08
SẮC ÐẸP VÀ KHÔN 
NGOAN
 
Chủ nhật vừa qua tôi hết 
sức vui mừng vì đã thuyết bài Pháp đầu tiên tại 
Singapore. Ðương nhiên khi nhìn thấy số thính chúng nhiệt 
tình mộ đạo như vậy và khi trông thấy giảng đường chật 
kín, có số người còn đứng tràn ra ngoài, tôi vô cùng phấn 
khởi, sau đó tôi bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân nào đưa đến 
một số thính chúng tham dự đông đảo nồng nhiệt như vậy.
Tôi tự nghĩ có lẽ một 
số đến để xem một nhân vật kỳ lạ nào chăng, giống 
như chúng ta đến sở thú để xem một con quái vật Bởi vì 
rõ không sai, tôi hẳn là một đối tượng hơi khác thường 
vì ngày xưa tôi vốn là một tín đồ Thiên chúa giáo La Mã. 
Nước Ý có gần 60 triệu dân và tôi lại là một Phật tử 
duy nhất trong số đó. Tôi còn nhớ rõ, có lần có một vị 
Giáo sĩ đến thăm tôi và nói: bạn là người Phật tử duy 
nhất trong số 60 triệu dân Ý, đỉều này chứng tỏ rằng 
tôn giáo của bạn không chân chính. Tôi ngạc nhiên hết sức 
với câu nói này! Chỉ vì tôi là Phật tử duy nhất trong số 
60 triệu dân Ý mà ông ta nói Ðạo Phật tôi không chân 
chính. Ðó chẳng qua là logic biện chứng, lý luận kiểu này 
thì nếu Phật Giáo chân chính thì những người dân Ý đều 
trở thành Phật tử hết.
Lúc tôi đi xuất gia, mẹ 
tôi không biết tôi đi đâu, bởi vì tôi không bao giờ nói với 
bà rằng tôi trở thành một Phật tử. Tôi rời nước Pháp 
và qua Ấn Độ suốt năm không hề viết cho mẹ một lá thư! 
Tại sao tôi đi xuất gia quy Phật mà lại không xin phép? Bởi 
vì Thái tử Tất Ðạt Ða sau này thành Phật, Ngài cũng rời 
bỏ cha mẹ đi tu mà không xin phép. Chúng ta lẻ loi một mình 
trong biển trầm luân và mỗi người cũng hộ trì đạo lộ của 
chính mình, không cần tìm cầu sự giúp đỡ của người khác. 
Phật Giáo dạy lòng tự tin và độc hành. Chúng ta phải kiên 
trì dũng cảm bước đi trên đường Ðạo. Tôi có điều hối 
tiếc duy nhất là cha mẹ tôi đã qua đời mà không phải là 
Phật tử.
Nếu cha mẹ tôi qua đời 
là những người con Phật thì tôi rất hài lòng và sung sướng 
biết bao. Tôi tiếc rằng họ qua đời mà không tiếp nhận 
được của tôi một cơ hội bố thí Pháp–món quà cao quý 
nhất trong tất cả món quà. Ðó là món quà Chân lý, vì vậy 
tôi quyết định trở thành Sứ Giả Như Lai với ý hướng 
truyền Phật Pháp đến mọi người trên thế giới.
Mẹ tôi qua đời cách đây 
22 năm và nếu bà tái sinh thì bà phải là 22 hay 21 tuổi. Cha 
tôi nếu tái sinh tuổi khoảng 16 tưổi, đủ để hiểu Phật 
Pháp, bởi vậy khi tôi thuyết giảng có lẽ cha mẹ tôi đã 
tái sinh có thể nghe lời tôi giảng và trở thành Phật tử 
và nhờ vậy có thể chuyển hóa được cha mẹ ngay từ hôm 
nay hay ở tương lai lâu xa.
Chúng ta không nên vui hưởng 
chân lý cho riêng mình mà nên tạo cho cha mẹ cơ hội chia sẻ 
được món quà Chân lý cao siêu, vì nó là món quà tối thắng 
trong tất cả các món quà.
