04
NGƯỜI 
TU PHẬT LÀ NGƯỜI TÌM VỀ 
NGUỒN AN LẠC GIẢI THOÁT
Giảng tại chùa Xá
Lợi 
- 1998.
Ðề 
tài chúng tôi nhắc nhở quí vị hôm nay là: "Người tu 
Phật là tìm trở về nguồn an lạc giải thoát." Quí vị 
chú ý nghe, lãnh hội đầy đủ và ứng dụng tu hành thì mới 
tốt.
Ðức Phật sau khi thành đạo dưới 
cội bồ-đề, Ngài tìm những người bạn đồng tu lúc trước 
là năm anh em ông Kiều-trần-như để thuyết pháp. Bài pháp 
đầu tiên là Tứ Diệu Ðế, trong đó đế thứ nhất là Khổ 
đế, nói cái khổ là lẽ thật của cuộc đời này. Ðức 
Phật nói khổ, tại sao chúng tôi lại nói người tu là tìm 
về nguồn an lạc giải thoát, tức là vui. Như vậy có trái 
với bản ý của đức Phật hay không?
Khi mới nhìn qua đạo Phật, người
không hiểu thấy đạo Phật dường như bi quan, yếm thế. 
Nhưng đi sâu, thấm nhuần giáo lý của Phật rồi, chúng ta 
mới thấy ngược lại. Ðức Phật nói khổ là chỉ trên quả, 
vì quả dễ thấy, dễ biết. Khi biết được quả rồi, Ngài 
liền chỉ đến nhân. Nguyên nhân nào tạo ra quả khổ ấy. 
Khi biết được nhân rồi, dẹp hết nhân thì quả không 
còn.
Ngày nay các nhà khoa học luôn 
phăng 
tìm manh mối của vạn tượng sum la, căn cứ trên quả mà 
phăng tới nhân, không bao giờ đi từ nhân tới cái quả. 
Vì quả là cái dễ thấy, thấy quả rồi chúng ta tìm ra 
nhân dễ dàng, còn trước nói nhân sau đó mới chỉ quả 
thì khó hơn. Như bây giờ chúng ta có cây cam, được quả 
cam ăn, biết quả cam ngọt. Những người thưởng thức mùi 
vị quả cam hỏi rằng: Cam này từ đâu có? Tự nhiên chúng 
ta sẽ giải thích từ hạt cam ươm lên, nẩy mầm, lên cây, 
có lá, đơm hoa, kết quả. Quả là cái hiện thấy, chứng 
minh được; còn nhân thì đã cũ, đã xưa rồi, chúng ta 
không thể nào chỉ cho người khác thấy tường tận. Cho nên 
tinh thần Phật dạy rất thích hợp với khoa học hiện giờ.
Nếu người không hiểu, nghe đức 
Phật nói cuộc đời là khổ, mang thân này là khổ thì cho 
rằng đạo Phật bi quan, đạo Phật chán đời, v.v... Khổ 
đó là quả, chúng ta biết rồi thì phải phăng tìm nguyên 
nhân của nó. Nếu biết được nhân nào tạo ra quả khổ, 
chúng ta liền dẹp bỏ, tự nhiên quả khổ không còn. Nếu 
quả khổ không còn, lúc đó được vui. Vui không riêng có 
mà chỉ khi nào hết khổ. Ðó là tinh thần của Phật dạy.
Phật nói khổ để chúng ta tìm 
ra nguyên nhân gây đau khổ, biết rõ nguyên nhân rồi thì dứt 
bỏ nó. Dứt bỏ rồi chúng ta mới hết khổ, tức là được 
an lạc, giải thoát. Vậy mục đích của đức Phật dạy là 
muốn chúng ta hết khổ, được giải thoát, chớ không phải 
dạy chúng ta chịu khổ. Phương pháp tu đó không hề bi 
quan. Quí vị nhìn những người tu hành hiểu sâu đạo lý, 
sống được với đạo, thường lắc đầu, chặc lưỡi, thở 
dài hay thường cười hoài? Bao nhiêu đó cũng tự trả lời 
cho những vấn đề chúng ta cần hiểu rồi.
