Bây giờ tôi muốn lưu ý các bạn đến một vấn        đề mà tôi nghĩ có lẽ các bạn sẽ quan tâm nhiều. Câu hỏi nêu ra như sau:
15.- "Có cần phải nghe        chính Ðức Phật giảng Pháp mới có thể chấm dứt  đau khổ chăng?"
Có vài người quả quyết rằng ta cần phải        được nghe Chánh Pháp 
từ nơi chính Ðức Phật thuyết giảng, thì bấy giờ mới        có thể thật 
sự hiểu rõ được. Nhưng ngay Ðức Phật cũng có nói, nhiều người,        
mặc dầu chẳng được nghe Chánh Pháp do Ngài thuyết giảng, vẫn có đủ sức 
để        đi theo con đường chánh đạo. Cũng có nhiều người, dầu chẳng 
được nghe Pháp        từ nơi Ðức Phật, nhưng qua sự quán sát bền bỉ và 
thực tập miên mật, vẫn có        thể dấn bước lên con đường chánh đạo.
Thế nên, chúng ta nên chắp tay ngưỡng mộ        sự thành thật của Ðức
Phật đã chẳng xem Chánh Pháp là sở hữu độc quyền của        mình, và 
chẳng hề tự xem mình là cần thiết.
* * *
16.- "Làm cách nào để        giải quyết khi nghi rằng một giáo lý chẳng phải do Ðức Phật dạy?"
Ðức Phật có đặt ra một nguyên tắc để trắc        nghiệm: cứu xét và đối chiếu với Kinh Tạng (Suttas, các bản        Kinh) và Luật Tạng (Vinaya, các
giới luật). Nguyên tắc là        chẳng được tin tưởng ngay vào điều gì 
chỉ được sao lại (second hand) và        chẳng được đặt niềm tin vào kẻ 
nào xem như đã có đủ thẩm quyền. Nếu có sự        nghi ngờ về lời tuyên 
bố của một người nào xác định chính y đã nghe nói từ        nơi Ðức 
Phật, hoặc từ một nhóm Trưởng lão thông thái, liên quan tới việc        
đưa đến sự chấm dứt đau khổ, thì Ðức Phật bảo rằng cần phải trắc nghiệm 
điều ấy theo hai cách:
1.- Cứu xét và đối chiếu với Kinh          Tạng. Các
bộ Kinh là một hệ thống sắp xếp tất cả các loại bài pháp          lập 
thành một đường hướng phân minh. Nếu một lời phát biểu nào chẳng        
theo đúng đường hướng đó thì phải được gạt bỏ đi.
2.- Ðối chiếu với Luật Tạng. Các          Giới luật 
là khuôn mẫu, tiêu chuẩn, một hệ thống cố định. Nếu lời phát          
biểu đang được cứu xét chẳng phù hợp với hệ thống đó, nếu nó chẳng tuân 
theo các giới luật, thì phải gạt bỏ đi.
Ðừng quá tin cậy vào một vị tỳ kheo nào,        một thành phần nào 
của Tăng già, một nhóm Trưởng lão, một tập đoàn các nhà        thông 
thái, hay các tu sĩ cá nhơn, thường hay xác định là họ đã nghe điều     
nầy, điều nọ từ nơi Ðức Phật. Ðức Phật luôn luôn đòi hỏi chúng ta 
trước        hết mọi việc, phải khởi lên sự nghi ngờ và bắt đầu điều 
tra. Rồi đối chiếu        lại với Kinh Tạng, xem có thích nghi không; 
đối chiếu với Luật Tạng, xem        có phù hợp không?
Nguyên tắc trên đây nếu được khéo xử dụng        mãi, sẽ là một 
phương kế để giữ vững Phật Ðạo chẳng bị bóp méo và bị làm        mù mờ 
đi, dầu cho nền Phật học có thể kéo dài hai ngàn năm, ba, bốn, ...      
chín, mười ngàn năm về sau. Nguyên tắc ấy được gọi là Ðại Tiêu Chuẩn  
(...). Tuy nhiên, trong việc đối chiếu, Ðức Phật không nói đến 
Luận Tạng        (Tạng Diệu Pháp), tạng thứ ba của Tam Tạng Kinh Ðiển 
Pali.
* * *
Giờ đây, chúng ta bàn đến "dân chúng", để        có cái nhìn kỹ hơn về chính chúng ta.
17.- "Ðức Phật đã phê        phán dân chúng qua các thời đại như thế nào?" 
Trong một bản Kinh, Ðức Phật đã khiển        trách "chúng ta ngày 
nay", có nghĩa là, kể từ thời Ðức Phật cho đến ngày        nay, mỗi thế 
hệ mới "cứ lo thọ hưởng các thú vui chẳng chánh đáng, lại quá        
tham lam và hay nghiêng về các giáo lý tà đạo." Họ thích thú đi tìm cho 
mình các sự kích thích chẳng đúng đắn, nói cách khác, họ quá 
hướng ngã        (chỉ nghĩ đến chính mình). Họ hoàn toàn thiếu sự tỉnh 
giác, và như thế sự        tham luyến của họ rất mãnh liệt và thái quá. 
Họ rơi vào các giáo lý tà        ngụy, bởi vì họ đã lọt hoàn toàn vào 
vòng thế lực của các lậu hoặc (ô        nhiễm tinh thần).
Lời tuyên bố của Ðức Phật đã có hơn hai        ngàn năm, tuy nhiên 
Ngài đã dùng từ ngữ "dân chúng các thời đại sau",        khoảng thời 
gian kể từ khi Ngài có lời phán xét đó cho chí đến ngày nay. Ở        
đây, chúng ta có bổn phận phải nhìn lại chính chúng ta ngay trong hiện  
tại. Dân chúng trên thế giới ngày nay có quá thích thú đi tìm các 
lạc thú        chẳng chánh đáng, quá ích kỷ, và nghiêng về các tà thuyết
hay không? Rõ        ràng, dân chúng thời nay khác xa với dân chúng vào
thời Ðức Phật. Tuy        nhiên, nếu ngày nay họ muốn sống đúng theo 
mẫu mực của Ðức Phật đã đưa ra,        thì tuy vẫn tìm thấy thích thú 
trong màu sắc, hình dạng, âm thanh, hương,        vị và các khích động 
xúc giác, họ vẫn có thể sống như thế mà vẫn hằng giữ        sự tỉnh giác
và chánh tri kiến, và chẳng để cho lòng tham luyến trở nên        thái 
quá. Ðiều nầy có nghĩa là, họ chẳng muốn có được màu sắc, hình dạng,    
âm thanh, mùi, vị, và kích thích xúc giác một cách nhiều hơn mức cần
thiết, chẳng được có đến quá mức. Chỉ riêng danh từ "thái quá" 
nầy, tức là        hơn mức cần thiết, cũng đã nói lên đầy đủ ý nghĩa của
các nguyên nhơn gây        nên sự xáo trộn, khó khăn và biến động trên 
thế giới ngày nay.
