Tịnh độ
Con đường Tu tắt
Pháp Môn Tịnh Ðộ Trích trong Tây-Qui Trực-Chỉ và Lão-Nhơn Ðắc-Ngộ Ðôi Liễn Ấn-Quang Pháp-Sư Soạn Giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm
28/10/2553 22:47 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Bài Vấn Ðáp Cho Khỏi Nghi

 

Hỏi: Có kẻ tu lâu, gần lâm chung ngã mặn thôi tu, kế chết Phật rước chăng?

Ðáp: Kẻ ấy như người đến bến đò, chờ lâu ngã lòng đi chơi, đò qua sông không hay, làm sao Phật rước đặng? Nhưng vị này lúc bịnh ráng nguyện lại, trường trai theo phép, niệm Phật gia bội ít ngày Phật rước mau lắm. cũng như người đến bến đò đã lâu, bỏ đi chơi nay kịp chuyến đò. Quí vị ngã mặn đã lâu, vì nghi ngại tu không kịp để thác như để hụt đò. Uổng quá! Tiếc thay!

Hỏi: những vị nào hồi tâm muộn quá, đôi ngày kế thác có đặng vãng sanh không?

Ðáp: Quí vị lúc gần lâm chung, có thiện căn mới được. Song phải phát nguyện, xuất của bố thí tức thời, hoặc dặn con bố thí thế cho mình. Nghèo thời dặn con trường trai trong ba năm tang. Niệm Phật tụng kinh Di Ðà cho mình. Ðại nguyện như vậy, lòng phải chí thành niệm Phật nửa ngày hoặc ít giờ, Phật cũng rước về làm dân tu thêm cho khỏi phải luân hồi.

Hỏi: Ai ăn người nấy no, con tu thế cho cha mẹ đặng sao?

Ðáp: Sao không, vì máu thịt cha mẹ chia ra tuy thác như sống, trối tu như vậy thời thành, song e con cháu không chịu tu thời vong hồn tu thêm tại Tây phương, lâu ngày cũng có quả vị. Quí vị lúc lâm chung có Phật rước thời đặng thành.

Hỏi: Người phàm nhiều kiếp đến nay, làm tội dữ vô số, gần chết niệm Phật mười câu sao mà đặng vãng sanh dễ như vậy?

Ðáp: Người ấy đời nay không tu sớm mà kiếp trước có công tu nhơn tích đức mộ đạo Phật, nay lỡ mê trần nên không tỉnh ngộ. Nếu kiếp trước không tu thời nay chết như thế thường, đâu có may gặp người biết phép Tịnh độ chỉ điểm lúc lâm chung, niệm Phật hết lòng cho Phật rước. Người không có thiện căn dầu hết lòng chỉ điểm cũng không tin mà niệm Phật có đâu ăn năn đắc ngộ mà sám hối tội lỗi xưa, bỏ hết các việc vọng tưởng ‘quyết một đường qua Cực lạc , không mơ ngõ khác’ lòng chí thiết không xao lãng như vậy, niệm Phật một câu bằng ngàn câu: mười câu bằng muôn câu, lẽ nào Ðức Phật Di Ðà không cảm động qua rước. Kinh Thập Lục Quán nói: ‘ Lòng thanh tịnh chí quyết, niệm 10 hơi cũng đủ tiêu tội 80 ức dư kiếp trước’. Nếu quả lòng thành như vậy, nhờ có công tu kiếp trước, Ðức Phật Di Ðà qua rước chẳng sai.

Hỏi: Nếu còn tội mà ăn năn tu niệm chí thành, cũng đặng vãng sanh về Tây Phương tu thêm mới thành Phật. Vậy thời vội tu sớm làm chi, để hưởng mùi đời cho phỉ tình, đợi gần chết ăn không đặng sẽ trường trai, tu niệm Tịnh độ ít ngày mà theo Phật như mấy người ác vãng sanh đó, tội gì mà tu sớm thiệt thòi lắm.