Người biết tu luôn phăng tận 
nguồn gốc nguyên nhân gây ra đau khổ, dẹp bỏ chúng qua một 
bên thì đau khổ không còn. Khổ hết gọi là an vui. Nhưng 
thật đáng thương cho Phật tử chúng ta ngày nay, tu mà 
không tìm nguyên nhân của khổ để dẹp bỏ, lại cứ cầu 
Phật cho con hết khổ hoài. Gặp việc buồn, việc khổ liền 
vô chùa thắp hương, lạy Phật tha thiết, xin Phật ban cho 
con ân huệ để con hết khổ. Việc gì cũng dựa vào quyền 
lực của đức Phật chớ không bỏ ra công phu tu hành.
Ðạo Phật là đạo rất thực tế 
chớ không phải huyền bí, nhưng Phật tử chúng ta quen bệnh 
yếu đuối nên xem Phật giống như ông thần. Gặp việc gì 
khổ quá chỉ xin với Phật cho bớt khổ, chớ không biết 
tu cho bớt khổ. Ðó là điểm yếu đuối, sai lầm của Phật 
tử chúng ta. Người tu Phật thì phải tìm về nguồn an lạc 
giải thoát. Tôi xin nêu vài điểm căn bản cho quí vị thấy 
nguồn gốc của an lạc giải thoát.
Trong kinh Phật thường nói: 
"Chúng sanh có tám điều khổ: sanh khổ, già khổ, bệnh 
khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng 
hội khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ. Ðó là bát khổ." 
Như vậy khổ nhiều hơn vui. Chúng ta xét kỹ xem, cái khổ 
đó là khổ cho tất cả mọi người hay chỉ đối với những 
ai không biết đạo lý?
1. Sanh khổ.
Theo nhà Phật thì sanh gồm hai 
phần. 
Thứ nhất, sau khi ra khỏi lòng mẹ đau đớn nhọc nhằn. Thứ 
hai, trong cuộc sống của chúng ta, nếu không biết tu, không 
hiểu đạo thì cả cuộc đời chỉ toàn là đau khổ, không 
chút an vui. Như vậy khổ lúc sanh ra và khổ trong cuộc sống. 
Khi sanh ra có đứa bé nào cười không, hay đều khóc oa oa. 
Ðó là vì ra đời khó khăn đau đớn quá, nên lọt lòng mẹ 
là khóc liền. Cái khóc ấy nói lên sanh là khổ.
Rồi từ bé đến già mấy mươi 
năm, một cuộc đời khổ nhiều vui ít. Quí vị thử kiểm 
lại xem trong suốt một đời, những gì chúng ta mong muốn, 
đa phần được như ý hay chỉ thiểu phần như ý? Chắc rằng 
không ai nói đa phần như ý. Người thì gia đình ấm no có 
cơm ăn, áo mặc nhưng con cháu khó dạy. Người thì con cháu 
dễ dạy nhưng gia đình lại chật vật thiếu thốn v.v... đủ 
thứ thuận nghịch, không khi nào được thỏa mãn như ý của 
mình. Vì vậy đa số đều bất như ý.
Con người sanh ra ai cũng mơ ước
tràn đầy hạnh phúc, nhưng trải qua bốn, năm mươi tuổi 
nhìn lại cuộc đời không có hạnh phúc mà bất hạnh lại 
nhiều. Ít hôm nghe tin người thân mất hoặc phải đi xứ này 
xứ khác v.v... Hoặc có chuyện này chuyện nọ làm mình phải 
buồn, phải khổ. Không ai được hạnh phúc trọn vẹn. Cả 
một đời người, ba phần tư là đau khổ, chỉ một phần 
tư an vui thôi, thực tế là như vậy.
Chúng ta đã biết sanh là khổ, 
bây giờ chúng ta phải làm sao cho hết khổ? Làm sao chúng ta 
sống trong cõi khổ mà vẫn luôn được an vui? Ðiều đó 
không có gì khó hết. Nếu sống trong cuộc đời này mà biết 
rõ ràng cuộc đời là tạm bợ, có rồi sẽ mất, không ai 
còn mãi. Như vậy ngày nào chúng ta còn sống thì ngày ấy 
còn tốt, còn có thì giờ cho chúng ta tự tu, cho chúng ta 
làm những điều thiện, giúp ích mọi người. Một ngày sống 
là một ngày vàng, chúng ta phải sử dụng hết để lo cho mình, 
cho người, làm sao cho mình và người đều được an ổn. Làm 
một điều lành là chúng ta được một nguồn vui. Chúng ta 
chuyển cuộc sống khổ đau này bằng một cuộc sống tràn 
đầy hạnh phúc.