Tôi có được đọc và biết, theo Thiên chúa        giáo, khi muốn lấy 
quá hơn sự cần thiết, đó là một "tội". Theo tiêu chuẩn        trong 
Thiên chúa giáo, ngưòi nào lấy nhiều hơn sự cần thiết cho mình là       
một người có tội. Tuy nhiên phải chăng ngày nay chúng vẫn chưa cho là 
mình        có tội, bởi vì chúng ta chẳng quan tâm (đến tội phước) hay 
bởi vì chúng ta        thật xem mình như còn chưa đi quá mức? Phải chăng
chúng ta nghĩ rằng chúng        ta đã có điều gì quá mức đâu? Về vấn đề
nầy, chỉ có thể bàn luận với những        người thành thật với chính 
mình.
Trong một quyển sách ngụ ngôn rất hay của        Tây tạng, (ta đọc 
thấy) các loài chim tu tập lại với nhau, và bàn luận về        cách nào 
thực hành Chánh pháp để mang lại hạnh phước. Mỗi loài phát biểu ý       
kiến, rồi chúng cùng đồng ý rằng: "Chúng ta sẽ chẳng tìm kiếm vật thực 
một        cách quá mức cần thiết. Ðó là tối hậu." Sau cùng, tất cả được
yêu cầu đừng        đi kiếm ăn quá mức mình cần. Câu chuyện chấm dứt ở 
đó.
Ai ai cũng nên nghĩ rằng, tìm cầu cho được        nhiều hơn mức mình 
cần dùng, chính là nguồn gốc của sự đau đớn và thống        khổ, nguyên 
nhơn tạo nên các rối loạn cho cá nhơn và xã hội. Nên suy nghĩ        kỹ 
về điều đó! Ngã theo các tà thuyết có nghĩa là dầu biết rõ một điều nào 
đó rất sai lầm, mà vẫn cứ muốn điều đó chẳng chút lo ngại hoặc hổ
thẹn,        bởi vì các lậu hoặc (cấu nhiễm tinh thần) đang tràn ngập 
và áp đảo. Kẻ nào        quá thâm nhiễm theo lối suy tư như thế thì thật
là chẳng chút thích hợp        với Chánh pháp.
Vậy, nếu ta muốn vượt khỏi khổ đau, chúng        ta phải quay về với Chánh pháp.
* * *
Chúng ta sẽ nói về Ðức Phật, và đặt câu        hỏi nầy:
18.- "Ðức Phật kính lễ        những ai?"
Chính Ðức Phật có nói: "Như Lai kính lễ        Chánh pháp và kính lễ 
Cộng đồng Tăng già có đầy đủ các đức tánh gương        mẫu." Một cộng 
đồng Tăng già với các tu sĩ cư xử tốt và tu tập tinh tấn        được gọi
là Cộng đồng có đầy đủ đức tánh gương mẫu. (...) Chúng ta nên suy      
gẫm về điều chính Ðức Phật cũng kính ngưỡng Chánh pháp và tôn trọng 
kính        lễ các tập đoàn tỳ kheo giữ gìn giới hạnh vẹn toàn.
Ðiểm nầy ngày nay có thể áp dụng vào xã        hội Thái lan của chúng
ta, cũng như trên toàn thể thế giới. Kính Pháp,        trọng Tăng là 
điều mà hiện nay chúng ta nên làm theo đúng.
* * *
19.- "Tìm thấy Phật ở        nơi nào?"
Ðức Phật có nói: "Kẻ nào nhìn thấy Chánh        pháp, kẻ ấy thấy được
Như Lai. Kẻ nào chẳng nhận thấy Chánh pháp thì còn        chưa thấy 
được Như Lai. Bất cứ ai còn chưa thấy Chánh pháp mà dầu có nắm        áo
của Như Lai và giữ lấy chặt, cũng chẳng thể nào thấy được Như Lai."  Như Lai (Tathàgata) là danh hiệu mà Ðức Phật thường tự xưng.
Lời nói trên có nghĩa là, Ðức Phật chẳng        có thể tìm thấy ra 
được ở ngoài tấm thân vật chất. Hay đúng hơn, chỉ tìm        thấy Ðức 
Phật ở đức tánh cao qúi nơi tâm của Phật, còn được gọi là Chánh        
pháp. Ðó là phần (thân thể) cần được nhận thấy ra trước khi tìm thấy 
được        Ðức Phật.
Mỗi khi chúng ta qùi lạy trước tượng Phật,        tâm chúng ta trú 
vào hình tượng, rồi vượt qua đó thấy được thân tướng của        Ðức Phật
mà hình tượng đang phô diễn. Kế đến, chúng ta nhìn vượt qua thân       
tướng đó, để đi sâu vào tâm Phật, cho đến khi nào chúng ta thấm vào các
đức tánh cao qúi nơi Phật tâm. Chúng ta nhận ra các đức tánh ấy 
như là        Chánh pháp thật trong suốt, chói lọi, hiền hoà, chẳng gợn 
chút chấp thủ        nào, hoàn toàn giải thoát. Và như thế, ta có thể 
nói là đang tìm thấy được        Ðức Phật.
* * *
20.- "Ðức Phật có hiện        hữu vào giờ phút nầy không?"
Nếu được hỏi như trên, chúng ta có thể        viện dẫn chính lời Ðức 
Phật nói với Ngài A nan: "Nầy A nan, Chánh pháp và        Giới luật mà 
Như Lai giảng dạy và minh chứng, hãy lấy đó làm Thầy của ông,        khi
Như Lai qua đời."
Ngày nay chúng đang học tập Chánh pháp và        tuân hành Giới luật,
thừa hưởng lợi lạc do Chánh pháp và Giới luật mang        lại. Như thế 
thì vị Thầy, bực Ðại Ðạo Sư, vẫn còn hiện hữu đó.
Bài Kệ trên đây rất được nhiều người biết        đến, vì được Ðức 
Phật thốt lên ngay vào lúc Ngài sắp qua đời. Vậy, các bạn        nên ghi
nhớ kỹ, bài Kệ đó dạy ta rằng Ðức Thầy vẫn còn hiện hữu.
* * *
21.- "Ðức Phật có chấm        dứt xong Nghiệp lực của Ngài hay không?"
Nếu được hỏi như vậy, chúng ta phải dè dặt        đừng làm giảm thanh
giá của Ðức Phật bằng các câu trả lời bất cẩn và liều        lĩnh. Thật
ra, chúng ta chẳng thể nào hạ thấp nổi Ðức Phật, nhưng lời nói        
của chúng ta có thể vô tình xem nhẹ giá trị của Ngài.
Ðức Phật chắc chắn đã chấm dứt nghiệp lực        của mình, bởi vì 
Ngài đã tận diệt tất cả các lậu hoặc, như đúng theo nghĩa        của chữ
"dứt hết nghiệp lực". Ngài đã siêu thoát hết tất cả các       
loại nghiệp lực, và chính việc nầy đã khiến danh tiếng Ngài lừng vang. 
