05
NGUỒN 
GỐC CỦA ÐẠO PHẬT
Giảng tại trường 
Hạ 
chùa Long An - 1998.
Hôm 
nay chúng tôi được duyên lành về đây, trước hết thăm 
chư Tăng trong mùa an cư, sau có vài lời muốn nói cùng chư 
Tăng Ni. Chúng tôi thường tự tuyên bố rằng tôi là kẻ nợ 
của Tăng Ni, nên trọn đời lúc nào tôi cũng canh cánh trong 
lòng nghĩ đến người tu xuất gia, muốn làm sao tạo duyên 
tốt cho tất cả Tăng Ni trên đường tu, mỗi ngày một tiến 
lên và tiến đúng đường lối của Phật đã dạy.
Tăng Ni chúng ta là người hi 
sinh 
cả một cuộc đời để tu. Nếu một đời tu không được 
kết quả gì thì thật uổng một kiếp hi sinh. Với Phật tử 
cư sĩ chúng tôi cũng lo nhưng ít hơn, quí vị tu bao nhiêu tốt 
bấy nhiêu, có mất việc đạo thì còn lợi ích việc đời 
chớ không như Tăng Ni. Tăng Ni là người hi sinh trọn vẹn 
đời mình cho sự tu hành để đi tới chỗ an vui giải thoát 
và sau đó dìu dắt chúng sanh cũng được như thế. Nếu chúng 
ta tu không ra gì thì sự hi sinh đó thật đáng thương, đáng 
tiếc.
Vì vậy chúng tôi bận tâm nhiều, 
nên chúng tôi đã nhận lời mời của chư Tăng, chư Ni ở các 
tụ điểm an cư trong thành phố về đây tiếp chuyện, nhắc 
nhở quí vị làm sao cho sự tu hành được kết quả như sở 
nguyện của mình. Ðó là nguyện vọng của chúng tôi.
Hôm nay tôi nói chuyện với quí 
vị 
một đề tài: "Chúng ta tu theo đạo Phật không 
khéo bị quên mất gốc." Tại sao chúng tôi lại 
đưa ra đề tài này? Bởi vì là người xuất gia, bắt buộc 
chúng ta phải phăng tìm nguồn gốc của đạo Phật, lấy đó 
làm nền tảng vững chắc cho đời tu, luôn luôn nương tựa 
vào đó, chớ không thể nào quên hay đi sai lệch được. Do 
đó chúng ta phải quay về tận nguồn gốc của đạo Phật, 
xem ai là người khai sáng đạo Phật và Ngài đã tu hành 
truyền bá như thế nào, mà Phật giáo còn mãi đến ngày 
nay? Chúng ta là hàng hậu học kế thừa nối tiếp, phải 
làm những gì xứng đáng là đệ tử của Phật. Ðó là mục 
tiêu tôi nhắm đến.
Nói đến nguồn gốc của đạo 
Phật thì chắc rằng tất cả Tăng Ni đều biết đức Phật 
là một Thái tử ở Ấn Ðộ xuất gia đi tu, bỏ cả sự 
nghiệp thế gian để tìm đạo giải thoát. Khi đã đạt 
được đạo quả rồi Ngài truyền giáo cho đến tận ngày 
nay gần như cả thế giới đều biết. Như vậy lịch sử 
đức Phật ai ai cũng thuộc nhưng ở đây tôi muốn đặt lại 
câu hỏi: Tất cả chúng ta nhớ lại xem vì sao đức Phật 
đi tu? Ðó là điều mà chúng ta phải phăng tìm tận cội rễ, 
tột căn nguyên. Chúng ta nương theo đó mà có một lối đi, 
một con đường tiến lên tu tới chỗ cứu kính.
Dĩ nhiên tất cả chúng ta không 
ai phủ nhận đức Phật đi xuất gia là vì chứng kiến được 
cảnh sanh, già, bệnh, chết. Lý do này hết sức quan trọng 
đối với đạo Phật. Tôi nhớ trong sử có kể đức Phật 
một lần thấy người già Ngài liền thức tỉnh. Người này 
già rồi mai kia ta cũng già. Thấy người bệnh, người chết, 
Ngài biết rằng rồi ta cũng phải bệnh, phải chết. Vì vậy 
nên Ngài mới băn khoăn, thao thức không yên được.