Nói như vậy sẽ có vị nghĩ, nếu 
người giàu có thì giúp đỡ người này, người kia dễ. Còn 
như ta nghèo, không có điều kiện giúp được ai, thì làm 
sao có niềm vui. Tôi xin nhắc rằng trên đời có nhiều niềm 
vui lắm, chỉ sợ chúng ta không chịu làm thôi.
Thí dụ chúng ta không có tiền 
cho người ăn xin hay đóng góp cứu trợ nạn lụt v.v..., nhưng 
đang đi thấy đứa bé bị té, chúng ta đỡ lên, vỗ về, 
an ủi khuyên bảo nó, như vậy có vui không? Chúng ta không 
làm được việc cứu giúp bằng tiền thì chúng ta làm việc 
cứu giúp bằng thân, bằng lời. Dùng thân và lời giúp đỡ 
người bớt khổ. Bớt khổ là họ được vui, người vui thì 
chúng ta cũng vui. Cái vui đó không tốn gì hết, chỉ tốn một 
chút công. Như vậy tìm nguồn vui đâu phải khó. Chỉ cần 
khi thấy một con kiến rớt dưới vũng nước, chúng ta vớt 
nó lên để trên khô, thấy nó bò mừng rỡ là chúng ta cũng 
vui rồi.
Người biết tu nhìn lại bản 
thân mình ngày xưa nhiều nóng giận, nay đã giảm bớt liền 
cảm thấy vui. Gặp ai đang có nguy khốn, mình ra tay cứu vớt, 
từ con người cho tới loài vật, giúp được loài nào cũng 
có nguồn vui. Vậy chúng ta sống để làm lợi ích cho chúng 
sanh. Tuy rằng khả năng nhỏ bé, hạn hẹp, nhưng với lòng 
chân thành thì cũng có vui rồi.
Nếu chúng ta biết sống, thì dù 
đời là khổ hay sanh là khổ, nhưng ngày nào chúng ta cũng 
lượm cũng mót được nhiều niềm vui. Ðó là chúng ta khéo 
tu, khéo hiểu Phật pháp, chớ đừng lạy xin Phật cho con 
vui. Phật không cho được đâu, chúng ta phải tự tạo lấy 
nguồn vui từ bản thân mình. Tuy sanh khổ, nhưng nếu chúng 
ta biết sống thì sanh trở thành vui, chớ không phải khổ.
2. Già khổ.
Tại sao già khổ? Vì già không 
biết 
làm gì cứ đi tới đi lui, nhớ con, nhớ cháu, buồn ủ rũ, 
hết trách người này tới trách người kia, thành ra thấy 
tuổi già lê thê, đen tối. Nên già là khổ.
Người già nên biết dùng tuổi 
già trong công việc. Những vị không có trách nhiệm cứ ở 
tại nhà, tìm những gì hay, những gì đẹp dạy con, dạy cháu. 
Ðem bài kinh hay, đoạn sách tốt để dạy con cháu, đó là 
vui rồi, đâu phải làm việc gì nhiều.
Cũng như chúng tôi, một ngày 
sống 
là một ngày phải làm được cái gì cho mình cho người. Lợi 
ích được cho mình cho người thì vui chớ đâu có khổ. Như 
vậy nói già khổ hay vui? Già thế nào cũng có kinh nghiệm 
nhiều hơn người trẻ. Tại sao chúng ta không đem những 
kinh nghiệm ấy dạy lại cho người sau. Vì vậy tuổi già 
không phải là thừa, không phải là bỏ. Mỗi ngày chúng ta 
sống đều có giá trị thì cuộc đời già là vui, chớ 
không phải khổ.
3. Bệnh khổ.
Ðiều này đa số chấp nhận. Có 
người nào đau mà không rên đâu? Rên tức là khổ chớ 
gì! Nhiều người than sao tôi bệnh hoạn lê thê, kéo dài năm 
này qua năm nọ, chán quá! Nên vị đó thấy bệnh là khổ.
