Thiền học
Thiếu Thất Lục Môn
Trúc Thiên
08/01/2555 11:11 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

NGỘ TÁNH LUẬN

(GHI CHÚ: phần màu xanh do tôi thêm vào để thích nghĩa cho rõ)

Phàm là đạo, phải lấy sự tịch diệt làm thể

Là tu, lấy sự lìa hình tướng làm tông.

Nên kinh nói:

Tịch diệt là Bồ-Đề. Diệt hết hình tướng,

Là Phật, nghĩa là Giác vậy.

Người có giác tâm, được đạo Bồ-Đề, nên gọi là Phật.

Kinh nói:

Lìa tất cả hình tướng tức gọi là chư Phật.

Nên biết tướng Phật là có tướng mà không tướng. Không thể thấy bằng mắt, chỉ biết được bằng trí.

Ai nghe pháp ấy mà chợt phát lòng tin là người ấy đang nương pháp đại thừa siêu lên ba cõi.

Ba cõi ấy là tham, sân, si vậy.

Chuyển ngược tham, sân, si làm giới, định, huệ tức gọi siêu lên ba cõi. Tuy nhiên tham, sân, si chẳng có thực tính, chỉ bằng vào chúng sanh mà đặt tên. Nếu có thể soi ngược trở lại thì sẽ thấy rõ:

Tánh của tham, sân, si là tánh Phật. Ngoài tham, sân, si tuyệt không có tánh Phật nào khác.
Kinh nói:

Từ vô thỉ đến nay chư Phật luôn cư xử ở nơi ba độc, nuôi lớn ở trong bạch pháp, mà thành tựu quả Thế Tôn.

Ba độc ấy là tham, sân, si vậy.

Nói Đại thừa, Tối thượng thừa là nói chỗ sở hành của hàng Bồ-Tát.

Không gì là chẳng thừa, mà cũng không gì gọi được là thừa, suốt ngày thừa mà chưa hề thừa, đó là Phật thừa.

Kinh nói: Lấy vô thừa làm Phật thừa vậy.

Thừa tức là cưỡi. Bồ Tát cưỡi xe lớn, thuyền lớn vào bể lớn sinh tử để cứu độ chúng sinh. Các ngài dùng mọi phương tiện thích hợp để độ sinh cho nên nói không gì là chẳng thừa. Tuy nhiên việc độ sinh đó chỉ là hình tướng. Còn nơi các ngài an trụ là ở Niết Bàn, chưa hề động một cái móng tay. Cho nên nói: không gì gọi được là thừa. Cũng gọi là: suốt ngày thừa mà chưa hề thừa. Đó là Phật thừa. 

Nếu người biết sáu căn vốn không thực, năm uẩn chỉ giả danh, không thể dựa vào đâu mà cầu cạnh gì được, người ấy quả thông suốt lời Phật.

Kinh nói: Hang ổ của năm uẩn là tên gọi của thiền viện.

Chiếu sáng bên trong mà mở thông suốt, tức là cửa đại thừa.

Chẳng nhớ tưởng một pháp nào mới gọi là thiền định.

Ví hiểu rõ lời ấy thì đi đứng, ngồi, nằm thảy đều là thiền định cả.

Tại sao nói “Hang ổ của năm uẩn là tên gọi của thiền viện “? nói vậy tức xem thân này là nơi để thiền định

“Chiếu sáng bên trong mà mở thông suốt, tức là cửa đại thừa” có nghĩa trong tâm sáng suốt, thông với pháp giới.

“Chẳng nhớ tưởng một pháp nào mới gọi là thiền định” Chẳng nhớ một pháp nào, tức trong tâm không một niệm. Có tâm quá khứ tức tưởng nhớ. có tâm vị lai tức tưởng tượng. Nếu để tâm ở hiện tại tức có tác ý. Cũng chưa thích hợp với Phật tánh, vốn tịch diệt, lặng lẽ. Chỉ cần bỏ quách đi cả là xong. Và như vậy tức là trong tâm không một niệm.

Biết tâm vốn là không, đó gọi là thấy Phật.

Vì sao vậy? Vì mười phương chư Phật đều nhân vì vô tâm, chẳng thấy ở tâm, đó là thấy Phật.

Xả tâm không nuối tiếc gọi là đại bố thí.

Lìa hết động và tịnh gọi là đại tọa thiền.

Tại sao vậy?

Kẻ phàm mỗi mỗi đều hướng về động.

Hàng tiểu thừa mỗi mỗi đều hướng về định.

Vượt lên cả cái lầm hiếu động của phàm phu và hiếu định ngồi thiền của tiểu thừa mới gọi là đại tọa thiền.

Nếu có được sức lãnh hội ấy thì chẳng cần lìa mà tướng tướng tự cởi bỏ, chẳng cần trị mà bệnh bệnh tự trừ, ấy đều là định lực của phép đại tọa thiền.

Phàm đem tâm cầu pháp ấy là mê.

Chẳng đem tâm cầu pháp ấy là ngộ.

Chẳng mắc vào chữ nghĩa gọi là giải thoát.

Chẳng nhiễm sáu trần gọi là hộ pháp.

Xuất lìa sanh tử gọi là xuất gia.

Chẳng chịu hậu hữu gọi là được đạo.

Chẳng nổi vọng tưởng gọi là Niết – Bàn.

Chẳng đối xử với vô minh gọi là trí huệ lớn.

Chỗ không phiền não gọi là Bát Niết Bàn.

Chỗ không tướng gọi là bờ bên kia.

Người mê thì còn cầu pháp

Người ngộ thì không mong cầu.

Còn tìm tòi trong kinh sách là chưa được giải thoát.

Chẳng nhiễm sáu trần tức chẳng sa vào dục lạc, nên gọi là hộ pháp.