Theo luật Phật thì chúng 
ta không được phép xuất gia nếu trước tiên không được sự 
đồng ý của cha mẹ, nhưng Thái Tử tất Ðạt Ða từ bỏ 
gia đình mà không xin phép. Ngài đã chỉ đường cho tôi, 
Ngài cho phép tôi. Tuy nhiên cũng cần nhớ rằng cha mẹ tôi chỉ 
cho tôi đời sống vật chất thôi, nhưng chúng ta nương nhờ 
Phật, người đã ban cho chúng ta đời sống tinh thần. Bởi vì 
người cha tinh thần là người cha cao thượng hơn tất cả. Sách 
Pháp của Ngài–quyển Kinh Pháp Cú đã hoàn toàn đưa đến sự 
thay đổi cuộc đời của tôi. Ðức Phật đã tịch diệt 
cách đây 2500 năm. Giáo Pháp của Ngài đã thấm nhuần trong 
tôi. Ðó là một sự cố ngẫu nhiên thanh tịnh ở Mỹ. Nếu 
tôi không đọc quyển Kinh Pháp Cú đó, có thể tôi không mong 
gì trở thành đệ tử của Phật được. Vì vậy khi Ðức Phật 
hứa khả, tôi đã hân hoan vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và 
ngồi tòa Như Lai.
Nếu tôi không được duyên 
phước thì giờ đây tôi đã bị kéo lôi vào cảnh đời bi 
thảm khổ đau. Vậy mà tự nhiên dù không xin phép cha mẹ 
tôi đã tự kéo mình ra khỏi trần gian đầy máu lửa. Mỗi 
người chúng ta đều phải tự cứu mình. Không ai có thể cứu 
được nghiệp báo của người khác. Vì thế điều khôn ngoan 
là nên tự cứu lấy mình. Có kinh nghiệm thực học, thực tu 
mới thực hiện được lý tưởng này. Không ai tự trì hoãn 
con đường giải thoát của mình để hy sinh cho người khác. 
Vì con đường tối diệu nhất để cứu khổ nhân gian là phải 
toàn hảo bản thân. Chừng nào ta chưa viên mãn tu tập thì 
không thể làm được điều thiện nào cho cõi đời. Một y 
sĩ trước nhất phải tự biết cứu chữa mình đã!
Lần trước tôi chưa giảng 
xong một điểm trung yếu trong giáo Pháp như vầy: Một hôm Ðức 
Phật đặt vài hạt cát trên đầu móng tay của Ngài và nói: 
"Này các Sa Môn! Cát trên móng tay ta và cát trên địa cầu 
bao la này, cát nào nhiều hơn?" Các vị Sa môn trả lời: 
"Bạch Ðức Thế Tôn số cát trên móng tay của Ngài 
không đáng gì so với số cát trên địa cầu bao la này!". 
Ðức Phật liền dạy: "Cũng vậy, này các Sa Môn, số 
chúng sanh đã qua đời và tái sanh vào cảnh giới người, cảnh 
giới trời đều không đáng gì so với số chúng sanh đã chết 
đi từ đời này và được tái sanh vào cảnh giới súc sanh 
hay ngạ quỷ".
Như quý vị đã biết, 
trong Ðạo Phật không có địa ngục, không có sự trừng phạt 
đời đời. Trong Ðạo Phật luôn luôn có cơ hội và người 
ta không bao giờ đánh mất cơ duyên đó. Bởi vì trần gian 
này luôn luôn có sự công bằng và sự công bằng thì không 
bao giờ thua cuộc. Cho nên khi nghe rằng chúng sanh bất diệt, 
vì lòng từ bi cứu khổ họ có thể tái sinh trong cảnh giới 
ngạ quỷ, tôi quyết tâm trở thành Sứ Giả Như Lai. Ðiều 
này đã đến với tôi do sự tình cờ, tôi trở thành người 
con của Phật, tôi nghĩ tại sao mọi người lại không chia sẻ 
điều may mắn mà quý vị đang thọ hưởng vào thời điểm này. 
Ðó là điều vị kỷ, chỉ lo cho phận mình an hưởng chân 
lý tối hậu của chư Phật, không san sẻ cho số đông người 
khác chưa từng dược duyên may như vậy. Cũng vì lẽ đó mà 
nay chúng tôi mới vân du sang Mỹ để chuyển hóa đạo lý Phật 
Pháp cho toàn thế giới sớm giác ngộ.
