cầu chán đủ, nên theo 
trong trí tuệ Thánh Hiền mà cầu.
Bấy giờ Thế Tôn ở trong đại chúng liền nói 
kệ:
      
Tham dâm như lúc mưa,
Ðối dục không nhàm chán,
Vui ít mà khổ nhiều,
Ðiều người trí từ bỏ.
Chính dù hưởng Thiên dục,
Năm lạc tự vui chơi,
Không bằng đoạn tâm ái,
Ðệ tử bậc Chánh giác.
Tham dục kéo ức kiếp,
Phước hết lại vào ngục,
Hưởng vui há bao lâu,
Liền chịu khổ địa ngục.
      
Thế nên, này A-nan, hãy dùng cách thức này 
biết dục mà bỏ dục, trọn không khởi tưởng này. Như thế, này các Tỳ-kheo, 
hãy học điều này!
Bấy giờ A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ 
vâng làm.
*
7. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Bà-la-môn Sanh Lậu đi đến chỗ Thế 
Tôn thăm hỏi, rồi ngồi một bên. Lúc này Bà-la-môn Sanh Lậu bạch Thế Tôn:
- Nên quán người Ác tri thức thế nào?
Thế Tôn dạy: 
- Nên xem như xem mặt trăng.
      
Bà-la-môn hỏi:
- Nên quán Thiện tri thức thế nào?
Thế Tôn dạy:
- Nên xem như xem mặt trăng.
      
Bà-la-môn nói:
- Nay Sa-môn Cù-đàm nói lược cốt yếu mà 
chưa giảng rộng nghĩa. Cúi mong Cù-đàm nói rộng rãi khiến người chưa hiểu 
được hiểu.
      
- Bà-la-môn! Hãy lắng nghe, lắng nghe và 
khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì ông giảng rộng nghĩa này.
- Xin vâng, Cù-đàm.
Bà-la-môn Sanh Lậu nhận lời dạy rồi, Thế 
Tôn bảo:
- Giống như, này Bà-la-môn, trăng cuối 
tháng, ngày đêm xoay vần, còn khuyết chưa có đầy. Ðó là tổn giảm. Hoặc lại 
có lúc trăng không hiện, không có người thấy. Ðây cũng như thế. Này 
Bà-la-môn! Như Ác tri thức trải qua ngày đêm, dần dần không có tín, không 
có giới, không có văn, không có thí, không có trí tuệ. Người đó vì không 
có tín, giới, văn, thí, tuệ nên với Ác tri thức đó, khi thân hoại mạng 
chung, bị vào trong địa ngục. Thế nên, Bà-la-môn, nay Ta nói là Ác tri 
thức giống như trăng cuối tháng.
      
Giống như, này Bà-la-môn, trăng đầu tháng, 
theo ngày đêm dần qua, ánh sáng tăng lên dần dần tròn đầy, rồi đến ngày 
rằm tròn đầy; tất cả chúng sanh đều thấy. Cũng vậy, Bà-la-môn, như thiện 
tri thức, trải qua ngày đêm, tăng thêm tín, giới, văn, thí, trí tuệ. Người 
ấy do tăng thêm tín, giới, văn, thí, trí tuệ nên thiện tri thức kia, khi 
thân hoại mạng chung, được sanh lên trời và cõi lành. Thế nên, Bà-la-môn, 
Ta nói thiện tri thức này, chỗ thú hướng giống như mặt trăng tròn đầy.
      
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này:
Nếu người có tham dục,
Sân giận, si chẳng dứt,
Với lành, dần có giảm,
Giống như trăng sắp hết.
Nếu người không tham dục,
Sân giận, ai cũng dứt,
Với thiện, có tăng dần,
Giống như trăng tròn đầy.
      
Thế nên, Bà-la-môn, nên học như trăng đầu 
tháng.
Bấy giờ Bà-la-môn Sanh Lậu bạch Thế Tôn:
- Lành thay, Cù-đàm! Ví như người gù được 
thẳng, người mù được sáng, người mê thấy đường, ở nơi tối tăm có đèn sáng. 
Ðây cũng như thế, Sa-môn Cù-đàm dùng vô số phương tiện thuyết pháp cho 
con. Nay con xin tự quy y Phật, Pháp và chúng Tăng. Từ nay xin cho con làm 
Ưu-bà-tắc, cho đến hết đời không sát sanh.
      
Bấy giờ Bà-la-môn Sanh Lậu, nghe Phật dạy 
xong, vui vẻ vâng làm.
*
8. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta sẽ thuyết về pháp Thiện tri thức, 
cũng sẽ thuyết về pháp Ác tri thức. Hãy lắng nghe lắng nghe và khéo suy 
nghĩ!
Các Tỳ-kheo đáp:
      
- Xin vâng, Thế Tôn.
Bấy giờ các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, Thế 
Tôn bảo:
- Kia vì sao gọi là pháp Ác tri thức? Ở 
đây, này Tỳ-kheo, người Ác tri thức sanh niệm này: "Ta ở trong dòng hào 
tộc, xuất gia học đạo; các Tỳ-kheo khác là hạng ty tiện xuất gia". Ỷ nơi 
dòng họ mình, hủy báng người khác. Ðó gọi là pháp Ác tri thức. Hơn nữa, 
người Ác tri thức còn sanh niệm này: "Ta cực kỳ tinh tấn vâng theo các 
pháp chân chánh; các Tỳ-kheo khác, chẳng tinh tấn trì giới"; Lại dùng 
nghĩa này hủy báng người khác mà tự cống cao. Ðó là pháp Ác tri thức.
Hơn nữa, Ác tri thức lại nghĩ: "Ta 
tam-muội thành tựu, Tỳ-kheo khác không có tam-muội, tâm ý lầm lẫn không có 
nhất định". Người ấy ỷ vào tam muội này thường tự cống cao, hủy báng người 
khác. Ðó gọi là pháp Ác tri thức.
Hơn nữa, Ác tri thức lại nghĩ: "Ta trí tuệ 
bậc nhất, các Tỳ-kheo khác không có trí tuệ". Người ấy ỷ vào trí tuệ này, 
mà tự cống cao hủy báng người khác. Ðó là pháp Ác tri thức.
Hơn nữa, Ác tri thức lại nghĩ: "Nay ta 
thường được thức ăn, giường mền, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh; các Tỳ-kheo 
khác không có được vật cúng dường này". Người ấy ỷ vào vật lợi dưỡng này 
mà tự cống cao, hủy báng người khác. Ðó gọi là pháp Ác tri thức. Như vậy, 
này các Tỳ-kheo, người Ác tri thức hành tà nghiệp này.
Kia vì sao gọi là pháp Thiện tri thức? Ở 
đây, này Tỳ-kheo, người Thiện tri thức không nghĩ thế này: "Ta sanh trong 
nhà hào tộc, các Tỳ-kheo khác không phải là nhà hào tộc", thân mình và 
người không có khác. Ðó gọi là pháp Thiện tri thức.
Hơn nữa, người Thiện tri thức không nghĩ: 
"Nay ta trì giới, các Tỳ-kheo khác không giữ giới hạnh", thân mình và 
người không có tăng giảm. Người ấy y theo giới này không tự cống cao, 
chẳng chê bai người khác. Như vậy, này Tỳ-kheo, gọi là pháp Thiện tri 
thức.
Hơn nữa, này Tỳ-kheo, người Thiện tri thức 
lại không nghĩ: "Ta tam-muội thành tựu, các Tỳ-kheo khác ý loạn chẳng 
định", thân mình và người cũng không tăng giảm. Người ấy nương tam-muội 
này không tự cống cao cũng không hủy báng người khác. Như vậy, này 
Tỳ-kheo, gọi là pháp Thiện tri thức.
Hơn nữa, này Tỳ-kheo, người Thiện tri thức 
không nghĩ: "Tôi trí tuệ thành tựu, các Tỳ-kheo khác không có trí tuệ", 
thân ta và người không có tăng giảm. Người ấy nương trí tuệ này, không tự 
cống cao cũng không chê bai người khác. Như vậy, này Tỳ-kheo, gọi là pháp 
Thiện tri thức.
Hơn nữa, này Tỳ-kheo, ngươì Thiện tri thức 
không nghĩ: "Ta có thể được y phục thức ăn, giường mền, ngọa cụ, thuốc men 
trị bệnh; các Tỳ-kheo khác không được y phục, thức ăn, giường mền, ngọa 
cụ, thuốc men trị bệnh", thân mình và thân người cũng không tăng giảm. 
Người ấy nương lợi dưỡng này, không tự cống cao, cũng không hủy báng người 
khác. Như vậy, này Tỳ-kheo, gọi là pháp Thiện tri thức.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta phân biệt pháp Ác tri thức cho 
các Thầy và cũng lại nói pháp Thiện tri thức cho các Thầy rồi. Thế nên, 
này các Tỳ-kheo, hãy cùng nhau xa lìa pháp Ác tri thức, nhớ cùng tu hành 
pháp Thiện tri thức. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
*
9. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Thích Sí, vườn 
Ni-câu-lưu, cùng với chúng năm trăm đại Tỳ-kheo.
      
Bấy giờ năm trăm người hào quý thuộc dòng 
họ Thích trong nước muốn có chỗ bàn luận, bèn tập họp tại giảng đường Phổ 
Nghĩa. Bấy giờ Bà-la-môn Thế Ðiển liền đến chỗ dòng họ Thích kia bảo với 
họ Thích:
- Thế nào chư vị, trong đây có Sa-môn, 
Bà-la-môn cùng người thế tục nào có thể cùng ta nghị luận chăng?
      
Bấy giờ những người họ Thích bảo Bà-la-môn 
Thế Ðiển.
- Nay ở trong đây có hai người tài cao học 
rộng ở tại nước Ca-tỳ-la-vệ. Hai người nào? Một người tên là Tỳ-kheo 
Châu-lợi-bàn-đặc, hai là Cù-đàm họ Thích, Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh 
Giác. So với Tỳ-kheo Bàn-đặc thì mọi người biết ít, vô văn, cũng không trí 
tuệ, ngôn ngữ vụng về, không phân biệt trước, sau (khứ lai). Lại nữa, cả 
nước Ca-tỳ-la-vệ này đều là vô trí, vô văn, cũng không thông tuệ, là người 
vụng về, có nhiều xấu uế, như thế so với Cù-đàm. Nay Ông có thể cùng họ 
luận nghị. Nếu Bà-la-môn có thể luận nghị thắng được hai người ấy, năm 
trăm người chúng tôi sẽ tùy thời cúng dường những thứ cần dùng, cũng sẽ 
tặng ngàn giật vàng ròng (1 giật: 20 lạng).
Bấy giờ Bà-la-môn liền nghĩ: "Dòng họ 
Thích ở Ca-tỳ-la-vệ này hẳn đều là thông minh, có nhiều kỹ thuật, gian xảo 
quỷ quyệt, hư ngụy không có chánh hạnh. Nếu ta cùng hai người kia luận 
nghị mà thắng được, đâu đủ ch là lạ. Còn như người ấy thắng ta, tức là ta 
bị người ngu nhiếp phục. Nghĩ hai lẽ này, ta chẳng kham cùng họ luận 
nghị".
Bà-la-môn Thế Ðiển nghĩ như thế rồi liền 
lui đi.
      
Lúc này, Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc đến giờ 
ôm bát vào thành Ca-tỳ-la-vệ khất thực. Bà-la-môn Thế Ðiển từ xa trông 
thấy Châu-lợi-bàn-đặc đi đến, liền hỏi:
      
- Sa-môn tên gì?
Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc nói:
      
- Thôi! Bà-la-môn! Ông chẳng cần hỏi tên. 
Sở dĩ Ông đến đây vì muốn hỏi nghĩa, thì nên hỏi đi!
      
Bà-la-môn nói:
- Sa-môn có thể cùng luận nghị với ta 
chăng?
      
Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc nói:
      
- Ta còn có thể cùng Phạm thiên luận nghị, 
hà huống cùng người mù không mắt như Ông.
Bà-la-môn nói:
- Người mù tức không phải là người không 
mắt sao? Không mắt ắt không phải mù sao? Ðây chỉ là một nghĩa, há không 
phải là lập lại lôi thôi?
Lúc này, Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc liền bay 
lên không trung hiện mười tám thứ biến hóa. Bấy giờ Bà-la-môn liền nghĩ: 
"Sa-môn này chỉ có thần túc chứ không biết nghị luận. Nếu có ai giải được 
nghĩa này cho ta, ta sẽ thân làm đệ tử".
      
Lúc này Tôn giả Xá-lợi-phất dùng Thiên nhĩ 
nghe được lời này: "Châu-lợi-bàn-đặc cùng Bà-la-môn Thế Ðiển luận nghị".
Lúc này, Tôn giả Xá-lợi-phất liền biến 
thân thành Tỳ-kheo Bàn-đặc, rồi ẩn hình Tỳ-kheo Bàn-đặc khiến không cho 
hiện nữa, và bảo Bà-la-môn:
- Bà-la-môn! Nếu Ông nghĩ rằng Sa-môn này 
chỉ có thần túc chứ chẳng kham luận nghị, thì nay Ông hãy lắng nghe, ta sẽ 
nói cho, ta sẽ đáp nghĩa Ông hỏi, dựa theo gốc của luận này, lại dẫn thêm 
ví dụ. Này Bà-la-môn! Nay Ông tên là gì?"
Bà-la-môn nói:
- Ta tên Phạm Thiên.
Châu-lợi-bàn-đặc hỏi:
      
- Ông là trượng phu chăng?
      