Xuất lìa sanh tử gọi là xuất tam giới gia.

Chẳng chịu quả báo, sạch hết mọi nghiệp, thân này là thân sau cùng nên gọi là được đạo.

Ở Niết – Bàn mọi thứ đều “Như” nên không có vọng tưởng.

Vô minh chẳng khởi nên chẳng cần đối xử.

Không phiền não gọi là Bát Niết Bàn.

Không tướng là thực tướng, tức bờ bên kia.

Khi mê thì có bờ bên này

Khi ngộ thì không có bờ bên này

Tại sao vậy?

Vì kẻ phàm phu mỗi mỗi đều xu hướng trụ ở bờ bên này.

Ví giác được pháp tối thượng thừa thì tâm chẳng trụ bên này cũng chẳng trụ bên kia, nên lìa được cả hai, bờ bên này và bờ bên kia vậy.

Nếu thấy bờ bên kia khác với bờ bên này, ắt người ấy tâm chưa có thiền định.

Phiền não gọi là chúng sanh,

Tỏ ngộ gọi là Bồ - Đề

Đó chẳng phải khác nhau mà cũng chẳng phải giống nhau, chỉ nhân vì mê với ngộ mà cách biệt nhau.

Khi mê thì thấy có thế gian cần thoát ra.

Khi ngộ thì không có thế gian nào để mà thoát ra cả.

Trong pháp bình đẳng chẳng thấy phàm khác với thánh.

Kinh nói: Pháp bình đẳng ấy, người phàm không thể vào, mà bậc thánh cũng không thể hành được.
Pháp bình đẳng ấy, chỉ có hàng đại Bồ -Tát cùng chư Phật Như Lai mới hành được vậy.

Nếu thấy sống khác với chết, động khác với tịnh, đó gọi là chẳng bình đẳng.

Tại sao vậy?

Vì phiền não với Niết - Bàn đều chung đồng một tánh không vậy.

Do đó hàng tiểu thừa vọng dứt phiền não, vọng vào Niết- Bàn nên trệ ở Niết – Bàn

Hàng Bồ - Tát, trái lại biết rõ tánh không của Phiền não, tức chẳng lìa bỏ cái không, nên lúc nào cũng ở tại Niết – Bàn.

Phàm nói Niết – Bàn: Niết là không sanh, Bàn là không tử.

Lìa ngoài sanh tử gọi là bát niết bàn.

Tâm không qua lại tức vào niết bàn.

Nên biết niết bàn tức là tâm không.

Chư Phật vào niết bàn ấy, tức vào cõi không vọng tưởng.

Bồ-Tát vào đạo tràng ấy, tức vào cõi không phiền não.

Cõi vắng không ấy, tức cõi không tham, sân, si vậy.

Tham là cõi dục,

Sân là cõi sắc,

Si là cõi vô sắc.

Nếu bỗng chốc thoắt sanh tâm, tức đi vào ba cõi.

Bỗng chốc thoắt diệt tâm, tức ra ngoài ba cõi.

Mới hay ba cõi sanh diệt, muôn pháp có không, đều do một tâm.

Hễ nói một tâm tựa hồ như phá vào cái thế giới vật chất vô tình của ngói, cây, gỗ, đá.
Nếu biết tâm chỉ là một tiếng gọi suông, không thực thể, tức biết cái tâm tự tịch ấy chẳng phải có mà cũng chẳng phải không.

Tại sao vậy?

Vì phàm phu mỗi mỗi đều có xu hướng sanh tâm nên gọi là “có”.

Hàng tiểu thừa mỗi mỗi đều có xu hướng diệt tâm nên gọi là “không”.

Hàng Bồ-Tát và Phật chưa từng sanh tâm, chưa từng diệt tâm nên gọi là “chẳng phải có tâm, chẳng phải không tâm”.

Cái tâm chẳng có, chẳng không ấy gọi là trung đạo.

Bởi vậy dụng tâm học pháp thì tâm, pháp thảy đều mê

Chẳng dụng tâm học pháp ắt tâm, pháp thảy đều ngộ.

Nói ba cõi sinh diệt, muôn pháp đều do một tâm sanh. Nhưng cái tâm ấy nó không có thực thể, chỉ là danh từ suông, không chỉ vào cái gì. Vì vậy cái tâm ấy chẳng phải có mà cũng chẳng phải không.

Phàm phu thì trong tâm lúc nào cũng ngổn ngang trăm mối, lo lắng đủ đường nên thấy tâm là có. (Nhưng đó là vọng tâm)

Tiểu thừa diệt hết vọng tâm, trong tâm trống rỗng, nên gọi là không tâm.

Duy Phật và Bồ-Tát thường trụ trong “Thanh Tịnh Pháp Thân” nên thấy chưa từng sanh, chưa từng diệt.

Cái tâm ấy chỉ có “dụng” mà không có “thể” cho nên nó chẳng phải có mà cũng chẳng phải không.

Phàm mê là mê ở ngộ, còn ngộ là ngộ ở mê.

Bậc chánh kiến hiểu tâm vốn “Không vô” tức vượt lên mê, ngộ.

Không có mê, ngộ mới gọi là chánh giác, chánh kiến.

Có mê mới có ngộ. Có ngộ mới biết mình mê. Thảy đều là đối đãi.

Người mê thì thấy có mê, có ngộ.

Người ngộ rồi thì biết tất cả đều là không. Chẳng mê cũng chẳng ngộ.

Sắc không thể tự nó là sắc, do tâm nên có sắc.

Tâm không thể tự nó là tâm, do sắc nên có tâm.

Cho nên hai tướng tâm và sắc đều có sanh, diệt.

Nhờ tâm nhận biết nên mới có vật.