Bực        hiền giả Gotama (Ðức Phật) đã trở thành vị  nghiệp tận đắc giả (sabbakammakkhayam        patto)(sabba=trọn vẹn;kamma=nghiệp        lực; khaya=tiêu diệt;patto=chứng đắc), tức
là một vị        đã thành công trong việc chấm dứt hoàn toàn mọi nghiệp
lực của mình. Tin        tức về biến cố nầy được loan truyền khắp xứ Ấn
độ, đến tai tín đồ các giáo        phái ngoại đạo khác. Như, đã có một 
đạo sĩ người Bà la môn tên Bavari sai        mười sáu đồ đệ đến yết kiến
Ðức Phật để thưa hỏi Ngài và thâu thập các        kiến thức. Nhiều kẻ 
khác cũng đã đến, để trắc nghiệm Ngài.(...) Dân chúng        Ấn độ vào 
thời ấy tỏ ra vô cùng hân hoan được nghe lời nói của một bực  sabbakammakkhayam patto, hay là một bực"lậu tận thông" [Lậu        tận thông: chấm dứt hoàn toàn các cấu nhiễm về tinh thần]. (...)
Chúng ta nên noi gương Ngài để nỗ lực chấm        dứt nghiệp lực.
* * *
22.- "Ðời sống nội tâm        của Ðức Phật như thế nào?"
Ðức Phật đã có lần nói về chính mình: "Như        lai an trú trong ngôi đền Tánh Không (Sunnatà vihàra, đền đài  Tánh Không, đền đài Rỗng        vắng)."
 
"Ðền đài" nầy là một đền đài tâm linh,        chẳng phải một ngôi đền vật chất. "Ngôi đền"(vihàra) ở đây nói đến        một tâm trạng, thuộc đời sống nội tâm. Ngôi đền Rỗng vắng nầy ám        chỉ một tình trạng tâm linh thường trực, vắng bóng mọi tư tưởng về cái  Ta và những gì thuộc về của Ta. An trú trong ngôi đền Rỗng        vắng là sống luôn luôn trong sự tỉnh thức rằng muôn sự vật đều chẳng        có tự ngã. Ðó là Tánh Không, Sunnatà, Sự Rỗng vắng, và những gì gọi        là ngôi đền Rỗng vắng.
Ðức Phật an trú trong ngôi đền Rỗng vắng        ấy, thể nghiệm luôn 
luôn sự an lạc tuyệt vời. Ðấy là những gì Ðức Phật nói        về chính 
mình.
* * *
23.- "Tại sao lại bảo        muôn vật đều rỗng vắng, thế giới nầy là một thế giới rỗng vắng?" 
Tín đồ các tôn giáo khác sẽ hỏi bạn: "Tại        sao lại bảo thế giới
nầy rỗng vắng khi nó chứa đầy các sự vật? Ðó chẳng        phải là vật 
chất hay sao? Ðó chẳng phải là tâm linh hay sao? Ðó chẳng phải        là
thế giới đầy ắp những vật hay sao?"
Vấn đề chính là, thế giới nầy đang rỗng        vắng, vắng bóng mọi tự ngã và những gì thuộc về tự ngã. 
Chẳng có chi để lấy đó làm một tự ngã. Tự ngã chẳng có thể tìm thấy ở 
cái        chi cả, chẳng ở nơi tinh thần, chẳng ở nơi vật chất, chẳng ở 
nơi các sản        phẩm khởi sanh từ tinh thần hay từ vật chất. Khi Ðức 
Phật tuyên bố rằng        muôn sự vật rỗng vắng, cũng chẳng bảo điều chi
khác hơn là sự hay biết        rằng nơi muôn sự vật đều vắng bóng cái 
tự ngã.
* * *
24.- "Tại sao một tâm        trạng hiểu biết sự rỗng vắng lại được mô tả như một tâm trạng giải thoát?" 
Có một bài Kệ trong Kinh Tạng bảo rằng:        "Thật sự rỗng vắng là 
rỗng vắng về tham, sân, và si." Một tâm thức rỗng        vắng (chẳng bị 
ngăn ngại, chẳng bị ràng buộc, hay được tự do, giải thoát)        khi 
tâm thức đó đã được thoát khỏi tham, sân, và si.
Khi một tâm thức được thoát khỏi mọi vết        tích của tham, sân, 
và si, dầu đã theo bất cứ phương pháp nào hay đã dùng        phương tiện
ra sao, thì cũng được gọi là một tâm thức rỗng vắng, một tâm        
thức tự do (Thái ngữ gọi là cit waang). Nhưng ở đây chúng ta 
chỉ        nói đến những gì đã được tích cực thi hành. (...) Khi đang 
ngủ, tâm thức        cũng rỗng vắng vậy nhưng chúng ta đâu có ý định tạo
nên tình trạng đó.        (...) Thực tập về Chánh pháp là phải có một 
cố gắng nào khiến cho tâm thức        trở nên vắng bặt tham, sân, si, 
cho dầu chỉ trong một thời gian ngắn đi        nữa; được như vậy mới gọi
là một tâm thức tự do, trống không, rỗng vắng.        Sự tự do và rỗng 
vắng đó có thể được làm gia tăng lên từ từ cho đến khi        trở thành 
trọn vẹn -- hoàn toàn tự do và rỗng vắng. Một bực A la hán (hoàn toàn vô nhiễm) được tuyệt đối giải thoát. Bực thánh giả, 
ở các giai đoạn đang tu tập, được giải thoát khá rộng rãi. Thường nhơn 
đôi        khi cũng có sự rỗng vắng và thỉnh thoảng được tự do.
Nếu vào một lúc nào đó mà được giải thoát        khỏi được tham, sân và si, thì trong lúc ấy chẳng có một tư tưởng nào về       ngã kiến cả. Tâm thức ấy được gọi là tâm thức rỗng vắng và giải        thoát (theo Thái ngữ là cit waang).
* * *
25.- "Việc gì xảy ra        khi có sự rỗng vắng hoàn toàn?"
Sự rỗng vắng trọn vẹn, hay giải thoát hoàn        toàn được gọi là Niết bàn (Phạn:Nirvana; Pali: Nibbàna).       Niết bàn là tình trạng rỗng vắng khởi sanh từ sự tận diệt hoàn toàn        và triệt để của ngã kiến. 
 
Có thể nói vắn tắt, "Niết bàn là sự vắng        lặng tối thượng." Ðó 
là một cái nhìn độc đáo vượt qua mọi kiến thức thông        thường. 
Chúng ta có thể vượt lên khỏi các loại kiến thức thông thường khi       
nhìn xuyên qua để thấy "Niết bàn là sự rỗng vắng tối thượng".
Niết bàn là sự rỗng vắng tối thượng, hoặc        sự rỗng vắng tối 
thượng là Niết bàn. Xin bạn hãy nhớ, sự rỗng vắng hoàn        toàn là 
điều chúng ta đề cập đến khi nói về Niết bàn.