Nhưng với con mắt nhà Phật, bệnh
cũng không khổ. Vì sao không khổ? Vì Phật dạy thân này do 
nhân duyên hợp, trong đó có đất, nước, gió, lửa. Kinh Niết-bàn 
nói tứ đại là bốn con rắn, con rắn nước, con rắn lửa, 
con rắn đất, con rắn gió. Tôi xin nói cụ thể hơn, con rắn 
nước là rắn hổ ở dưới nước, con rắn lửa là rắn hổ 
lửa, con rắn đất là rắn hổ đất, con rắn gió là rắn 
hổ mây. Bốn con rắn hổ này nhốt trong một cái giỏ thì 
chúng phải cắn nhau, chống chọi nhau thôi. Người nuôi rắn 
thấy bốn con cứ chống nhau, làm cho con này con nọ cứ bất 
an hoài, thì phải can thiệp cho chúng hòa với nhau mới yên 
được.
Chúng ta mang thân đất nước gió 
lửa, bốn chất đó có hòa hợp với nhau không? Ít hôm thì 
lửa thắng nước, lúc đó nóng quá phải kiếm cái gì uống 
cho mát, đó là điều hòa rắn hổ lửa. Ít hôm nước thắng 
lửa thì bị lạnh run rẩy, phải kiếm cái gì uống cho ấm, 
đó là điều hòa con rắn nước. Ít hôm rắn đất bị hổ 
mây cắn, lúc đó chúng ta kêu trúng gió, phải đánh gió hay 
tìm cách này cách kia làm cho gió ra thì thân mới nhẹ, nên 
nói: "Gió thổi mạnh thì đất rung rinh." Chúng luôn 
luôn chống chọi nhau. Chúng ta phải điều hòa chúng. Như vậy 
nhàn hạ hay khổ.
Ai cũng có bệnh. Nếu không bệnh 
nặng thì cũng bệnh nhẹ, không bệnh nhiều cũng bệnh ít, 
chớ không ai hoàn toàn không bệnh. Vì bệnh là khổ chung của 
tất cả mọi loài! Nhiều vị bệnh lăn lộn rên. Rên là khổ. 
Nhưng giờ đây biết tu, khi bệnh chúng ta phải làm sao? 
Chúng ta nhìn bốn con rắn này, xem đứa nào thắng, đứa nào 
bại. Biết rõ bốn con rắn độc đang chống chọi với 
nhau, chúng ta không chấp thân này là thật. Tứ đại tụ họp 
nên có thân, nhưng vì tụ họp trong sự chống chọi nên 
thân này khổ.
Chúng ta biết rõ nó không chắc, 
không bền, không có gì quan trọng nên bớt khổ. Thường bệnh 
đau, chúng ta thấy khổ vì thấy thân là hơn hết, vì sợ 
chết. Nếu biết rõ nó là tướng duyên hợp thì hợp cũng 
tốt, mà tan cũng vui. Nếu nó còn thì chúng ta dùng vào việc 
hữu ích, nó mất thì chúng ta ra đi một cách thảnh thơi, có 
gì đâu mà sợ. Nếu không sợ chết thì đau mặc đau, nó 
đâu có thiệt.
Ngày xưa có một vị Thiền sư bị 
bệnh, thầy Tri sự lên thưa: "Bạch Hòa thượng, Hòa thượng 
bệnh có cái không bệnh chăng?" Ngài đáp: "Ôi da, 
ôi da!" Cái biết rên đó nó không có hình tướng nên 
không bị bệnh, còn bệnh là thân này bệnh. Như vậy chúng 
ta biết ngay nơi thân này là duyên hợp tạm bợ. Có hợp 
thì phải có tan, không có gì quan trọng. Không quan trọng 
thì bớt khổ.
Ðồng thời chúng ta cũng biết 
ngay trong thân này có cái chân thật, không hình tướng, nó 
chính là chủ trì của thân. Biết rõ cái đó thì thân có 
đau, có nhức là chuyện của thân, nhìn được cái đau tức 
là chúng ta không đau.