- Ta là trượng phu.
- Là người chăng?
      
- Là người.
Châu-lợi-bàn-đặc hỏi:
      
- Thế nào Bà-la-môn? Trượng phu cũng là 
người, người cũng là trượng phu. Ðây cũng là một nghĩa, há không là lập 
lại lôi thôi sao? Nhưng này Bà-la-môn! Mù cùng với không mắt, nghĩa này 
không đồng.
      
Bà-la-môn nói:
- Thế nào, Sa-môn gọi đó là mù ư?
Châu-lợi-bàn-đặc nói:
      
- Ví như chẳng thấy đời này, đời sau, 
người sanh, người diệt, màu tốt, màu xấu, hoặc đẹp hoặc xấu, chúng sanh 
tạo hạnh thiện ác, như thực mà chẳng biết, trọn không thấy gì nên gọi đó 
là mù.
Bà-la-môn nói:
- Thế nào là người không mắt?
Châu-lợi-bàn-đặc nói:
      
- Mắt là mắt trí tuệ vô thượng. Người kia 
không có con mắt trí tuệ này nên gọi là không mắt.
Bà-la-môn nói:
- Thôi, thôi! Sa-môn! Bỏ tạp luận này đi! 
Nay ta muốn hỏi nghĩa sâu xa. Thế nào Sa-môn? Có thể không nương pháp mà 
được Niết-bàn chăng?
      
Châu-lợi đáp:
      
- Chẳng nương Ngũ thạnh ấm mà được 
Niết-bàn.
Bà-la-môn nói:
- Thế nào Sa-môn? Ngũ thạnh ấm này là có 
duyên sanh hay vô duyên sanh?
Châu-lợi-bàn-đặc đáp:
      
- Ngũ thạnh ấm này là có duyên sanh chớ 
không phải vô duyên sanh.
- Ngũ thạnh ấm duyên cái gì?
- Ái là duyên.
- Cái gì là ái?
- Là sanh vậy.
Bà-la-môn nói:
- Cái gì gọi là sanh?
Tỳ-kheo đáp:
      
- Tức là ái.
Bà-la-môn nói:
- Ái có đạo nào?
Tỳ-kheo nói:
- Là Tám đạo phẩm của Hiền Thánh, đó là 
Chánh kiến, Chánh nghiệp, Chánh ngữ, Chánh mạng, Chánh hạnh, Chánh phương 
tiện, Chánh niệm, Chánh định. Ðó gọi là Tám đạo phẩm của Hiền Thánh.
      
Bấy giờ Châu-lợi-bàn-đặc rộng vì Bà-la-môn 
thuyết pháp rồi, Bà-la-môn nghe Tỳ-kheo dạy như thế xong, các trần cấu 
sạch hết, được pháp nhãn thanh tịnh; liền ở nơi đó bị (phong) gió đao 
trong thân nổi lên mà mạng chung.
Lúc này Tôn giả Xá-lợi-phất, hoàn lại thân 
hình bay lên không trung trở về chỗ ở. Bấy giờ, Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-nặc 
đến giảng đường Phổ Nghĩa, chỗ những người họ Thích đang tụ tập. Ðến rồi 
bảo họ:
- Các Ông! Mau sắm sửa dầu bơ, củi đuốc, 
đến trà-tỳ Bà-la-môn Thế Ðiển.
Bấy giờ họ Thích liền sắm dầu bơ, đến 
trà-tỳ (na-duy) Bà-la-môn Thế Ðiển, dựng tháp ở ngã tư đường. Mọi người 
theo nhau đến chỗ Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc, đến rồi quỳ lạy và ngồi một 
bên. Rồi các người họ Thích dùng bài kệ này nói với Tỳ-kheo 
Châu-lợi-bàn-đặc.
      
Trà-tỳ rồi dựng tháp,
Chẳng trái lời Tôn giả,
Chúng con được lợi lớn,
Ðược gặp phước lành này.
Bấy giờ, Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc liền 
dùng kệ này đáp:
      
Nay chuyển Tôn pháp luân,
Hàng phục các ngoại đạo,
Trí tuệ như biển lớn,
Ðến đây hàng Phạm chí.
Chỗ tạo hạnh thiện ác,
Quá, hiện và vị lai,
Ức kiếp không quên mất,
Thế nên hãy làm phước.
      
Bấy giờ Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc rộng vì 
các người họ Thích kia thuyết pháp xong. Họ Thích bạch Tỳ-kheo 
Châu-lợi-bàn-đặc:
      
- Nếu Tôn giả cần y phục, thức ăn uống, 
giường mền, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh, chúng con đều sẽ cung cấp mọi 
thứ. Cúi mong Ngài nhận lời thỉnh cầu, chớ cự tuyệt một chút tình.
Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc im lặng nhận lời.
      
Bấy giờ các người họ Thích nghe Tỳ-kheo 
Châu-lợi-bàn-đặc nói xong, vui vẻ vâng làm. 
*
10. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở thành La-duyệt, tại vườn 
trúc Ca-lan-đà, cùng chúng năm trăm đại Tỳ-kheo.
      
Bấy giờ người ác Ðề-bà-đạt-đa liền đến chỗ 
vương tử Bà-la-lưu-chi (A-xà-thế) bảo vương tử:
- Ngày xưa dân chúng thọ mạng rất dài. Như 
nay người thọ không quá trăm năm. Vương tử nên biết, mạng người vô thường, 
nếu không lên ngôi, nửa đường mạng chung chẳng đau sao? Vương tử! Giờ hãy 
dứt mạng vua cha, thống lãnh quốc dân. Nay ta sẽ giết Sa-môn Cù-đàm, làm 
Vô thượng Chí Chân Ðẳng Chánh Giác. Ở nơi nước Ma-kiệt, làm vua mới, Phật 
mới không thích hay sao? Như mặt trời xuyên qua mây, không đâu chẳng 
chiếu; như mặt trăng mây tan sáng rỡ giữa ngàn sao.
Bấy giờ vương tử Bà-la-lưu-chi, liền bắt 
vua cha giam vào ngục sắt, lập thêm quan phụ tá thống lãnh nhân dân.
Khi ấy có nhiều Tỳ-kheo vào thành La-duyệt 
khất thực, liền nghe Ðề-bà-đạt-đa dạy vương tử giam vua cha vào ngục sắt, 
lập thêm quan phụ tá. Lúc này, các Tỳ-kheo khất thực xong trở về chỗ ở, 
thu xếp y bát đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi bạch Thế Tôn:
      
- Sáng nay chúng con vào thành khất thực, 
nghe người ngu Ðề-bà-đạt-đa dạy vương tử khiến bắt vua cha giam vào lao 
ngục, lại lập thần tá. Rồi Ông dạy vương tử: "Ông giết vua cha, ta hại Như 
Lai, ở nước Ma-kiệt này làm vua mới, Phật mới, chẳng thích sao!".
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu vua chúa cai trị không dùng chánh 
lý, bấy giờ cận thần cũng hành phi pháp. Cận thần đã hành phi pháp, bấy 
giờ vương thái tử cũng hành phi pháp. Thái tử đã thành phi pháp, bấy giờ 
quần thần, trưởng quan cũng hành phi pháp. Quần thần, trưởng quan đã hành 
phi pháp, bấy giờ nhân dân cõi nước cũng hành phi pháp. Nhân dân cõi nước 
đã hành phi pháp, bấy giờ các chúng binh mã cũng hành phi pháp. Binh chúng 
đã hành phi pháp, bấy giờ mặt trời, mặt trăng đảo lộn, chuyển vận không 
đúng giờ. Mặt trời, mặt trăng đã sai giờ liền không có năm tháng. Ðã không 
có năm tháng, trời sai, trăng lầm, không còn tinh quang. Trời, trăng đã 
không tinh quang, bấy giờ tinh tú hiện quái. Tinh tú đã hiện biến quái 
liền có bạo phong nổi lên. Ðã có bạo phong nổi lên, thì chư Thần giận dữ. 
Chư Thần đã giận dữ, bấy giờ có mưa không đúng thời, lúc ấy hạt ngũ cốc ở 
dưới đất bèn chẳng tăng trưởng, loài người, các loài bò, bay, máy, cựa, 
nhan sắc biến đổi, thọ mạng rất ngắn.
      
Nếu lại có lúc phép vua cai trị chính 
đáng, bấy giờ quần thần cũng hành Chánh pháp. Quần thần đã hành Chánh 
pháp, thì vương thái tử cũng hành Chánh pháp. Vương thái tử đã hành Chánh 
pháp, bấy giờ trưởng quan cũng hành Chánh pháp. Trưởng quan đã hành Chánh 
pháp, nhân dân cõi nước cũng hành Chánh pháp; mặt trời, mặt trăng thuận 
thường, gió mưa đúng thời, tai quái không hiện, thần kỳ hoan hỷ, ngũ cốc 
đầy dẫy, vua tôi hòa mục, nhìn nhau như anh em, trọn không thêm bớt, loài 
hữu tình nhan sắc tươi tốt, thức ăn tự tiêu hóa, không có tai hại, thọ 
mạng cực dài, được người yêu kính.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này:
Ví như trâu lội nước,
Dẫn đường nếu không chính,
Tất cả đều chẳng chính,
Ðó do gốc dẫn đường.
Chúng sanh cũng như vậy,
Trong chúng ắt có người
Dẫn đường hành phi pháp,
Huống là người thấp thỏi.
Dân chúng đều chịu khổ,
Do vương pháp chẳng chính,
Ðể biết hành phi pháp,
Tất cả dân cũng thế.
Ví như trâu lội nước,
Dẫn đường mà hành đúng,
Người theo cũng đều đúng,
Ðó do gốc dẫn đường.
Chúng sanh cũng như vậy,
Trong chúng ắt có người
Dẫn đường hành Chánh pháp,
Huống là hạng thứ dân.
Dân chúng đều hưởng vui,
Do vương pháp dạy chính,
Nên biết hành Chánh pháp,
Tất cả dân cũng lợi.
Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy bỏ phi pháp mà 
hành Chánh pháp. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm. 
XVIII. Phẩm Tàm quý
1. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có hai diệu pháp ủng hộ thế gian. Thế 
nào là hai? Nghĩa là có tàm, có quý. Này các Tỳ-kheo, nếu không có hai 
pháp này, thế gian sẽ không phân biệt có cha, có mẹ, có anh, có em, có vợ 
con, tri thức, tôn trưởng, lớn nhỏ; liền sẽ cùng lục súc heo, gà, chó, 
trâu, dê v.v... đồng một loại. Do thế gian có hai pháp này ủng hộ, nên thế 
gian ắt phân biệt có cha, có mẹ, anh em, vợ con, tôn trưởng, lớn nhỏ, cũng 
không đồng với lục súc. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên tập có tàm, có quý. Như 
vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm. 
*
2. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ðời có hai người không biết chán đủ mà 
bị mạng chung. Thế nào là hai người? Nghĩa là người được tài vật hằng cất 
giấu và người được vật mà thích cho người. Ðó là hai người không biết chán 
đủ mà bị mạng chung.
Bấy giờ có Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Thế Tôn! Chúng con không hiểu nghĩa chỉ 
nói sơ lược này. Thế nào là được vật mà cất giấu? Thế nào là được vật mà 
cho người? Cúi mong Thế Tôn diễn rộng nghĩa này.
Thế Tôn dạy:
- Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy 
nghĩ! Ta sẽ vì các Thầy phân biệt nghĩa này.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn.
Bấy giờ Phật dạy các Tỳ-kheo:
- Ở đây có người tộc tánh, học các kỹ 
thuật, hoặc tập làm ruộng, hoặc tập thư sớ, hoặc tập kế toán, hoặc tập 
thiên văn, hoặc tập địa lý, hoặc tập bói tướng, hoặc tập đi sứ phương xa, 
hoặc làm vương tá, chẳng tránh lạnh nóng, đói rét, cần khổ để tự mưu sống. 
Người ấy bỏ ra công sức này mà được tài vật, người ấy không dám ăn xài, 
cũng không cho vợ con, cũng chẳng cho nô tỳ, những người thân thuộc, cũng 
đều chẳng cho. Tài vật của người ấy hoặc bị vua cướp đoạt, hoặc bị giặc 
giã, hoặc lửa cháy, nước cuốn, phân tán chỗ khác, chẳng được lợi ích, hoặc 
ngay trong nhà có người phân tán tài vật này chẳng giữ mãi được. Ðó là, 
này Tỳ-kheo, người được tài vật mà che giấu.
Còn, thế nào là được tài vật mà phân phát? 
Có người có tộc tánh, học các kỹ thuật, hoặc tập làm vườn, hoặc tập thư 
sớ, hoặc tập kế toán, hoặc tập thiên văn, địa lý, hoặc tập bói tướng, hoặc 
học làm sứ phương xa, hoặc làm vương tá, chẳng tránh lạnh nóng, đói rét, 
cần khổ mà tự mưu sống. Người ấy ra công sức này mà thu hoạch tài vật, họ 
ban phát cho chúng sanh, cấp cho cha mẹ, nô tỳ, vợ con, cũng cấp rộng đến 
Sa-môn, Bà-la-môn, tạo các công đức, trồng phước cõi trời. Ðó là, này 
Tỳ-kheo, được vật mà bố thí. Ðó là, này Tỳ-kheo, hai người không biết chán 
đủ. Như người trước, được vật mà cất chứa, các Thầy hãy nhớ xa lìa. Người 
thứ hai được vật mà bố thí rộng rãi, các Thầy nên học nghiệp này. Như thế, 
này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm. 
*
3. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Thường nên thí pháp, chớ tập thí thức 
ăn. Sở dĩ như thế vì ngày nay các Thầy có phước báo. Nếu đệ tử Ta cung 
kính đối với pháp thì không tham lợi dưỡng. Nếu người tham lợi dưỡng thì 
có lỗi lớn với Như Lai. Vì sao? Vì là chúng sanh không phân biệt pháp, phá 
hủy lời dạy của Thế Tôn. Ðã hủy lời dạy của Thế Tôn, về sau không đến đạo 
Niết-bàn được, Ta bèn phải hổ thẹn. Vì sao thế? Vì đệ tử Như Lai tham đắm 
lợi dưỡng, chẳng hành đúng pháp, chẳng phân biệt pháp, hủy lời dạy của Thế 
Tôn, chẳng thuận theo Chánh pháp. Ðã hủy lời dạy của Thế Tôn lại chẳng đến 
đạo Niết-bàn.
Nay Tỳ-kheo các Thầy, hãy nhớ pháp thí, 
chớ nghĩ dục thí, liền được danh dự nghe khắp bốn phương. Cung kính pháp, 
không tham tài vật, thì không bị xấu hổ. Sở dĩ như thế vì ưa pháp thí, 
không tham nghĩ về dục thí. Ðó là, này Tỳ-kheo, hãy nhớ pháp thí, chớ quen 
theo tài thí. Tỳ-kheo các Thầy, Ta thuyết nghĩa này là vì nghĩa nào mà nói 
duyên này?
Bấy giờ các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Cúi mong Thế Tôn phân biệt mọi điều.
      