Người mê thấy cảnh già, bệnh, 
chết tưởng chừng đó là chuyện của ai chớ không phải 
là chuyện của mình. Tất cả quí Tăng Ni, Phật tử đã từng 
chứng kiến cảnh già, bệnh, chết hay chưa? Chắc chứng kiến 
nhiều lắm. Nhưng chứng kiến mà quí vị có tỉnh không? 
Hay là người kia già, người kia bệnh, người kia chết không 
có gì quan trọng đối với chúng ta. Ðây là quan niệm hời 
hợt cho nên đức Phật bảo chúng sanh si mê.
Ðức Phật thấy người già, người 
bệnh, người chết Ngài liền tỉnh ngộ ta cũng sẽ như vậy, 
đó là việc chung chớ không phải việc riêng. Ngài nghĩ rằng 
đã có sanh ra rồi phải già, bệnh, chết. Lớp trước đã 
đến, lớp sau sẽ đến, ai cũng đến đó. Chẳng lẽ chúng 
ta sanh ra ở đời để chờ đến một ngày chôn vùi dưới 
đất hay sao? Chúng ta phải làm sao thoát ra khỏi luật vô thường 
chi phối con người như thế. Vì vậy đức Phật không kham 
chấp nhận cái già chết đến với Ngài, phải làm sao để 
thoát ra khỏi nó. Ðó là lý do, mục đích mà Ngài đi tu.
Do đó khi đi tu gặp các vị tiên 
dạy, nào là pháp Tứ thiền, pháp Tứ không v.v... Các pháp 
đó Ngài đã đạt được nhưng vẫn chưa thoát khỏi sanh, 
già, bệnh, chết nên Ngài từ giã họ ra đi. Sau đó đức 
Phật tu khổ hạnh vì nghĩ rằng nếu tận lực tu khổ hạnh 
có thể đời mình sẽ đạt được mục đích giải thoát 
sanh tử. Qua mấy năm trời khổ hạnh, kết quả chỉ đưa 
Người đến chỗ kiệt quệ, té xỉu không còn sức lực nữa. 
Ngài thấy đó là một quan niệm sai lầm. Nếu càng khổ hạnh 
chỉ càng đưa đến cái chết chớ không cứu được mình, 
được người. Ngài liền từ bỏ khổ hạnh và đến cội 
bồ-đề ăn uống trung hòa, tức ngày ăn một bữa và tọa 
thiền.
Dưới cội bồ-đề (tất-bát-la) 
Ngài lấy một ít cỏ trải tòa ngồi, khi trải cỏ xong, 
Ngài chỉ cây tất-bát-la thệ nguyện rằng: "Ta ngồi dưới 
cội cây này nếu không đạt được đạo thì dù xương tan 
thịt nát cũng không rời khỏi nơi đây." Vì có lời thệ 
nguyện mãnh liệt đó nên suốt bốn mươi chín ngày đêm 
thiền định dưới cội bồ-đề, Ngài liền được giác ngộ.
Nói đức Phật thành Phật là 
thành cái gì? Ðây là vấn đề chúng ta cần phải quan tâm. 
Khi Ngài ngồi tu dưới cội bồ-đề đến đêm thứ bốn mươi 
chín, từ đầu hôm đến hết canh một Ngài chứng được Túc 
mạng minh. Túc là đời trước, mạng là sanh mạng, minh là 
sáng. Sáng ra được những việc trong nhiều đời nhiều kiếp 
về trước, tại sao Ngài sáng ra lẽ đó? Bởi khi Ngài đi 
tu, vì muốn giải thoát sanh tử nên Ngài đặt ra vấn đề: 
Trước khi ta có mặt ở đây ta là gì, ở đâu đến? Sau 
khi chết ta sẽ về đâu? Muốn dứt hết cội gốc sanh tử 
này ta phải làm sao? Ðó là ba nghi vấn về số phận con người 
của Ngài.
