Tịnh độ
Con đường Tu tắt
Pháp Môn Tịnh Ðộ Trích trong Tây-Qui Trực-Chỉ và Lão-Nhơn Ðắc-Ngộ Ðôi Liễn Ấn-Quang Pháp-Sư Soạn Giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm
28/10/2553 22:47 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Chín Hạng Ðều Ðặng Vãng Sanh Cực Lạc 

Chín loại chúng sinh là: 1. Thai sanh (sanh bằng thai nghén), 2. Noãn sanh (do sanh trong trứng), 3. Thấp sanh (do sự ẩm ướt sanh ra), 4. Hóa sanh (do loài này hóa ra loài kia như sâu hóa bướm), 5. Loại hữu sắc (loại có màu sắc như trời sắc giới), 6. Loại vô sắc (loại không có màu sắc như trời vô sắc giới), 7. Loại hữu tưởng (như cõi trời vô sắc, tuy không có thân hình mà có tư tưởng), 8. Loại vô tưởng (như cõi trời Tịnh Phạn vì mãi ở trong cảnh giới thiền định nên không có tư tưởng), 9. Loại phi hữu tưởng (như cõi thứ tư trong vô sắc giới thiên, chẳng phải có tư tưởng, chẳng phải không tư tưởng). Tất cả chín loại chúng sanh trên đây, ai niệm Phật cũng được vãng sanh cả.

Tầm thường là loài người (nhơn đạo) có vui cũng có khổ. Khổ hơn hết là ngạ quỉ (ma đói) súc sanh, địa ngục. Trên loài người các cõi trời là vui hơn hết. Song thiên thần dù hưởng thọ đến đâu hết phước rồi cũng sa lần cho tới luân hồi. Sao bằng Cực Lạc khỏi phải luân hồi nên ông Châu Sĩ An (tác giả Tây Qui Trực Chỉ) thường dưng hương Miếu Văn Xương Ðế Quân với Ðông Nhạc Ðại Ðế lạy vái rằng: ‘Xin Ðế quân qui y theo Phật mà về làm Bồ Tát cõi Tây Phương’. Có khi dưng hương chùa Ngọc Hoàng lạy rồi cũng vái như vậy.

Chúng ta may gặp cửa Tịnh Ðộ mà không bước vào cho đặng vãng sanh Cực Lạc thiệt uổng và rủi vô cùng. Vì tu Tịnh Ðộ không khó chi, ai làm cũng đặng, vừa làm vừa tu không bỏ công ăn việc làm hàng ngày, nhọc công hai năm thời đủ. Còn sống tu thêm cho quả vị lớn, tới lâm chung Phật cho biết ngày vãng sanh. Nếu không kịp hai năm, Phật cũng rước về Tây Phương làm dân tu thêm cho có quả vị. Khó nhọc là tham thiền luyện đơn hết hơi mà không thoát khỏi nẻo luân hồi. Nhiều vị thức trọn gần hai năm không ngủ để tham thiền, kết quả chẳng đi đến đâu. Nếu quí vị ấy tu Tịnh Ðộ ít nhứt tòa sen bực trung. Nhiều vị trường trai đã sẵn tu thêm Tịnh Ðộ rất lẹ thập bội. Trong ít tháng cũng đủ, sao không chịu tu thêm cho đủ Tam giáo, chắc đặng vãng sanh, bỏ trống liên đài, uổng quá, tiếc thay!

 

Niệm Phật Không Uổng Công 

Việc chi ở đời làm không kết quả thờ uổng công chớ tu Tịnh Ðộ dù sai chạy cũng không mất công chút nào. Xưa có lão tiều gặp cọp sợ quá leo lên cây niệm Phật mà khỏi chết. Sau chết đầu thai kiếp khác tỉnh ngộ đi tu mà thành. Niệm Phật một hồi còn đặng thiện căn như vậy huống chi tu Tịnh Ðộ mãn đời. Dầu kiếp này mới tu không mấy ngày còn làm nhiều tộ lỗi, trong lòng xao lãng không đặng vãng sanh, kiếp sau có lúc tỉnh ngộ tu cũng thành có uổng công đâu. Chẳng phải như ở đời đi buôn không lời lại lỗ vốn, làm ruộng mất mùa mang nghèo, học không đậu uổng công.

 

 

Lý Nhân Quả Thông Cả Ba Ðời.

Gặp Việc Buồn Cũng Ráng Niệm.

