07
MÌNH 
LÀ CÁI GÌ?
Giảng tại Thiền 
viện 
Trúc Lâm - 1997.
Hôm 
nay, đạo tràng Thái Tuệ về Thiền viện Trúc Lâm cúng dường 
mùa an cư, quí thầy có ít lời nhắc nhở cho đạo tràng để 
quí vị tinh tấn tu hành.
Là người Phật tử, quí vị vừa 
lo sinh sống cho gia đình, vừa lo tu hành, đồng thời giúp 
đỡ huynh đệ chung quanh cùng biết tu, đó là duyên tốt. 
Vì vậy tôi sẽ nhắc nhở thêm cho quí Phật tử những điểm 
trọng yếu trong Phật pháp.
Ðức Phật Thích Ca khi sinh ra 
đời, 
một tay chỉ trời một tay chỉ đất, nói câu: "Trên trời, 
dưới trời, chỉ có ta là hơn hết." Câu này quý thầy 
đã giảng rộng rồi, nhưng ở đây tôi nhấn mạnh lại trọng 
tâm. Người ta cứ nghĩ Phật nói thế là bản ngã hơn hết, 
nhưng sự thật không phải vậy. Với thâm ý của đạo Phật 
thì trên trời dưới trời chỉ có ta, tức con người là hơn 
hết.
Tại sao vậy? Vì trong vũ trụ, 
trời 
che đất chở nhưng trời đất vô tri, chỉ con người là 
có tri giác. Ðất chở đất nuôi chúng ta, nhưng đất có biết 
làm gì đâu, chỉ là hình tướng che chở giúp cho mình có sự 
sống. Còn trời là mây, mưa, mặt trời, mặt trăng, giúp 
cho ta đủ điều kiện sống trên thế gian này. Nên nói trời 
đất vô tri, chỉ có con người tri giác, như vậy tri giác 
là trên tất cả. Vì thế con người là trọng tâm của trời 
đất, chớ không phải thường.
Lâu nay chúng ta ai cũng như ai,
hầu 
hết đều coi thường mình, chỉ kính trời trọng đất. 
Ðó là lỗi lầm rất to. Sợ trời phạt, mong trời thương, 
cầu thổ địa ủng hộ cho nhiều...  tất cả những việc 
đó chỉ là phần phụ bên ngoài không đáng kể. Chính yếu 
là con người. Con người rất quan trọng đối với đạo Phật, 
nên đức Phật Thích Ca ra đời đã tuyên bố mục tiêu trọng 
yếu đó. Ngài ra đời là vì đề cao giá trị của con người. 
Ðó là trọng tâm, khác với các nhà khoa học hay triết học, 
luôn nghiên cứu tìm tòi bên ngoài, chinh phục vũ trụ mà 
quên xoay lại con người, chinh phục chính bản thân mình.
Quí Phật tử kiểm nghiệm lại 
trong đời sống của mình, xét xem chúng ta nhớ mình nhiều 
hay nhớ bên ngoài nhiều. Sáng thức dậy thì sao? Sửa soạn 
đi chợ hoặc đi làm công tác, luôn luôn nhớ những việc 
bên ngoài, chớ không nhớ mình. Lo điều này điều kia, mua 
sắm đủ thứ. Ngoài chợ có những món hàng mới lạ, nếu 
trong túi có tiền liền đi mua sắm. Chúng ta ưa thích những 
gì mới lạ bên ngoài, ít khi nghĩ đến con người mình. 
Quí vị có khi nào nghĩ mình là cái gì không? Chắc không! Cứ 
hài lòng với con người như vầy, sự sống như vầy là đủ 
rồi. Thêm nữa là sự ăn mặc, nhà cửa, xe cộ, lo bấy 
nhiêu đó mà quên nghĩ mình là cái gì.
Mình là gì không biết mà cái gì 
cũng lo cho mình. Sắm máy thu thanh, hỏi sắm cho ai, sắm cho 
mình. Mua chiếc nệm để làm gì? Ðể cho mình nằm. Cái gì 
cũng mình hết. Nhưng thử hỏi mình là gì thì không biết! 
Ðó là điểm chính yếu mà tất cả chúng ta quên, chúng ta 
lơ là.