* * *
26.- "Niết bàn là gì?" 
Nếu bạn gặp kẻ nào cứ đòi nêu ra câu hỏi        trên, bạn hãy đáp: Niết bàn là một yếu tố bất diệt (amatadhàtu).
Hãy nói đó là một nguyên tố chẳng hề chết, mất đi. Tất cả mọi 
yếu tố đều        sẽ bị tiêu diệt, nhưng chỉ riêng nguyên tố nầy, Niết 
bàn, là chẳng hề tiêu        diệt, bởi vì nó đuợc giải thoát khỏi tham, 
sân, và si. Khi có sự giải        thoát khỏi sự si mê, thì chẳng có ngã 
kiến, chẳng có sự chụp nắm và bám        níu vào tự ngã, và do đó chẳng 
thể có sự diệt mất được. Vì đã chấm dứt sự        diệt mất, nên mới nói 
đó là yếu tố bất diệt. Yếu tố bất diệt nầy chính là        sự chấm dứt 
của yếu tố khả diệt.
* * *
27.- "Có nên gọi sự        'thoả thích' trong Niết bàn là một sự ham thích chăng?"
Phật tử chúng ta thường được dạy rằng        chẳng nên ham thích hay 
chê ghét, hoặc cảm thấy thích thú về điều nầy, bất        mãn về điều 
nọ. Nếu có ai tìm thấy sự thoả mãn về Niết bàn, chúng ta phải        gọi
sự thoả thích đó là gì?
Thường được nghe rằng sự thoả thích về        Niết bàn được gọi là Pháp ái (Dhamma ràga, Pháp luyến, sự        luyến ái về Pháp) hoặc là Pháp lạc (Dhamma nandi, lạc thú về Pháp).        Khi nghe như thế, vài người tỏ ra có vẻ hơi hoảng hốt vì chữ Pali:  ràga, (luyến ái) đã được dùng đi đôi với chữ Dhamma (Pháp).        Nhưng chúng nên hiểu rằng chữ luyến ái, ràga, được dùng trong chữ       Pháp ái chẳng
phải hẳn là sự tham muốn về hình sắc, âm thanh,        hương, vị và xúc
giác; nó chẳng có nghĩa tham ái về nhục dục. Nó chỉ có        nghĩa là 
sự thoả thích cao độ giống như xúc cảm của người gia chủ thông        
thường tìm thấy trong sự thoả mãn nhục dục. Và trong trường hợp được nói
ở        đây, sự thoả mãn đó được tìm thấy nơi sự rỗng vắng, nơi sự bất
diệt, nơi       Niết bàn.
Thời bây giờ, chúng ta thường ghê sợ và        chẳng thích gì Niết 
bàn, đâu muốn đến gần nó. Vừa nghe nói đến hai chữ ấy,        chúng ta 
đã lắc đầu. Chưa bao giờ chúng ta có sự ham thích về Chánh pháp,        
hay về Niết bàn. Mọi ham muốn của chúng ta đều hướng về nhục dục: hình  
sắc, âm thanh, hương, vị . Ðể được công bằng, chúng ta phải dành 
sự ham        thích cho Niết bàn cũng nhiều như chúng ta thích hình sắc,
âm thanh...        vậy. Rồi nhờ đó mà sự tu tập để vượt thoát lên khỏi 
sự đau khổ, sẽ được        tiến hành dễ dàng hơn. Chính với nghĩa nầy mà
Ðức Phật đã dùng các danh từ       Dhamma ràga, Pháp ái và  Dhamma nandi, Pháp lạc.
 
* * *
Ðây là câu hỏi thế nào cũng được thường        nêu lên:
28.- "Chứng đắc Niết        bàn sau khi chết hay còn sống?"
Các vị Pháp sư thuyết giảng (...) thường        chỉ nói đến cõi Niết 
bàn sau khi chết. Tuy nhiên trong Tam Tạng Kinh Ðiển,        chúng ta 
chẳng thấy điều ấy. Có những từ ngữ như sandittithika nibbàna        (Niết bàn mà chính hành giả thấy được) và ditthadhamma nibbàna  (Niết bàn tại đây và bây giờ). Chúng ta được dạy rằng, các trạng        thái an lạc của tâm thức đang thể nghiệm bốn cảnh giới sắc thìền (rùpa        jhànas) và bốn cảnh giới vô sắc thiền (arùpa jhànas) (= tám        đẳng cấp của sự thâm định) là sanditthika nibbàna hay là  ditthadhamma nibbàna. Tuy
nhiên, nhằm mục đích tiện lợi hiện giờ,        chúng ta có thể hiểu 
rằng các cảnh giới đó cũng như là những hương vị được        nếm trước 
của Niết bàn. Chúng có hương vị giống với Niết bàn, nhưng chẳng        
phải là đồng nhất với Niết bàn thật sự. Bởi vì các cảnh giới đó còn chưa
tuyệt đối và hoàn toàn, cho nên chúng chỉ được gọi là sanditthika        nibbàna và ditthadhamma nibbàna mà thôi.
Lại còn có những từ ngữ hay hơn, rõ ràng        hơn. Trong một dịp, 
Ðức Phật có mô tả sự chấm dứt của tham, sân, và si như        là: "thấy 
được trực tiếp" (sanditthikam), "có hiệu lực ngay tức        khắc" (akalikam), "mời mọi người cùng nhìn thấy" (ehipassikam),        "hướng nội"(opanayikam), và "được người hiền trí riêng thể nghiệm        lấy" (paccatam veditabbam vinnùhi). Những từ ngữ nầy đều hàm chứa ý        nghĩ có một người còn sống đang cảm thấy, nhận ra và thưởng thức Niết        bàn, rồi
gọi các bạn hữu đến cùng nhìn xem những gì người ấy vừa tìm        thấy
được. Ðiều nầy chứng tỏ rõ ràng kẻ ấy còn chưa chết, và y đang thưởng  
thức hương vị của Niết bàn ngay trong tâm khảm mình.
Lại còn có thêm những từ ngữ khác nữa,        như: Anupàdà parinibbàna, nghĩa là, những gì chứng đắc được khi còn        sống; như Parinibabbàyati ám
chỉ đến sự quét sạch khổ đau và lậu        hoặc mà chẳng cần đòi hỏi 
đến sự tan rả và diệt mất của năm uẩn (tức là        thân tâm), nói cách
khác, là chẳng cần phải chết về thể xác.