Ðức Phật đã khai thị tứ 
Diệu Ðế còn gọi là Tứ Thánh Ðế là bốn trụ cột của 
Ðạo Phật. Giống như cái bàn cần có bốn chân. Nhờ vậy 
Phật Giáo đứng vững trên bốn chân lý cao quý đó. Chúng ta 
có 45 tập trong toàn bộ Kinh Phật. Phần thứ nhất đề cập 
về Giới Luật, phần thứ hai gồm các bài giảng và phần thứ 
ba thuộc Tâm lý học. Bốn Thánh Ðế là tinh hoa của Phật 
Giáo và riêng 45 tập này chỉ là những luận giải về Tứ 
Thánh Ðế. Vì vậy nếu quý vị hiểu rõ Bốn Thánh Ðế tức 
là quý vị đã hiểu toàn bộ Phật Giáo. Tôi đã giải thích 
Pháp Tứ thánh Ðế trong bài giảng đầu tiên, nay tôi sẽ tiếp 
tục thử nêu lên câu hỏi: Chánh kiến là gì?
Chánh kiến là hiểu biết 
Bốn Thánh Ðế. Chánh kiến là hiểu biết ba đặc tính của 
vũ trụ là vô thường, khổ và vô ngã. Vô ngã nghĩa là 
không có linh hồn. Trong Phật Giáo không có linh hồn. Cái để 
thay thế linh hồn ta gọi là ý thức (tâm thức). Tâm không 
bao giờ giống nhau trong hai niệm tưởng liên tục. Trên thực 
tế các nhà tâm lý hiện đạt đã tiến đến điểm chính 
xác mà Ðức Phật đã đạt được cách đây 2500 năm. Kiến 
giải cho thấy rằng không hề có cái Ngã nào bất diệt hay 
cái TA trường cửu, hay linh hồn bất biến, mà chỉ có ý thức 
hằng biến, không bao giở giống nhau trong hai niệm tưởng liên 
tục.
Vì các nhà tâm lý học hiện 
đại đã thừa nhận rằng không có một linh hồn bất diệt 
lại càng dễ hơn cho tôi khi qua đến các bang để thuyết giảng 
về Ðạo Phật, bởi vì đất canh tác đã chuẩn bị sẵn 
sàng. Họ đã nhất trí rằng không có linh hồn thường hằng. 
Vì thế họ sẽ hiểu được triết lý Vô Ngã của Ðức Phật. 
Tất cả các pháp đều vô thường (biến đổi). Tất cả các 
pháp đều đưa đến đau khổ. Tất cả các trạng thái ý thức 
(tâm linh) đều vô ngã (không có thực thể). Chánh kiến là 
hiểu biết nguồn gốc và sự hủy diệt của vạn pháp, tiến 
trình như sau:
1) 
Vô minh là nhân của Hành.
2) 
Hành là nhân của Thức.
3) 
Thức là nhân của Danh Sắc.
4) 
Danh sắc là nhân của Lục xứ.
5) 
Lục xứ là nhân của Xúc.
6) 
Xúc là nhân của Thọ.
7) 
Thọ là nhân của Ái.
8) 
Ái là nhân của Thủ.
9) 
Thủ là nhân của Hữu.
10) 
Hữu là nhân của Sanh.
11) 
Sanh là nhân của Lão.
12) 
Lão là nhân của bệnh, sầu, bi, khổ, ưu não.
Vô minh là nhân của sinh 
và khổ, vô minh là nguồn gốc của vạn pháp. Diệt trừ vô 
minh là tiêu trừ vạn pháp, diệt trừ vô minh đưa đến chấm 
dứt sinh và khổ.
Vô minh là kẻ tạo ra trần 
gian này. Mara hay Ma vương là kẻ sáng tạo thế gian. Mara có 
nghĩa là kẻ cám dỗ. Mara không phải là ma quỷ như Phật Giáo 
thường nói đến mà Mara là Trời khát ái. Vị đó là trời. 
Loại trời nào? Ðó là Trời khoái lạc, sáu giác quan. Thế 
giới là động chứ không phải tịnh. Ðây là bài học hóa 
lý và toán. Thế giới không bao giờ giống nhau trong hai niệm 
tưởng liên tục.
Mỗi người đang tạo ra 
thế giới cho riêng mình hàng triệu lần trong mỗi khoảnh khắc 
phút giây. Tất cả đang bừng cháy, tất cả đang bốc lửa. 