Hiện giờ chúng ta có mặt ở đây 
nhưng trước kia chúng ta ở đâu, ta là gì? Khi thân này hoại 
chúng ta sẽ về đâu, còn hay hết? Muốn thoát ly sanh tử 
chúng ta phải làm sao, tìm cách gì để thoát ly sanh tử? 
Ðó là ba nghi vấn tối quan trọng ai cũng thắc mắc. Khi đức 
Phật chứng được Túc mạng minh rồi, Ngài nhìn lui về 
quá khứ thấy vô số kiếp về trước Ngài đã từng làm 
gì, ở đâu, tu hành hạnh nào, có được những công đức 
gì v.v... nhớ rõ mồn một những việc đã qua.
Trong kinh A-hàm kể lại rằng, 
Ngài nhớ những sự việc cả muôn ức kiếp về trước 
như chúng ta nhớ những sự việc mới xảy ra hôm qua, hôm 
kia vậy thôi. Vì vậy khi chứng được Túc mạng minh rồi 
Ngài liền giải được cái nghi tại sao chúng ta có mặt ở 
đây, trước kia ta là gì. Ngày nay chúng ta đọc trong kinh Bản 
Sanh và Bản Sự kể lại cuộc đời đức Phật và cuộc đời 
các vị đệ tử của Phật, đó là do Phật chứng được Túc 
mạng minh, Ngài thuật lại để làm gương mẫu, nhắc nhở 
người sau tu. Ðây là minh thứ nhất.
Tới canh ba, Ngài chứng Thiên 
nhãn minh, thấy suốt được những vật hết sức nhỏ nhiệm, 
hết sức xa xôi, quá tầm thấy biết của người thường. 
Thấy rõ con người sau khi chết bị nghiệp dẫn đi luân hồi 
trong sáu đường. Trong kinh kể sau khi Phật chứng được 
Thiên nhãn minh, Ngài nói: "Ta thấy chúng sanh đi trong luân 
hồi Lục đạo như người đứng trên lầu cao nhìn xuống 
ngã ba đường, thấy kẻ đi qua, người đi lại một cách 
rõ ràng, không có nghi ngờ gì cả." Thế là Ngài giải 
được cái nghi vấn thứ hai, sau khi chết chúng ta đi về đâu. 
Chúng ta sẽ theo nghiệp lành, nghiệp dữ mà sanh trong cõi trời, 
cõi người (lành), địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh (dữ) chớ 
không phải hết.
Ðây là một lẽ thật, do chứng 
Thiên nhãn minh mà Phật thấy được những việc nhỏ nhiệm 
vô cùng. Ngài thấy vô số vi trùng, Phật cách chúng ta hơn 
hai mươi lăm thế kỷ mà Ngài thấy được vi trùng. Vì vậy 
chư Tăng khi uống nước, nhất là nước không lọc, không nấu 
thì Phật dạy phải quán. Quán thế nào? "Phật quán nhất 
bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng v.v..." Phật nhìn 
trong bát nước có tám muôn bốn ngàn vi trùng. Ngày xưa Phật 
nói nước có vi trùng ai mà tin, vì con mắt phàm làm sao thấy!
Phật do thấy mà nói nhưng chúng 
ta không tin, nên biết cái thấy của Ngài với cái thấy của 
chúng ta khác xa vô cùng. Phật nhìn trong bầu hư không Ngài 
thấy vô số thế giới không thể tính kể, nên trong nhà Phật 
có từ hằng hà sa số thế giới không thể tính kể, nghĩa 
là thế giới nhiều như cát sông Gange ở Ấn Ðộ. Phật thấy 
trong bầu hư không này, những hành tinh như quả địa cầu 
của chúng ta nhiều không thể kể hết. Ðó là minh thứ 
hai.
Ðến khi sao Mai vừa mọc Ngài 
bừng 
ngộ chứng được Lậu tận minh. Lậu là rớt, tận là sạch, 
nghĩa là sạch hết, không còn mầm rơi rớt trong sanh tử nữa, 
tức là không còn rơi lại trong tam giới Lục đạo. Như vậy 
sau khi chứng được Lậu tận minh, Ngài đã đạt được mục 
đích giải thoát sanh tử. Ngài biết rõ nguyên nhân nào dẫn 
chúng ta đi trong luân hồi sanh tử và làm sao dứt sạch được 
nguyên nhân đi trong luân hồi sanh tử đó, đây gọi là chứng 
được Lậu tận minh. Khi chứng được minh này, đức Phật 
tuyên bố Ngài hoàn toàn giác ngộ, thành Phật.