Ðáp: Phật quí tại tâm, những ác nhơn vãng sanh là thuở nay không biết phép Tịnh độ mà tu, nay gần lâm chung có người chỉ điểm nên hồi tâm niệm Phật, ấy là làm ác bấy lâu mà vô tâm, nay sám hối hồi tâm Phật mới rước, chớ tiềm tâm làm ác, tính điếm đàng xảo quyệt, Trời Phật thua trí người sao? Trời Phật chuộng những người chân thật. Kẻ dữ được vãng sanh vì có căn tu kiếp trước nên Phật thương tình mà xui người chỉ điểm lúc lâm chung. Muôn người mới có một. Có mười hạng người khi lâm chung niệm Phật không đủ mười câu; Một là lúc lâm chung không gặp người biết tu tịnh độ mà chỉ điểm. Hai là oan báo theo mình cản trở không cho niệm Phật. Ba là bịnh á khẩu hoặc tắt tiếng. Bốn là mê sảng không biết gì. Năm là bị chết chìm chết thiêu. Sáu là bị hùm tha sấu bắt, rắn cắn trào đờm. Tám là trúng thực nhiễm gió bất tỉnh nhơn sự. Chín là tử trận. Mười là té cây đụng xe gẫy chân. Mười sự chết đó dễ gì tỉnh táo mà niệm mười câu cho minh bạch lòng không loạn tâm, hoặc niệmPhật mà còn tưởng vợ chồng con cái, nhớ của chôn lo trối trăn hậu sự dễ bị xao lãng, có đâu lòng biết ăn năn giữ thanh tịnh niệm cho đủ số. Hoặc lòng còn nuối kẻ nọ, trông có thuật hoàn sanh, chồng khóc vợ kể, con cháu theo kêu cho rầy tai, loạn tâm lãng trí, trong lòng bối rối như tơ, khó sửa lòng thanh tịnh mà niệm đủ 10 câu cho Phật rước.

Chớ đợi đến già mới niệm Phật

Thiếu chi mồ trẻ đã qua đời

Khuyên niệm Phật than mình chưa rảnh

Ðợi bắt hồn rắp việc cũng theo!

Nhứt là thời buổi giặc giã chiến tranh, người ta bị bom đạn chết một cách bất ngờ. Ðâu có ai chắc mình sống đến ngày mai. Ai biết trước số mấy mươi mà thác, đừng tin thầy coi số coi tướng nói bốc bướng mà lầm. Thừa lúc chưa già chưa bịnh, chọn ngày sám hối lập nguyện tu lần cho có căn. Bác thợ rèn vừa đập sắt vừa niệm Phật. Vừa làm công việc hàng ngày để nuôi vợ con vừa tu, hoàn cảnh nào cũng tu được cả. Chớ bảo có thời giờ mới tu được, hay là còn trẻ, dại gì tu để hưởng mùi đời cho phỉ tình rồi sẽ hay. Tử thần đến, công việc gì gấp cũng phải buông, trẻ cũng không tha.

Nếu xảo quyệt tính cho lắm, e bị sự rủi, đầu thai kiếp khác không chắc làm người hay mang lông đội sừng. Dẫu may làm người, e không ai nói pháp cho mà nghe, không dễ gì gặp người khuyên tu tịnh độ theo con đường tắt; Dẫu có người khuyên chưa chắc tin. Mất thân người muôn kiếp khó tu mới là khổ. Cũng bởi tính già hóa non.

Hỏi: Người phàm dễ bị bó buộc phạm nhiều tội lỗi, các điều phiền não chưa dứt, một mảy phước đức chưa tu. Còn như Tây Phương Cực Lạc trên ba cõi thiên tiên quí hơn cõi thiển đường bực Thiên Ðế bá hội. Lẽ nào mới niệm Phật mà đặng về Cực Lạc?