4. Chết khổ.
Ai cũng thấy người sắp chết thở 
hổn hển, trăn trở bứt rứt hết sức khổ nhọc, nên nói 
chết là khổ.
Người nếu khéo tu, nhất là tu 
thiền sẽ thấy khác. Khi ngồi thiền từ một giờ, lần lần 
tới một giờ rưỡi, hai giờ, càng tiến lên chân đau vô kể. 
Nhưng ráng chịu đựng, thắng được nó rồi thì sẽ qua 
luôn, không còn đau nữa. Thắng được là có gan dạ. Vì 
có gan dạ nên mới thắng được.
Khi chúng ta chết, thân tứ đại 
rã rời tan nát, làm sao không đau đớn. Trong khi đau đớn 
chúng ta nhìn nó biết nó là bại hoại. Còn cái "biết" 
bại hoại đó không bại hoại, không đau đớn. Biết rõ như 
vậy thì chết không phải khổ nữa. Cho nên ngày xưa Thiền 
sư Từ Minh ở Trung Hoa có nói câu kệ: Sanh như đắp chăn 
đông, tử như cởi áo hạ. Mùa đông lạnh lẽo được đắp 
chăn ấm là vui. Mùa hè nóng bức, mồ hôi tươm ướt áo, 
được cởi áo đi chơi là khỏe. Với người biết tu thì 
sanh tử như trò chơi, không có gì quan trọng nên không có 
gì khổ hết.
Chỉ người không biết tu, sống 
lo bảo vệ, săn sóc, cung dưỡng thân này, nên khi thân này 
bại hoại, chới với không biết nương tựa vào đâu. Vì vậy 
mà khổ. Khổ hay vui là tại người biết tu hay không biết 
tu mà thôi. Thân này tuy có hợp có tan nhưng ông chủ không 
mất thì còn gì khổ. Vì vậy chết cũng không phải là khổ.
5. Ái biệt ly 
khổ.
Tức là người mình thương yêu 
mà phải xa lìa nên khổ. Nếu chúng ta biết thương yêu là 
gốc của đau khổ nên bớt thương yêu đi thì bớt khổ.
Nói hết thương yêu, người ta lầm
tưởng đạo Phật khô khan quá, không biết thương ai hết. 
Tôi thường thí dụ, như một dòng suối nhỏ, nước từ đầu 
nguồn tuôn chảy rất mạnh, vì dòng suối nhỏ mà nước 
nhiều nên nó chảy xiết. Còn biển cả mênh mông, thấy như 
không chảy mà thật ra nó chảy ngầm. Nếu không thì làm 
sao có nước ròng, nước lớn.
Cũng vậy, thế gian cột trói 
mình trong tình thân thuộc, tình bè bạn, nên khi xa cách phải 
đau khổ. Còn người tu thì mở rộng lòng thương hết chúng 
sanh, nên ai chúng ta cũng thương. Vì thương tất cả nên như 
biển, không chảy xiết nên không khổ. Tình thương có cột 
trói là khổ, còn lòng từ thương hết mọi người thì 
không khổ. Người này đi vắng thì còn bao nhiêu người khác 
chúng ta phải lo cho, có rảnh đâu nhớ thương một người. 
Như vậy tâm từ bi là tâm tràn trề lai láng, không có hạn 
cuộc. Còn ái kiến là cột trói, mà cột trói riêng biệt 
thì khổ. Vì vậy nên nói ái biệt ly khổ. Nếu chúng ta dứt 
được lòng ái thì tự nhiên khổ theo đó dứt hết, sẽ 
được vui ngay.
6. Cầu bất đắc khổ.
Cầu là mong cầu, bất đắc là 
không được như ý nên khổ. Chúng ta mong muốn hoặc trông 
chờ điều gì mà không được thì khổ. Nếu chúng ta không 
thèm mong cầu chi hết, ngày nay sống lo việc ngày nay, không 
trông đợi ngày mai thì tâm bình an. Ngày nào chúng ta cũng làm 
tất cả việc tốt, việc lành, cứu người này giúp người 
kia; không giúp được người thì giúp vật, không cần cầu 
việc gì cao xa mà chúng ta vẫn được an lành. Do đó chỉ cần 
dẹp lòng tham cầu thì tự nhiên hết khổ, nên nói hết 
tâm tham cầu liền được an vui.
