Thiền học
Kinh pháp thiền bí yếu
Hán dịch : Cưu-ma-la-thập Việt dịch : Nhựt Chiếu
16/11/2553 13:15 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

LỜI TỰA CỦA BẢN VIỆT NGỮ

Một hôm thầy Phước Tịnh đưa tôi vào Thiền viện Trúc Lâm. Ðược thầy Thông Phương cho phép chúng tôi lên tàng kinh các xem một số kinh sách theo dự định. Sau khi duyệt sơ qua vài tập kinh thuộc Ðại tạng chữ Hán, tôi nhìn thấy ở gốc trái của kệ sách có một số tài liệu thiền của Trung Hoa và Việt Nam. Tôi lưu ý một tập sách nhỏ: THIỀN BÍ YẾU PHÁP. Ngay cái tựa đề đã gợi sự tò mò, nên mượn thầy Thông Phương về photo.

Sau hai mươi ngày làm việc, tập Thiền kinh này đã được dịch xong, gồm 4 quyển. Trong 3 quyển đầu có 30 phép quán: Từ phép quán bất tịnh thứ nhất, Ðức Phật dạy Tỳ-kheo Ma-ha Ca-hy-la Nan-đà, để trừ nghiệp chướng phóng dật ngã mạn đời trước, thành A-la-hán, đến phép quán phong đại thứ 30. Với những phép quán này, hành giả sẽ đạt đến cảnh giới tối thắng, thành A-na-hàm.

Ba mươi phép quán nói trên rất phức tạp, chủ yếu là quán xương trắng, quán bất tịnh, quán sổ tức và quán tứ đại. Những cảnh giới trong định quá nhiều, quá rộng, chúng xuất hiện tùy theo căn cơ nghiệp cảm của hành giả. Do đó không dễ gì hình dung một cách rõ ràng đầy đủ qua lời tường thuật. Các phép quán cũng yêu cầu người hành trì có một sức định rất sâu.

Trong quyển thứ tư, Ngài Ma-ha Ca-diếp thưa thỉnh Ðức Phật: Vì sao tỳ-kheo A-kỳ-đạt-đa, đệ tử của Ngài, tu hành tinh tấn đắc quả A-na-hàm mà không tiến đến quả vị A-la-hán được. Nhân đó Ðức Phật dạy tỳ-kheo A-kỳ-đạt quán tứ đại, quán năm ấm đều vô thường, khổ, không, vô ngã. A-kỳ-đạt nghe lời Ðức Phật dạy hoát nhiên ý được khai mở, đắc quả A-la-hán. Sau đó Ðức Phật nói rộng về tất cả cảnh giới rất vi tế mà một hành giả cần phải phân biệt trên đường tu tập từ A-na-hàm đến A-la-hán.

Tập Thiền kinh này được Ngài Cưu-ma-la-thập dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán. Nó thuộc truyền thống thiền nguyên thủy. Nhưng khi được truyền lên phương bắc thì cách diễn đạt mang sắc thái Ðại thừa. Bản chữ Hán này được khắc in ở Kim Lăng tháng ba năm Dân Quốc thứ mười. Có lẽ vì lý do kỹ thuật nên có một sai sót đáng tiếc: Trong 30 phép quán, cuối mỗi phép đều có ghi số thứ tự, chỉ riêng phép quán thứ 26 không ghi, đến số 27 và 28 lại ghi là 26 và 27. Do đó không có số 28 mà đến ngay 29 và 30. Vì vậy người dịch điều chỉnh lại đúng theo thứ tự, và thêm số la mã ở đầu mỗi phép quán để phân biệt rõ ràng.

Do khả năng hạn chế của người dịch, chắc chắn bản Việt ngữ này có nhiều sai sót- ngay bản chữ Hán đã sai sót rồi. Hơn nữa, người dịch không có những dị bản để đối chiếu và quyết trạch, thì việc lầm lẫn không sao tránh khỏi được. Cúi mong các bực thức giả niệm tình phủ chính.