Như vậy Phật thành Phật là do 
Ngài giác ngộ được nơi con người, biết được mình từ 
đâu đến, khi chết rồi sẽ ra sao về đâu, muốn dứt hết 
sanh tử phải làm cách nào, tu pháp gì. Ngài biết rõ hết 
những điều đó, Phật đã đạt được mục đích khi Ngài 
đi tu là giải thoát sanh tử. Sau khi chứng được Tam minh, 
Phật rất hoan hỉ vì đã đạt được mục đích.
Ngài nhớ lại những người bạn 
đồng tu với mình trước kia (năm anh em Kiều-trần-như) nên 
Ngài đi tìm những vị đó. Ðến vườn Lộc Uyển gặp năm 
anh em Kiều-trần-như, Phật liền thuyết bài pháp Tứ Ðế. 
Ðây là bài pháp nói về nguyên nhân đưa chúng ta đi trong 
sanh tử và làm sao chúng ta dứt được cội mầm sanh tử. 
Ở đây tôi chỉ nói đơn lược cho quí vị có khái niệm 
thôi, Phật dạy sở dĩ chúng ta có luân hồi sanh tử là do 
Tập đế. Từ Tập đế là nhân rồi đưa đến Khổ đế là 
quả, Tập đế và Khổ đế là nhân quả theo chiều luân hồi 
sanh tử. Làm sao chúng ta thoát ly được luân hồi sanh tử?
Phật dạy chúng ta ứng dụng 
phương 
pháp tu hành để diệt hết tập nhân, phương pháp diệt tập 
nhân là Ðạo đế, diệt hết tập nhân rồi thì chúng ta 
được Diệt đế, Diệt đế là Niết-bàn, thoát ly sanh tử. 
Những pháp đức Phật giác ngộ được trong đêm thứ bốn 
mươi chín nếu nói đủ thì rất nhiều, nhưng nói gọn 
trong Tam minh là Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận 
minh. Tức Phật giác ngộ được ba vấn đề lớn mà Ngài 
đã thắc mắc về con người, gọi là giải thoát sanh tử.
Như vậy tất cả chúng ta không 
ai còn nghi ngờ gì nữa, đức Phật tu Thiền dưới cội bồ-đề 
được giác ngộ thành Phật và đem điều giác ngộ đó 
giáo hóa chúng sanh. Nghĩa là đức Phật nhân tu Thiền mà 
được giác ngộ. Do đó, sau khi Ngài thành Phật rồi, Ngài 
dạy đệ tử Tăng cũng như Ni đều tu Thiền mà chứng quả 
A-la-hán. Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy rằng: Hãy tu định, 
chớ buông lung. Tâm chớ mê hoặc theo dục. Ðừng đợi 
đến khi nuốt hòn sắt nóng mới ăn năn than thở. Hoặc: Không 
có trí tuệ thì không có thiền định, không có thiền định 
thì không có trí tuệ. Người nào gồm đủ thiền định và 
trí tuệ thì gần đến Niết-bàn.
Như vậy quí vị thấy Phật răn 
các Tỳ-kheo phải tu thiền định, chớ buông lung, tâm đừng 
mê hoặc chạy theo ngũ dục, đừng đợi đến khi nuốt hòn 
sắt nóng mới ăn năn than thở. Lúc nào nuốt hòn sắt 
nóng? Là lúc xuống địa ngục. Nếu hiện đời chúng ta 
không chịu tu để sau khi chết đọa vào địa ngục, chừng 
đó than thở không kịp. Cho nên ngay bây giờ, trong lúc 
chúng ta đang khỏe mạnh, chúng ta còn đủ điều kiện để 
tiến tu, phải cố gắng tu đừng có chần chờ, sau này hối 
hận không kịp. Nhờ những lời dạy, lời răn đe đó nên 
các đệ tử đương thời của Ngài tinh tấn tu hành, chứng 
được quả A-la-hán rất nhiều. Ðó là tôi nói những vị 
Tỳ-kheo trong thời đức Phật.