Bấy giờ Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo:
- Lúc trước có một người thỉnh Ta đến để 
cúng dường. Rồi sau đó Ta còn một ít thức ăn có thể bỏ đi. Có hai Tỳ-kheo 
từ phương xa đến, thân hình mỏi mệt, nhan sắc biến đổi. Bấy giờ, Ta bèn 
bảo Tỳ-kheo ấy:
- "Có thức ăn thừa đáng lẽ bỏ đi, Thầy cần 
thì tùy thời có thể lấy để tự lo cho mình".
Thời một Tỳ-kheo liền nghĩ: "Hôm nay Thế 
Tôn có thức ăn dư có thể vứt bỏ, người tùy thời cần có thể lấy được. Nếu 
chúng ta không lấy ăn, thì sẽ đem thức ăn này trút chỗ đất sạch hoặc bỏ 
vào nước. Vậy nay chúng ta hãy lấy thức ăn này để lấp bụng đói, thêm khí 
lực".
Bấy giờ, Tỳ-kheo ấy lại nghĩ: "Phật cũng 
dạy: "Hãy hành pháp thí, chớ nghĩ đến dục thí". Sở dĩ như thế, vì bố thí 
hơn hết không gì qua tài thí. Sau đó, pháp thí là tôn trọng nhất. Nay ta 
kham chịu suốt ngày cũng xong, chẳng cần nhận phước của tài thí".
Bấy giờ Tỳ-kheo ấy bèn tự dừng ý, không 
lấy của thí kia, thân thể mỏi mệt, không thèm để ý đến mạng mình.
Bấy giờ, vị Tỳ-kheo thứ hai lại nghĩ: "Thế 
Tôn cũng có thức ăn dư đáng bỏ. Nếu chúng ta không lấy ăn thì sẽ mệt mỏi. 
Nay lấy thức ăn này để lấp bụng đói, được thêm khí lực, ngày đêm an ổn".
Bấy giờ Tỳ-kheo ấy liền lấy thức ăn, ngày 
đêm an ổn, khí lực sung túc.
Phật dạy các Tỳ-kheo:
- Tỳ-kheo ấy tuy lấy thức ăn cúng dường 
kia, trừ được đói thiếu, khí lực sung túc, nhưng chẳng bằng vị Tỳ-kheo 
trước đáng kính, đáng quý, rất đáng tôn trọng. Tỳ-kheo ấy tiếng tăm vang 
xa lâu dài, đối với luật tri túc dễ được đầy đủ. Các Tỳ-kheo hãy học pháp 
thí, chớ học nghĩ đến dục thí. Trước Ta nói là do nhân duyên này.
Bấy giờ Thế Tôn dạy như thế xong, liền rồi 
chỗ ngồi mà đi. Lúc này chúng Tỳ-kheo lại nghĩ: "Vừa rồi Thế Tôn nói lược 
cốt yếu, trọn không giảng rộng rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy vào thất lặng 
lẽ. Nay trong chúng này, ai có thể kham nhận diễn nghĩa sơ lược này cho 
rộng rãi?"
Bấy giờ chúng Tỳ-kheo lại nghĩ: "Nay Tôn 
giả Xá-lợi-phất thường được Thế Tôn khen ngợi. Chúng ta hãy cùng đến chỗ 
Tôn giả Xá-lợi-phất".
      
Lúc này chúng Tỳ-kheo liền đến chỗ Tôn giả 
Xá-lợi-phất, vái chào nhau rồi ngồi một bên. Ngồi một bên xong, các 
Tỳ-kheo mới đem việc đã nghe Thế Tôn dạy, kể lại cho Tôn giả Xá-lợi-phất.
Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo:
- Thế nào là đệ tử Thế Tôn tham đắm lợi 
dưỡng không tu hành pháp? Thế nào là đệ tử Thế Tôn không tham đắm lợi 
dưỡng tu hành pháp?
Bấy giờ các Tỳ-kheo bạch Tôn giả 
Xá-lợi-phất:
- Chúng tôi từ xa đến, thưa hỏi nghĩa này 
để tu hành. Tôn giả Xá-lợi-phất có đủ khả năng xin giảng rộng nghĩa này 
cho chúng tôi.
Tôn giả Xá-lợi-phất bảo:
- Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy 
nghĩ, tôi sẽ vì các Thầy nói rộng nghĩa này.
Các Tỳ-kheo thưa:
- Xin vâng.
Tôn giả Xá-lợi-phất bảo:
- Ðệ tử Thế Tôn học tịch tĩnh, niệm được 
an ổn mà đệ tử Thanh văn không học như thế. Thế Tôn dạy pháp nên diệt mà 
các Tỳ-kheo cũng chẳng chịu diệt, trong đó lại giải đãi khởi các loạn 
tưởng; điều nên làm, chẳng chịu làm; chỗ chẳng nên làm, lại tu hành. Bấy 
giờ, này chư Hiền, các bậc Tỳ-kheo trưởng lão, đối với ba chỗ có sự hổ 
thẹn. Thế nào là ba? Thế Tôn thường thích chỗ tịch tĩnh, bấy giờ Thanh văn 
chẳng học điều này. Tỳ-kheo trưởng lão bèn có hổ thẹn. Thế Tôn dạy người 
hãy diệt pháp này, mà Tỳ-kheo chẳng diệt pháp này. Tỳ-kheo trưởng lão liền 
có hổ thẹn. Trong đó khởi niệm loạn tưởng, ý không chuyên nhất. Tỳ-kheo 
trưởng lão liền có hổ thẹn.
Chư Hiền nên biết, Tỳ-kheo trung niên ở ba 
chỗ liền có hổ thẹn. Thế nào là ba? Thế Tôn thường thích chỗ tịch tịnh, 
bấy giờ Thanh văn chẳng học điều này. Tỳ-kheo bậc trung liền có hổ thẹn. 
Thế Tôn dạy người nên diệt pháp này, nhưng Tỳ-kheo ấy không diệt pháp này. 
Tỳ-kheo bậc trung liền có hổ thẹn. Trong đó khởi niệm loạn tưởng, ý không 
chuyên nhất. Tỳ-kheo trung niên liền có hổ thẹn.
Chư Hiền nên biết, Tỳ-kheo niên thiếu ở ba 
chỗ có sự hổ thẹn. Thế nào là ba? Ðệ tử Thế Tôn thường thích chỗ tịch 
tĩnh, bấy giờ Thanh văn chẳng học điều này. Tỳ-kheo niên thiếu liền có chỗ 
thẹn. Thế Tôn dạy người nên diệt pháp này, nhưng Tỳ-kheo ấy không diệt 
pháp này. Tỳ-kheo niên thiếu liền có hổ thẹn. Trong đó lại khởi niệm loạn 
tưởng, ý không chuyên nhất. Tỳ-kheo niên thiếu liền có hổ thẹn.
Ðó là, này chư Hiền, tham trước đối với 
tiền tài, không dính dáng đến pháp.
      
Các Tỳ-kheo bạch Tôn giả Xá-lợi-phất:
- Thế nào là Tỳ-kheo tham đắm vào pháp, 
không dính mắc tài lợi?
Tôn giả Xá-lợi-phất nói:
- Ở đây, này Tỳ-kheo, Thế Tôn thích chỗ 
tịch tĩnh, Thanh văn cũng học Như Lai thích chỗ tịch tĩnh. Thế Tôn thuyết 
nên diệt pháp này, các Tỳ-kheo liền diệt pháp này, chẳng giải đãi cũng 
chẳng loạn, điều nên làm liền tu hành; điều chẳng nên làm, liền chẳng làm.
Chư Hiền nên biết, Tỳ-kheo trưởng lão ở ba 
chỗ liền có danh xưng. Thế nào là ba? Ở đây, này Tỳ-kheo, Thế Tôn ưa thích 
chỗ tịch tĩnh, thời Thanh văn cũng ưa chỗ tịch tĩnh, thời Tỳ-kheo trưởng 
lão liền có danh xưng. Thế Tôn dạy người nên diệt pháp này, bấy giờ 
Tỳ-kheo liền diệt pháp này, thời Tỳ-kheo trưởng lão liền có danh xưng. Bên 
trong không khởi niệm loạn tưởng, ý thường chuyên nhất, thời Tỳ-kheo 
trưởng lão liền có danh xưng.
Chư Hiền nên biết, Tỳ-kheo trung niên ở ba 
nơi liền có danh xưng. Thế nào là ba? Ở đây, này Tỳ-kheo, Thế Tôn vui chỗ 
tịch tĩnh, Thanh văn cũng vui chỗ tịch tĩnh, thời Tỳ-kheo trung niên liền 
có danh xưng. Thế Tôn dạy người hãy diệt pháp này, bấy giờ Tỳ-kheo liền 
diệt pháp này, thời Tỳ-kheo trung niên liền có danh xưng. Bên trong không 
khởi niệm loạn tưởng, ý thường chuyên nhất, thời Tỳ-kheo trung niên liền 
có danh xưng.
Chư Hiền nên biết! Tỳ-kheo niên thiếu ở ba 
chỗ liền có danh xưng. Thế nào là ba? Ở đây, này Tỳ-kheo, Thế Tôn ưa chỗ 
tịch tĩnh, Tỳ-kheo niên thiếu cũng ưa chỗ tịch tĩnh, thời Tỳ-kheo niên 
thiếu liền có danh xưng. Thế Tôn dạy người hãy diệt pháp này, bấy giờ Thế 
Tôn niên thiếu liền diệt pháp này, thời Tỳ-kheo niên thiếu liền có danh 
xưng. Bên trong không khởi niệm loạn tưởng, ý thường chuyên nhất, thời 
Tỳ-kheo niên thiếu liền có danh xưng.
Chư Hiền nên biết, Tham là bịnh, tai họa 
rất lớn, sân giận cũng thế. Diệt được tham dâm, sân giận thì được trung 
đạo, nhãn sanh, trí sanh, các trói buộc dứt hết, đến được Niết-bàn. Xan 
lẫn, tật đố là bịnh cũng rất nặng, phiền não nung nấu, kiêu mạn cũng sâu, 
huyễn ngụy chẳng chân thật, không hổ không thẹn, chẳng thể xa lìa dâm dục, 
làm bại hoại sự ngay chánh, mạn và tăng thượng mạn cũng lại chẳng bỏ. Hai 
mạn này nếu diệt sẽ được ở trung đạo, nhãn sanh, trí sanh, các trói buộc 
dứt hết, đến được Niết-bàn.
Tỳ-kheo bạch:
- Tôn giả Xá-lợi-phất! Thế nào là ở trung 
đạo, nhãn sanh, trí sanh, các trói buộc dứt hết, đến được Niết-bàn?
Tôn giả Xá-lợi-phất nói:
- Chư Hiền nên biết, đó là Tám đạo phẩm 
của Hiền Thánh, nghĩa là Chánh kiến, Chánh trí (tư duy), Chánh ngữ, Chánh 
hạnh (nghiệp), Chánh mạng, Chánh phương tiện (tinh tấn), Chánh niệm, Chánh 
tam-muội (định). Này chư Hiền, đó là ở trung đạo, nhãn sanh, trí sanh, các 
trói buộc dứt hết, đến được Niết-bàn.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Tôn giả 
Xá-lợi-phất dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
4. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở thành La-duyệt, tại vườn 
trúc Ca-lan-đà, cùng với chúng năm trăm đại Tỳ-kheo.
      