Trong ngôn ngữ thông thường hằng ngày, chữ       Niết bàn thường
mang ý nghĩa là "sự mát mẻ, sự vắng bóng của nóng        bức, sự thiếu 
mặt của đau khổ." Tôi muốn mời các bạn để ý cứu xét đến sự        minh 
triết của tổ tiên người Thái chúng ta qua câu nói: "Niết bàn  tìm thấy trong sự hấp hối trước khi chết." (...) Xin hãy cặn kẽ cân nhắc ý        nghĩa của câu nầy, (tôi xin nói rõ thêm ra): "Niết bàn tìm thấy        trong sự hấp hối (của cái tự ngã), trước khi (thân xác nầy)        chết đi." Ðâu đã cần thân xác nầy diệt đi mất; chỗ cần phải tiêu diệt,        chính là sự chấp chặt vào ngã kiến (ý kiến về cái Ta). Ðấy        mới là Niết bàn. Ai đã thực hiện được điều đó thì đang chứng đắc        được niềm an lạc tối thượng, mà vẫn còn tiếp tục cuộc sống (như thường).
* * *
Nhằm đào sâu vấn đề Niết bàn hơn, chúng ta        xét đến câu:
29.- "Thú vật thấp kém        có đắc được Niết bàn không?"
Trong một bản Kinh, Ðức Phật dùng các từ        ngữ parinibbàyati và parinibbuto liên
quan đến các thú vật        được huấn luyện thuần thục đến mức chúng 
dứt hẳn tánh cương ngạnh đi. Thí        dụ như chó, voi, ngựa, hay bất 
cứ con thú nào khác, khi được huấn luyện        cho đến mức thuần hoá, 
chẳng còn ngỗ nghịch nữa, thì chúng ta dùng chữ  parinibbuto; chính chữ nầy lại được ứng dụng vào trường hợp một vị  A la hán, bậc
đã diệt trừ xong hoàn toàn tất cả các lậu hoặc. Hai từ        ngữ trên 
đây cũng được áp dụng cho một người dập tắt hẳn các ngọn lửa, một       
người đã hoàn toằn lắng dịu lại. Trong ngôn ngữ Pali như đã được dùng 
vào        thời Ðức Phật, từ ngữ parinibbàna cũng được dùng 
theo cách đó. Khi        ứng dụng vào con người, nó có nghĩa là sự hoàn 
tất công việc dập tắt các        lậu hoặc, tức là đạo quả A la hán (sự 
toàn thiện tinh thần). Khi ứng dụng        vào hạng súc sanh, nó có 
nghĩa là đã dứt hẳn thú tánh cương ngạnh. Ứng        dụng vào lửa, nó 
diễn tả sự tắt ngúm và nguội lạnh của các tàn than nhỏ        còn sót 
lại. Nói đến cơm nóng bốc hơi, từ ngữ parinibbàna được dùng    
để chỉ chén cơm đã nguội. Ðó là một tiếng thông dụng hàng ngày, để 
nói đến        các vật nào nguội lạnh, các vật nào chẳng còn gây tác hại
nữa.
Vậy thì chúng ta nên biết khéo lợi dụng        nghĩa chữ Niết bàn và
đừng có làm tệ hơn ngay cả các thú vật mà chữ        ấy còn áp dụng vào
được nữa. Ðừng chần chờ cho tới khi thần chết đến; đó        là sự ngu 
muội tột cùng, lãng phí mất món quà qúi báu của Ðức Phật. Hãy        học
tập trở lại ngay các từ ngữ Nibbàna (Niết bàn) và  Parinibbàna (Ðại bát Niết bàn), cùng với tiếng phụ thuộc của nó là  Parinibbuto (được thuần hoá, trở nên trầm tĩnh). Rồi khởi lên sự can        đảm và nhiệt tâm tiến sâu vào, để sớm chứng đắc được Niết bàn. Chớ        có co rút lùi lại như những kẻ vừa nghe đến hai tiếng Niết bàn đã        chóng mặt, lo âu, hay tỏ ra chán ngấy.
Xin tất cả các bạn hãy đặc biệt lưu tâm        đến chữ Niết bàn. Sự 
vượt thoát các ảnh hưởng tai hại, ngay cả việc trải        qua các giai 
đoạn khó khăn của tuổi thanh thiếu niên, có thể được gọi là        một 
thứ Niết bàn, cũng tựa như các thú vật đã được huấn kuyện để lià bỏ     
tánh cương ngạnh nguy hiểm của chúng; những điều đó là parinibbuta, 
nghĩa là, sự trầm tĩnh, sự nguội lạnh, hoàn toàn nguội lạnh. Vậy thì,  
chúng ta nên làm người trầm tĩnh, nguội lạnh, để chẳng còn có điều
gì làm        "bốc lửa" lên trong chúng ta, để nung nấu, đốt cháy chúng
ta nữa được.        Ðừng bao giờ khinh xuất để cho ngọn lửa bốc lên; 
trái lại cần đạt cho được        phần thưởng Niết bàn. Hãy bắt đầu ngay 
với loại Niết bàn sanditthika        nibbàna hay ditthadhamma nibbàna, rồi từ từ qua các giai đoạn        mà thẳng tiến đến bực thang của Niết bàn thật sự.
* * *
30.- "Ðiều gì là tốt        lành tột bực cho nhơn loại?"
Bực Ðại Giác (Ðức Phật) có lần nói rằng:        "Tất cả chư Phật đều 
bảo, Niết bàn là tối thượng." Tối thượng ở đây có        nghĩa là "điều 
tốt lành tối hậu và cao cả nhứt cho nhơn loại." Trong ngôn        ngữ 
quốc tế về các qui điều hành động đúng qui tắc, có một từ ngữ La tinh   
là summum bonum (cực điểm tối hảo, điểm tốt cao tột), có 
nghĩa là        sự tốt lành cao tột, điều tốt nhứt và cao cả nhứt mà một
con người có thể        đạt được ngay trong đời nầy. Các nhà học giả 
Phật giáo đồng ý rằng trong        Phật học cũng có một summum bonum, và đó phải là chính Niết bàn.        Vậy, nếu có người ngoại quốc nào hỏi bạn, summum bonum của Phật        giáo là gì, bạn hãy trả lời rằng: "Chư Phật đều bảo, Niết bàn là tối        thượng."
* * *
31.- "Vào thời buổi        nầy, thế giới có được các bực A la hán chăng?" 
Trả lời điểm nầy, ta có thể viện dẫn lời        Ðức Phật: "Nếu tất cả các tỳ kheo sống chơn chánh, thế giới chẳng        vắng bóng các A la hán." Lời nầy được Ðức Phật nói ngay vào ngày Ngài mất.
Nếu có ai nghi ngờ, cật vấn rằng, ngày nay        còn có bực A la hán
chăng, xin bạn đừng trả lời giản dị bằng "Có" hay        "Không". Trả 
lời quá đơn giản như thế là một lỗi lầm nghiêm trọng. Phải        nên 
dùng lời Ðức Phật mà đáp: "Nếu các tỳ kheo sống chơn chánh, thế        giới chẳng vắng bóng các bực A la hán."
* * *
Như thế, họ sẽ hỏi tiếp:
 
32.- "Sống chơn chánh        là nghĩa làm sao?"
 
"Sống chơn chánh",  thật ra, có một nghĩa đặc biệt của nó. 