Cái gì đang cháy? Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Chúng đang bừng 
cháy với ngọn lửa tham, sân, si, sinh tử và phiền não. Do vậy 
toàn thế giới này đang bốc cao ngọn lửa si mê. Tại sao? 
Vì sáu giác quan đang bừng cháy. Nếu ta có khả năng dập tắt 
được ngọn lửa của sáu giác quan hay làm cho chúng được 
thanh tịnh bằng cách tu tập điều phục bản ngã, không đổ 
thêm dầu mới vào ngọn lửa, tự nhiên nó sẽ tắt lịm. Vậy 
thì ta phải làm gì? Ta phải tưới nước (cam lồ) vào lửa, 
nó sẽ bị dập tắt Bấy giờ bạn sẽ tận hưởng niềm an 
lạc vô biên gọi là Niết Bàn tối thượng.
Có người nói rằng thế 
giới mà chúng ta đang ở hôm nay đã được tạo nên trong 6 
ngày. Phật tử chúng ta cảm nhận rằng đời là đau khổ–Dukkha– 
nó không dành cho 6 ngày để tạo nên thế giới này. Chúng ta 
đang tạo ra thế giới trong từng mỗi phút giây. Như tôi đã 
từng nói trước đây, thế giới đang biến đổi. Và vì nó 
đang biến đổi nên ta nói nó đang được tạo nên và đang bị 
hủy diệt trong từng mỗi phút giây. Vì biến đổi có nghĩa 
là sinh diệt liên tục, chết rồi tái sinh như ngọn lửa. Chừng 
nào chất liệu tham ái còn hiện hữu thì ngọn lửa vẫn tiếp 
tục bừng cháy. Hãy nhớ rằng, thế giới chỉ là một tiến 
trình, một tiến trình đang hình thành, đang trở nên. Và tiến 
trình đó cứ tiếp tục cho đến khi nào nguyên nhân của nó 
còn đủ duyên hiện hữu. Khi nhân đã bị dập tắt thì thế 
giới không hình thành. Dập tắt trần gian (đau khổ) này quả 
là thiện pháp và tạo ra trần gian (khổ lụy) này là bất 
thiện pháp. Bởi vì một khi chúng ta tận diệt được sự 
đau khổ của hiện hữu thì chúng ta mới hưởng được sự 
an lạc Niết Bàn tối thượng.
Chúng ta càng thích thỏa 
mãn con mắt, chúng ta lại càng muốn nhìn nữa cho mãn nguyện. 
Chúng ta càng muốn thỏa mãn lỗ tai, chúng ta càng muốn nghe 
thêm nữa, càng thích thỏa mãn cái lỗ mũi, càng muốn ngửi 
hoài. Không bao giờ mãn nguyện. Chúng ta không bao giờ hài 
lòng khi thấy, nghe, ngửi...Khi ta vui hưởng nhiều chừng nào 
tốt chừng nấy thì sự hưởng thụ ấy lại càng trở nên một 
xiềng xích khổ đau.
Nếu bạn bắt đầu thọ 
thực, món ăn ngon nhất trên trần gian này, nhưng một khi no bụng 
rồi mà buộc ăn thêm lại là một thứ khổ đau nữa. Thái Tử 
Tất Ðạt Ða sống êm ấm trong hoàng cung, Ngài tận hưởng 
những lạc thú trong 29 năm đầu. Sau thời gian hưởng thụ đầy 
đủ các khoái lạc trong kiếp người, cuộc sống càng vui sướng 
càng làm cho Thái Tử chán nản và trầm tư về thân phận 
chúng sanh. Và vì vậy Thái Tử đã xuất gia, tìm thấy một 
nguồn khoái lạc khác của Niết Bàn tối hậu. Bởi vì đó 
là niềm an lạc hạnh phúc cao thượng nhất. Có điều là ta 
không bao giờ tạo ra được Niết Bàn. Những gì ta phải tìm 
là tận diệt tiến trình biến đổi bằng sự tu tập trui rèn 
trí tuệ, dập tắt tham ái. Trí tuệ loại trừ sự sinh và cống 
hiến Niết Bàn tối diệu.