Kế đó nhìn lại lịch sử chư Tổ, 
chúng ta thường lạy Tây thiên Ðông độ Việt Nam lịch đại 
Tổ sư, nghĩa là những vị Tổ sư từ Ấn Ðộ sang Trung 
Hoa đến Việt Nam, những Tổ sư đó tu pháp gì? Cụ thể nhất 
là bây giờ chúng ta hay thờ Tổ Ðạt-ma. Ngài là vị Thiền 
sư thứ hai mươi tám ở Ấn Ðộ và là vị Tổ thứ nhất 
ở Trung Hoa. Như vậy chư Phật tu Thiền được giác ngộ, 
chư Tổ cũng tu Thiền được thành Tổ, chư vị A-la-hán tu 
Thiền mà thành tựu đạo quả. Vậy pháp tu Thiền nhất định 
là pháp gốc của đạo Phật rồi.
Về mặt giáo lý hệ Nguyên thủy 
có hai: Hệ A-hàm dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán gọi là Agama,
hệ Pali dịch từ chữ Pali sang chữ Việt gọi là Nikaya. 
Trong đó Bát chánh đạo nằm trong Ba mươi bảy phẩm trợ 
đạo, thể hiện cụ thể nhất tinh thần tu Thiền, từ chánh 
kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp v.v... cho tới 
chánh niệm, chánh định. Chánh niệm tức phải giữ tâm niệm 
chân chánh, ngay thẳng rồi đi tới chánh định. Về pháp Ngũ 
căn, Ngũ lực thì có năm điều: tín, tấn, niệm, định, tuệ. 
Tín là lòng tin, tấn là tinh tấn, niệm là chuyên niệm, định 
là thiền định, cuối cùng tuệ là đạt được trí tuệ. 
Như vậy các pháp theo hệ Nguyên thủy cũng nhắc chúng ta tu 
thiền định và trí tuệ là gốc.
Chúng ta hiện giờ học theo pháp 
Ðại thừa (ngày nay gọi là hệ Phát triển) tu Lục độ: bố 
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. 
Trong đó, cuối cùng là thiền định và trí tuệ. Như vậy 
tất cả pháp của Phật từ hệ Nguyên thủy đến Phát triển 
đều lấy thiền định và trí tuệ làm căn bản chớ không 
thể nào khác hơn được, đó là cái gốc. Ðây là vấn đề 
mà ngày xưa tôi đã nặng lòng, phải lo nghĩ nhiều.
Sau những năm tôi đi giảng tại 
các Phật học viện Huệ Nghiêm, Ðại học Vạn Hạnh, tôi 
thấy rằng bao nhiêu sở tri mà tôi học được trong kinh tôi 
đã đem chỉ dạy cho Tăng Ni, những thứ đó chỉ là kiến 
giải bên ngoài, còn chứng nghiệm trên sự tu thì thật tôi 
không có thì giờ. Do đó nên năm 1966 sau khi dạy xong khóa học 
tại Phật học viện Huệ Nghiêm và ở Dược Sư rồi, tôi 
xin nghỉ dạy lên núi tu một thời gian. Khi lên núi tu tôi 
quyết tâm và thệ nguyện rằng nếu phen này không phát minh 
được điều gì mới, thà là tôi chết luôn trong thất chớ 
quyết không xuống núi. Do thệ nguyện đó mà thời gian tu 
tôi thấy thật sự có kết quả, tôi vui vẻ nên mở cửa 
thất. Bởi vì như tôi đã nói tôi là kẻ nợ của Tăng Ni 
nên điều gì tôi thấy hay, tôi làm thinh không được, tôi 
phải làm sao cho Tăng Ni cùng chia xẻ được điều đó. Cho 
nên dù chỉ qua một năm nhưng tôi thấy có những cái hay, 
những cái mới, tôi liền ra thất và lập Thiền viện Chân 
Không vào năm 1969. Ðến năm 1971 chúng tôi khai giảng khóa 
đầu. Tôi cương quyết khẳng định, ngày xưa tổ tiên 
mình tu thiền ngộ đạo thì ngày nay mình tu thiền chắc chắn 
cũng sẽ ngộ đạo, chỉ có chúng ta siêng tu hay lười nhác 
không chịu tu mà thôi.