Sống        chơn chánh là giản dị duy trì các điều kiện khiến cho các 
lậu hoặc chẳng        thể được nuôi dưỡng và phát triển nổi. Do vậy, 
điều đó chẳng là gì khác        hơn là luôn luôn trong mọi thời, sống 
với một tâm trạng giải thoát và rỗng        vắng (Thái ngữ: cit waang, đọc là "chịt-hoáng"), có nghĩa        là, chẳng hề chụp nắm và bám níu vào bất cứ sự vật gì để xem như là Ta hay là thuộc về của Ta. Rồi
thì, mặc dầu ta vẫn cứ tiếp tục nói        năng, suy nghĩ, và hành 
động; vẫn tầm cầu, hưởng dụng, và tiêu thụ; ta        chẳng hề có một ý 
tưởng nào muốn nắm bắt sự vật nào để làm cái Ta; chỉ luôn luôn 
hành động với sự tỉnh giác thường trực, hành động khôn khéo,        hành
động với trí huệ, trong mọi trường hợp mà mình có liên hệ đến -- đấy   
là những gì được biết là "sống chơn chánh". Nói cách khác, sống 
chơn chánh        là sống cách nào khiến cho các lậu hoặc chẳng còn 
phương thế để khởi dậy        và được nuôi dưỡng.
Chúng ta có thể nói cách khác hơn nữa,        sống chơn chánh là giữ 
đúng theo con đường Bát Chánh Ðạo. Sống như vậy là        sống chơn 
chánh vì chánh tri kiến, phương diện thứ nhứt của Bát Chánh Ðạo,        
cũng chỉ là sự hiểu biết, kiến thức, trí huệ hoàn toàn chẳng bị che mờ, 
đã        thấu rõ rằng, chẳng còn có gì để chụp nắm và bám níu vào. Như 
thế, khi        phấn đấu, khi nói năng, trong bất cứ động tác nào, cũng 
chẳng hề có sự        chấp thủ.
Nếu chúng ta sống chơn chánh y như đã mô        tả, các lậu hoặc (các
cấu nhiễm tinh thần như tham, sân, si...) đều bị        thiếu bồi dưỡng
mà trở nên "hốc hác", ("gầy ốm") để rồi tự chúng, chúng sẽ        rơi 
rụng lần lần mà tiêu diệt mất đi hết. Chẳng còn cách nào cho chúng nổi  
lên trở lại, vì ta đã bỏ được thói quen dung túng chúng khởi lên 
rồi. Ðây        là điều quan trọng vì các khuynh hướng bất thiện (anusaya, xu
hướng        làm điều ác), mỗi ngày được chồng chất bên trong, chỉ là 
một vấn đề vì đã        quá quen thuộc với các lậu hoặc. Tuy nhiên, 
những ai chẳng biết được điều        nầy, cứ tưởng rằng các lậu hoặc là 
những thực thể thường hằng, riêng có        cái tự ngã, đấy là họ đang vướng phải tà kiến về thường kiến (sassata ditthi, ý
kiến sai lầm về sự thường hằng). Ai bảo rằng các        lậu hoặc là 
những thực thể thường còn nằm lắng sâu bên trong tâm tánh, đó        là 
người đang mắc vào thường kiến, ôm chặt lấy niềm tin sai lạc là có một  
tự ngã vĩnh cửu, (và bất biến) hoặc là linh hồn. Còn
những        người có trí huệ và chánh tri kiến căn cứ trên các nguyên 
tắc của Phật học        thì chẳng hề xem các lậu hoặc đó như những thực 
thể độc lập và thường hằng        hay là tự ngã. Sự hiện hữu 
của các lậu hoặc đều có lý do: sở dĩ        chúng khởi lên vì đã tuân 
đúng theo với luật nhơn quả. Khi chúng thường        khởi lên quá nhiều 
lần, ta trở nên quen thuộc với chúng, rồi mới xem chúng        như 
phương diện thường hằng của bản tánh mình. Tin rằng chúng là những      
thực thể thường hằng sẽ khiến ta cho rằng chúng đang nằm sâu bên trong
tâm        ta mãi mãi.
Bạn hãy nên hiểu, các khuynh hướng bất        thiện (anusaya) chỉ là thói quen xu hướng của chúng ta, kết quả của        một tiến trình tập làm quen (lâu ngày) đó thôi. (...)
* * *
Rồi câu mà họ sẽ hỏi tiếp nữa là:
33.- "Muốn trở thành A        la hán, khó hay dễ?"
Hầu hết mọi người đều trả lời là khó vô        cùng. Chẳng ai dám 
nghĩ rằng việc đó cũng dễ. Ngay đây, ta nên giữ đúng        nguyên tắc 
là đừng đưa ra các lời đáp chẳng được chỉnh. Ai mà đáp chẳng        
chỉnh như nói (...) "Dễ mà" hoặc "Khó lắm", là người ấy còn chưa xứng 
danh        hiệu của một Phật tử.
Nguyên tắc của Ðức Phật nêu lên là nguyên        lý nhơn quả. Nếu 
chúng ta hành động đúng đắn, xuyên qua sự hiểu biết về        nguyên lý 
nhơn quả, thì việc trở thành bậc A la hán là dễ. Nếu chúng ta đi        
ngược với nguyên lý nhơn quả, thì việc đó rất chi là khó khăn. Chỉ vỉ   
chúng ta đã quen (sống) với các lậu hoặc cho nên việc trở thành bậc
A la        hán mới thấy khó khăn. Ở đây, chúng ta nên nhớ lại lời Ðức 
Phật đã nói,        "Nếu chúng ta sống chơn chánh, thế giới nầy sẽ chẳng
vắng bóng các bậc A        la hán." Cuộc sống chơn chánh đó đâu có quá 
khó, nó chẳng vượt quá khả        năng của chúng ta. Chận đứng các lậu 
hoặc đừng cho chúng được nuôi dưỡng.        Nếu chúng ta muốn giết chết 
một con cọp, chúng ta nhốt nó vào chuồng, bỏ        đói; chẳng có gì ăn,
nó sẽ chết mất. Ðâu cần chi phải đi vào chuồng, tranh        đấu với 
cọp, để bị cọp cắn xé . Ðấy là muốn nói rằng việc ấy chẳng vượt        
quá khả năng chúng ta đó. Và đó cũng là một kỹ thuật khéo, nằm ngay 
trong        khả năng của chúng ta.
Do đó, muốn trở thành một bậc A la hán,        khó hay dễ là tùy theo
chúng ta có áp dụng phương pháp đúng hay sai. Nếu        ta tuân theo 
lời Phật dạy, thì việc ấy cũng đâu khó khăn chi lắm. "Hãy        sống 
chơn chánh, và thế giới nầy chẳng vắng bóng A la hán."
* * *
Lại một câu hỏi nữa (về vấn đề trên)        thường được nghe:
34.- "Nếu gặp được một        bậc A la hán, chúng ta có thể nhận ra không?"