Ta thường nêu câu hỏi: mục 
đích của cuộc đời là gì? Là thanh tịnh bản ngã, làm 
trong sạch tâm thức. Cuộc đời coi như thất bại nếu tâm 
thức không được tịnh hóa. Cuộc đời được gọi là 
thành công nếu tham ái được tận diệt. Họ nói: này các bạn 
thanh niên, điều gì đưa đến lợi lạc cho con người nếu 
người đó chiếm được toàn thế giới mà lại đánh mất 
phẩm chất của mình? Thành công hay thất bại, vinh quang hay 
ô nhục được đánh giá bằng sự được hay mất nhân cách 
của mình. Bởi vì đạo hạnh của con người khiến cho người 
đó có tất cả ngoài ra không có cách nào khác hơn được.
Người ta vẫn cho rằng 
người thành công trong đời là người tạo ra được một 
triệu đô la, nhưng trong Phật Giáo thì không phải vậy. Nến 
vị đó tạo được một triệu đô la mà đánh mất phẩm chất 
đạo hạnh của mình thì vị đó là người loạn trí nhất 
trên đời. Mặt khác, nếu một người không đạt đươc một 
triệu dô la mà đạt được phẩm chất đạo hạnh, vị đó 
mới được đánh giá là người đắc thắng trong đời. Thắng 
không phải là sự đo lường bằng của cải đã tích lũy mà 
là sự kết tập vun bồi đạo hạnh, nhân cách con người. 
Cho nên đừng bận tâm về tiền tài mà nên quan tâm về đạo 
hạnh. Chính nó là nguồn tâm thức an lạc trợ duyên cho giác 
linh trong lúc lâm chung tử biệt.
Bởi vậy trước khi muốn 
làm điều gì ta phải tự vấn mình: điều mà ta sắp thực 
hiện đây sẽ làm tăng hay giảm phẩm chất đạo hạnh? Nếu 
câu đáp là có tác hại, làm suy giảm, thì ta nên tránh. Nếu 
câu trả lời là làm tăng trưởng nhân cách đạo hạnh thì 
ta cứ dũng cảm tiến hành. Bạn không có gì phải lo sợ về 
những hành động làm tăng trưởng phẩm chất đạo hạnh của 
mình, mà chỉ sợ làm suy giảm phẩm hạnh cao quý vốn có của 
ta. Bởi vì như tôi đã nói khi trước, thành công hay thất bại 
chỉ được đánh giá bằng toàn bộ phẩm chất đạo hạnh của 
con người. Mục đích cnộc sống con người không có gì 
ngoài sự thăng hoa, phát huy nhân cách, đạo hạnh của mình. 
Ðừng nghĩ rằng mục đích của đời người là sống thỏa 
mãn sáu giác quan, mà chủ yếu là thành tựu tài sản tinh thần 
có nghĩa là sự phát huy phẩm hạnh cao cả nhất cho đến khi 
nó tràn dâng khắp nơi.
Ðức Thế Tôn đã là tấm 
gương mẫu mực về đạo hạnh siêu thế, phẩm hạnh vô song 
của Ngài đã tràn dâng tỏa khắp mọi nơi làm tịnh hóa thế 
giới 25 thế kỷ qua và vẫn tiếp tục tịnh hóa thế giới 
trong nhiều thế kỷ tiếp theo để đi đến đỉnh cao rạng rỡ 
nhất và hào quang chân lý soi sáng khắp nhân gian; con người 
được một cơ duyên hy hữu nỗ lực toàn hảo đời mình.
Ðức Thế Tôn quả là một 
bậc y sĩ vĩ đại nhất trần gian này, bởi vì Ngài đã khai 
thị sinh lộ (con đường), cứu nguy ba chứng bệnh nan giải của 
chúng sanh là Tham(Lodha), Sân(Dosa), và Si(Moha). Ngài cho ba loại 
thuốc:
1) 
Bố thí: diệt trừ tham.
2) 
Giới hạnh: diệt trừ sân.
3) 
Thiền định: diệt trừ si (vô minh).