Ngày nay đa số các chùa hay nói 
câu này: "Thời bây giờ là mạt pháp tu không tiến được, 
thôi chỉ một câu niệm Phật rồi chờ vãng sanh bên kia 
làm tôi tớ Phật A-di-đà khỏe hơn, chớ tu Thiền không tiến, 
không thể tu được." Nói thời mạt pháp tôi lại đâm 
ra nghi ngờ, trong kinh Phật có chia ba thời: chánh pháp, tượng 
pháp, mạt pháp. Chánh pháp là thời của đức Phật, một 
trăm người tu thì một trăm người chứng đạo vì đức Phật 
trực tiếp hướng dẫn. Kế thời đức Phật là thời tượng 
pháp, tức sau khi Phật nhập Niết-bàn, những vị đệ tử 
chứng quả A-la-hán hướng dẫn một trăm người tu thì có 
chừng năm mươi người chứng. Sau một ngàn năm tới đời 
mạt pháp thì trong muôn người tu chưa có một người chứng.
Nhưng bây giờ tôi nhìn khác một 
chút, tôi cho rằng chánh pháp hay mạt pháp gốc ở con người 
chớ không phải thời gian. Ngày xưa đức Phật còn tại thế, 
khi Ngài giảng kinh Pháp Hoa có năm trăm thầy Tỳ-kheo thối 
tịch. Ðọc sử kỹ quí vị thấy trong thời Phật còn tại 
thế, thỉnh thoảng cũng có các thầy Tỳ-kheo xin hoàn tục. 
Hoàn tục là tu không được, tu không được thì đối với 
những vị đó là thời mạt pháp, không luận vào lúc nào cả. 
Còn bây giờ thời mạt pháp nhưng ai cương quyết liều chết 
tu hành, quyết phải đạt đạo, phải có kết quả thì đối 
với những người ấy đây là thời chánh pháp. Chánh pháp 
hay mạt pháp gốc ở con người hơn là ở thời gian. Vậy 
mà chúng ta cứ lệ thuộc vào thời gian rồi buông xuôi, tự 
than đời mình mạt pháp, tu sơ sơ để gieo duyên. Ngày tụng 
hai thời kinh, tối xem ti vi cho đỡ buồn, niệm Phật chờ 
chết Phật đón về Cực lạc cho khỏe, cứ nhàn nhàn vậy 
thôi. Lỗi ấy là vì cứ nghĩ thời mạt pháp nên không nỗ 
lực.
Tôi thì ngược lại, đời mạt 
pháp khó tu ta phải nỗ lực cố gắng tu nhiều hơn bằng 
hai, bằng ba, nhất định chúng ta sẽ có kết quả không 
nghi. Cho nên đối với tôi đời mạt pháp không quan trọng, 
quan trọng chỗ phát tâm mạnh yếu của chúng ta. Vì thế 
khi truyền bá tu Thiền tôi cố gắng tuyên dương, cố gắng 
kêu gọi chư Tăng Ni cũng như quí Phật tử nhìn thật kỹ, 
thấy thật rõ cốt tủy của đạo Phật để chúng ta tu, 
không nên mặc cảm như tôi lúc trước.
Ðến đây tôi muốn nói đến Phật 
giáo Việt Nam của chúng ta một chút. Chư Tổ Việt Nam ban 
đầu từ thế kỷ thứ hai, thứ ba mãi đến thế kỷ thứ 
mười chín, các ngài lãnh đạo Phật giáo Việt Nam đều là 
Thiền sư hết, như ngài Khương Tăng Hội, Mâu Bác v.v... cho 
tới cuối thế kỷ thứ mười chín là Tổ Liễu Quán ở miền 
Trung đều là Thiền sư. Ðất nước Việt Nam thời bấy giờ 
Tăng Ni tu Thiền và Thiền sư lãnh đạo Phật giáo. Chỉ từ 
cuối thế kỷ thứ mười chín qua thế kỷ hai mươi chúng 
ta mới chuyển sang Tịnh độ.