Ðáp: nhờ Phật Di Ðà rước, không phải nhờ sức mình tham thiền mà qua nổi Cực Lạc ở luôn. Thí dụ: Con kiến lẩn thẩn cả đời đi không bao xa, còn sợ bị cóc liếm giữa đường, nếu đeo vào áo một người đi du lịch bằng máy bay, trong vài giờ đến xứ khác như không. Còn tu Tịnh Ðộ, Phật Di Ðà tiếp dẫn cũng như vậy. Nếu người tu hành cứ ỷ tham thiền hay luyện đơn, tại cõi trần thời đầu thai hoài tu không biết mấy kiếp mà cũng không giải thoát khỏi sanh lão bịnh tử có đâu thành Phật. Kiếp này tu kiếp sau chắc gì mình tu nữa không, hay hưởng phước giàu sang phú quí quên tu. Về Cực Lạc khỏi phải luân hồi, lo gì không thành Phật La Hán. Như con mọt trong cây gần gốc, nếu bò lên đục từ mắt đục lần cho tới ngọn thời lâu biết chừng nào. Ấy là thí dụ cách tham thiền hay luyện đơn khổ mà lâu vô cùng, e không thành nữa. Như con mọt chưa ra khỏi ngọn tre mà chết. Còn tu tịnh độ thiệt tắt dễ nên ví như con mọt ấy, đục dựa ống tre không bao lâu đã ra khỏi. Nên tu tịnh độ gọi là hoành xuất tam giới, đi ngay rất mau, lo chi phàm tục không đặng vãng sanh Cực Lạc.

Hỏi: Trong chín phẩm tòa sen, bực thấp từ thứ bảy cho đến thứ chín, để dành cho kẻ mới tu ít phước. Nhứt là tòa sen thứ chín, nhiều kẻ ác mới tu, may phước đặng vãng sanh như tích Trương Thiện Hòa, sãi Huýnh Kha, tôi e kẻ ấy về đó còn thói tà dữ, chi cho khỏi con sâu làm rầu nồi canh chăng?

Ðáp: Lo không đặng vãng sanh, lo chi về đó mà còn làm dữ là vì có năm cớ: một là có Phật gìn giữ, hai là muốn chi có nấy không lòng tham, ba là chim linh giảng kinh trên cây báu cũng đủ hồi tâm ăn năn mà sửa lòng, bốn là ở gần Bồ Tát, bạn lành không ai rầy rà gây oán thù, năm là sống hoài tu mãi trở nên lòng Phật; gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, xung quanh mọi người tu thời mình cũng tu theo. Nên về Cực Lạc kiếp này cũng đặng thành Phật không thối chí nữa.

Hỏi: Kinh nói tại thế gian, có kẻ lòng thành phát nguyện tịnh độ, thời trong ao thất bửu cõi Cực Lạc có mọc một cây sen trổ ra một bông. Lúc lâm chung, Phật rước hồn người tu ngồi bay về Cực Lạc cho Liên Hoa hóa thân ngồi tòa sen ấy. Nếu lúc sống tu tấn tới, bụi sen mau ra bông, búp sen mau lớn bằng bánh xe, có nêu tên họ người tu bên ngoài. Tới số Phật Di Ðà ứng điềm, định ngày tiếp dẫn. Còn ai thối chí ngã lòng, bê trễ việc tu thời sen ấy héo dần. Tới thôi tu thời sen ấy rụng. Sau tu lại, sen này chồi lên bông khác, nếu bỏ đạo đến chết thời bụi sen cũng chết khô. Chẳng hay lời ấy có đáng tin chăng?

Ðáp: Việc ấy dễ hiểu. như cái kiếng lớn, vật nào chiếu vào thời cũng thấy bóng y như vậy. Cõi Cực Lạc của Phật Di Ðà rất linh, thế gian có người tu tịnh độ, cõi Tịnh độ mọc sen thêm; sen ấy tùy theo người tu siêng năng hay bê trễ mà tươi héo gọIi là giống sen Bồ Ðề, mà cũng có Ðức Phật Di Ðà chủ trương trong đó, là lý chắc tự nhiên, lẽ nào Ðức Phật Thích Ca đặt chuyện huyễn hoặc mà nghi ngại? ‘ Người tu sen Phật lên, người thành sen Phật trổ’ ấy là nhơn quả tự nhiên.