Ðạo Phật không cho phép người 
Phật tử như vậy mà chúng ta phải biết mình cho rành rẽ, 
tường tận. Vật bên ngoài chỉ phụ thuộc, nghĩa là biết 
được bao nhiêu hay bấy nhiêu, trọng yếu là phải biết 
mình, vì con người là trọng tâm của vũ trụ. Biết tất cả 
mà không biết mình thì cái biết đó chưa thật biết. Tất 
cả tài sản mình được mà hỏi mình là cái gì cũng không 
biết. Như vậy, tất cả cái được đó đều không giải 
quyết tận cội gốc của con người. Sống mà không biết 
mình là gì thì cuộc sống hết sức rỗng, vô giá trị. Nếu 
chúng ta chỉ lo ăn mặc cho sung sướng, nhà lầu xe hơi, tức 
là chỉ lo thụ hưởng sung túc, mà mình là gì không biết 
thì ai hưởng thụ đây?
Ðó là vấn đề mà đức Phật 
hay người tu hy sinh cả cuộc đời, phăng tìm cho ra manh mối 
để giải quyết về thân phận con người. Ngày nay chúng ta 
tu theo đạo Phật cần phải hiểu vấn đề đó, không thể 
xem thường. Cứ lo ăn lo mặc, lo sống để chờ tới ngày 
chết, cuối cùng là tan rã. Ví như chúng ta cất cái nhà thật 
đẹp nhưng biết mai mốt nó sẽ tan nát thì còn quí nó 
không? Cái không bền, không lâu dài, chúng ta đâu có quí. Vậy 
thì thân này không lâu dài, tại sao mình lại quí, đó là 
mê hay giác? Ðó là mê.
Vì vậy đạo Phật dạy chúng ta 
phải giác, chớ không cho mê. Người mê thì không sáng suốt, 
không có trí tuệ. Mà không sáng suốt, không trí tuệ thì sống 
như chết, không có giá trị gì hết! Ý nghĩa quan trọng là 
phải biết được mình thì cuộc sống mới có giá trị. 
Dù sống nghèo hay sống thiếu thốn vẫn có ý nghĩa như 
thường. Còn không biết mình là gì thì cuộc sống hoàn 
toàn vô nghĩa.
Nhưng muốn biết mình là gì phải 
làm sao? Chính điểm này tôi muốn hướng dẫn cho quí Phật 
tử ứng dụng tu tập để tìm lại xem mình là cái gì? Bao 
nhiêu người dù trí thức hay bình dân đều nghĩ mình luôn 
luôn hiện tiền, nhưng hỏi mình là gì thì không trả lời 
được. Như vậy, cái hiện tiền đó cũng chỉ là ảo tưởng 
thôi. Chúng ta phải tìm ra lẽ thật mình là gì chớ không 
thể tưởng tượng được. Chúng ta tu không phải tìm cái 
gì xa xôi ở bên ngoài mà phải xoay lại soi sáng chính mình 
để tìm xem mình là gì? Cái gì là thật mình? Nếu tìm ra 
được cái thật mình là ngộ đạo. Ðừng tưởng ngộ đạo 
là chạy lên non, lên núi, lên mây, lên trời, mà ngộ đạo 
là tìm ra được cái thật mình. Tìm được cái thật mình 
rồi thì ngang đó giải quyết xong dòng sinh tử. Không tìm 
ra được cái thật mình thì luôn luôn sống trong dao động, 
biến chuyển. Mà dao động biến chuyển là tướng sinh diệt 
vô thường. Nếu chấp giữ tất cả hình tướng tâm niệm 
vô thường là mình thì mình là một dòng biến chuyển. Chuyển 
biến nơi này tới nơi kia không dừng, Phật gọi đó là 
luân hồi. Ðã luân hồi thì chỉ có giải thoát luân hồi mới 
là vui.
Tôi thường nói thân này không 
phải 
thiệt mình. Nhưng ai cũng bám vào nó, cũng nghĩ nó là mình. 
Nếu thân này thật mình thì nó nguyên vẹn, nhưng nếu ở 
trong da thịt chúng ta chỗ nào bị ung nhọt thì có mủ hôi 
hám. Mủ hôi hám đó là mình chăng? Ðã từ da thịt mình loại 
ra thì nó đâu phải mình. Nếu là mình thì chúng ta phải mến 
nó chứ, ngược lại mình rất gớm nó. Như nước bọt ở 
trong miệng có phải là mình không? Nếu là mình thì khi nhổ 
ra rồi, mình lấy lại được; nhưng chúng ta có làm như vậy 
không? Kể cả máu huyết là thiết yếu của sự sống, nhưng 
chúng ta chích ra chừng một chung máu, rồi bảo uống lại 
có dám uống không? Nếu thật mình thì đâu nỡ bỏ; đằng 
này buông ra rồi, chúng ta gớm nó thì làm sao nói mình được. 