Như vậy trước kia chư Tổ Việt 
Nam đều tu Thiền, nên hiện giờ mỗi khi quí Hòa thượng tịch, 
chúng ta thường được nghe đọc tiểu sử quí ngài thuộc 
dòng Lâm Tế chánh tông hoặc Lâm Tế gia phổ v.v... Vậy 
Lâm Tế là ai? Là một vị Thiền sư ở Trung Hoa lập ra dòng 
thiền Lâm Tế. Ngài ở vào đời Ðường cách chúng ta khoảng 
một ngàn năm. Khi nói "từ Lâm Tế" tức là nối 
dòng Lâm Tế mà hỏi Tổ Lâm Tế là người nào, tu pháp gì 
thì chắc chúng ta cũng không biết luôn.
Như vậy có thể nói từ đức 
Phật cho đến các đệ tử lớn của Ngài và chư Tổ sau này 
đều lấy tu Thiền làm căn bản. Rõ ràng gốc của 
đạo Phật là tu Thiền. Nếu chúng ta tu pháp khác cũng không 
ngại gì, nhưng đối với Thiền chúng ta cũng phải nghiên cứu, 
phải biết cho rõ ràng. Gần đây những lần được đi nước 
ngoài trở về tôi đều thấy rằng, người nước ngoài, nhất 
là người Tây phương hiện nay muốn nghiên cứu đạo Phật 
thì đa số nghiên cứu về Thiền, chỉ một số ít người 
đi theo Mật tông ở Tây Tạng. Vì sao vậy? Vì họ thấy 
được thiền định là cội gốc của đạo Phật, giới trí 
thức Việt Nam chúng ta cũng vậy. Khi họ muốn nghiên cứu 
Phật giáo họ cũng thích nghiên cứu tu Thiền. Thế nên hiện 
giờ chúng ta làm Phật sự, hướng dẫn Phật tử tu, dù 
chúng ta không tu Thiền, chúng ta tu Tịnh độ đi nữa cũng 
phải nghiên cứu về Thiền để hướng dẫn Phật tử hâm 
mộ tu Thiền đúng pháp, không làm mất tín tâm của họ.
Khi hiểu được Phật giáo Việt 
Nam ngày nay nối pháp các hệ phái từ thuở trước, mang 
tinh thần Thiền tông rất là đậm nét, chúng ta càng phải 
trân trọng, càng phải nghiên cứu nhiều hơn, sâu hơn. Chúng 
ta biết rõ rồi nếu tu theo thì tốt, còn không tu thì cũng 
giải thích cho mọi người không bị lầm. Ðiều này tôi 
mong tất cả chư Tăng Ni và Phật tử chịu khó nghiền ngẫm 
thật kỹ. Nếu không thì chúng ta nói tu theo đạo Phật mà 
gốc của đạo Phật là tu Thiền chúng ta lại không biết. 
Ðó là chúng ta bị mất gốc.
Ngày nay trình độ văn hóa của xứ
sở chúng ta ngày mỗi tiến, mỗi vươn lên. Ðời của tôi 
hay của quí vị thế hệ kế tiếp do không đủ phương tiện, 
không được học nhiều nhưng con em của chúng ta hiện nay 
và mai kia học rất giỏi, biết nhiều hơn chúng ta. Nếu 
chúng ta không khéo chỉ dạy đạo Phật một cách sáng sủa, 
cao siêu thì con cháu chúng ta sẽ không theo đạo Phật mà 
chúng lại xem thường đạo Phật, đó là lỗi lớn của 
chúng ta. Vậy mong tất cả Tăng Ni gắng tu, gắng học để 
mai này chúng ta xứng danh lãnh đạo Phật giáo Việt Nam và 
hướng dẫn con cháu chúng ta thấu hiểu được Phật giáo một 
cách đúng đắn, sáng suốt.
Ðó là mục đích mong mỏi của 
chúng tôi, cầu mong Tam Bảo gia hộ cho tất cả quí vị tinh 
tấn tu hành, thành tựu được ý nguyện của mình trên bước 
đường tu hành.
 -ooOoo-