Bấy giờ Thế Tôn đến giờ đắp y, ôm bát vào 
thành La-duyệt khất thực tại một ngõ làng. Khi ấy ở làng đó, có vợ một 
Phạm chí muốn ăn cơm nhưng Bà-la-môn lại vừa ra khỏi cửa. Bà ta trông thấy 
Thế Tôn từ xa liền đến chỗ Thế Tôn mà hỏi:
- Ngài có thấy Bà-la-môn đâu không?
      
Khi ấy Tôn giả Ðại Ca-diếp đã ở ngõ đó 
trước rồi. Thế Tôn liền đưa tay chỉ, Ngài nói:
- Ðây là Bà-la-môn.
Bấy giờ vợ Bà-la-môn nhìn sửng mặt Như 
Lai, im lặng không nói.
Thế Tôn liền nói kệ:
Người không dục, không sân,
Bỏ ngu không có si,
A-la-hán lậu tận,
Ðó gọi là Phạm chí.
Người không dục, không sân,
Bỏ ngu, không có si,
Bỏ hết nhóm kiết sử,
Ðó gọi là Phạm chí.
Người không dục, không sân,
Bỏ ngu, không có si,
Ðã đoạn mạn ngô ngã,
Ðó gọi là Phạm chí.
Nếu người muốn biết pháp,
Của bậc Chánh Giác thuyết.
Chí thành tự quay về,
Ðấng Tối Tôn Vô Thượng.
Bấy giờ Thế Tôn bảoTôn giả Ca-diếp:
- Thầy nên đến vì vợ người Phạm chí này 
khiến cho bà ta ngay thân hiện tại thoát được tội cũ.
      
Lúc đó Tôn giả Ca-diếp vâng lời Phật dạy, 
đến nhà vợ Phạm chí, tới tòa mà ngồi. Lúc này vợ Bà-la-môn liền bày các 
thức ăn uống ngon ngọt cúng dường cho Tôn giả Ca-diếp. Tôn giả Ca-diếp 
liền nhận các thức ăn uống, vì muốn độ bà ta mà nói kệ:
Tế tự, lửa hơn hết,
Các sách, tụng tối thượng,
Vua là bậc người trọng,
Các dòng, biển là hơn.
Các sao, trăng đứng đầu,
Chiếu sáng, mặt trời nhất,
Bốn phía và trên dưới,
Ở các phương, cảnh vực.
Trời và người thế gian,
Phật là tối Tôn thượng.
Người muốn cầu phước này,
Nên quy y Chánh Giác.
Vợ Phạm chí kia nghe lời này xong, vui 
mừng hớn hở không kềm được, đến trước Tôn giả Ca-diếp bạch:
      
- Cúi mong Tôn giả, hằng nhận lời thỉnh 
của tôi mà đến nhà này thọ thực.
Tôn giả Ca-diếp nhận lời, thọ thực tại đó. 
Vợ Bà-la-môn thấy Tôn giản Ca-diếp ăn xong, bèn lấy một ghế thấp đến trước 
Tôn giả Ca-diếp ngồi. Tiếp đó, Tôn giả Ca-diếp liền thuyết pháp vi diệu 
cho bà ta, nghĩa là luận về thí, giới luận, luận về sanh thiên, dục là bất 
tịnh, dứt hết lậu hoặc là cao thượng, xuất gia là cần yếu.
Tôn giả Ca-diếp đã biết vợ Phạm chí tâm ý 
khai mở, lòng rất hân hoan. Những điều chư Phật thường thuyết pháp: Khổ, 
Tập, Diệt, Ðạo, Tôn giả Ca-diếp đều thuyết cho vợ Phạm chí hết. Vợ Phạm 
chí ở ngay tòa ngồi, dứt sạch các trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Ví 
như áo lót trắng mới tinh, không có bụi dơ, dễ nhuộm màu; vợ Phạm chí cũng 
lại như thế, ngay trên tòa ngồi được pháp nhãn thanh tịnh. Bà ta đã được 
pháp, thấy pháp, phân biệt pháp chẳng có hồ nghi, đã được vô úy, tự quy y 
ba bậc đáng tôn trọng là Phật, Pháp và Thánh chúng, thọ trì ngũ giới. Tôn 
giả Ca-diếp thuyết pháp vi diệu cho vợ Phạm chí một lần nữa, rồi từ chỗ 
ngồi đứng lên mà đi.
      
Ngài Ca-diếp đi chưa bao lâu, chồng bà ta 
ở xa về nhà. Bà-la-môn thấy nhan sắc người vợ vui tươi khác thường liền 
hỏi vợ. Người vợ đem nhân duyên này kể lại đầy đủ cho chồng. Bà-la-môn 
nghe xong, liền cùng vợ đi đến Tinh xá, đến chỗ Thế Tôn. Bà-la-môn cùng 
Thế Tôn chào hỏi xong, ngồi xuống một bên. Bà-la-môn bạch Thế Tôn:
- Vừa rồi có Bà-la-môn đến nhà tôi, nay ở 
đâu?
      
Bấy giờ Tôn giả Ca-diếp cách Thế Tôn chẳng 
xa, ngồi kiết-già, chánh thân, chánh ý, suy tư về diệu pháp.
Thế Tôn từ xa chỉ Ðại Ca-diếp, nói:
- Ðây là tôn trưởng Bà-la-môn.
Bà-la-môn nói:
- Thế nào Cù-đàm? Sa-môn tức là Bà-la-môn 
chăng? Sa-môn và Bà-la-môn há không khác sao?
Thế Tôn dạy:
- Muốn nói Sa-môn, chính là thân Ta. Sở dĩ 
như thế, vì Ta tức là Sa-môn. Có các giới luật mà Sa-môn phải tụng trì, Ta 
đều đã được. Như nay muốn luận về Bà-la-môn, thì cũng là thân Ta. Vì sao 
thế? Vì Ta tức là Bà-la-môn. Các Bà-la-môn thời quá khứ trì pháp hạnh nào, 
Ta đều đã biết hết.
Muốn luận Sa-môn, tức là Ðại Ca-diếp. Vì 
sao thế? Sa-môn có các luật, Tỳ-kheo Ca-diếp đều giữ hết. Muốn luận 
Bà-la-môn, cũng là Tỳ-kheo Ca-diếp. Vì sao thế? Bà-la-môn phụng trì các 
cấm giới, Tỳ-kheo Ca-diếp đều rõ biết hết.
Thế Tôn liền nói kệ:
Ta chẳng nói Phạm chí,
Là người rành chú thuật,
Xướng rằng sanh Phạm thiên,
Ðây là chưa rời trói,
Không trói, không đường sanh,
Hay thoát tất cả kiết,
Lại không xưng phước trời,
Tức Sa-môn, Phạm chí.
Bấy giờ Bà-la-môn bạch Thế Tôn:
- Nói là kết phược (buộc trói), những gì 
gọi là kết?
Thế Tôn dạy;
- Dục ái là kết, sân nhuế là kết, ngu si 
là kết. Như Lai không có dục ái này, diệt hẳn không sót; sân nhuế, ngu si 
cũng lại như thế. Như Lai chẳng còn kết này nữa.
Bà-la-môn nói:
- Cúi mong Thế Tôn nói pháp sâu mầu không 
có các kết phược này nữa.
Thế rồi đức Thế Tôn lần lượt thuyết luận 
vi diệu cho Bà-la-môn. Luận tức là thí luận, giới luận, luận sanh thiên; 
dục là bất tịnh; dứt hết lậu hoặc là hơn hết; xuất gia là cần yếu.
Bấy giờ Thế Tôn biết Bà-la-môn kia tâm ý 
khai mở, lòng rất hoan hỉ điều mà chư Phật thời xưa thường thuyết pháp: 
Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Bấy giờ Thế Tôn đều thuyết hết cho Bà-la-môn. 
Bà-la-môn ngay trên chỗ ngồi, dứt sách cách trần cấu, được pháp nhãn thanh 
tịnh. Ví như áo lót trắng tinh, không có bụi dơ, dễ nhuộm màu; Bà-la-môn 
cũng lại như thế, ngay trên chỗ ngồi được pháp nhãn thanh tịnh. Ông ta đã 
được pháp, thấy pháp, phân biệt pháp không có hồ nghi, đã đến chỗ vô úy, 
tự quy y Tam tôn: Phật, Pháp và Thánh chúng, thọ trì ngũ giới, làm đứa con 
chân thật của Như Lai, không còn lui sụt nữa.
Bấy giờ vợ chồng Bà-la-môn nghe Phật dạy 
xong, vui vẻ vâng làm.
*
5. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở thành La-duyệt, vườn trúc 
Ca-lan-đà cùng với chúng năm trăm đại Tỳ-kheo.
      
Bấy giờ vua A-xà-thế có con voi tên 
Na-la-kỳ-lê, vô cùng hung tàn bạo ngược, mạnh mẽ hay trừ dẹp oán thù. Nhờ 
sức voi đó, khiến cho không đâu không nép phục một nước Ma-kiệt.
      
Bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa liền đến chỗ vua 
A-xà-thế, nói:
- Ðại vương nên biết! Nay con voi này tàn 
ác, có thể hàng phục các kẻ thù. Hãy đem rượu mạnh cho voi uống say, sáng 
sớm Sa-môn Cù-đàm ắt sẽ vào thành khất thực, hãy thả voi say này cho chà 
đạp chết đi!
      
Vua A-xà-thế nghe Ðề-bà-đạt-đa dạy liền ra 
lệnh trong nước: Sáng sớm mai sẽ thả voi say, cấm nhân dân đi lại trong 
làng xóm.
Lúc này Ðề-bà-đạt-đa nói với vua A-xà-thế:
- Nếu Sa-môn Cù-đàm kia có nhất thiết trí 
biết việc tương lai thì ngày mai ắt không vào thành khất thực.
Vua A-xà-thế nói:
- Ðúng như lời Ngài dạy. Nếu người có nhất 
thiết trí, sáng sớm mai sẽ không vào thành khất thực.
Bấy giờ nam nữ, già trẻ trong thành 
La-duyệt kính thờ Phật, nghe vua A-xà-thế sáng sớm mai sẽ thả voi say hại 
Như Lai. Nghe xong ai cũng lo buồn, liền đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng 
một bên, bạch Thế Tôn:
- Sáng sớm mai xin Thế Tôn chớ có vào 
thành.
-Vì sao thế?
- Vì nay vua A-xà-thế có ban lệnh bắt 
'nhân dân trong thành ngày mai chớ qua lại ở làng xóm, ta muốn thả voi say 
hại Sa-môn Cù-đàm. Nếu Sa-môn có Nhất thiết trí, sáng sớm mai sẽ không vào 
thành khất thực'.
Cúi mong Thế Tôn chớ có vào thành. Nếu Như 
Lai bị hại, người đời sẽ mất con mắt, không còn được cứu hộ.
      
Thế Tôn bảo:
- Thôi! Thôi! Các Ưu-bà-tắc chớ có sầu 
não. Vì sao thế? Thân của Như Lai chẳng phải là thân thế tục, nên chẳng bị 
người khác làm hại; hoàn toàn không có việc này. Các Ưu-bà-tắc nên biết, 
đất Diêm-phù-đề Ðông Tây rộng bảy ngàn do-tuần, Nam Bắc dài hai mươi mốt 
ngang do-tuần; đất Cù-da-ni bề ngang rộng tám ngàn do-tuần hình như nửa 
mặt trăng; đất Phất-vu-đệ bề ngang rộng chín ngàn do-tuần; đất đai vuông 
vức; đất Uất-đan-việt bề ngang rộng mười ngàn do-tuần, đất đai tròn như 
mặt trăng đầy. Ngay dù trong bốn thiên hạ này đầy voi say giống như lúa 
mè, lùm rừng, số như thế vẫn chẳng thể làm động một mảy lông của Như Lai, 
huống là hại được Như Lai; hoàn toàn không có việc này. Ngoài bốn thiên hạ 
ra, lại có cả ngàn thiên hạ, ngàn trời trăng, ngàn núi Tu-di, ngàn nước 
bốn biển, ngàn Diêm-phù-đề, ngàn Cù-da-ni, ngàn Phất-vu-đệ, ngàn 
Uất-đan-việt, ngàn Tứ thiên vương, ngàn trời Ba mươi ba, ngàn trời 
Ðâu-suất, ngàn trời Diệm thiên, ngàn trời Hóa tự tại, ngàn trời Tha hóa Tự 
tại, đây gọi là ngàn thế giới. Cho đến hai ngàn thế giới, đây gọi là trung 
thiên thế giới. Cho đến ba ngàn thế giới, đây gọi tam thiên đại thiên thế 
giới. Trong đó Long vương Y-la-bát đầy dẫy vẫn không thể làm động một mảy 
lông của Như Lai, huống là con voi này lại muốn hại Như Lai được sao? Hoàn 
toàn không có việc này. Vì sao thế? Thần lực của Như Lai chẳng thể nghĩ 
bàn. Như Lai ra đời, trọn chẳng bị người làm tổn hại. Các Ông nên trở về 
chỗ của mình. Như Lai sẽ tự biết đối phó việc này.
Bấy giờ Thế Tôn rộng thuyết pháp vi diệu 
cho bốn bộ chúng, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nghe thuyết Chánh pháp xong, mỗi 
người từ chỗ ngồi đứng lên lễ Phật mà lui đi.
      