Có vật lưu lại hình bóng trong tâm, nên mới có tâm.

Hai thứ đó đối đãi với nhau mà có.

Nếu không còn hình bóng trong tâm nữa thì thành tâm không.

Nói “có” là có do ở “Không”

Nói “không” là không do ở “có”.

Đó mới là thấy chân thực.

Phàm thấy thực thì không gì là chẳng thấy, mà cũng không gì mà không chẳng thấy. Thấy khắp mười phương mà vẫn là chưa từng có thấy.

Tại sao vậy?

Vì không có gì để thấy vậy, vì thấy cái không thấy vậy, vì thấy cái chẳng phải là thấy vậy.

Cái thấy của kẻ phàm đều là vọng tưởng.

Nếu tịch diệt, không có thấy mới là thấy thực.

“Có” và “không” là hai phạm trù đối đãi, phân biệt. Chúng nương nhau mà có. Cho nên nếu không có cái này thì không có cái kia. Biết như vậy mới hợp chân lý.

Bởi vì pháp giới hiện hữu đều là vọng tưởng. Cho nên thấy thực tướng của chúng là không thấy gì cả. Vì thực tướng của chúng vốn rỗng không.

Thực tướng của các pháp vốn không mà ta lại thấy chúng tức là ta thấy cái không thấy, thấy cái chẳng phải là thấy vậy.

Tâm và cảnh đối đãi nhau, cái thấy phát sinh từ cái thế đối đãi ấy.

Nếu trong chẳng khởi tâm thì ngoài chẳng sanh cảnh.

Cho nên tâm và cảnh, nếu lắng hết cả hai thì mới gọi là chân kiến.

Và cái hiểu trong lúc ấy mới gọi là chánh kiến.

Cảnh tức là sắc hay vật. Như trên đã nói, cảnh do tâm nhận biết mà có. Tâm do cảnh lưu lại hình bóng mà thành. Do đó chúng là một cặp phạm trù đối đãi, nương nhau mà có. Căn và thức do sự đối đãi này mà thành để liên hệ giữa tâm và vật. Do đó mắt có thể thấy vật, tai có thể nghe tiếng. Vì vậy nên ta biết thấy, nghe, hay, biết chưa phải là chơn. Nếu từ đầu tâm không vọng niệm thì cảnh đã chẳng sanh. Cho nên muốn ngộ vào chơn tánh thì tâm và cảnh cả hai đều phải đồng thời buông bỏ.

Chứng đạo ca nói

Tâm là căn, pháp là trần

Thảy đều ngấn bụi ám gương trong

Bao giờ ngấn hết gương trong lại,

Tâm pháp cùng quên rõ tánh chơn.

Trong kinh Lăng Nghiêm, lúc Phật hỏi Bồ-Tát Quán Thế Âm về quá trình tu chứng. Bồ-Tát nói rằng:

1/ Sơ văn trung,nhập lưu vong sở. Sở nhập ký tịch

Ban đầu, ở trong tính-nghe, vào được dòng viên-thông, không còn tướng sở-văn Trần-tướng vẳng-lặng
2/ Động tỉnh nhị tướng liễu nhiên bất sanh hai tướng động, tĩnh rõ thật không sinh

3/ Như thị tiệm văn. Văn - Sở Văn, tận.Tận văn bất trụ

Cứ như thế mà nghe, các tướng năng-văn, sở-văn đều hết. Không dừng lại nơi chỗ dứt hết năng-văn, sở-văn mà tiến lên nữa,

4/ Giác, sở giác không. Không giác tịch nhiên thì năng-giác, sở-giác, đều không. Không-giác tột bậc viên-mãn,

5/ Không,sở không diệt.

các tướng năng-không, sở-không đều diệt

6/ Sanh diệt ký diệt,tịch diệt hiện tiền

Sinh-diệt đã diệt, thì bản-tính tịch-diệt hiện-tiền.

Chẳng thấy một pháp mới gọi là đắc đạo

Chẳng hiểu một pháp mới gọi là hiểu pháp.

Tại sao vậy?

Vì thấy cùng chẳng thấy đều là chẳng thấy vậy.

Hiểu cùng chẳng hiểu đều là chẳng hiểu vậy.

Thấy cái chẳng thấy mới là thấy thực

Hiểu cái chẳng hiểu mới là hiểu thực.

Phàm có cái hiểu đều là chẳng hiểu.

Không có cái hiểu mới là thực hiểu.

Hiểu cùng chẳng hiểu đều chẳng phải là hiểu vậy.

Kinh nói: chẳng xả trí tuệ gọi là ngu si.

Lấy tâm làm không thì hiểu cùng chẳng hiểu đều là chân cả.

Chấp tâm là có thì hiểu cùng chẳng hiểu đều là vọng cả.

Vì thực tướng không tướng, nên chẳng thấy một pháp tức là thấy thực tướng, nên gọi là đắc đạo.
Vì các pháp vốn không, nếu tìm hiểu đến thực thể của nó thì sẽ thấy chẳng có pháp nào, nên nói chẳng hiểu một pháp mới gọi là hiểu pháp.

Vì sao?

Vì các pháp vốn không, thấy cùng chẳng thấy là hai cái đối đãi nhau, đều là vọng lập, cho nên nói rằng thấy hay chẳng thấy đều là chẳng thấy sự thực vậy.

Cũng thế Hiểu cùng chẳng hiểu là hai thứ đối đãi, đều là vọng lập, cho nên nói rằng hiểu hay chẳng hiểu đều là chẳng hiểu sự thực vậy.

Cái hiểu là do nhận thức, mà nhận thức thuộc về vọng, thuộc về ý. Chính vì vậy nó không thực.

Không có cái hiểu bằng nhận thức ấy, mà biết trực tiếp mới là thực hiểu.