Nếu thân này là mình thì khi thiếu máu, mua máu của người 
khác đem vô, máu người khác thì đâu phải của mình, nhưng 
khi đem vô rồi lại nói máu mình. Lạ chưa! Từ bản thân 
mình loại ra thì chúng ta gớm, còn của người khác đem vào 
thì nhận là mình. Thật vô lý! Cho nên từ đó mới thấy 
rõ ràng thân này không thật là mình.
Trong kinh, đức Phật kể lại: Có 
một người đi sang làng khác, giữa đường gặp sa mạc. Trời 
tối, ông thấy cái chòi cũ không có người ở, nên vào nghỉ 
tạm qua đêm. Ðang nằm, có tiếng động bên ngoài, ông trỗi 
dậy nghe ngóng. Bỗng cánh cửa bị xô vô, thì ra một con quỷ 
to tướng đang vác cái thây người chết liệng xuống đất. 
Ông hoảng sợ quá đứng nép sau vách. Bỗng có con quỷ thứ 
hai chạy vào, dành ăn với con quỷ thứ nhất. Ðứa này 
nói cái thây của tao, đứa kia nói cái thây của tao, hai đứa 
giành nhau rồi cãi lộn.
Lúc đó chúng chợt thấy ông đứng 
bên vách. Con quỷ thứ nhất nói từ đầu tới cuối có 
ông này làm chứng, nếu ông nói của đứa nào thì đứa đó 
ăn. Nghe vậy ông run quá, nếu nói của thằng này thì thằng 
kia bẻ cổ mình, nhưng thôi kệ thà chết chớ không nói dối. 
Nên ông bảo: "Khi nãy tôi thấy rõ ràng anh A đem cái 
thây vô quăng ở đây." Thằng kia tức giận quá liền 
giựt ông một cánh tay. Con quỷ thứ nhất thấy vậy thương, 
bèn xé cánh tay của thây chết ráp vào cho ông. Vừa ráp 
xong thì con quỷ thứ hai giựt cánh tay còn lại quăng ra. Con 
quỷ đầu xé cánh tay thứ hai của thây chết gắn vào. Rồi 
tới chân phải, chân trái. Hễ con quỷ này xé quăng ra thì 
con kia lấy chân của thây chết gắn vào. Cuối cùng mệt 
quá hai con quỷ ngưng cãi, chúng chia hai chân, hai tay của 
ông bị vứt ra và ăn.
Ông ta hoảng hốt tự hỏi mình 
là cái gì? Rõ ràng tay chân hiện giờ là của thây chết. 
Ông mới đi tìm gặp những vị sáng suốt để hỏi xem ông 
bây giờ là gì. Gặp được một vị A La Hán, đảnh lễ 
xong, ông thưa:
- Bạch Ngài, con bị hai con quỷ 
đem tay chân của thây chết ráp vào cho con, bây giờ cái gì 
là con?
Vị A La Hán nói:
- Tốt lắm! Như vậy là ông sắp 
ngộ đạo.
Câu chuyện tới đó hết. Quí vị 
thấy nếu vật tạm bợ hư giả mà chúng ta biết thắc mắc, 
tìm tòi, không tin nó thật, thì đó là sáng suốt, thấy 
được lẽ thật. Cuộc đời này có ai thấy được lẽ thật 
không, có ai thắc mắc mình là gì không? Hay cứ hài lòng. 
Ðã hài lòng rồi thì tìm mọi thứ cho nó thụ hưởng, chờ 
đến ngày bại hoại. Ðó là nỗi đau đớn của con người 
trong kiếp mê lầm. Chúng ta phải ý thức mình là gì, tìm 
cho ra cái mình đó chính là gốc của sự tu. Người biết 
quay lại tìm mình là người sắp thấy đạo.
Vì vậy tôi hướng dẫn Tăng Ni 
ở các Thiền viện cũng như Phật tử trong các đạo tràng 
khi tụng kinh thì đặt nặng kinh Bát Nhã. Trong kinh Bát Nhã 
câu đầu: "Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã 
Ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất 
thiết khổ ách." Chỉ cần soi lại thân năm uẩn này 
không thật thì tất cả khổ nạn qua hết. Quí vị có soi lại 
không? Nhiều khi đọc thì đọc mà không chịu soi lại. Cần 
phải soi lại thân năm uẩn này xem nó có thật hay không. Nếu 
thấy rõ ràng nó không thật thì tất cả khổ ách đều 
qua. Ðiều này hết sức cụ thể.