Tâm Mình Có Thể Cải Tạo Hoàn Cảnh. 

Nhiều người mới làm lành chút ít, tụng kinh niệm Phật đã mong được hưởng phước lớn. khi gặp cảnh khổ; bịnh hoạn, nghèo nàn, tai nạn v.v.. liền cho rằng làm lành mắc họa rồi từ đó ngã lòng chê bai Phật pháp. Những kẻ ấy không hiểu ‘lý nhân quả thông cả ba đời’ và tâm mình có thể cải tạo hoàn cảnh. Xưa nay ai đạo đức hơn Ðức Khổng Tử mà còn phải bị vây nơi đất Khuông; ngài tuyệt lương nhịn đói bảy ngày mà vẫn đờn ca như thường. Kế đó vua Sở đem binh giải vây mới khỏi. Còn vua Văn Vương bị vua Trụ cầm ngục thành Dũ Lý bảy năm mới tha. Sau con Võ Vương đặng làm thiên tử. Huống chi người thường sao khỏi thời vận. Xem tích ông Khương Tử Nha thời đủ hiểu. Cứ làm lành tu niệm mãi, tự nhiên tai qua nạn khỏi, dữ hóa lành.

Nhân quả thông cả ba đời là thế nào? Như đời này làm lành hoặc dữ, đời này hưởng phước hay mang họa đó là hiện báo. Ðời này làm lành hoặc dữ, đời sau hưởng phước hay mang họa là sanh báo. Ðời này làm lành hoặc dữ, đời thứ ba, thứ tư, thứ mười, trăm ngàn muôn đời sau mới hưởng phước hay mắc họa gọi là hậu báo. Hậu báo thì sớm muộn không định, đã gây nhân tất có quả đó là lẽ tự nhiên.

Tâm mình có thể cải tạo hoàn cảnh là thế nào? Ví như mình có người kiếp trước gây nghiệp ác nặng, kiếp này chịu nhiều điều khổ dữ, ngườI ấy biết tội lỗi do kiếp trước làm, ăn năn sám hối, đổi dữ làm lành, tụng kinh niệm Phật tự tu và khuyên người tu cầu sanh về Cực Lạc. Do sự hối cải ấy, nghiệp trước kia liền tiêu bớt, đổi thành quả khổ nhẹ trong đời này như: bị khinh rẻ, hoặc đau bịnh, nghèo nàn cùng gặp những điều không vừa ý. Chịu đựng những khinh báo như thế xong người ấy có thể thoát đường sanh tử. Kinh Kim Cang có nói: ‘Nếu có người thọ trì kinh này mà bị kẻ khác khinh chê, người đó đời trước gây tội, nghiệp đáng đọa vào ác đạo. Do đời này bị sự khinh chê nên tội trước liền được tiêu diệt, sẽ chứng quả vô thượng bồ đề’.

Người đời khi gặp tai nạn, nếu không oán trời tất cũng trách người, ít ai nghĩ đến sự trả nghiệp mà sanh lòng ăn năn chừa cải. Phải biết trồng cây dưa được dưa, trồng đậu được đậu là lẽ tự nhiên. Làm dữ mà vẫn hưởng phước là đời trước vun bồi cội phước đã dày, nếu không làm dữ thời phước còn lớn hơn. Làm lành mà hay bị tai nạn là đời trước trồng gốc tội đã sâu. Nếu không làm lành tụng kinh niệm Phật, họa càng lớn hơn nữa. Ví như người phạm tội nặng chưa kịp hành hình lại lập được công nhỏ, vì chưa có thể hoàn toàn ân xá nặng thành nhẹ. Nếu lập công mãi đến khi công to không những trừ hết tội trước lại được giải thoát nữa.

 

Lập Cách ỀÐộ Tận Chúng SanhỂ 

Cách này trừ ra người không tin, không tu theo Tịnh Ðộ thời thôi, nếu tin mà tu, bất cần gái trai già trẻ biết niệm Phật Di Ðà, câm thời niệm thầm, dầu tu mấy triệu, chết cũng đặng vãng sanh Cực Lạc, không sót một người nào luân hồi đọa lạc.