Sáng sớm Thế Tôn đắp y, ôm bát muốn vào 
thành La-duyệt khất thực. Khi ấy, Thiên vương Ðề-đầu-lại-tra cùng 
Càn-thát-bà v.v.. từ phương Ðông đến theo hầu Thế Tôn; Tỳ-lưu-lặc-vương 
cùng chúng Cưu-bàn-trà theo hầu Thế Tôn; phương Tây có Tỳ-lưu-ba-xoa cùng 
các chúng rồng theo hầu Như Lai; phương Bắc Thiên vương Câu-tỳ-la cùng 
chúng quỷ La sát theo hầu Như Lai. Bấy giờ Thích-đề-hoàn nhân đem vài ngàn 
vạn chúng thiên nhân, biến mất từ trời Ðâu-suất hiện đến chỗ Thế Tôn, rồi 
trời Phạm thiên vương cùng vài ngàn vạn chúng Phạm thiên từ cõi trời Phạm 
thiên đến chỗ Thế Tôn. Thích, Phạm, Tứ thiên vương và hai mươi tám Trời, 
đại quỷ thần vương, mọi người bảo nhau:
      
- Hôm nay chúng ta sẽ xem hai thần voi và 
rồng đấu với nhau, ai sẽ thắng, bại.
      
Bốn bộ chúng trong thành La-duyệt từ xa 
thấy Thế Tôn cùng chư Tỳ-kheo vào thành khất thực. Nhân dân trong thành 
đều cất tiếng hô hoán. Vua A-xà-thế nghe tiếng này, hỏi tả hữu:
- Ðây là tiếng vang của những gì mà lọt 
vào đây?
      
Thị thần đáp:
      
- Ðây là Như Lai vào thành khất thực, dân 
chúng trông thấy nên có tiếng này.
A-xà-thế nói:
- Sa-môn Cù-đàm không có Thánh đạo, chẳng 
biết tâm người mà đến thử đối phó.
      
Vua A-xà-thế liền sai tượng sư:
- Ông mau cho voi uống rượu mạnh, mũi đeo 
gươm bén thả cho nó chạy.
      
Bấy giờ Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo đến cửa 
thành, vừa nhấc chân vào cửa thì trời đất chuyển động. Các bậc trời thần ở 
trên hư không tung các loại hoa. Năm trăm Tỳ-kheo thấy voi say đến, đều 
vùng chạy không biết đi đâu. Voi hung dữ kia thấy Như Lai ở xa liền xông 
tới.Thị giả A-nan thấy voi say đến, ở sau lưng Thế Tôn chẳng yên, bạch Thế 
Tôn:
- Voi này bạo ác, sợ sẽ hại mình, phải nên 
tránh xa nó.
Thế Tôn bảo:
- Chớ sợ, A-nan! Nay Ta sẽ dùng cánh tay 
thần của Như Lai để hàng phục voi này.
Như Lai quan sát con voi hung bạo, khi 
cách nó không gần cũng chẳng xa, Ngài liền hóa ra các sư tử vương ở hai 
bên, sau lưng voi hóa thành một hầm lửa lớn. Voi hung bạo kia thấy sư tử 
vương ở hai bên và thấy hầm lửa liền vãi phân tiểu không chỗ phóng chạy 
bèn sấn đến trước Thế Tôn. Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
      
Mi chớ có hại rồng,
Rồng hiện rất khó gặp,
Do không có hại rồng,
Mà được sanh chỗ thiện.
      
Voi hung bạo nghe Thế Tôn nói kệ này, như 
bị lửa đốt, tự cởi kiếm hướng về Như Lai quỳ hai gối, phục xuống đất lấy 
vòi liếm chân Như Lai. Thế Tôn duỗi tay phải xoa đầu voi, nói:
      
Sân giận sanh địa ngục,
Cũng làm thân rắn rít,
Thế nên hãy bỏ sân,
Chớ thọ lại thân này.
Bấy giờ các bậc Trời thần ở trong hư không 
dùng trăm ngàn loại hoa tung trên Như Lai. Thế Tôn bèn thuyết pháp vi diệu 
cho bốn bộ chúng, Trời, Rồng, Quỷ, Thần. Bấy giờ hơn sáu vạn nam nữ thấy 
voi bị hàng phục, liền hết sạch trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Tám 
vạn thiên nhân cũng được pháp nhãn thanh tịnh.
Rồi trong thân voi say kia, gió đao nổi 
lên, thân hoại mạng chung, sanh lên cung trời Tứ thiên vương.
Bấy giờ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, 
Ưu-bà-di và Trời, Rồng, Quỷ, Thần nghe Thế Tôn dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
6. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Tôn giả Nan-đà, đắp y thật đẹp, 
màu sắc chói mắt, mang giày viền vàng, lại vẽ hai mắt, tay ôm bình bát 
định vào thành Xá-vệ.
Khi ấy rất đông chúng Tỳ-kheo từ xa trông 
thấy Tôn giả Nan-đà, khoát y cực đẹp vào thành Xá-vệ khất thực, liền đến 
chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên. Phút chốc, ngồi lui lại mà bạch Thế 
Tôn:
- Vừa rồi Tỳ-kheo Nan-đà đắp y cực đẹp, 
màu sắc chói mắt, vào thành Xá-vệ khất thực.
Khi ấy Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:
- Thầy mau đến chỗ Tỳ-kheo Nan-đà, nói 
rằng Như Lai gọi Thầy.
- Xin vâng, Thế Tôn.
Tỳ-kheo ấy nhận lời Thế Tôn dạy, cúi lạy 
rồi đi, đến chỗ Tỳ-kheo Nan-đà, nói với Nan-đà:
- Thế Tôn gọi Thầy.
Nan-đà nghe Tỳ-kheo nói, liền đến chỗ Thế 
Tôn, đến xong cúi lạy và ngồi một bên. Thế Tôn bảo Nan-đà:
- Nay Thầy vì sao đắp y cực đẹp, lại mang 
giày viền vàng vào thành Xá-vệ khất thực?
Tôn giả Nan-đà làm thinh chẳng đáp.
      
Thế Tôn lại nói nữa:
- Thế nào Nan-đà? Thầy há chẳng do niềm 
tin kiên cố, xuất gia học đạo sao?
      
Nan-đà đáp:
      
- Ðúng vậy, Thế Tôn.
Thế Tôn bảo:
- Này Thầy là con nhà vọng tộc, chẳng hành 
đúng luật, do lòng tin kiên cố, xuất gia học đạo, vì sao lại mặc áo cực 
đẹp, tô sửa hình vóc, muốn vào thành Xá-vệ khất thực, cùng bọn bạch y kia 
đâu có khác gì?
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Ngày nào thấy Nan-đà,
Hay trì hạnh tịch tĩnh,
Tâm vui pháp Sa-môn,
Ðầu đà đến bờ kia.
      
Nan-đà, nay Thầy chớ tạo hạnh như vậy!
Bấy giờ, Tôn giả Nan-đà và bốn bộ chúng 
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
7. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Tôn giả Nan-đà chẳng kham hành 
Phạm hạnh, muốn cởi pháp y, tập hạnh bạch y. Khi ấy nhiều chúng Tỳ-kheo 
đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên. Các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Tỳ-kheo Nan-đà chẳng kham hành Phạm 
hạnh, muốn cởi pháp phục, tập hạnh tại gia.
Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:
- Thầy đến chỗ Nan-đà bảo là Như Lai gọi 
Thầy.
- Xin vâng, Thế Tôn.
Tỳ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn liền từ chỗ 
ngồi đứng lên, cúi lạy Thế Tôn rồi lui, đi đến chỗ Tỳ-kheo Nan-đà, nói:
- Thế Tôn gọi Nan-đà.
- Vâng.
Bấy giờ Tỳ-kheo Nan-đà theo Tỳ-kheo này 
đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Thế Tôn bảo Nan-đà.
- Thế nào Nan-đà? Thầy chẳng ưa tu Phạm 
hạnh, muốn cởi pháp y, tập hạnh bạch y chăng?
      
Nan-đà đáp: 
      
- Thưa vâng, Thế Tôn.
Thế Tôn nói:
- Vì sao thế, Nan-đà?
Nan-đà đáp:
      
- Vì con lòng dục lừng lẫy, kềm chẳng 
được.
      
Thế Tôn nói:
- Thế nào Nan-đà? Thầy không phải là con 
nhà vọng tộc xuất gia học đạo sao?
      
Nan-đà đáp:
      
- Ðúng vậy, Thế Tôn! Con là dòng dõi vọng 
tộc, do lòng tin kiên cố xuất gia học đạo.
      
Thế Tôn bảo:
- Nếu Thầy dòng dõi vọng tộc thì chẳng nên 
như thế. Vì bỏ nhà học đạo, tu hạnh thanh tịnh, tại sao lại bỏ Chánh pháp 
muốn tập ô uế? Nan-đà nên biết, có hai pháp không nhàm chán. Nếu có người 
học tập hai pháp này, trọn không nhàm chán. Thế nào là hai pháp? Nghĩa là 
dâm dục và uống rượu. Ðó là hai pháp này, trọn không nhàm chán. Do quả của 
hạnh này cũng không thể được chỗ vô vi. Thế nên, Nan-đà, hãy nghĩ nhớ bỏ 
hai pháp này, sau ắt sẽ thành quả báo vô lậu. Nan-đà! Nay Thầy khéo tu 
Phạm hạnh, hướng về đạo quả đều do đó cả.
      
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Lợp nhà không kín,
Trời mưa sẽ dột,
Người chẳng chịu hành,
Lọt dâm, nộ, si.
Lợp nhà khéo kín,
Trời mưa chẳng dột,
Người hay chuyên hành,
Không dâm, nộ, si.
Bấy giờ Thế Tôn lại nghĩ: 'Gã vọng tộc này 
ý dục rất nhiều. Nay Ta phải nên dùng lửa trừ lửa'.
Khi ấy Thế Tôn, liền lấy cánh tay thần lực 
nắm Nan-đà, ví như người có sức vừa co duỗi cánh tay đem Nan-đà lên núi 
Hương Sơn. Bấy giờ trên núi có một hang đá, lại có một con khỉ mù đang ở 
đó. Thế Tôn tay phải nắm Nan-đà bảo:
- Nan-đà! Thầy có thấy con khỉ mù này 
chăng?
      
- Vâng, Thế Tôn.
Thế Tôn nói:
- Cái nào đẹp? Tôn-đà-lợi họ Thích đẹp hay 
con khỉ mù này đẹp?
      
Nan-đà đáp:
      
- Ví như có người đánh dập lỗ mũi con chó 
xấu xí, lại còn bôi thêm độc vào nó, khiến càng xấu hơn. Ðây cũng như thế, 
cô gái họ Thích Tôn-đà-lợi, nay đem so với con khỉ mù này, không thể ví 
dụ. Ví như đống lửa lớn đốt cháy núi rừng còn bỏ thêm củi khô, lửa càng 
hừng hực. Ðây cũng thế, con nhớ cô gái họ Thích kia không lìa tâm.
Bấy giờ Thế Tôn như trong khoảng co duỗi 
cánh tay từ núi kia biến mất, liền đến cõi trời Ba mươi ba. Lúc ấy chư 
Thiên cõi trời Ba mươi ba đều tụ tập ở giảng đường Thiện Pháp. Cách giảng 
đường Thiện Pháp chẳng xa, lại có cung điện, năm trăm ngọc nữ vui đùa với 
nhau, toàn là con gái chẳng có con trai. Bấy giờ Nan-đà xa thấy năm trăm 
Thiên nữ ca hát kỹ nhạc vui đùa với nhau, thấy rồi hỏi Thế Tôn:
- Ðây là chỗ nào mà có năm trăm Thiên nữ 
hát xướng kỹ nhạc, vui đùa với nhau?
Thế Tôn bảo:
- Nan-đà! Thầy tự đi hỏi đi!
      
Tôn giả Nan-đà liền đến chỗ năm trăm Thiên 
nữ, thấy cung điện nhà cửa kia trải tọa cụ tốt đẹp hàng trăm thứ, toàn là 
con gái không có con trai. Tôn giả Nan-đà liền hỏi Thiên nữ:
- Các Người là Thiên nữ thế nào mà vui 
chơi khoái lạc với nhau như thế?
Thiên nữ đáp:
      
- Chúng tôi có năm trăm người đều thanh 
tịnh không có phu chủ (chồng). Chúng tôi nghe có đệ tử Thế Tôn tên là 
Nan-đà là con của di mẫu đức Phật. Ngài đang ở chỗ Như Lai thanh tịnh tu 
Phạm hạnh. Sau khi mạng chung sẽ sanh ở đây làm phu chủ của chúng tôi, 
cùng vui thú với nhau.
Tôn giả Nan-đà lòng rất vui mừng, kềm 
chẳng được, liền nghĩ: 'Nay ta là đệ tử Thế Tôn, lại cũng là con di mẫu. 
Các Thiên nữ này đều sẽ là vợ ta'.
Lúc ấy Nan-đà liền trở lui đến chỗ Thế 
Tôn. Thế Tôn nói:
      
- Thế nào Nan-đà, Ngọc nữ kia nói thế nào?
Nan-đà đáp:
      
- Ngọc nữ kia mỗi người nói: 'Mỗi người 
chúng tôi đều không chồng. Nghe có đệ tử Thế Tôn khéo tu Phạm hạnh, sau 
khi mạng chung sẽ sanh đến đây'.
      