Thường chúng ta thấy thân này, 
vọng 
tưởng này là ta, nên những gì cung cấp cho thân này được 
khỏe, được sung túc mà người khác đoạt đi thì ta tức 
giận lên. Ta nghĩ việc gì đúng mà ai nói khác thì nổi giận. 
Như vậy khổ là do chấp thân, chấp tâm mà ra. Nếu biết 
thân này không thật, ý nghĩ không thật thì đâu còn chấp, 
đâu còn giận ai, nhờ thế mọi khổ ách đều qua hết. 
Người ta chửi, mình cười chơi thôi. Có gì thật mà phải 
khổ, phải giận, dành hơn, dành thua. Anh không thật, tôi 
không thật, cái chửi cũng không thật luôn nên chỉ cười 
vui thôi.
Ngược lại, nếu thấy thật thì 
động tới xác thịt liền đau tức, động tới ý kiến 
trái mình liền sân giận. Rõ ràng do chấp thân, chấp tâm 
mà mình khổ. Vì vậy kinh Bát Nhã nhắc cho chúng ta soi thấy 
năm uẩn là không thì qua hết thảy khổ nạn. Việc tu hết 
sức giản đơn, không phải cầu Phật hay cầu ai làm cho 
mình hết khổ, chỉ cần thấy rõ năm uẩn không thật là hết 
khổ.
Năm uẩn có sắc, thuộc về vật 
chất; thọ, tưởng, hành, thức thuộc về tâm; cả hai đều 
không thật. Biết rõ như vậy thì khổ nạn nào cũng qua hết, 
chớ không phải Phật hay Bồ-tát, thần thánh nào cho mình hết 
khổ nạn. Hết khổ nạn là do trí tuệ của chúng ta soi thấy 
thân năm uẩn không thật. Kinh dạy một câu thôi chúng ta tu 
cả đời. Tu là phải soi lại chớ không phải phóng ra. Nhưng 
hiện nay đa số người tu cầu xin nhiều hơn soi lại.
Xét hai phần vật chất và tinh 
thần: 
Sắc là sắc chất tức thể xác không thật. Thọ, tưởng, 
hành, thức tức tinh thần cũng không thật. Thấy rõ như vậy 
là giác? Mê giác cách nhau chẳng bao xa. Thấy thân thật, 
cái suy gẫm thật là mê. Thấy thân không thật, cái suy gẫm 
không thật là giác.
Trong kinh Viên Giác có vị 
Bồ-tát 
thưa hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn, thế nào là vô 
minh?
Phật đáp:
- Chấp thân tứ đại duyên hợp 
là thật của mình, chấp tâm suy nghĩ lăng xăng là tâm thật 
của mình là vô minh.
Hết vô minh là giác. Như vậy mê 
giác như trở bàn tay thôi, gần một bên mà mình tu hoài 
không được, tại sao? Tại vì mê chấp thấm sâu lâu đời 
quá rồi. Ngày nay đọc kinh Phật, nghe quý thầy giảng chỉ 
mới lóe lên chút thôi, chưa hẳn là thấy nó không thật. 
Chỉ khi nào ngồi lại thấy thân không thật, tâm không thật, 
tất cả đều do duyên hợp tạm bợ, thấy rõ như vậy thì 
mọi khổ nạn qua hết.
Ðược vậy sống ở đây cũng giống 
như Cực Lạc, có gì buồn, có gì khổ.  Chúng ta cũng 
ăn, cũng uống như mọi người, nhưng không chê khen buồn giận, 
không mê lầm chấp thân tâm là được. Muốn thế thì phải 
soi lại mình, không thể phóng ra ngoài nữa. Quí Phật tử cứ 
phóng ra, không biết quay lại, nên đi chùa hai chục năm vẫn 
không hết phiền não.
Bây giờ trở lại vấn đề tu tập, 
chúng ta ngồi thiền để làm gì? Ðể nhìn lại mình. Bởi 
vì chúng ta hướng ra thì mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi 
ngửi mùi hương, lưỡi nếm vị, gió thổi xúc chạm... tiếp 
xúc các trần. Lúc đó dù chúng ta có tu vẫn bị ảnh hưởng 
bên ngoài nhiều. Chỉ khi ngồi yên, mắt nhìn xuống, gác hết 
năm trần bên ngoài, không cho nó lôi cuốn nữa. Nên giờ ngồi 
thiền là giờ ngồi để soi lại. Soi thế nào?