Trí tuệ để soi xét các pháp, phân biệt các pháp. Nay các pháp vốn không mà không chịu xả trí tuệ thì gọi là ngu si.

Nếu trong tâm không một niệm, không chấp trược, thì hiểu cùng chẳng hiểu đều là chơn.Vì sao, vì hiểu cái không cũng như không cái hiểu.

Nếu trong tâm có vướng mắc thì hiểu cùng chẳng hiểu đều là vọng cả. Vì sao? vì chấp trước vậy.

Khi hiểu rồi thì pháp đuổi theo người,

Khi chưa hiểu thì người đuổi theo pháp.

Nếu pháp đuổi theo người ắt cái chẳng phải là pháp hóa thành pháp.

Nếu người đuổi theo pháp, pháp hóa thành cái chẳng phải là pháp.

Nếu người đuổi theo pháp thì pháp pháp đều là vọng.

Nếu pháp đuổi theo người thì pháp pháp đều là chơn.

Nếu ngộ mọi pháp đều không thì pháp pháp đều tùy thuận theo người

Nếu chấp mọi pháp là thực có thì người người đuổi theo pháp.

Nếu ngộ thì tâm cũng chỉ là pháp.

Nếu chưa ngộ thì vọng niệm hóa thành tâm.

Vì thế

Nếu chưa tỏ ngộ thì mọi pháp đều là vọng.

Nếu đã tỏ ngộ thì mọi pháp đều chơn.

Cho nên bậc thánh

- Cũng chẳng đem tâm cầu pháp,

- Cũng chẳng đem pháp cầu tâm.

- Cũng chẳng đem pháp cầu pháp.

Vì sao? vì pháp tức là tâm vậy.

Vì thế tâm chẳng sanh pháp, pháp chẳng sanh tâm. Tâm và pháp tịch cả hai nên lúc nào cũng ở trong định.

Vì sao? vì tâm vốn không mà pháp cũng vốn không.

Tâm chúng sanh sanh, ắt Phật pháp diệt

Tâm chúng sanh diệt ắt Phật pháp sanh.

Tâm sanh ắt chân pháp diệt

Tâm diệt ắt chân pháp sanh.

Khi mê thì có tội, khi hiểu thì không có tội

Tại sao vậy?

Vì tội tánh vốn không vậy.

Khi mê thì không tội thấy có tội, Kki hiểu rồi thì đối tội thấy không tội.

Tại sao vậy?

Vì tội không có gốc gác đâu cả.

Kinh nói: Muôn pháp đều không tự tánh, cứ dùng nó đừng ngờ, ngờ tức thành tội.

Tại sao vậy?

Vì tội do nghi ngờ mà sinh ra.

Nếu thấu suốt được lẽ ấy thì bao nhiêu tội nghiệp đời trước đều tiêu tan hết.

Tại sao khi mê thì có tội, khi hiểu lại không tội?

Vì mê nên chấp có, vạn pháp là có mới gây nên tội. Nếu hiểu vạn pháp là không thì tội ở đâu ra?
Nếu còn nghi tức chưa hiểu vạn pháp tức không.

Khi mê thì sáu thức, năm ấm đều là pháp phiền não sinh tử.

Khi ngộ thì sáu thức, năm ấm đều là pháp niết bàn, không sanh tử.

Người dốc lòng tu chớ cầu đạo ở bên ngoài

Vì sao vậy?

Vì tâm tức là đạo vậy.

Khi được tâm rồi mới hay không tâm nào có thể có.

Khi được đạo rồi mới hay không đạo nào có thể được.

Nếu nói đem tâm ra mà cầu được đạo, đó gọi là tà kiến.

Tại sao nói “đem tâm ra mà cầu được đạo, đó gọi là tà kiến“?

Vì tâm tức là đạo, đem tâm cầu đạo tức sai tâm đi bắt tâm.

Vả lại

Vì tâm không thể có, làm sao đem tâm cầu đạo được

Vì đạo không thể được làm sao cầu?

Khi mê thì có Phật, có pháp. Ngộ rồi thì không Phật, không pháp.

Tại sao vậy?

Vì ngộ tức là Phật pháp.

Ngộ rồi thì không người không ta, không tâm không pháp, không năng không sở, tất cả đều là Phật pháp

Khi mắt thấy sắc chẳng nhiễm nơi sắc

Khi tai nghe tiếng chẳng nhiễm nơi tiếng,

Như thế đều là giải thoát cả.

Mắt không dính sắc thì mắt là cửa thiền

Tai không dính tiếng thì tai là cửa thiền.

Nói gom lại:

Thấy được tánh của sắc thì lúc nào cũng là giải thoát

Thấy tướng của sắc thì lúc nào cũng là trói buộc.

Không bị phiền não mà trói buộc, tức là giải thoát, ngoài ra không có sự giải thoát nào khác.
Khéo quán xét sắc thì rõ ràng sắc chẳng sanh nơi tâm, tâm chẳng sanh nơi sắc, tức cả sắc và tâm đều thanh tịnh cả hai.

Thấy sắc tức là không thì không bị sắc trói buộc, nên lúc nào cũng được giải thoát.

Khéo quán sát thì tâm chẳng khởi vọng tưởng nên nói sắc chẳng sanh nơi tâm. Vì tâm chẳng khởi vọng tưởng nên thường trong định, chẳng nhiễm sắc trần, nên cả hai đều được thanh tịnh. Tức được giải thoát.

Khi không vọng tưởng thì một tâm là một nước Phật

Khi có vọng tưởng thì một tâm là một địa ngục

Chúng sanh xây dựng vọng tưởng, đem tâm sanh tâm, nên lúc nào cũng ở địa ngục.