Con đường đưa đến sự 
giàu có là gì? Diệt trừ lòng tham bằng cách bố thí. Hãy 
cho! Cho là nhận. Không cho là không nhận. Hành động và phản 
ứng đều bằng nhau và đối diện. Người sinh ra bị nghèo 
khổ là vì kiếp trước họ quá keo kiệt. Người sinh ra được 
giàu sang là vì trong kìếp trước họ vốn rộng lượng, ưa 
bố thí. Thế nên chớ có ganh tị với người giàu sang, bề 
thế sự nghiệp; khi vị đó đang lái một chiếc xe hơi lộng 
lẫy đắt giá. Hãy bố thí, vì khi làm như vậy bạn cũng sẽ 
trở thành giàu có trong tương lai. Mua một vé số sẽ không dễ 
gì làm cho bạn trở nên giàu có. Bố thí là con đường chắc 
chắn phú quý mai sau. Con người thông thường có tinh thần cờ 
bạc, tất cả đều thích tạo một cơ may bất ngờ. Họ tin 
rằng họ có thể trở nên giàu sang qua một đêm giản dị bằng 
cách mua một vé số 1 hay 2 đô la, nhưng rồi họ chỉ gặp toàn 
sự bực mình vì không bao giờ trúng số cả. Vì vậy ta 
không thể nào trở nên giàu có chỉ nhờ mua một vé số, nhưng 
đảm bao nhất vẫn là vé số do Ðức Phật ban cho, nghĩa là 
bố thí sẽ được đáp ơn. Cho là nhận. Nên nhớ rằng bố 
thí giống như trồng một hạt giống trên đất, nếu bạn 
gieo hạt giống tốt trên đất lành cây sẽ lên tươi tốt và 
trái quả sum xuê. Nếu hạt giống tốt gặp đất lại không 
tốt, quả trái sẽ ít hơn. Vì vậy nếu bạn bố thí cho người 
nào không xứng đáng nhận vật bố thí đó dĩ nhiên bạn 
không thể kỳ vọng một mùa gặt huy hoàng.
Nhưng nếu bạn thành tâm 
cúng dường Ðức Phật, Chư Bồ Tát Thánh Tăng, bạn chắc chắn 
sẽ nhận được phần thưởng cao quý nhất. Thế nên bố 
thí khéo thì đương nhiên sẽ gieo trồng được những hạt 
giống siêu xuất trên mảnh đất phì nhiêu thuận duyên nhất 
để thu hoạch vụ mùa công đức cao thượng. Ðức Phật là 
người bố thí trí tuệ, ban cho tri kiến, là người bố thí 
thật sự nhằm diệt trừ tham ái. Bởi vì dù bạn bố thí 
cho ai đi nữa, dù bạn gieo một hạt giống trên đất cát đá, 
ít nhất hành động bố thí này chính là sự xả bỏ và nhờ 
bố thí, ban cho như vậy bạn mới tiêu trừ được tham ái. 
Hãy nhớ rằng chiến tranh đặt biệt đều bắt nguồn từ lòng 
tham. Chính lòng tham vô tận này không thể nào dập tắt được. 
Càng thu hoạch ta càng muốn thu hoạch thêm. Càng kiếm được 
tiền ta càng muốn kiếm tiền thêm. Càng tước đoạt của ai 
ta càng muốn tước đoạt thêm. Ta không bao giờ thỏa mãn. 
Khi một người chinh phục toàn thế giới, sau đó ông ta lại 
muốn chinh phục mặt trăng, sau cùng lại muốn chiến thắng cả 
mặt trời. Chẳng bao giờ thỏa mãn lòng tham muốn ngự trị, 
nhưng có một điều mãn nguyện là hình thành được chứng 
nghiệm đối nghịch–là sự từ bỏ.
Khi ta từ bỏ các vật vô 
thường dễ tan vỡ trên trần gian này, ta sẽ được món quà 
Niết Bàn thường trụ bất diệt. Khi từ bỏ sự vật dễ 
hư hoại (pháp vô thường) trên trần thế này ta sẽ được 
món quà Niết Bàn bất diệt. Nếu tham ái được khắc phục, 
ta sẽ hưởng được tâm thức an lạc như Ðức Phật đã chứng 
đạt. Khi còn ở hoàng cung, Ngài không thể dập tắt được 
ngọn lửa tham ái của chính mình, Ngài cũng không thể diệt 
trừ được những khao khát lạc thú. Chính khi Ngài cương quyết 
viễn ly, đoạn tuyệt mọi cám dỗ, Ngài mới chấm dứt được 
tất cả mê vọng.