Thế Tôn bảo:
- Nan-đà! Ý Thầy thế nào?
Nan-đà đáp:
      
- Bấy giờ con tự nghĩ: 'Ta là đệ tử Thế 
Tôn, lại là con di mẫu của Phật. Các Thiên nữ này đều sẽ là vợ ta'.
Thế Tôn bảo:
- Thích thay, Nan-đà! Hãy khéo tu Phạm 
hạnh, Ta sẽ tác chứng cho Thầy, khiến năm trăm nữ nhân đều cấp cho Thầy.
      
Thế Tôn lại nói:
- Thế nào Nan-đà? Cô gái họ Thích 
Tôn-đà-lợi đẹp hay năm trăm thiên nữ này đẹp?
      
Nan-đà đáp:
      
- Ví như con khỉ mù trên núi trước 
Tôn-đà-lợi, không có tươi nhuận cũng không có sắc. Ðây cũng như thế, 
Tôn-đà-lợi trước Thiên nữ kia cũng vậy, không có sáng tươi.
Thế Tôn bảo:
- Thầy khéo tu Phạm hạnh, Ta sẽ chứng cho 
Thầy được năm trăm Thiên nhân này.
Bấy giờ Thế Tôn liền nghĩ: 'Nay Ta sẽ dùng 
lửa diệt lửa của Nan-đà'.
Ví như người có sức trong khoảng co duỗi 
cánh tay, Thế Tôn tay phải cầm cánh tay Nan-đà đưa đến địa nguc. Bấy giờ 
chúng sanh trong địa ngục chịu biết bao khổ não. Lúc ấy, trong địa ngục 
kia có một vạc lớn trống rỗng, chẳng có người. Thấy rồi, Nan-đà liền sanh 
sợ hãi, lông áo dựng đứng, đến trước Thế Tôn, bạch:
      
- Ở đây các chúng sanh đều chịu đau khổ, 
chỉ riêng có vạc này bỏ trống không người.
Thế Tôn nói:
- Ðây gọi là địa ngục A-tỳ.
      
Bấy giờ Nan-đà càng thêm khủng khiếp, lông 
áo dựng đứng, bạch Thế Tôn:
      
- Ðây là địa ngục A-tỳ mà sao có ngục 
trống, không có tội nhân?
Thế Tôn nói:
- Nan-đà! Thầy hãy tự đến hỏi đi.
      
Tôn giả Nan-đà liền tự đi hỏi:
      
- Thế nào ngục tốt, đây là ngục gì mà 
trống, không có người?
Ngục tốt đáp:
      
- Tỳ-kheo nên biết! Ðệ tử đức Phật 
Thích-ca tên là Nan-đà. Ông ta ở chỗ Như Lai, tịnh tu Phạm hạnh, thân hoại 
mạng chung sanh cõi lành, trên trời. Ở đó vị ấy sống lâu ngàn tuổi, khoái 
lạc vui thú, rồi lại ở đó chết, sanh vào địa ngục A-tỳ này. Cái vạc không 
này vì thế để trống.
      
Tôn giả Nan-đà nghe lời này xong, lòng 
hoảng sợ, lông áo dựng đứng, liền nghĩ: 'Cái vạc trống này chính là dành 
cho ta'.
Tôn giả Nan-đà vội đến chỗ Thế Tôn, cúi 
lạy, bạch Thế Tôn:
      
- Mong cho con được sám hối lỗi chính con, 
do chẳng tu Phạm hạnh, xúc nhiễu Thế Tôn.
      
Bấy giờ Tôn giả Nan-đà liền nói kệ:
Ðời người không đủ quý,
Trời hết thọ cũng mất,
Ðịa ngục khổ chua cay,
Chỉ có Niết-bàn vui.
Thế Tôn bảo Nan-đà:
- Lành thay! Lành thay! Như lời Thầy nói. 
Niết-bàn rất là tịnh lạc. Nan-đà! Ta nhận cho Thầy sám hối, Thầy ngu, Thầy 
si, tự biết lỗi. Nay Như Lai nhận lời hối lỗi của Thầy, sau chớ phạm nữa.
Bấy giờ Thế Tôn trong khoảng co duỗi cánh 
tay, tay nắm Nan-đà từ địa ngục biến mất, đến thành Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo Nan-đà:
- Nan-đà, nay Thầy nên tu hai pháp. Thế 
nào là hai pháp? Ðó là Chỉ và Quán. Lại nên tu thêm hai pháp. Thế nào là 
hai pháp? Là sanh tử chẳng đáng ưa, biết Niết-bàn là vui. Ðó là hai pháp. 
Lại nên tu thêm hai pháp, đó là trí và biện.
Bấy giờ Thế Tôn đem những pháp này thuyết 
cho Nan-đà. Tôn giả Nan-đà nhận lời Thế Tôn dạy xong, từ chỗ ngồi đứng 
lên, cúi lạy Phật rồi lui đi. Ðến vườn An-đà, Tôn giả ngồi kiết-già dưới 
một gốc cây, chánh thân chánh ý buộc niệm ở trước, suy nghĩ lời dạy này 
của Như Lai. Tôn giả ở chỗ nhàn tĩnh, hằng suy nghĩ lời dạy của Như Lai, 
không rời một phút chốc. Do đó vị vọng tộc này do lòng tin kiên cố, xuất 
gia học đạo, tu Phạm hạnh vô thượng, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, 
việc phải làm đã làm xong, lại không còn thọ thân sau, như thật mà biết. 
Lúc ấy Tôn giả Nan-đà liền thành A-la-hán. Ðã thành A-la-hán rồi, Tôn giả 
liền từ chỗ ngồi đứng lên, sửa sang y phục đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, ngồi 
một bên. Tôn giả Nan-đà bạch Thế Tôn:
- Thế Tôn trước hứa sẽ chứng cho đệ tử năm 
trăm thiên nữ, nay con xin bỏ hết.
Thế Tôn bảo:
- Nay Thầy sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã 
lập. Ta sẽ bỏ lời hứa.
Thế Tôn liền nói kệ:
Nay Ta thấy Nan-đà,
Tu hành pháp Sa-môn
Các ác đều đã dứt,
Ðầu đà không có mất.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Người đắc A-la-hán, nay là Tỳ-kheo 
Nan-đà. Không dâm, nộ, si cũng là Tỳ-kheo Nan-đà.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
*
8. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Thích-si-sấu, 
Ca-tỳ-la-vệ, trong vườn Ni-câu-lưu cùng chúng năm trăm đại Tỳ-kheo.
      
Bấy giờ Ðại Ái Ðạo Cù-đàm-di, liền đến chỗ 
Thế Tôn cúi lạy rồi bạch Thế Tôn:
      
- Mong Thế Tôn hằng giữ gìn mạng sống để 
giáo hóa lâu dài cho bọn ngu tối.
Thế Tôn bảo:
- Cù-đàm-di, chớ nên nói lời này với Như 
Lai. Thọ mạng của Như Lai vô cùng, Ta hằng giữ gìn mạng này.
Bấy giờ Ðại Ái Ðạo Cù-đàm-di liền nói kệ:
Thế nào lễ tối thắng,
Thế gian không ai bằng?
Dứt được tất cả nghi,
Cho nên nói lời này.
Thế Tôn lại dùng kệ đáp:
Tinh tấn ý khó thiếu,
Hằng có tâm dũng mãnh,
Bình đẳng nhìn Thanh văn,
Ðây tức lễ Như Lai.
Bà Ðại Ái Ðạo bạch Thế Tôn:
- Từ nay về sau con sẽ lễ Như Lai. Nay Như 
Lai dạy lễ tất cả chúng sanh không có ý thêm, bớt. Trên Trời, loài Người, 
và A-tu-la, Như Lai là tối thượng.
Thế Tôn hứa khả lời bà Ðại Ái Ðạo nói, bà 
liền từ chỗ ngồi đứng lên, lễ Phật rồi lui đi.
      
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ðệ tử hiểu rộng biết nhiều bậc nhất 
trong hàng Thanh Văn của Ta là Ðại Ái Ðạo.
Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ 
nâng làm.
*
9. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có hai hạng người này ở trong chúng Như 
Lai mà lại khởi lên sự phỉ báng. Thế nào là hai người? Là pháp sai nói là 
pháp đúng; nói pháp đúng là pháp sai. Ðó là hai người phỉ báng Như Lai.
Lại có hai người không phỉ báng Như Lai. 
Thế nào là hai? Nghĩa là pháp sai (phi pháp) nói là pháp sai, pháp đúng 
(chân pháp) nói là pháp đúng. Ðó là hai người không phỉ báng Như Lai. Thế 
nên, các Tỳ-kheo, pháp sai hãy nói là pháp sai, pháp đúng hãy nói là pháp 
đúng. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
*
10. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có hai hạng người gặt hái được phước vô 
lượng. Thế nào là hai? Với người đáng khen ngợi thì khen ngợi, người không 
đáng khen ngợi thì không khen ngợi. Ðó là hai người được phước vô lượng. 
Lại có hai người chịu tội vô lượng. Thế nào là hai? Nghĩa là người đáng 
khen ngợi lại phỉ báng, người không đáng khen ngợi mà lại khen ngợi. Các 
Tỳ-kheo, chớ học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
XIX. Phẩm Khuyến thỉnh
1. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Ma-kiệt, dưới cội 
Bồ-đề ở Ðạo tràng.
Bấy giờ Thế Tôn đắc đạo chưa bao lâu, liền 
sanh niệm này:
'Nay Ta đắc pháp rất sâu, khó hiểu khó rõ, 
khó thể hiểu biết, không thể tư duy. Trí thôi dứt vi diệu là sự hiểu biết 
có thể phân biệt nghĩa lý, tu tập không chán liền được hoan hỉ. Nếu Ta 
thuyết diệu pháp cho người, người không tin nhận cũng chẳng vâng làm; đã 
lao nhọc mà còn hao tổn. Nay Ta nên im lặng, đâu nên thuyết pháp'.
Bấy giờ Phạm thiên ở trên trời Phạm thiên 
biết Như Lai nghĩ như thế, ví như trong khoảng lực sĩ co duỗi cánh tay, 
liền biến mất ở trời Phạm thiên, đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một 
bên. Phạm thiên bạch Thế Tôn:
- Cõi Diêm-phù-đề này ắt sẽ bại hoại, con 
mắt của ba cõi bị mất. Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, xuất hiện ở đời, 
nên diễn bày pháp bảo. Nhưng nay Ngài lại chẳng diễn bày pháp vị, cúi mong 
Như Lai khắp vì chúng sanh, rộng nói pháp thâm sâu. Hơn nữa, chúng sanh ở 
đây căn nguyên dễ độ. Nếu người chẳng được nghe thì trọn mất pháp nhãn. 
Ðây Ngài nên vì pháp mà lưu truyền lại. Ví như hoa sen Ưu-bát, hoa 
Câu-mâu-đầu, hoa Phân-đà-lợi, tuy ra khỏi đất mà chưa ra khỏi nước, cũng 
chưa xòe nở. Bấy giờ, hoa kia dần dần muốn sanh mà chưa ra khỏi nước, hoặc 
lúc hoa này đã ra khỏi mặt nước, hoặc lúc hoa này không bị thấm nước. 
Chúng sanh đây cũng lại như thế, vì sanh, lão, bệnh, tử, chỗ thấy bức xúc, 
các căn đáng đã chín mùi. Như vậy, nếu không được nghe pháp thì sẽ tiêu 
mất, không khổ hay sao? Nay chính phải thời, cúi mong Thế Tôn hãy vì họ mà 
thuyết pháp.
Bấy giờ Thế Tôn biết tâm niệm của Phạm 
thiên, và từ mẫn tất cả chúng sanh nên nói kệ:
Nay Phạm thiên đến khuyên,
Như Lai mở pháp môn,
Người nghe dốc lòng tin,
Phân biệt pháp yếu sâu.
Như trên đảnh núi cao,
Xem khắp các chúng sanh,
Nay Ta có pháp này,
Thẳng đường bày pháp nhãn.
Phạm thiên liền nghĩ: 'Như Lai ắt sẽ vì 
chúng sanh mà thuyết pháp thâm diệu', rồi liền vui mừng hớn hở không xiết, 
lạy Phật rồi trở về Trời.
Bấy giờ Phạm thiên nghe Phật dạy xong, vui 
vẻ vâng làm.
*
2. 
Tôi nhe như vầy:
Một thời Phật ở nước Ba-la-nại, trong vườn 
Tiên nhân Lộc-uyển.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có hai việc này, người học đạo chẳng nên 
thân cận. Thế nào là hai việc? Nghĩa là tham đắm pháp dục và lạc. Ðây là 
pháp tầm thường ti tiện. Lại đây là trăm mối khổ não. Ðó là hai việc người 
học đạo chẳng nên thân cận. Như thế, bỏ hai việc này rồi, Ta tự có đạo chí 
yếu, được thành Chánh giác, nhãn sanh, trí sanh, ý được thôi dứt, được các 
thần thông, thành quả vị Sa-môn, đến Niết-bàn.
Thế nào là đạo chí yếu được thành Chánh 
giác khiến nhãn sanh, trí sanh, ý được thôi dứt, được các thần thông, 
thành quả Sa-môn, đến Niết-bàn? Nghĩa là Tám đạo phẩm này vậy, đó là Ðẳng 
kiến, Ðẳng tri, Ðẳng ngữ, Ðẳng nghiệp, Ðẳng mạng, Ðẳng phương tiện, Ðẳng 
niệm, Ðẳng định. Ðây gọi là nhãn sanh, trí sanh, ý được thôi dứt, được các 
thần thông, thành quả Sa-môn, đến Niết-bàn. Như vậy, các Tỳ-kheo, nên học 
bỏ hai việc trên và tu tập đạo chí yếu. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học 
điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
La-vân, Ca-diếp, Long,
Hai nạn, Ðại Ái Ðạo,
Phỉ báng, phi phạm pháp,
Hai việc ở sau cùng.
*
3. 
Tôi nghe như vầy
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân đến chỗ Thế 
Tôn, cúi lạy và đứng một bên rồi bạch:
- Thế nào là Tỳ-kheo cắt đứt ái dục, tâm 
được giải thoát, đến chỗ cứu cánh an ổn, không có các hoạn nạn. Trời Người 
cung kính?
      