Bồ-Tát quán xét vọng tưởng, không đem tâm sanh tâm, nên lúc nào cũng ở nước Phật.

Nếu không đem tâm sanh tâm thì tâm tâm quay về không, niêm niêm trở về tịnh, vào đủ nước Phật, đến đủ nước Phật.

Nếu đem tâm sanh tâm thì tâm tâm chẳng tịnh, niêm niệm hướng động, vào đủ địa ngục, qua đủ địa ngục.

Nếu một thoáng tâm dấy lên ắt có thiện ác hai nghiệp, có thiên đường, địa ngục.

Nếu một thoáng tâm không dấy lên, ắt không thiện ác hai nghiệp, cũng không thiên đường địa ngục.
Thế nào gọi là đem tâm sanh tâm? Là đối cảnh sinh tình, khởi vọng niệm.

Thế nào là một thoáng tâm dấy lên? Một thoáng tức là trong nháy mắt, tâm dấy lên tức là động tâm, khởi niệm. Tóm lại là khởi vọng niệm.

Thánh nhân vốn không tâm, nên trong thì trống rỗng bao la, cùng với hư không chẳng khác.
Khi tâm được niết bàn tức chẳng thấy có niết bàn.

Tại sao vậy? Vì tâm là niết bàn.

Nếu ngoài tâm lại thấy có niết bàn, đó là mắc phải tà kiến vậy.

Vì tâm là niết bàn nên khi được niết bàn thì chẳng thấy niết bàn. Cho nên kinh nói “Không có niết bàn để đạt“

Nếu thấy mình đạt niết bàn thì chắc chắn là niết bàn ngoại đạo.

Tất cả phiền não là hạt giống Như Lai, vì nhân có phiền não mới được trí huệ.

Chỉ nên nói phiền não “sanh” Như Lai, không thể nói phiền não “là“ Như Lai.

Cho nên cần lấy thân tâm làm ruộng rẫy, phiền não làm hột giống, trí huệ làm mầm mộng, còn Như Lai thì ví như lúa, thóc vậy.

Nếu không mê thì đâu có ngộ. Nếu không phiền não thì đâu có niết bàn. Nhưng không thể nói “mê” tức là “ngộ”, “chúng sanh” là “Phật” được.

Thân tâm là nơi nảy sanh phiền não. Nhưng do tu hành (giống như canh tác) mà từ trong phiền não phát sanh trí huệ, từ trong trí huệ mà đạt chính đẳng chính giác.

Phật trong tâm như trầm trong cây.

Vỏ mục hết thì trầm hiện ra.

Phiền não hết thì Phật hiện ra

Nếu ngoài cây có trầm, trầm ấy tức của cây khác.

Nếu ngoài tâm có Phật, ấy tức Phật của ai khác.

Trong tâm có ba độc, gọi đó là quốc độ dơ xấu.

Trong tâm không có ba độc, gọi đó là quốc độ thanh tịnh.

Kinh nói: Nếu khiến cho quốc độ vẩn đục, dơ xấu cứ đầy dẫy lên, rồi Phật sẽ từ trong đó xuất hiện, điều đó không đâu có được.

Cái vẩn đục dơ xấu ấy tức là ba độc vô minh vậy.

Chư Phật tức là tâm thanh tịnh giác ngộ vậy.

Tất cả sự nói năng, không gì chẳng là Phật pháp.

Nếu tự mình không có lời nói thì nói suốt ngày vẫn là đạo

Nếu tự mình có lời nói thì im suốt ngày vẫn chẳng là đạo.

Cho nên ở Như Lai, lời nói không nương theo im lặng, im lặng không nương theo lời nói, lời nói không lìa im lặng. Nói và im đều ở nơi tam muội cả.

Nếu biết mà nói thì lời nói cũng giải thoát.

Nếu không biết mà im lặng thì im lặng cũng trói buộc.

Cho nên nói mà lìa tướng thì lời nói cũng gọi là giải thoát.

Còn im lặng mà dính tướng thì in lặng cũng là trói buộc.

Nếu tự mình không có lời nói, tức nhiên chẳng phải mình tạo tác, hay nói cách khác là chẳng có tự ngã vậy. Hai câu này sẽ đổi thành:

Nếu vô ngã thì nói suốt ngày vẫn là đạo

Nếu chấp ngã thì im suốt ngày vẫn chẳng là đạo.

Cho nên chư Phật dù im hay nói, vẫn diễn tả được ý đạo, vì ý không ở trong lời nói vậy. Vì vậy nói và im đều ở nơi tam muội cả.

Lìa tâm không Phật,

Lìa Phật không tâm.

Cũng như lìa nước không băng,

Cũng như lìa băng không nước.

Nói “Lìa tâm không Phật” chẳng phải xa lìa cái tâm, mà chỉ khiến đừng chấp vào hình tướng của tâm.

Kinh nói: “không thấy tướng gọi là thấy Phật”, tức là lìa hình tướng của tâm vậy.
“Lìa Phật không tâm” là nói Phật từ tâm ra. Tâm có thể sanh Phật, nên Phật theo tâm mà sanh, nhưng Phật chưa hề sanh tâm bao giờ.

Vì tâm tức Phật, nên “lìa tâm không Phật“.

Tâm vốn không có hình tướng. Thể của nó trống rỗng như hư không, mà hư không thì không có hình tướng. Tùy theo vật mà có hình. (Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài) Cũng thế, tâm không có hình tướng, theo vật mà hiển. cho nên kinh nói “không thấy tướng gọi là thấy Phật”.