Phương tiện ban đầu, chúng ta 
dùng hơi thở hít vô thở ra đếm một, hít vô thở ra đếm 
hai, ... như chơi vậy. Nhưng nhờ nhớ hơi thở ra hơi thở vô, 
hơi thở thì ở trong nên chúng ta mới phản quan. Thấy hơi 
thở vô, hơi thở ra đều đặn như vậy, nếu thở ra mà 
không hít vô thì chết. Rõ ràng thân tạm bợ phải không? Vừa 
khởi nghĩ việc gì liền buông, mình tự nhắc vọng tưởng 
hư dối không thật. Thân này do tứ đại hợp thành. Hơi thở 
là gốc, thở ra không hít vào là chết nên sự sống rất mỏng 
manh. Ðã mỏng manh lại cộng thêm cái tâm chợt có, chợt 
không là vọng tưởng hư dối. Tập soi sáng lại mình như vậy, 
gọi là tỉnh giác.
Ngài Ðạo Nguyên ở Nhật Bản 
nói: "Một giờ ngồi thiền là một giờ làm Phật." 
Tại sao? Giờ ngồi thiền là giờ giác, còn giờ ở ngoài 
là giờ mê. Trong một ngày, quí Phật tử có đủ thứ chuyện. 
Thấy chuyện này, nghe chuyện kia toàn là phóng ra ngoài, chớ 
không quay lại. Còn giờ ngồi thiền là giờ quay lại mình. 
Theo hơi thở, thấy vọng tưởng, buông; đó là nhìn lại 
mình, tỉnh giác rõ ràng, không bị mê lầm. Lúc tỉnh giác 
đó không phải là Phật là gì? Phật là giác. Chúng ta đang 
giác nên chúng ta là Phật.
Sở dĩ ngồi thiền ngủ gục bị 
đánh là sao? Bởi vì trọng tâm là phải giác. Chúng ta ngồi 
ngủ mê nên đánh cho tỉnh, không để mê nữa. Hiểu vậy mới 
biết tại sao nhà thiền khắt khe. Vì sợ mình mê theo cảnh, 
hoặc si mê không biết gì nên phải làm cho mình tỉnh, tỉnh 
đó là giác. Ðược vậy một giờ ngồi thiền là một giờ 
làm Phật, chớ ngồi ngủ khò khò thì làm Phật sao được.
Chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa 
quán 
hơi thở. Nhiều khi chúng ta thực tập mà không hiểu nên nắm 
không vững, tu như vậy sẽ không đi tới đâu. Hơi thở vô 
ra xem như chuyện tầm thường, nhưng nhờ nhớ hơi thở mà 
chúng ta quay lại. Nếu không nhớ hơi thở thì tâm mình chạy 
rong. Tu là phải quay lại soi sáng chính mình. Nhờ theo dõi hơi 
thở vô ra, lúc thở khì mà không hít lại là chết. Chỉ 
có mấy giây đồng hồ thôi, mới biết như vậy sự sống 
không bền, không thật. Bao nhiêu đó đủ để chúng ta chứng 
nghiệm được cuộc sống này.
Ðến vọng tưởng, niệm này nhảy 
ra niệm kia nhảy vô, chúng ta buông, nó mất; để thấy tâm 
này cũng không thật. Thấy thân không thật, thấy tâm cũng 
không thật, không phải tỉnh giác là gì? Nên giờ ngồi thiền 
là giờ tỉnh giác, giờ ngồi thiền là giờ tối quan trọng, 
chứ không phải tầm thường. Khi tỉnh giác được rồi, chúng 
ta mới thấy rõ được mình. Thấy thân này không thật, 
tâm này không thật thì mọi cố chấp theo đó rã tan. Chấp 
đã không còn thì khổ đau theo đó hết. Ðây mới chỉ là 
chặng số một thôi.
Tôi xin hỏi những vị tu hơi lâu 
một chút, khi ngồi thiền chừng năm ba phút, trong tâm không 
nghĩ nhớ gì hết, lúc đó chúng ta có biết không? Dạ có 
biết. Như vậy, có mình hay không có mình? Có mình.