Thế Tôn bảo Thích-đề-hoàn-nhân:
- Ở đây, này Câu-dực (Kiều-thi-ca), nếu 
các Tỳ-kheo nghe pháp 'không' này, hiểu không chỗ có, thì được hiểu rõ tất 
cả các pháp, như thực biết; thân giác tri pháp khổ vui. Nếu pháp không khổ 
không vui thì ở thân này quán tất cả đều vô thường, đều qui về không. 
Người đó đã quán sự biến đổi của không khổ, không vui này thì không khởi 
tưởng, vì không có tưởng thì không sợ hãi, đã không sợ hãi thì 
Bát-niết-bàn; sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, 
không còn thọ thân sau nữa, như thật mà biết. Ðây là, này 
Thích-đề-hoàn-nhân, Tỳ-kheo cắt đứt ái dục, tâm được giải thoát bèn đến 
chỗ cứu cánh an ổn, không có tai nạn, Trời Người cung kính.
      
Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân cúi lạy Thế 
Tôn, nhiễu ba vòng mà lui.
Ngay lúc đó, tôn giả Ðại Mục-kiền-liên 
cách Thế Tôn không xa, ngồi kiết-già, chính thân, chính ý, buộc niệm ở 
trước. Tôn giả Mục-kiền-liên nghĩ: 'Vừa rồi Ðế Thích được đạo tích mà hỏi 
sự, hay chẳng được đạo tích mà hỏi nghĩa? Nay ta nên thử xem.
Bấy giờ Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên dùng 
thần túc, như trong khoảng co duỗi cánh tay liền đến cõi trời Ba mươi ba. 
Lúc đó, Thích-đề-hoàn-nhân thấy Ðại Mục-kiền-liên từ xa đến, liền đứng lên 
tiếp đón mà nói:
- Kính chào Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên! Ðã 
lâu Tôn giả ngài không đến đây! Rất mong được luận thuyết pháp nghĩa với 
Tôn giả. Mời Tôn giả ngồi đây.
      
Mục-kiền-liên hỏi Thích-đề-hoàn-nhân:
- Thế Tôn thuyết pháp đoạn ái dục cho Ông, 
tôi muốn được nghe. May thật đúng lúc, Ông hãy thuyết cho tôi.
Thích-đề-hoàn-nhân bạch:
- Nay tôi việc chư Thiên bận rộn, hoặc có 
việc của mình, hoặc có việc của chư Thiên. Tôi nghe được gì tức thời quên 
mất. Thưa Tôn giả Mục-kiền-liên, khi xưa tôi đánh nhau với các A-tu-la, 
ngay khi đánh nhau, chư Thiên đắc thắng, A-tu-la phải lui. Bấy giờ tôi 
cũng đích thân giao chiến, rồi dẫn chư Thiên trở về thiên cung, ngồi ở 
giảng đường Tối Thắng. Nhân vì đánh thắng nên gọi là giảng đường Tối 
Thắng, đường lối thành hàng, bờ bờ gặp nhau. Mỗi một đầu đường có bảy trăm 
lầu gác, trên mỗi một lầu gác có bảy ngọc nữ, mỗi một ngọc nữ có bảy người 
hầu. Mời Tôn giả Mục-liên đến đó ngắm xem.
      
Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân cùng Thiên 
vương Tỳ Sa-môn theo sau Tôn giả Mục-liên đến giảng đường Tối Thắng. 
Thích-đề-hoàn-nhân và Thiên vương Tỳ Sa-môn bạch với Ðại Mục-kiền-liên:
- Ðây là giảng đường Tối Thắng, Tôn giả 
đều có thể dạo xem.
      
Mục-kiền-liên bảo Thiên vương:
- Chỗ này hết sức vi diệu, đều do tiền 
thân tạo phước đức mà được đến bảo đường tự nhiên này. Ví như có ít chỗ 
vui ở nhân gian, mỗi chỗ tự vui thú như cung trời không khác, đều do đời 
trước tạo phước mà được.
      
Bấy giờ ngọc nữ ở chung quanh 
Thích-đề-hoàn-nhân đều bỏ chạy tứ tán giống như chỗ cấm kỵ nhân gian, họ 
đều ôm lòng hổ thẹn. Lúc này Thích-đề-hoàn-nhân cùng ngọc nữ cũng lại như 
thế, xa thấy Ðại Mục-kiền-liên đến đều vùng chạy tứ tán. Ðại Mục-kiền-liên 
liền nghĩ: 'Thích-đề-hoàn-nhân này ý rất phóng dật, ta phải khiến cho sợ 
hãi mới được'.
      
Bấy giờ, Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên liền 
lấy ngón chân phải ấn xuống đất. Cung điện kia sáu lần chuyển động. 
Thích-đề-hoàn-nhân và Thiên vương Tỳ Sa-môn lòng đều kinh sợ, lông áo dựng 
đứng, nghĩ: 'Ðại Mục-kiền-liên này có đại thần túc, có thể làm cung điện 
này sáu phen chấn động, hết sức lạ lùng, thật chưa từng có'.
Ðại Mục-kiền-liên nghĩ: 'Nay 
Thích-đề-hoàn-nhân này đã kinh sợ rồi, ta nên hỏi thâm nghĩa'.
- Thế nào Câu-dực? Như Lai thuyết kinh trừ 
ái dục, nay chính phải lúc, xin Ông nói lại cho tôi.
Thích-đề-hoàn-nhân đáp:
      
- Thưa Tôn giả Mục-liên! Lúc trước tôi đến 
chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên. Khi ấy tôi bạch Thế Tôn:
'Thế nào là Tỳ-kheo đoạn đứt ái dục, tâm 
được giải thoát, đến chỗ cứu cánh vô vi, không có hoạn khổ, được Trời 
Người cung kính?'.
      
Thế Tôn liền bảo tôi:
- 'Ở đây, này Câu-dực! Các Tỳ-kheo nghe 
pháp xong, không còn chỗ dính mắc, cũng không dính sắc, hiểu hết tất cả 
các pháp trọn không chỗ có; đã biết tất cả các pháp rồi, hoặc khổ, hoặc 
vui, hoặc không khổ không vui, quán rõ vô thường, diệt tận không sót, cũng 
không đoạn hoại. Họ đã quán như thế xong, không còn dính mắc, đã chẳng 
khởi tưởng thế gian, lại không sợ hãi; đã không sợ hãi, liền Bát-niết-bàn. 
Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ 
thân sau nữa, như thật mà biết. Ðó là, này Thích-đề-hoàn-nhân, Tỳ-kheo 
đoạn dục, tâm được giải thoát, liền đến chỗ cứu cánh vô vi, không có hoạn 
khổ, được Trời Người cung kính'.
      
Bấy giờ tôi nghe lời này xong, liền cúi 
lạy Thế Tôn, nhiễu ba vòng, rồi lui trở về cõi Trời.
Khi ấy, Tôn giả Mục-kiền-liên đem lời pháp 
thâm sâu phân biệt đầy đủ cho Thích-đề-hoàn-nhân và Tỳ Sa-môn. 
Mục-kiền-liên thuyết pháp đầy đủ rồi, ví như trong khoảng lực sĩ co duỗi 
cánh tay, từ cõi trời Ba mươi ba biến mất, đến thành Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc, tới chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên.
Bấy giờ Mục-kiền-liên ở ngay trên tòa 
ngồi, bạch Thế Tôn:
- Như Lai trước thuyết pháp trừ ái dục cho 
Thích-đề-hoàn-nhân. Cúi mong Thế Tôn hãy nói cho con.
Thế Tôn bảo Mục-kiền-liên:
- Thầy nên biết, Thích-đề-hoàn-nhân đến 
chỗ của Ta, cúi lạy rồi đứng một bên. Thích-đề-hoàn-nhân hỏi Ta nghĩa này:
- 'Bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo đoạn 
ái dục, tâm được giải thoát?'. Ta bảo Thích-đề-hoàn-nhân:
- 'Câu-dực! Nếu có Tỳ-kheo hiểu biết tất 
cả các pháp 'không', không chỗ có, cũng không chỗ dính mắc, hiểu hết tất 
cả các pháp trọn không chỗ có. Ðã biết tất cả các pháp vô thường, diệt tận 
không sót, cũng không đoạn hoại; vị ấy đã quán như thế xong, không còn chỗ 
dính mắc, không khởi tưởng thế gian, không còn kinh sợ. Ðã không kinh sợ, 
vị ấy liền Bát-niết-bàn, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm 
đã làm xong, không còn thọ thân sau nữa, như thật mà biết. Ðó là, này 
Thích-đề-hoàn-nhân, Tỳ-kheo đoạn dục, tâm được giải thoát'.
      
Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân kia liền từ chỗ 
ngồi đứng dậy, cúi lạy chân Ta rồi lui về cõi trời.
Bấy giờ, Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên nghe 
Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
4. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Thế gian có hai người này, nếu có thấy 
sấm rền sét giật, chẳng ôm lòng sợ hãi. Thế nào là hai người? Là Sư tử, 
vua loài thú và bậc lậu tận A-la-hán. Ðó là, này Tỳ-kheo, có hai người này 
ở thế gian nếu thấy sấm rền sét giật, không ôm lòng hoảng sợ. Thế nên, các 
Tỳ-kheo, nên học bậc lậu tận A-la-hán. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học 
điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
*
5. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có hai pháp này khiến người không có trí 
tuệ. Thế nào là hai pháp? Là chẳng thích hỏi người hơn mình; chỉ tham ngủ 
nghỉ, không có ý tinh tấn. Ðó là, này Tỳ-kheo có hai pháp khiến người 
không có trí tuệ.
Lại có hai pháp khiến người thành đạt trí 
tuệ. Thế nào là hai pháp? Là thích hỏi nghĩa ở người khác; không tham ngủ 
nghỉ, có ý tinh tấn. Ðó là, này Tỳ-kheo, có hai pháp này khiến người có 
trí tuệ, hãy học xa lìa pháp ác. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều 
này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
*
6. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có hai pháp này khiến người bần tiện 
chẳng được tài sản. Thế nào là hai pháp? Nếu lúc thấy người khác bố thí, 
liền cấm chế; lại tự mình chẳng chịu bố thí. Ðó là, này Tỳ-kheo, có hai 
pháp này khiến người bần tiện không có tài bảo. Tỳ-kheo, lại có hai pháp 
khiến người phú quý. Thế nào là hai pháp? Nếu lúc thấy người cho người 
khác vật, liền hoan hỉ trợ giúp; tự mình cũng thích bố thí. Ðó là, này 
Tỳ-kheo, có hai pháp khiến người phú quý. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy 
học bố thí, chớ có tâm tham!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
*
7. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có hai pháp khiến người sanh trong nhà 
bần tiện. Thế nào là hai pháp? Chẳng hiếu để với cha mẹ, các bậc sư 
trưởng, cũng không thừa sự người hơn mình. Ðó là, Tỳ-kheo, có hai pháp 
này, khiến người sanh trong nhà bần tiện.
Này các Tỳ-kheo, lại có hai pháp khiến 
người sanh trong nhà hào tộc. Thế nào là hai pháp? Cung kính cha mẹ, anh 
em, tông tộc, đem của cải nhà mình bố thí. Ðó là, này Tỳ-kheo, có hai pháp 
này sanh trong nhà hào tộc. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
*
8. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, con gái Phạm chí tên là Tu-thâm 
đến chỗ Tôn giả Câu-hy-la, đến rồi cúi lạy, ngồi một bên.
Cô Tu-thâm con Phạm chí kia bạch 
Câu-hy-la:
- Ưu-đạp-lam-phất và La-lặc-ca-lam ở trong 
thâm pháp này trọn không được nhận sự giáo hóa, mỗi người bị mạng chung. 
Thế Tôn thọ ký cho hai người này; một người sanh Bất dụng xứ (Vô sở hữu 
xứ), một người sanh Hữu tưởng vô tưởng xứ (Phi phi tưởng xứ). Hai người ày 
thọ mạng hết lại mạng chung, một người sẽ làm quốc vương ở biên địa, gây 
hại cho nhân dân không thể tính kể, một người làm chồn ác mang cánh, các 
loài thú bay, đi, chạy đều không thoát khỏi được. Hai người này sau khi 
mạng chung lại sanh trong địa ngục. Nhưng Thế Tôn không thọ ký họ chừng 
nào sẽ dứt được mé khổ? Cớ sao Thế Tôn không thọ ký họ sẽ dứt mé khổ?
      