Vì tâm tức là Phật nên nói “lìa Phật không tâm”. Chỉ có điều tâm này là cái chân tâm vô tướng, chứ không phải cái vọng tâm mà ta hằng tưởng. Chơn tâm thì thường hằng, bất biến cho nên chưa từng sanh diệt bao giờ, Bởi thế cho nên Phật chưa từng sanh tâm (khởi vọng tưởng)

Cũng như cá ở trong nước, nhưng nước không thể sanh cá.

Cho nên muốn xem cá, cá chưa thấy mà trước hết đã thấy nước.

Cũng vậy, muốn xem Phật, Phật chưa thấy mà trước hết đã thấy tâm.

Mới biết cá thấy rồi cần quên nước.

Phật thấy rồi cần quên tâm.

Nếu không quên được tâm thì sẽ vì tâm mà lầm nữa.

Nếu không quên được nước thì vì nước mà mê nữa.

Chơn tâm tức Phật, Ví đã biết chơn tâm rồi mà còn chưa quên tâm, tức là chấp tâm. Có chấp bèn có mê, có mê bèn có sinh tử luân hồi. Cho nên kinh nói “được cá quên nơm”. Hay “không xả trí huệ là người ngu” vì trí huệ thường nhận ra chơn tâm.

Qua cửa ấy rồi thì cứ thỏng tay mà đi. Lúc đó ta tức là tâm, tâm tức là ta. Vừa khởi ý nghĩ “ta đã đạt chơn tâm”, bèn sinh hai, trở về sinh tử.

Chúng sanh với Bồ - Đề cũng như nước với băng

Vì ba độc nung đốt nên gọi là chúng sanh

Vì ba giải thoát gột sạch nên gọi là Bồ - Đề

Vì đóng lạnh trong tiết đông nên gọi là băng

Vì tan chảy trong lửa hè nên gọi là nước.

Nếu bỏ băng đi, tức không có nước nào khác

Nếu bỏ chúng sanh đi, ắt không có Bồ - Đề nào khác.

Đủ rõ tánh của băng tức là tánh của nước.

Tánh của nước tức là tánh của băng.

Cũng vậy, tánh của chúng sanh tức là tánh của Bồ - Đề vậy.

Chúng sanh cùng với Bồ - Đề đều chung nhau một tánh.

Cũng như hai vị thuốc Ô đầu và phụ tử đều cung một gốc, chỉ vì thời tiết mà khác nhau.
Cũng vậy, vì mê ngộ hai cảnh khác nhau nên có hai tên gọi: chúng sanh và Bồ - Đề.

Rắn hóa thành rồng vẫn không đổi vảy

Phàm biến thành thánh vẫn không đổi mặt.

Mới hay tâm ấy, trong trí huệ chiếu, thân ấy ngoài giới luật vững.

Chúng sanh độ Phật

Phật độ chúng sanh

Vậy gọi là bình đẳng.

Chúng sanh độ Phật ấy: trong phiền não nảy sanh tỏ ngộ.

Phật độ chúng sanh: Tỏ ngộ phá trừ phiền não.

Khi mê thì Phật độ chúng sanh

Khi ngộ thì chúng sanh độ Phật.

Tại sao vậy?

Vì Phật không thể tự thành mà đều do chúng sanh độ nên vậy.

Chư Phật lấy vô minh làm cha, lấy tham ái làm mẹ

Vô minh và tham ái là tên gọi khác của chúng sanh vậy.

Chúng sanh với vô minh cũng như tay trái với tay mặt, rốt cuộc chẳng khác nhau vậy.

Trong Phiền não nảy sanh tỏ ngộ, mà phiền não là vô minh, tham ái, cho nên nói “chư Phật lấy vô minh làm cha, tham ái làm mẹ”.

“Chúng sanh với vô minh cũng như tay trái với tay mặt, rốt cuộc chẳng khác nhau” chẳng khác nhau cũng chẳng giống nhau. Cũng như tay mặt với tay trái, chồng khít với nhau được, nhưng rốt cuộc lại chẳng phải một. Bởi vì nếu chúng sinh là một với tham ái thì làm sao thành Phật được.
Khi mê thì ở bờ bên này

Khi ngộ thì ở bờ bên kia.

Ví biết tâm vốn là không thì chẳng thấy tướng, ắt lìa cả mê và ngộ.

Mê ngộ đã lìa, ắt không ở bờ bên kia.

Như Lai không ở bờ bên này cũng không ở bờ bên kia, không ở giữa giòng.

Ở giữa giòng:hàng tiểu thừa vậy

Ở bờ bên này: Phàm phu vậy

Ở bờ bên kia: Bồ-Tát vậy.

Như Lai ở ngoài cả mê lẫn ngộ. Mê – ngộ. Mê ngộ đều là việc trong mộng. Người chưa ngủ đâu nói mới thức, người chưa từng mê, đâu nói chuyện ngộ.

Phật có ba thân: hóa thân, báo thân và pháp thân.

Nếu chúng sinh luôn luôn làm theo căn lành: tức hóa thân hiện.

Tu trí huệ: tức báo thân hiện.

Giác vô vi: tức pháp thân hiện.

Thế nào là căn lành?

Là tín, tấn, niệm, định, huệ. Nếu ta thường tin tưởng nơi Phật pháp, ra sức tu hành, giữ gìn chính niệm, không khởi vọng tưởng, sáng suốt phân minh tức là đã có các đức tính của Phật nên gọi là hóa thân Phật hiện

Tu trí huệ, nhận rõ các pháp vốn không, tâm không, nhân không, ngã không đó là do tác dụng của tự tánh nên gọi là báo thân Phật hiện.

Khi đã giác ngộ pháp vô vi, tâm không tạo tác, không vọng tưởng, như như bất động, đó chính là Pháp thân Phật hiện.

Bay lướt mười phương, tùy nghi mà cứu độ: là Phật hóa thân vậy.