Hỏi: Tại sao niệm Phật Di Ðà cầu vãng sanh về nước Cực Lạc. Thiếu chi các vị Phật khác mà buộc niệm Di Ðà mãi?

Ðáp: Một là bao nhiêu công đức của Chư Phật mười phương, Ðức Phật A Di Ðà đều có đủ, nên niệm Phật A Di Ðà cũng như niệm đủ các vị Phật mười phương. Hơn nữa mỗi tháng Phật Di Ðà hội chư Phật tại hướng nào mình có lạy sám hối phát nguyện, chư Phật mười Phương chứng minh đâu có thiếu sót vị nào đâu.

Hai là không cầu quyết một chỗ, khó nhứt tâm dễ bị xao lãng.

Ba là các cõi Phật khác không như cõi Cực Lạc, dẫu vị đó thành Phật thời hưởng tiêu diêu một nơi, chứ chư dân trong nước đều khổ não.

Bốn là Phật A Di Ðà Phát 48 nguyện, quyết tiếp dẫn chúng sanh niệm Ngài, dầu phạm tội ngũ nghịch biết ăn năn hối cải ngài cũng độ hết. Nên ai ở cõi này, có niệm Phật thời phần đông niệm Di Ðà nhiều hơn.

Ðức Phật Thích Ca dạy nhiều phép tu luyện rất khó, trừ phép tịnh độ rất dễ vì biết trước đời sau chúng sanh phước mỏng, nghiệp chướng nặng nề, đạo Phật đã mỏn, các kinh lạc hết mà Kinh Di Ðà còn soi dấu cả trăm năm. Bởi dễ nên ít ai tin nên mỗi lần Ngài giảng kinh Di Ðà, Ngài có mời chư Phật Như Lai mười Phương đến chứng minh cho đủ tin chắc.

Hỏi: Nước Cực Lạc cách xa cõi trần mười muôn ức thế giới xa xôi dường ấy lẽ nào người phàm đi tới?

Ðáp: Xác phàm đi xa như vậy không đặng, chớ phần hồn có khó gì! Vì lòng thành niệm Phật, Phật rước hồn đi không phải xác. Thí dụ: chiêm bao đi tới nước khác ngàn muôn dặm, nghe ai kêu thời tỉnh thức dậy liền. Có phải chiêm bao thấy đi gần thời tỉnh mau, đi xa thời tỉnh chậm sao?

Hỏi: Kinh nói ‘ ai ăn chay niệm đủ 30 vạn biến vãng sanh, thời Phật Di Ðà hằng chiếu giám trên đầu, bảo hộ tai qua nạn khỏi, để làm ăn mà tu, đợi lâm chung cho biết ngày rước hồn về Cực Lạc. Người tu Tịnh Ðộ ai thấy khoảng đó mà không ham vì niệm thêm 30 vạn có khó chi. Di Ðà có một ông chiếu giám sao cho xiết, hơn nữa cả mười phương thế giới có biết bao nhiêu người vãng sanh cùng một lúc làm sao rước cho kịp?

Ðáp: Rất đỗi mặt trời mặt trăng là nhỏ còn chiếu khắp trên đầu thiên hạ, huống chi là hào quang Phật. Còn thần thông Ðức Phật A Di Ðà ba mươi sáu triệu một trăm mười chín ngàn năm trăm ông (36.119.500). hơn nữa Phật còn biết bao nhiêu đệ tử thành Phật đều đắc lục thông. Lo mình không tu, lo chi Phật rước không kịp.

Hỏi: Nay muốn vãng sanh Cực Lạc Tây Phương phải làm công hạnh chi? Phát tâm làm sao? Vả lại kẻ ở thế có vợ chồng con cái, chưa dứt đường dâm dục, kế lâm chung niệm Phật, Phật có rước không?