7. Oán tắng hội 
khổ.
Thù oán mà gặp lại nhau thì khổ.
Quí vị ghét ai đó cay đắng mà họ cứ ngồi trước mặt 
mình hoài, có khổ không? Chắc khổ lắm. Bây giờ chúng ta 
đừng thèm ghét ai hết thì không còn khổ. Không khổ tức 
là vui rồi. Như vậy vui từ đâu lại, khổ từ đâu ra? Tại 
mê muội mà khổ, bỏ mê muội đi thì vui.
Chúng ta thật là đáng thương. 
Tôi 
thường nói, như có số người đang đi trên một chiếc 
thuyền qua biển, sóng gió chòng chành làm thuyền muốn lật. 
Lúc ấy mọi người có rảnh rỗi để cãi vã, giận hờn 
nhau không, hay ai cũng lo làm sao cho khỏi chết? Cũng vậy, trên
thế gian này ai ai cũng có bao nhiêu thứ hoạn nạn đang chực 
chờ, nên ai cũng là người đáng thương. Mình đã đáng thương 
rồi, mọi người xung quanh lại càng đáng thương hơn. Vì vậy 
thương nhau không hết, có đâu giận hờn làm khổ cho nhau. 
Ai ưa giận hờn, người đó khôn hay dại?
Vậy mà thế gian không chịu khôn 
cứ giận hoài, có người còn nói: "Tôi giận người đó 
mấy chục năm rồi chưa hết!" Vị ấy đâu biết ôm 
ấp giận trong lòng là mình đang chứa những hòn lửa than, 
nó sẽ thiêu đốt ta gầy mòn héo hon, vậy mà còn khoe tôi 
giận mấy chục năm. Giận nhiều thì hại nhiều, không có 
lợi ích gì cả. Việc qua rồi chúng ta nên xí xóa với nhau 
rồi cười vui, cuộc đời tạm bợ mà!
Thường trong lòng chúng ta luôn 
có hai hạng người khó quên: Một là những người mình thương; 
hai là những người mình ghét. Nên sau khi chết sẽ gặp lại 
hai nhóm này. Thương gặp lại và ghét cũng gặp lại. Nên 
người biết tu phải xả hết giận hờn, không oán thù ai hết.
Thật ra chúng ta còn là phàm 
phu, 
bảo đừng giận thì chưa được, song có giận nên bỏ mau 
một chút. Kinh Phật có câu: "Tăng hận bất cách 
túc", tức Tăng giận không quá một đêm. Chúng ta cũng 
giận khi nghe lời trái tai, nhưng giận một chút rồi bỏ để 
mai kia không gặp trở lại. Nếu ai ôm ấp giận hoài, đó 
là nguyên nhân để mai sau gặp lại. Chúng ta chấm dứt tâm 
oán hờn thì chúng ta được an vui.
8. Ngũ ấm xí 
thạnh 
khổ.
Tức thân năm ấm này mạnh mẽ, 
hưng thạnh quá thì khổ. Ngược lại nếu chúng ta biết 
dùng thân năm ấm để tiến tu thì sẽ an vui. Tôi thường 
thí dụ như khi mình qua sông, không có thuyền bè, nhờ khúc 
gỗ mục mình lội qua sông. Khúc gỗ khi đó là hữu ích. Nhưng 
đã qua sông rồi phải biết bỏ khúc gỗ đi không nên tiếc.
Thân này cũng vậy, bệnh hoạn 
đau ốm đủ thứ, chúng ta lỡ mang vào rồi, phải dùng nó 
cho có ý nghĩa. Dùng thân làm lợi cho mình, đánh thức cho 
người, chỉ vì việc tiến tu thì đó là hữu ích. Còn nếu 
cung dưỡng săn sóc thân cho lắm, tới ngày nó mất thì khổ 
đau. Vì thương thân quá nên mất thân này liền tìm thân 
khác. Nhiều khi chụp được thân tốt, cũng có khi chụp phải 
thân xấu. Vì vậy mà có sanh trong địa ngục, ngạ quỉ, súc 
sanh. Chúng ta nhớ đừng quí thân, mà chỉ lợi dụng nó để 
lợi ích cho chúng sanh, để mình tiến tu. Ðó là người biết 
dùng thân. Ðã biết dùng thân thì vui chớ không khổ.