Dứt mê hoặc, tu thiện pháp, thành đạo trên núi tuyết:Phật báo thân vậy.

Không lời, không nói, vắng lặng, thường trụ: Phật pháp thân vậy.

Bằng luận cho cùng thì một Phật còn chẳng có nữa là ba.

Nói ba thân là dựa theo căn trí con người có thượng, trung, hạ

Người hạ trí bôn chôn, vọng cầu phước, vọng thấy hóa thân Phật.

Người trung trí vọng dứt phiền não, vọng thấy báo thân Phật.

Người thượng trí vọng chừng Bồ- Đề, vọng thấy pháp thân Phật.

Người thượng thượng trí vắng lặng tròn đầy, soi chiếu bên trong, sáng tâm tức là Phật, chẳng đợi mà được Phật.

Thế mới biết ba thân cùng muôn pháp đều không giữ được, không nói được, đó tức là: tâm tự nhiên giải thoát, thành tựu đạo lớn.

Kinh nói “Phật chẳng nói pháp, chẳng độ chúng sanh, chẳng chứng Bồ-Đề “ là như vậy.
Thí dụ có người được vãng sanh, thấy Phật đến rước, đó là Hóa thân của Phật đến độ sinh.

Phật Thích Ca Mâu Ni Khổ nhọc tu hành, thành đạo trên núi tuyết, đó là báo thân Phật ở cõi Sa Bà này vậy.

Pháp giới mênh mông, không lời, không nói, thường vận hành, thường độ sinh, mà vẫn vắng lặng, thường trụ, đó là Pháp thân Phật vậy.

Tam thân Phật suy cho cùng từ một chơn như mà ra. Mà nơi chơn như thì pháp giới, tam thế cũng còn là trong vọng, thì một còn chẳng có, do đâu mà có ba?

Chúng sanh tạo nghiệp

Nghiệp tạo chúng sanh

Đời nay tạo nghiệp

Đời sau chịu báo, thuở nào thoát khỏi?

Chỉ bậc chí nhân, ở trong thân này, không tạo các nghiệp nên chẳng chịu báo.

Kinh nói:”các nghiệp chẳng tạo, tự nhiên được đạo” há lời nói suông ru?

Người tạo ra nghiệp

Nghiệp không thể tạo ra người.

Nếu người tạo ra nghiệp thì nghiệp với người cùng sanh.

Nếu người không tạo nghiệp thì nghiệp với người cùng diệt.

Mới biết nghiệp do người tạo, người do nghiệp sanh.

Nếu người không tạo nghiệp, tức nghiệp chẳng do người sanh vậy.

Cũng như người có thể nâng đạo, đạo không thể nâng người.

Kẻ phàm phu ngày nay luôn luôn tạo nghiệp, lại nói bừa là không có quả báo, há chẳng khó nghe sao?

Luận cho cùng lẽ: tâm trước tạo, tâm sau báo, đời nào thoát được.

Nếu tâm trước không tạo, tức tâm sau không báo, vậy còn vọng thấy nghiệp báo được sao?

Kinh nói: Tuy tin có Phật, lại nói Phật khổ hạnh, đó là tà kiến.

Kinh nói: Tuy tin có Phật lại nói Phật bị quả báo, đói ăn lúa ngựa, gươm vàng đâm chân, đó gọi là lòng tin chưa trọn đủ, là nhất xiển đề.

Con người chúng ta tạo đủ các nghiệp nên phải chịu báo là chuyện đương nhiên. Nhưng có một người ở trong ta, giúp đỡ ta đủ thứ, trong mọi việc mà ta làm, ta quyết định, một cách vô tư. Ta không thể nói người đó đã tạo nghiệp.

Do cái tâm vọng tưởng của ta tạo đủ mọi nghiệp, nên cũng cái tâm vọng tưởng đó sẽ phải chịu báo. Vì thế nó lưu chuyển từ kiếp này sang kiếp khác để thọ nghiệp. Nếu tâm trước không tạo nghiệp thì không phải chịu báo, thì làm gì có thân sau, cho nên nói người tạo ra nghiệp, nghiệp tạo ra người.

Mỗi người có một vị Phật thường ở chung với ta, vô tư giúp đỡ ta. Dù ta có vào địa ngục, vị Phật đó cũng theo vào. Cùng vào nhưng không cùng chịu báo, vì chưa từng tạo nghiệp. Cho nên đừng thấy hình tướng Phật xưa đói ăn lúa ngựa, gươm vàng đâm chân mà nói rằng Phật bị quả báo. Nói vậy là chưa biết Phật.

Người hiểu pháp thánh gọi là thánh nhân

Người hiểu pháp phàm gọi là phàm phu

Chỉ cần xả pháp phàm là thành pháp thánh, tức phàm phu thành thánh nhân vậy.

Kẻ ngu trong đời mong cầu thánh viễn vông, chẳng tin rằng chính cái tâm huệ giải là thánh nhân vậy.

Kinh nói: đối với người vô trí đừng nói kinh này.

Kinh này là tâm vậy. là pháp vậy.

Người vô trí không tin chính cái tâm sáng tỏ được pháp này làm thành bậc thánh. Họ chỉ mảng cầu xa, học ngoài, mến chuộng hình tượng Phật ngoài trời cùng ánh sáng, hương sắc đủ thứ. Toàn là việc làm đọa tà kiến, mất tâm, cùn chí.

Kinh nói: Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai.

Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy do một tâm mà mống dạy.

Nếu trong lắng hết tâm tướng, giống như hư không, tức tự trong thân tâm xa lìa hết tám vạn, bốn ngàn căn bênh phiền não vậy.