Nếu cái nghĩ là mình thì khi 
không nghĩ là không có mình. Không nghĩ mà có mình thì cái 
nghĩ không phải là mình rồi. Bấy nhiêu đó đủ chứng 
minh cái suy nghĩ không phải là mình, vì nó chợt có chợt 
không. Những thứ lăng xăng lặng hết thì tri giác hằng hữu. 
Ðó là mình rồi, thực tế đâu có xa. Như vậy, cái mình 
chân thật đó không phải là cái suy nghĩ. Nghĩ suy là sinh 
diệt tạm bợ, không phải chân thật. Còn không nghĩ mà hằng 
biết, có tiếng động liền nghe, hình ảnh đến liền thấy, 
gió chạm thì mát v.v... yên tĩnh sáng suốt không nghĩ ngợi 
gì hết, đó chính thật là mình.
Thường những gì động là vô 
thường 
sinh diệt. Thân động cho nên thân vô thường sanh diệt, tâm 
động nên tâm vô thường sinh diệt. Chấp thân vô thường 
sinh diệt là thân mình, chấp tâm vô thường sinh diệt là 
tâm mình, đó là sai lầm. Nếu buông hai thứ chấp đó, chỉ 
nhận cái không động, không sinh diệt, không có tướng trạng 
vô thường, hằng yên tĩnh sáng suốt đó, thì làm gì bị dẫn 
đi trong luân hồi.
Có tu rồi, chúng ta sẽ thấy nó 
rõ ràng, không còn nghi ngờ gì hết. Sống được với những 
phút giây chân thật, ta mới thấy khi suy nghĩ dứt bặt thì 
chân thật hiện tiền, chớ không phải không có. Chúng ta 
không nhận ra nó là vì mình cứ suy nghĩ hoài, hết chuyện 
này tới chuyện kia, mãi chạy theo những suy nghĩ thì làm 
sao biết rằng khi không suy nghĩ, lại có cái chân thật. Vì 
vậy nói thiền dễ định. Ðịnh là dừng hết những suy 
nghĩ. Dừng hết suy nghĩ thì cái chân thật hiện tiền. Nhận 
ra cái đó thì tỉnh thì giác, gọi là giác ngộ. Tức thấy 
được lẽ thật của thân tâm, giả biết giả, thật biết 
thật. Ðó là kiến tánh, là thấy đạo. Ðơn giản vậy thôi.
Trong nhà Phật dạy thân, miệng, 
ý tạo tác các nghiệp, mà chủ yếu là ý. Ý nghĩ tốt, miệng 
nói tốt, thân làm tốt. Ý nghĩ xấu, miệng nói xấu, thân 
làm xấu. Ý là chủ tạo nghiệp. Ý nghĩ này lặng đi thì 
còn cái gì tạo nghiệp. Nghiệp là gốc dẫn chúng ta đi 
trong luân hồi sinh tử. Nếu hết nghiệp thì cái gì dẫn 
chúng ta nữa, như vậy không giải thoát là gì?
Cho nên giác ngộ được thân vô 
thường, tâm sinh diệt, thì cái chân thật hiện tiền không 
sinh, không diệt. Sống được với cái chân thật này thì 
không còn tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử nữa. Như vậy 
rõ ràng tu là để giải thoát sanh tử.
Mục đích của chúng ta tu không 
gì khác hơn trọng tâm của đức Phật dạy "xoay lại 
con người". Vì con người là tối thượng. Dù có bay 
được trên hư không (bây giờ chúng ta đi máy bay phản lực), 
hay cất nhà lầu chín chục tầng v.v... đều là vô thường, 
nay còn mai mất. Chỉ có trở lại tâm chân thật không hình 
không tướng của mình, là không vô thường; hằng giác 
không động nên không sinh diệt. Ðó mới là chân thật. Ðược 
vậy chúng ta sẽ tin lời Phật dạy không hư dối.
Hôm nay tôi nhắc tất cả quí Phật
tử hiểu được căn bản của việc tu hành. Vậy từ đây 
về sau huynh đệ hòa hợp với nhau, với tư cách cư sĩ vừa 
lo đời, vừa lo đạo. Lo đó chính là lo cho mình. Ðể ngày 
mai quí vị có nhắm mắt, dù chưa hết niệm sinh diệt thì 
cũng sinh diệt trong cảnh tốt. Bằng như được hết sinh diệt 
thì thảnh thơi tự tại, còn gì quí hơn!
Mong quí Phật tử nỗ lực tinh tấn
tu hành.
 -ooOoo-