Bấy giờ Tôn giả Câu-hy-la bảo cô Tu-thâm:
- Sở dĩ Thế Tôn không nói, là vì không có 
ai hỏi nghĩa này. Thế nên Thế Tôn không thọ ký người kia bao giờ sẽ dứt mé 
khổ.
Cô Tu-thâm nói:
- Ở đây Thế Tôn đã nhập Niết-bàn, vì thế 
con không hỏi được. Nếu Ngài còn tại thế, con sẽ đến hỏi nghĩa này. Như 
nay Tôn giả Câu-hy-la hãy nói cho con, người kia bao giờ dứt mé khổ?
Bấy giờ Tôn giả Câu-hy-la liền nói kệ này:
Các thứ quả chẳng đồng,
Cõi chúng sanh cũng thế,
Người tự giác, giác tha,
Tôi không biện (rõ) thuyết này.
Thiền trí biện giải thoát,
Nhớ gốc Thiên nhãn thông,
Năng dứt nguồn gốc khổ,
Tôi không biện thuyết này.
Bấy giờ cô Tu-thâm liền nói kệ:
Thiện Thệ có trí này,
Chất trực không tỳ vết,
Dũng mãnh có chỗ phục,
Cầu ở hạnh Ðại thừa.
Tôn giả Câu-hy-la lại nói kệ:
Ý này rất khó được,
Hay được pháp yếu khác,
Khó vì đó biện được,
Hướng đến việc kỳ đặc.
      
Bấy giờ Tôn giả thuyết pháp yếu đầy đủ cho 
cô Tu-thâm, cô liền phát tâm vui mừng, từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy rồi 
lui đi.
      
Cô Tu-thâm nghe Tôn giả Câu-hy-la nói 
xong, vui vẻ vâng làm.
*
9. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Tôn giả Ðại Ca-chiên-diên dạo đến 
nước Bà-na, ở bên bờ ao sâu cùng với chúng năm trăm đại Tỳ-kheo.
      
Bấy giờ Tôn giả Ca-chiên-diên danh vang 
khắp bốn phương. Trưởng lão Bà-la-môn Gian-trà đang du hóa ở đây. Lúc ấy 
Bà-la-môn nghe Tôn giả Ca-chiên-diên cùng năm trăm Tỳ-kheo du hóa bên ao 
này, nghĩ rằng: 'Tôn giả trưỡng lão công đức đầy đủ, nay ta có thể đến 
thăm hỏi Tôn giả'.
      
Bấy giờ Bà-la-môn Thượng Sắc đem năm trăm 
đệ tử đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên, thăm hỏi nhau xong, ngồi một bên. Lúc 
ấy, Bà-la-môn kia hỏi Tôn giả Ca-chiên-diên:
- Như Ca-chiên-diên đây không hành đúng 
pháp luật. Là Tỳ-kheo trẻ tuổi mà chẳng chịu làm lễ các bậc cao đức 
Bà-la-môn của chúng tôi.
Tôn giả Ca-chiên-diên nói:
- Bà-la-môn nên biết, đức Như Lai Chí Chân 
Ðẳng Chánh Giác thuyết hai địa vị này. Thế nào là hai địa vị? Một là địa 
vị già cả, hai là địa vị trai tráng.
      
Bà-la-môn hỏi:
- Thế nào là địa vị già cả? Thế nào là địa 
vị trai tráng?
      
Ca-chiên-diên đáp:
      
- Cho dù, này Bà-la-môn, người ở tuổi tám 
mươi, hay chín mươi, không dừng được dâm dục, làm các hạnh ác. Này 
Bà-la-môn, đây là người tuy có thể bảo là già, mà nay ở địa vị trai tráng.
      
Bà-la-môn hỏi:
- Thế nào là tuổi trai tráng mà ở địa vị 
già cả?
Ca-chiên-diên đáp:
      
- Bà-la-môn, nếu có Tỳ-kheo độ hai mươi, 
ba mươi, bốn mươi, năm mươi tuổi. Người ấy chẳng tập quen dâm dục, cũng 
chẳng tạo hạnh ác. Ðó là Bà-la-môn trai tráng mà ở địa vị già cả.
Bà-la-môn hỏi:
- Trong đại chúng này có một Tỳ-kheo không 
hành dâm dục, chẳng tạo ác hạnh không?
Ca-chiên-diên đáp:
      
- Trong đại chúng này không có một Tỳ-kheo 
nào tập dục, làm ác cả.
Bà-la-môn liền từ chỗ ngồi đứng lên, lạy 
các Tỳ-kheo mà nói:
- Nay các Ông tuổi niên thiếu mà ở địa vị 
già cả, còn tôi tuổi già mà ở địa vị niên thiếu.
Bấy giờ Bà-la-môn kia đến chỗ Tôn giả 
Ca-chiên-diên cúi lạy và tự trình bày:
- Nay con xin quy y Tôn giả Ca-chiên-diên 
và Tỳ-kheo Tăng, suốt đời không sát sanh.
      
Tôn giả Ca-chiên-diên nói:
- Nay Ông chớ quy y tôi. Ông nên hướng về 
chỗ tôi quy y.
Bà-la-môn hỏi:
- Tôn giả Ca-chiên-diên quy y ai?
Tôn giả Ca-chiên-diên liền quỳ gối hướng 
về chỗ Như Lai nhập Niết-bàn, nói:
- Có người dòng họ Thích xuất gia học đạo, 
tôi hằng tự quy y Ngài. Người ấy chính là Thầy tôi. 
Bà-la-môn nói:
- Nay Sa-môn Cù-đàm ở đâu? Tôi muốn gặp 
Ngài.
Tôn giả Ca-chiên-diên nói:
- Vị Như Lai ấy đã nhập Niết-bàn rồi.
Bà-la-môn nói:
- Nếu Như Lai ở đời, con bèn có thể đi 
trăm ngàn do-tuần đến thăm hỏi. Như Lai kia tuy nhập Niết-bàn, nay con một 
lần nữa tự quy y Ngài, làm lễ cùng Phật, Pháp và chúng Tăng, suốt đời 
không sát sanh nữa.
      
Bấy giờ Bà-la-môn Thượng Sắc nghe Tôn giả 
Ca-chiên-diên nói xong, vui vẻ vâng làm.
*
10. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có hai người xuất hiện ở đời, rất khó 
gặp được. Thế nào là hai người? Ðó là người hay thuyết pháp xuất hiện ở 
đời rất khó được gặp; người hay nghe pháp thọ trì vâng làm rất khó được 
gặp. Ðó là, này Tỳ-kheo, có hai người xuất hiện ở đời rất khó được gặp. 
Thế nên, các Tỳ-kheo, nên học thuyết pháp, nên học nghe pháp. Như thế, này 
các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, 
vui vẻ vâng làm.
*
11. 
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hành ở nước Ma-kiệt cùng 
chúng năm trăm đại Tỳ-kheo, dần dần đến thành Tỳ-xá-ly, bấy giờ sắp đến 
phía Bắc Tỳ-xá-ly, trong vườn của cô Am-bà-bà-lợi.
Lúc ấy, cô Am-bà-bà-lợi nghe Thế Tôn đến 
trong vườn cùng năm trăm đại Tỳ-kheo, bèn cỡi xe vũ bảo (có tràng che) ra 
khỏi thành Tỳ-xá-ly, đến đầu ngõ hẹp, tự xuống xe đến chỗ Thế Tôn. Bấy giờ 
Thế Tôn thấy cô ta từ xa đi lại, liền bảo các Tỳ-kheo:
      
- Tất cả hãy chuyên tinh, chớ khởi tưởng 
tà.
Cô ta đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một 
bên. Bấy giờ Thế Tôn thuyết pháp cực diệu cho cô. Thuyết pháp cực diệu 
rồi, cô bạch Phật:
- Cúi mong Thế Tôn, xin nhận lời mời và 
Tỳ-kheo Tăng.
      
Thế Tôn lặng thinh nhận lời cô thỉnh. Cô 
thấy Thế Tôn im lặng nhận lời rồi liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy, cáo 
từ trở về.
Bấy giờ trai gái lớn bé trong thành 
Tỳ-xá-ly nghe Thế Tôn đang ở trong vườn Am-bà-bà-lợi cùng năm trăm đại 
Tỳ-kheo. Trong thành có năm trăm đồng tử cỡi các thứ xe vũ bảo; trong đó 
hoặc có người cỡi xe trắng, ngựa trắng, áo dù tràng lọng, thị tùng đều 
trắng; có người cỡi xe đỏ, ngựa đỏ, áo dù tràng lọng, thị tùng đều đỏ; có 
người cỡi xe xanh, ngựa xanh, áo dù tràng lọng, thị tùng đều xanh; hoặc 
cỡi xe vàng, ngựa vàng, áo dù tràng lọng, thị tùng đều vàng; oai nghi dung 
mạo trang sức như cách của các vị vua, ra khỏi thành Tỳ-xá-ly đến chỗ Thế 
Tôn. Còn cách một khoảng, giữa đường họ gặp cô gái kia cỡi xe trâu về phía 
trong thành. Các đồng tử hỏi cô:
      
- Cô là đàn bà đáng lẽ phải xấu hổ. Sao 
lại đánh trâu chạy xe vào trong thành?
Cô gái đáp:
      
- Chư Hiền nên biết, ngày mai tôi thỉnh 
Phật và Tỳ-kheo Tăng nên mới chạy xe.
Các đồng tử nói:
      
- Tôi cũng muốn mời Phật và Tỳ-kheo Tăng 
thọ thực. Nay cho Cô hai ngàn lạng vàng ròng, hãy để cái hẹn ngày mai cho 
chúng tôi cúng dường thức ăn.
      
Cô gái đáp:
      
- Không được, không được! Các Công tử! Tôi 
không chịu đâu!
      
Các đồng tử lại nói:
      
- Cho Cô hai ngàn lượng, ba ngàn, bốn 
ngàn, năm ngàn cho đến trăm ngàn lượng vàng, chịu hay không chịu cho chúng 
tôi ngày mai thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng thọ thực?
      
Cô gái đáp:
      
- Tôi không chịu. Bởi vì Thế Tôn thường 
nói: 'Có hai hy vọng người đời không thể xa lìa. Hai cái gì? Là mong mỏi 
lợi lộc và mạng sống'. Ai có thể bảo đảm cho tôi đến ngày mai? Tôi đã 
thỉnh Như Lai trước, nay sẽ lo đầy đủ.
      
Các đồng tử giơ tay lên:
- Chúng ta bao nhiêu người như vầy mà 
chẳng bằng cô gái.
Nói xong mỗi người chia tay đi. Rồi các 
đồng tử đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên. Bấy giờ Thế Tôn thấy 
các đồng tử đến, bảo các Tỳ-kheo:
      
- Tỳ-kheo các Thầy, xem các đồng tử uy 
dũng, phục sức như lúc trời Ðế Thích xuất du, xem giống như nhau không 
khác.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các đồng tử:
      
- Thế gian có hai việc thật không thể 
được. Thế nào là hai? Người có đền đáp và người chịu ơn nhỏ thường chẳng 
quên, huống lớn lao. Ðó là, này các Ðồng tử, có hai việc rất khó được. 
Ðồng tử nên biết, hãy nhớ báo đáp và biết ơn nhỏ chẳng quên, huống là ơn 
lớn.
Thế Tôn liền nói kệ:
Tri ân biết báo đáp,
Hằng nhớ người dạy dỗ,
Người trí cung kính hầu,
Danh vang khắp Trời, Người.
Như thế, các Ðồng tử, nên học điều này.
Thế Tôn thuyết pháp vi diệu đầy đủ cho các 
đồng tử. Nghe xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy và lui đi.
      
Trong đêm đó, cô gái bày biện các thứ ăn 
uống ngon ngọt, trải các tọa cụ. Sáng sớm cô liền đến bạch Phật:
      
- Giờ đã đến, nay chính phải thời, cúi 
mong Thế Tôn hạ cố đến nhà con.
Bấy giờ Thế Tôn đắp y, ôm bát, cùng các 
Tỳ-kheo trước sau vây quanh đến nhà cô gái ở thành Tỳ-xá-ly.
Lúc cô thấy Thế Tôn đã ngồi yên, liền tự 
tay dâng thức ăn lên Phật và Tỳ-kheo Tăng. Phật và Tỳ-kheo Tăng dùng cơm 
xong rửa tay, cô đi lấy nước trong sạch lại, rồi lấy một ghế chạm vàng 
nhỏ, đến trước Thế Tôn ngồi xuống. Cô bạch Thế Tôn: 
      
- Vườn Am-bà-bà-lợi này xin dùng dâng lên 
Như Lai và Tỳ-kheo Tăng để chúng Tăng tương lai, quá khứ, hiện tại được 
dừng nghỉ ở đây. Mong Thế Tôn nhận vườn này.
Bấy giờ Thế Tôn vì cô mà nhận vườn này. 
Thế Tôn bèn nói bài chú nguyện:
Vườn quả thì mát mẻ,
Cầu đò đưa nhân dân,
Gần đường làm cầu xí,
Nhân dân được nghỉ ngơi.
Ngày đêm được an ổn,
Phước đó không kể xiết,
Các pháp giới thành tựu,
Chết ắt sanh lên Trời.
      
Bấy giờ Thế Tôn nói lời ghi nhận này xong, 
liền đứng lên đi. Cô gái nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Ðoạn ái và Sư tử,
Vô trí, kém tiền của,
Nhà nghèo, cô Tu-thân,
Ca-chiên thuyết (pháp), cô gái.
-ooOoo-