* * *
Như vậy tám thứ khổ này không 
phải thật khổ. Chỉ khi chúng ta mê, chúng ta mới thấy thật 
khổ. Nếu chúng ta tỉnh giác thì không còn khổ nữa. Phật 
nói khổ để chúng ta thức tỉnh, thức tỉnh thì không còn 
khổ, mà là được vui. Trong kinh Niết-bàn, đức Phật có dạy 
bài kệ:
Chư hành vô thường
Thị sanh diệt pháp
Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc.
Dịch:
Các hành vô thường
Là pháp sanh diệt
Sanh diệt diệt rồi
Tịch diệt là vui.
          
        
Hành nghĩa là tất cả các tướng 
có đi có lại, các sanh hoạt ở thế gian đều là vô thường, 
không bền lâu, nó thuộc pháp sanh diệt. Từ thân hành cho tới 
ý hành, cả hai đều thuộc về pháp sanh diệt. Tất cả 
các thứ sanh diệt lặng hết thì tịch diệt hiện tiền. Chỗ 
lặng lẽ đó chính là an vui. Chúng ta hiểu đạo lý, phải 
khéo ứng dụng tu như vậy.
Một, đừng chấp thân vô thường 
là thật. Hai, phải lặng tâm vô thường sanh diệt xuống, lúc 
đó chúng ta sẽ hết khổ được vui. Ðối với người tu 
niệm Phật, phải niệm Phật cho nhất tâm. Khi tâm sanh diệt 
hết mới được sanh sang cõi Cực lạc. Ðối với người 
tu thiền, nếu tâm sanh diệt lặng thì định, do định nên 
trí tuệ phát sanh, ấy là vui.
Phật dạy chúng ta biết các hành 
đều vô thường, đều là pháp sanh diệt. Chúng ta đừng cố 
chấp, đừng luyến tiếc, đừng quá thương yêu, mà phải 
làm sao cho tất cả những thứ sanh diệt đó lặng hết, 
thì tịch diệt là niềm vui an lạc sẽ đến với chúng ta. 
Trong nội tâm của mình, nếu cứ lo nghĩ chuyện này chuyện 
kia dồn dập, lúc đó gương mặt mình héo xàu. Ngược lại, 
nếu tâm mình thơ thới, không có một niệm lo nghĩ nào hết, 
lúc đó gương mặt mình tự nhiên được tươi vui. Như vậy, 
cái sanh diệt lặng rồi thì tịch diệt (nguồn vui) hiện tiền. 
Nên người khéo tu lúc nào cũng tìm cách đưa tâm sanh diệt 
của mình đi đến chỗ lặng lẽ. Ðó là nguồn an lạc lớn 
lao nhất của người tu.
* * *
Tóm lại, chúng ta tu Phật là vui
hay khổ? Tu Phật là vui. Phật nói khổ để chúng ta tìm ra 
nguyên nhân của khổ và diệt khổ thì được an vui. Vậy 
đạo Phật bi quan hay lạc quan? Người không hiểu rõ đạo 
Phật nên đánh giá sai lầm, cho đạo Phật là bi quan, yếm 
thế. Người hiểu đạo Phật đúng đắn là người biết tìm 
về nguồn an vui, biết tìm về nguồn giải thoát chớ không 
phải khổ đau như người ta tưởng.
Mong rằng tất cả chư Tăng, Ni 
cũng như Phật tử sau khi nghe tôi giải thích, quí vị hiểu 
và ứng dụng tu được, thì xứng đáng là người xuất 
gia, xứng đáng là người cư sĩ chân chánh, không còn bị 
các thứ khổ làm cho buồn bã, sầu bi. Như vậy là quí vị 
biết nhổ hết nhân đau khổ để rồi cùng nhau được an 
vui. Nhổ hết gốc đau khổ thì Ta-bà biến thành Cực lạc, 
còn gì phải trông chờ xa xôi.
Một lần nữa tôi mong quí vị 
nghe, hiểu, cùng tu và cùng được an vui.
 -ooOoo-