Người ta thường thích nêu câu hỏi trên đây        lắm. Vài người nghi
ngờ rằng, dầu có gặp một bậc A la hán, hiện ở thế giới        nầy, đang
cùng đi trên đường, chúng ta cũng khó lòng nhận ra được. (...)        
Hãy suy gẫm: nếu chúng ta chẳng nhận ra nổi người đó là vị A la hán và  
chẳng bao giờ nhận ra được bất cứ vị nào, thì ngay cả giữa các bậc
A la        hán với nhau, họ cũng chẳng nhận ra nhau được.
Truyện kể rằng ngay cả Trưởng lão Xá lợi        phất cũng chẳng nhận 
ra được tỳ kheo Lakuntakabhaddiya đã chứng đắc A la        hán rồi. 
Trưởng lão cứ theo giảng Chánh pháp cho vị tỳ kheo đó, với mục        
đích giúp cho vị ấy chứng được quả vị A la hán. (...)
(...) Tuy nhiên, một vị Trời ở cõi Phạm        thiên, tuy chưa đắc 
quả vị A la hán, cũng có thể nhận ra ai được vào hàng        A la hán. 
Vị Thiên tử nầy có thể tiên đoán ai khi chết đã chứng đắc Niết        
bàn, và ai khi chết thì chưa đắc.
Như thế, khi đáp câu trên, chúng ta nên        bảo, có thể chúng ta 
nhận ra được, có thể chẳng nhận được, tùy theo trường        hợp. Ngay 
cả các vị A la hán với nhau, còn chưa nhận được nhau ra. Chúng        ta
(nhớ) đừng đưa ra các câu trả lời chẳng chỉnh, như vài vị pháp sư trong
giảng đường thường hay tỏ ra "quá giáo điều" về vấn đề nầy.
* * *
35.- " Tìm gặp ở        đâu ra một vị A la hán?"
Chúng ta phải tìm gặp được một vị A la hán        ở nơi nào có sự tận
diệt các lậu hoặc (các cấu nhiễm tinh thần). Ðừng nhọc        công đi 
lùng kiếm trong rừng, nơi tu viện, trong hang động, trên đỉnh núi,      
trong làng mạc, nơi thành thị, hay ở trung tâm thiền định. Chỉ ở nơi 
nào        có sự chấm dứt hoàn toàn các lậu hoặc mới tìm ra được một bậc
A la hán mà        thôi. Bạn có thể đưa ra các trắc nghiệm, điều tra 
hoặc thể nghiệm lấy, để        chứng tỏ với bạn sự dập tắt hẳn các lậu 
hoặc. Nếu việc ấy chẳng thể làm        nổi, thì cũng chẳng cần lùng kiếm
thêm chi nữa, (...) tự bạn sẽ hiểu lấy        đó thôi.
Nơi nào có sự tận diệt các lậu hoặc, nơi        đó có vị A la hán.
* * *
 
36.- "Thường nhơn        có thể trở thành A la hán chăng?" 
Chớ vội đưa ra câu trả lời chẳng chỉnh,        bảo rằng có thể được 
hoặc chẳng thể nào được. Nên đáp rằng, một vị A la        hán đã vượt 
lên trên cả hai đời sống thế tục và tăng lữ. Bạn nên ghi nhớ        kỹ 
cho điều nầy, tin rằng một người đã đắc A la hán phải gấp gấp xin thọ   
giới tỳ kheo trong vòng bảy ngày, bằng không sẽ chết mất, đấy chỉ 
là lời        xác quyết của các "ông thầy" quá tự tín, quá cố chấp, của 
đời sau, và chỉ        thấy ghi trong các Chú giải, Phụ giải hay các tác
phẩm hậu kinh điển mà        thôi. Một vị A la hán bao giờ cũng siêu 
thoát cả đời sống tại thế và xuất        thế. Chẳng có ai bắt buộc được 
một vị A la hán phải quay về làm người        thường nhơn sống theo thế 
tục được, vì vị nầy đã vượt lên trên ngay cả        cuộc đời tăng lữ 
nữa.
Do đó, đừng (để mất thời giờ) đi tuyên bố,        một vị A la hán có 
thể sống tại nhà hay không. Cho dầu ta có thể bắt buộc        một vị A 
la hán phải về nhà sống đời thế tục, nhưng chẳng ai ép Ngài trở        
thành một người gia chủ (còn bị ràng buộc) được. Ngài đã siêu việt cả 
hai:        đời sống tại gia và nếp sống tăng lữ.
* * *
Và đây là một câu hỏi khác, (cũng liên        quan đến vấn đề):
37.- "Một kẻ "sát        nhân"  mà thành A la hán được sao?"
Trả lời câu hỏi nầy tưởng cũng khá dễ        dàng. Nơi tiếng "sát nhân", chữ "nhân" là
"cá nhơn"; chính        cái "cá nhơn" đó cần phải giết chết trước đi, 
rồi mới trở thành A la hán.        Nếu điều mà ta gọi là "cá nhơn", là 
"nhơn", là "người" đó mà chưa được        diệt hẳn, thì chẳng có cách 
nào để đắc quả vị A la hán cả. Ta cần phải        trước hết là giết chết
cái ý niệm "người", "tự ngã", "Ta",  và "nó", "thú vật", "chúng sanh". Nói
cách khác, cần phải chấm dứt        mọi sự bám chặt vào các ý niệm, đây
là "thú vật", đây là "con người", đây        là một "thực thể thường 
trú", đây là "tự ngã". Và làm được như thế tức là        phải loại trừ 
ra hẳn cái ý niệm về "con người", hoặc phải dẹp bỏ cho sạch        hẳn 
cái gì mà ta xem như là "tự ngã". Ðang làm được điều ấy là đồng thời    
đang trở thành một vị A la hán. Bởi lý do đó mới nói, ta có giết 
chết xong        con người thì mới đặng thành A la hán. Ðức Phật đôi khi
lại dùng những        tiếng còn mạnh hơn nữa. Trong nhiều dịp, Ngài có 
nói, phải giết chết cha        mẹ đi mới có thể thành A la hán. "Cha 
mẹ", ở đây, ám chỉ cho các cấu nhiễm        tinh thần (lậu hoặc) như si 
mê, khát ái, và cố chấp, hoặc bất cứ hành động        tạo nghiệp nào đã 
đóng vai trò như cha mẹ, như người truyền giống đã hiệp        với nhau 
để khai sanh ra cái "con người", cái ý niệm về "Ta". Vậy ta cần        
phải diệt trừ chúng cho tiệt hẳn, phải giết "cha", giết "mẹ" của "con   
người" đó, mới mong thành A la hán.