Nhà nào có duyên phần, có phước, miễn một người đọc đặng cuốn kinh này, giảng cho cả nhà nghe chung chắc ai cũng muốn khi chết Phật Di Ðà rước hồn về Tây Phương liên hoa hóa thân cho hết khổ. Ráng ăn trường trai, nếu không nổi tập lần lục trai, thập trai. Tệ quá thì ăn chay ngày mồng một và ngày rằm. Tuy không cấm việc vợ chồng cưới gả, song phải giữ giới kỳ cho nghiêm. Rảnh noi theo luật ‘công quá cách’ làm lành sửa mình, làm đặng chút nào đỡ chút nấy. Nhứt là nội nhà tuy còn ăn mặn, mà cữ tà dâm sát sanh cho nghiêm. Không nên uống rượu loạn tánh. Dùng khô mắm, thịt chợ, cá tôm chết sẵn, không giết con chi tại nhà bếp mình. Cữ huyết thịt trâu bò cày và thịt chó. Không cần đến chùa hay tìm thầy. Hãy coi ngày giờ chư Phật hội tại hướng nào, thời đặt bàn hương án nội nhà lập nguyện. Nhớ mỗi tháng y như vậy. Thỉnh tượng Di Ðà thờ, mỗi ngày tụng nhật khóa, dốt niệm sáu chữ ‘Nam Mô A Di Ðà Phật’ cũng đủ.

Ngày sám hối đặt bàn hương án nội nhà lập nguyện:

Tôi . . . họ . . tên . . ở làng . . .hạt . . phát tâm nguyện kể từ ngày nay, cải ác tùng thiện, ăn năn chừa lỗi. Giữ theo qui luật công quá cách, đặng bao nhiêu hay bấy nhiêu, nhứt là cữ sát sanh, uống rượu, tà dâm, gian giảo, nói dối và nguyện ăn chay (trường) (thập) (lục) (sóc vọng). Mà mỗi ngày niệm Di Ðà tới đủ 30 muôn câu, đặng nhờ ơn Phật chứng minh ứng mộng, đem họ tên vào liên hoa. Sau lâm chung Phật cho biết ngày rước hồn về Cực Lạc, hóa thân theo Phật cho khỏi luân hồi lục đạo. Lạy bốn lạy, niệm Phật đếm đủ 108 câu, gọi một trăm. Ðem tượng Phật thờ tại bàn nào thọ trì tự ý. Từ ấy sắp sau, đi đứng nằm ngồi đều niệm thầm. Ngày đêm đếm cộng đủ 30 muôn, sẽ thấy điềm Di Ðà cho biết. (Trừ ra nằm hoặc ở trần thì niệm thầm mà xả không được ghi số). Ðến cơn bịnh đừng sợ tốn, sắm đồ chay cho người bịnh ăn trường, niệm Phật ngày đêm cho tới lâm chung thời thấy Phật rước. Mấy ngày cũng đủ, nhiều tháng quí hơn. Hai năm thời thấy điềm cho biết trước ngày Phật rước hồn, có tòa sen.

Nếu chưa tới phần, mạnh lại như xưa, giữ trường chay không nổi ăn lại theo lệ cũ cũng không tội gì, đừng nghe họ hăm mà sợ sái, khi khác đau cũng vậy. Ðừng ơ hờ, lơ lỏng uổng công. Nhớ đến cơn ngặt mình (gần tắt hơi) niệm ra tiếng mười câu, Di Ðà hiện xuống rước liền. Người nhà nên niệm Phật giúp hoặc niệm vãng sanh, đừng nên khóc cho người bịnh động lòng, loạn tâm xao lãng sự tưởng niệm Di Ðà. Không phải kêu khóc mà khỏi chết trong lúc mãn phần số.

Cách này độ vớt hết, từ con nít biết nói, biết niệm sắp lên, nó chưa biết nguyện, cơn lập nguyện để sau rốt. Người lớn bảo nó nói theo. Còn ai biết chữ thời đọc bài lập nguyện trước đây.

Tôi cứ theo phép Tịnh Ðộ trong kinh Ðại Tạng lập ra mà độ giúp vớI Phật ‘độ tận chúng sanh’. Nếu bày huyễn hoặc, gạt đời cho mất công vô ích, tôi thề bị hủy hết công tôi trường chay 46 năm, thác bị cầm hồn tại địa ngục, 30 muôn năm mới được đầu thai làm ong kiến. Tôi ước nhiều vị khuyên độ tận tâm như tôi.

 

Tận Tâm Cư Sĩ Trần Phong Sắc thệ cáo.

(bài này trích trong Lão Nhơn Ðắc Ngộ)


---o0o---