Ðáp: Phật cũng rước hết. Muốn vãng sanh cứ niệm Di Ðà. Cư sĩ ở nhà có vợ chồng sanh đẻ không có tội chi miễn giữ giới kỳ cho nghiêm thời khỏi tội. Nếu khuyên vợ chồng con cháu tu theo sau cũng vãng sanh về Cực Lạc sum họp một nhà. Mình còn khuyên người khác tu lẽ nào để con cháu luân hồi đọa lạc sao. Lòng phát tâm có ba cách: một là nhàm cõi trần, hai là mộ Cực Lạc, ba là phát tâm Bồ Ðề.

Cõi trần như chông gai, vì sự ăn mặc mà cực khổ cả đời. Vì chữ danh lợi mà bôn chôn mạt kiếp. Có người khổ nhiều có người khổ ít. Nghèo thời lo ăn lo mặc. Giàu thời lo giữ của giữ tiền sợ ăn cướp, song ai ai cũng không khỏi bốn điều là sanh, lão, bệnh, tử.

1. Sanh Khổ: Còn trong bụng mẹ không đặng thong thả, ở nơi không sạch, ăn uống huyết nhơ. Chịu gần ba trăm ngày, gần bằng 20 năm khổ não. Ðến lúc sanh ra ép gần móp mình, nhứt sanh nhứt tử giếtmẹ trong một khắc. Sanh rồi bị huyết dơ tống theo, lại tiểu tiện dầm dề không biết hổ thẹn. Dầu sang giàu thánh hiền cũng vậy. Lớn lên muốn không đặng cũng khổ, ly biệt cũng khổ, oán thù giận cũng khổ. Hưởng sự vui sướng có một, bị việc tru phiền hơn tám chín. Làm quan ngay thẳng gặp đứa gian cũng oán ghét. Ít có ngày nào vui trọn. Gặp sự bất bình trái ý luôn luôn. Nằm đêm xét kỹ lại, nhờ có thê thiếp con cái làm cho khuây khỏa vài mươi năm rồi cũng già.

2. Lão Khổ: Cảnh già khổ lắm. Chân mỏi gối chùn, mắt mờ tai điếc, răng rụng nhai đau,tinh thần hao tổn, ăn không ngon, ngủ không được, bịnh hoạn luôn. Trở trời trong mình đã đau nhức khó chịu. Giàu có khó mua được sức khỏe như lúc còn xuân, ngày tháng thấm thoát như cá cạn nước lần lần.

3. Bịnh Khổ: Ai cũng trải qua thời kỳ bệnh hoạn thời biết bịnh như thế nào. Nằm nhà thương hay vào thăm ai nằm nhà thương thời thấy rõ khỏi nhắc lại.

4. Chết Khổ: TớI lúc chết, giựt mình, mắt trợn tròng, tay chân co quắp dễ sợ. không biết chết rồi đi về đâu. Trừ ra ngườI tu Tịnh độ mừng mình được bỏ xác phàm hôi thúi này.

-Mộ Cực Lạc như vầy: Cực Lạc hơn Thiên Ðàng thập bội khỏi luân hồi. Lòng ao ước trông mãn phần về Cực Lạc thảnh thơi.

-Phát tâm Bồ Ðề: Bồ Ðề tâm là lòng làm lợi ích cho người. Khi phát tâm này như đồ máy được gắn điện có năng lực mạnh mẽ. Những công đức bình thường không thể sánh kịp. Nhứt là long từ bi thương xót chúng sanh luân hồi khổ sở, hết lòng nguyện độ và khuyên mọi người tu như mình.

Có người hỏi thiên như lão nhơn ‘Vĩnh Minh Thọ Thiện Sư là thầy đứng đầu Trung Quốc, ai cũng nhường là bậc thầy về việc tham thiền mà sao còn tu Tịnh Ðộ, thường hay đọc bài kệ giảng dạy đệ tử và bổn đạo như sau:

Bài Kệ Nôm

Tham thiền không Tịnh Ðộ, một chục chín người khổ

Tịnh Ðộ chẳng tham thiền, tu muôn thành đủ số.