Giờ đây, (nhắc lại) chuyện Angulimàla,        (Chỉ man hay Ương quật 
ma la), một kẻ "sát nhân" nổi tiếng (vào thời Ðức        Phật). Chỉ man 
trở thành A la hán khi ông tiêu diệt hẳn "con người". Khi        ông 
nghe Ðức Phật bảo "dừng lại", ông liền hiểu rõ ngay ý nghĩa    
đúng đắn của hai chữ đó. Vài người, vì sự hiểu lầm, đã cố giải nghĩa
rằng,        Ðức Phật muốn nói, chính Ngài đã dừng lại, nghĩa là dừng 
sự chém giết        người, trong khi đó Chỉ man vẫn còn tiếp tục giết 
chóc, lúc cả hai gặp gỡ        nhau. (...) Giải thích như thế chẳng được
đúng lắm. Khi Ðức Phật nói: "Ta        đã dừng lại", Ngài muốn
bảo, Ta đã dừng lại việc làm "con người",        Ta đã chấm dứt hoàn 
toàn là "con người" ". Chỉ man hiểu rất đúng thế nào        là đã thôi, 
đã dừng lại, là "con người", hiểu rất đúng cho đến mức ông ta        có 
đủ khả năng để tiêu trừ (tận gốc rễ) cái "con người" (nơi tâm ông), đã  
diệt bỏ được hẳn cái ý niệm về "con người", về "cá nhơn" (ở trong 
đầu óc        ông). Vì thế mà Chỉ man mới thành đặng một vị A la hán.
Chỉ có mấy chữ giản dị "dừng lại"  trong tích chuyện mà đã 
có nhiều người hiểu ý nghĩa hoàn toàn sai lầm.        Tích chuyện đó bị 
hiểu sai, giải thích sai, bàn cãi sai, giảng dạy sai,        khiến nó đã
trở nên mâu thuẫn. Bảo rằng thành đặng A la hán chỉ vì giản dị        
đã chấm dứt việc sát hại con người, (nói như thế chẳng) là buồn cười 
(lắm        hay sao?)
Vậy thì, ta phải dừng lại chẳng là "người"        nữa và giết chết 
cái việc tin tưởng (đã sai lầm lại) bền bỉ vào (ý niệm        về) "cá 
nhơn", "tự ngã", "Ta", và "chúng nó", trước khi ta có thể làm đặng      
một bậc A la hán. Nói cách khác, muốn trở thành A la hán, hãy giết 
chết        "con người".
* * *
Ðến đây, tôi xin xét một điểm nhỏ để giúp        các bạn hiểu dễ dàng các vấn đề sắp tới. Câu hỏi như thế nầy:
38.- "Thế giới hiện        tràn đầy những gì?"
Vài người có viễn ảnh nhìn xa, sẽ đáp:        "Thế giớí nầy đầy tràn đau khổ (dukkha)".
Thí dụ như họ nói, ngoài        việc khởi lên, trụ lại rồi diệt mất ra,
cũng chỉ là một nguồn khổ đau        thôi. Ðiều nầy cũng đúng, nhưng 
khó cho ta hiểu rõ được.
Tưởng nên dùng lời Phật nói để đáp câu        trên: "Thế giới nầy 
tràn đầy các vật rỗng vắng. Thế giới nầy rỗng vắng.        Chẳng có sự 
vật gì là "Ta" hoặc "thuộc về của Ta"."
Bạn đừng thoả mãn với lời đáp đơn giản là        "trong thế giới nầy 
chỉ có đau khổ; chẳng có gì ngoài nguồn khổ đau mà        thôi." Lời 
tuyên bố đó, tuy đúng, nhưng hàm hồ, dễ bị hiểu lầm; bởi vì các        
sự vật nói đó, nếu chúng ta đừng chụp bắt và bám níu vào, thì chúng đâu 
hề        là nguồn đau khổ. Hãy nghĩ lại cho đúng. Thế giới nầy và ngay 
cả các sự        vật trên thế giới đó, tự chúng nó, chẳng hề gây ra đau 
khổ, đã chẳng từng        là nguồn gốc của đau khổ. Chính vào lúc ta 
chụp nắm và bám níu, đau khổ        sanh ra. Nếu chẳng chấp thủ, sao có 
đau khổ được? Bảo rằng đời là (bể)        khổ, đó là lời nói cạn cợt, 
quá đơn giản, và ấu trĩ. Ðời sống, khi bị nắm        bắt và bám níu vào,
mới là đau khổ; chẳng chấp thủ vào đời sống thì chẳng        đau khổ.
Cuộc sống nầy có mục tiêu, chớ chẳng phải        vô nghĩa. Vài người 
thích bảo rằng đời sống chẳng có mục tiêu, chỉ vì họ        chẳng biết 
cách đem mục tiêu lại cho đời sống. Nếu chúng ta biết cách dùng        
đời sống nầy làm một khí cụ để thám sát về thế giới, về các nguyên nhơn 
của thế giới, và về cách thực hành để đi đến sự tận diệt của thế 
giới, thì        đời sống sẽ có mục tiêu. Như thế, đời sống là một 
phương cách để nghiên        cứu, thực tập, và nhận lãnh các thành quả 
của sự thực tập ấy. Nó là một        phương tiện tiến tới để hiểu biết 
được một điều tốt nhứt mà nhơn loại có        thể biết, và phải biết, 
tức là Niết bàn. Vậy các bạn nên nhớ, đời        sống có mục 
đích chớ chẳng không, mặc dầu người khờ vì chẳng biết cách        dùng 
nó, mới khiến cho nó thành ra vô nghĩa.
Thế giới nầy tràn đầy những gì? Nếu nhìn ở        quan điểm thấp, thì
nói, nó đầy khổ đau. (...) Nhưng nếu nhìn trên quan        điểm cao 
hơn, bạn có thể nói, thế giới nầy, chẳng là gì khác hơn một tiến        
trình chẳng ngừng của sanh, trụ, diệt, rồi lại sanh, trụ, diệt... Nếu   
chúng ta chụp nắm và bám níu vào nó, đau khổ sẽ được gây ra. Nếu 
chúng ta        chẳng chụp nắm và bám níu vào nó, thì nó cứ giản dị tiếp
diễn mãi việc        sanh, trụ, và diệt. Do đó, chúng ta nên nhớ rằng, 
một người đã được giải        thoát, tự do, trở thành bậc A la hán, 
chẳng hề xem muôn vật như suối nguồn        của đau khổ, hay cả của hạnh
phước nữa. Năm uẩn (tức là thân tâm) vô nhiễm        của bâc A la hán 
chẳng thể được xem là đang vướng mắc vào sự đau khổ. (Nơi        bậc A 
la hán), chỉ có sự trôi chảy, biến đổi, và chuyển hoàn của năm uẩn      
ấy, đúng theo nguyên lý nhơn duyên.
Tóm lại, thế giới nầy đầy tràn những gì?        Nó bao trùm muôn vật 
đang sanh, trụ và diệt. Chấp thủ vào chúng, chúng sẽ        gây ra đau 
khổ. Hễ đừng nắm bắt và bám níu vào chúng, chúng chẳng hề tạo        nên
khổ đau.