Phàm phu đang sống sợ chết, vừa no lo đói, thật quá đỗi mê hoặc. Cho nên bậc chí nhân chẳng tính việc đã qua, chẳng lo việc chưa đến, không xáo động việc bây giờ, niệm niệm trở về đạo. 

Kệ ngồi tịnh ban đêm

Nhất canh đoan tọa kết gìa phu

Di thần tịch chiếu, chung đồng hư

Khoáng kiếp do lai bất sanh diệt

Hà tu sanh diệt, diệt sanh cừ?

Nhất thiết chư pháp giai như huyễn.

Bổn tánh tự không na dụng trừ!

Nhược thức tâm tánh phi hình tượng

Trạm nhiên bất động tự như như. 

Nghĩa

Đoan trang canh một tịnh ngồi tu

Tịch chiếu tinh thần tợ thái hư

Muôn kiếp vốn không sanh với diệt

Học đòi sanh diệt, diệt gì ư?

Gẫm xem các pháp trò ma ảo

Tánh vốn là không uổng sức trừ!

Ví biết tâm mình không tướng mạo

Lặng im chẳng động tự như như.

Tâm vốn không sanh diệt, không hình tướng, lặng im, rộng lớn như thái hư. Các pháp biến đổi, sanh diệt chỉ là trò hư ảo. Không cần phải ra sức trừ, chỉ cần lặng im, chẳng động là phù hợp với chân như

Nhị canh ngưng thần chuyển minh tịnh

Bất khởi ức tưởng chân như tính

Sum la vạn tượng tịnh qui không

Cánh chấp hữu không hoàn thị bệnh

Chư pháp bổn tự phi không hữu

Phàm phu vọng tưởng luận tà chánh

Nhược năng bất nhị kỳ cư hoài

Thùy đạo tức phàm phi thị thánh. 

Nghĩa

Canh hai ngưng thần cho sáng sạch.

Chẳng khởi nhớ tưởng tính chân như.

Muôn ngàn hình tượng trở về không

Chấp có, chấp không lại vẫn bệnh

Các pháp vốn tự chẳng có, không

Phàm phu khởi vọng, bàn tà chánh

Nếu hay giữ được lẽ “chẳng hai”

Ai bảo rằng phàm chẳng phải thánh?

Tâm không một niệm, sạch trong, sáng láng

Chẳng nhớ nghĩ về chân như

Thì hết thảy đều không.

Cũng chẳng chấp có, chấp không

Thì phàm, thánh chẳng khác nhau.

Tam canh tâm tịnh đẳng hư không

Biến mãn thập phương vô bất thông

Sơn hà, thạch bích vô năng chướng

Hằng sa thế giới tại kỳ trung.

Thế giới bổn tánh, chân như tánh

Diệt vô, bổn tánh tức hàm dung

Phi đản chư Phật năng như thử

Hữu tình chi loại phổ giai đồng.

Nghĩa

Canh ba tâm tịnh sánh hư không

Rộng khắp mười phương đâu chẳng thông

Tường vách, núi sông không ngăn ngại

Bao la vũ trụ ở nơi lòng.

Tánh của đất trời là Phật tánh

Cũng không, bổn tánh tức hàm dung

Phải đâu chư Phật hay như thế.

Hữu tình muôn loại vẫn chung đồng.

Chân như Phật tánh tức pháp giới tánh. Tánh đó rỗng không nên dung chứa muôn loài. Mỗi mỗi chúng hữu tình đều có tánh đó, không riêng gì Phật.

Canh tư vô diệt, diệt vô sinh

Lượng dữ hư không, pháp giới bình

Vô lai, vô khứ, vô khởi diệt

Phi hữu, phi vô, phi ám minh

Vô khởi chư kiến, Như Lai kiến

Vô danh khả danh, chân Phật danh

Duy hữu ngộ giả ưng năng thức

Vị hội chúng sanh do nhược manh.

Nghĩa

Canh tư không diệt, cũng không sinh

Rộng ví hư không, pháp giới bình

Không qua không lại, không còn mất.

Chẳng có, chẳng không, chẳng ám minh.

Không khởi mọi thấy, Như Lai thấy.

Không tên để gọi, là Phật danh.

Ai có ngộ qua rồi mới hiểu.

Chúng sanh chưa rõ bởi thong manh.

Ngồi thiền đến canh tư, tâm không sanh diệt.

Rộng lớn như hư không. Toàn thể bình lặng, (không khởi một niệm)

Không xao động, không khởi, không diệt.

Chẳng còn chấp “hữu, vô” nữa, cũng chắng sáng tối nữa.

Không khởi mọi thứ “kiến hoặc”, là cái thấy của Như Lai

Trạng thái lúc đó, không có tên nào để gọi, đó mới chính là Phật danh.

Ai trải qua rồi mới hiểu

Chúng sanh chưa hiểu được bởi mắt bịnh. (thong manh)

Ngũ canh bát nhã chiếu vô biên

Bất khởi nhất niệm lịch tam thiên

Dục kiến chân như bình đẳng tánh

Thận vật sanh tâm tức mục tiền

Diệu lý ảo huyền phi tâm trắc

Bất dụng tâm trục linh bì cực

Nhược năng vô niệm tức chân cầu

Cánh nhược hữu cầu hoàn bất thức.

Canh năm bát nhã chiếu vô biên.

Chẳng khởi một niệm trải tam thiên

Muốn thấy chân như bình đẳng tánh

Khéo chớ sanh tâm, trước mắt liền.

Lẽ ấy diệu huyền không lường được

Dụng tâm đuổi bắt thêm nhọc sức

Nếu không một niệm tức chân cầu

Còn có tâm cầu, chưa tỉnh thức.

Chỉ cần trong tâm không một niệm liền thấy chân như bình đẳng tánh. Nếu còn ý mong cầu thì còn mê, chưa thấy tánh.