Cứ theo bài kệ chẳng là chê ép phép tu tham thiền mà bào chuốt tôn trọng, khen ngợi cách tu Tịnh Ðộ thái quá chăng?

Lão Nhơn đáp: Không phải Vĩnh Minh Ðại Sư khen phép tu Tịnh Ðộ thái quá. Thiệt phép Tịnh Ðộ rất rộng lớn, cách tu rất tiện dễ, sao gọi là phép rộng lớn? Bởi hết thảy phép tu đều rút tóm rút vào đủ, trừ bực thượng là Phật, bậc trung là Bồ Tát, bậc hạ là Thinh Văn, Duyên Giác, bậc dưới chót là kẻ dốt hoặc phạm tội ngũ nghịch, thập ác, nếu chịu ăn năn chừa dữ tu theo Tịnh Ðộ, không cần lâu mau, không đợi trường trai 24 tháng, cơn lâm chung niệm Phật không xao lãng; Phật cũng rước về Cực Lạc. Còn tiện dễ là: không có học chi khó, làm chi mệt, kẻ sáng dạ niệm thêm 30 vạn biến vãng sanh, kẻ tối dạ không thuộc vãng sanh cứ niệm ‘Nam Mô A Di Ðà Phật’ cho đủ 30 vạn câu thì đủ. Sau dư tu thêm lâm chung niệm Phật 10 câu, Phật Di Ðà cũng rước. Về Cực Lạc lien hoa hóa thân, tu thêm cho tớI thành Phật. Hỏi thử có phép tu nào dễ mà mau thành Phật như vậy chăng? Nếu ai không trí huệ như Vĩnh Minh Thiền Sư thời cũng không lo tu thêm Tịnh Ðộ và khuyên người tu Tịnh Ðộ như mình.

Hỏi: Hòa thượng Ðại đức đã thông hiểu tham thiền kiến tánh thành Phật cũng đủ, phải tu thêm Tịnh Ðộ làm chi?

Ðáp: Quí vị thông thái muốn tu thêm Tịnh Ðộ như Vĩnh Minh Thiền Sư thời nôn và nóng theo Tịnh Ðộ, sức muôn con trâu kéo cũng không thèm trở lại hốt vàng rồi sẽ tu thêm Tịnh Ðộ. Nếu thông phép tham thiền mà chắc sẽ thành Phật, thời các vị Ðại Bồ Tát trước khi tham thiền đã sáu bực nhiều kiếp mà chưa thành còn phải tu thêm Tịnh Ðộ mới thành Bồ Tát.

Kinh Tam Muội nói ‘Văn Thù Bồ Tát thuật chuyện cũ của mình; gọi mình nhờ niệm Phật mới thành chánh quả’. Phật Thế Tôn làm dấu trên đầu nói rằng : Ngươi nhờ niệm Phật mà đặng vãng sanh Cực Lạc, chớ có nói tham thiền giỏi đâu. ‘Kinh Hoa Nghiêm nói: Phổ Hiền Bồ Tát lấy mười điều nguyện lớn mà dạy Thiện Tài Ðồng Tử cũng tu Tịnh Ðộ, cho Phật rước vãng sanh là quí hơn hết. Kinh Lăng Già nói ‘Phật Thế Tôn thọ ký cho Long Thọ Bồ Tát mới vãng sanh Cực Lạc. Ngũ Thông Bồ Tát người nước Thiên Trúc tu luyện tham thiền, xuất hồn qua Cực Lạc ra mắt Phật Di Ðà bạch rằng: Tôi là chúng sinh cõi Ta bà nguyện vãng sanh Tịnh Ðộ, nay xin Phật hiện hình rước có nghi tiết’. Ấy cũng phải tu thêm Tịnh Ðộ mà Phật rước nào chỉ lấy sức tham thiền đặng lên cảnh Phật mà ở luôn sao? Thử hỏi được bao nhiêu vị tham thiền xuất hồn đến cảnh giớì Cực Lạc?

---o0o---