Trong Kinh phân biệt vật 
cúng dường có đoạn ghi: “Ở đây này Anan phước quả đạt 
được do đem của thí cho một con vật gấp 100 lần công đức; 
đem cho một thường dân không có đạo hạnh được 1000 lần 
công đức; đem cúng dường một Thánh Tăng đang tu tập thánh 
Ðạo thì được vô lượng công đức không thể nghĩ bàn. Huống 
gì những cấp bậc tu tập cao hơn thì công đức không thể 
có lời nào diễn tả nổi. Huống gì là Thánh giả đã tìm 
ra chân lý như Ðức Phật–bậc Giác Ngộ tối thượng lại 
càng không thể kể hết công đức của người thí chủ cúng 
dường đó.”
Ðiều này ý muốn nói nếu 
bạn đem một ly nước bố thí cho một con chó, bạn sẽ nhận 
lại 100 ly nước về sau. Nếu bạn đem một ly nước bố thí 
cho một người dân thường, bạn sẽ nhận 1000 ly nước về 
sau. Nếu bạn đem một ly nước cúng dường cho một vị Thánh 
hay vị Alahán thì phần hồi hướng sẽ vô tận. Thế nên đây 
là một bảo hiểm về mặt tinh thần cao thượng nhất, bởi 
vì bố thí hay cúng dường một ly nước mà bạn có thể nhận 
lại rất nhiều ly nước. Vì lẽ đó ta nên đầu tư vào cuộc 
xổ số tinh thần hơn là cuộc xổ số thông thường không mấy 
hy vọng.
Làm thế nào để trở nên 
đẹp đẽ? Phương cách gì để có được sắc đẹp? Hãy diệt 
trừ sân hận bằng tình thương. Thực hành 5 học giới là đầy 
đủ tình thương.
1) Không sát hại và tàn bạo 
sinh vật (tránh ác) mà phóng sanh cứu mạng (làm lành).
2) Không lấy của không 
cho (tránh ác) mà cứu khổ (làm lành).
3) Không được 
có những thèm khát nhục dục hay tà dâm (tránh ác) mà khuyên 
giữ đạo lý thủy chung (làm lành).
4) Không nói láo, nói chuyện 
tầm phào, chia rẽ, ác khẩu (tránh ác) mà nói đúng 
thực tế, nói đoàn kết, ôn hòa, nhã nhặn, có văn hóa 
(làm lành).
5) Không uống ruợu và 
các chất say tương đương kể cả ma 
túy, cờ bạc, đàng điếm (tránh ác) mà thận trọng giữ 
gìn thân thể tráng kiện, tâm trí minh mẫn để khỏi mê mờ 
vi phạm các giới khác (làm lành).
Khi còn là một tín hữu của 
Thiên Chúa Giáo La Mã, tôi được dạy 
10 điều răn và hiện nay khi tìm kiếm trong 10 điều 
răn tôi vẫn không thấy có điều răn nào dạy: 
"các con không nên uống rượu".
Vì vậy tôi hết sức vui 
mừng được trở thành một Phật tử mà chỉ thọ trì có 5 
giới thay vì 10 điều răn. Xét ra 5 giới 
còn hoàn hảo và cô đọng hơn 
10 điều răn: Trong Phật Giáo không có điều răn nào; bởi 
vì không có ai ra lệnh cho chúng ta cả. Ðức Phật chỉ 
khuyên bảo chúng ta thọ trì 5 học giới chứ không có lệnh 
nào hay khuyến cáo nào. Chúng ta hoàn toàn tự do. Chúng ta được 
đối xử như những triết gia chứ không 
phải con nít.
Giống như những triết 
gia, chúng ta hiểu biết điều gì đúng, điều gì sai. Một 
khi bạn được chỉ cho thấy con đường chân chính của mình, 
nếu bạn có kinh nghiệm, bạn sẽ giữ gìn chánh đạo mà 
không sợ bị cưỡng ép bằng bất cứ 
một đe dọa hình phạt nào. Vì vậy vốn có khuynh hướng 
khoa học và triết học, tôi đương nhiên trở thành người 
con Phật; bởi vì tôi không muốn bị xử lý như một đứa 
trẻ nít mà là một người lớn. Trong Phật Giáo chúng ta đứng 
vững trên đôi chân của chính mình, chúng ta thực hành lòng 
tự tin. Ðức Phật là bậc Ðạo Sư chỉ đường, còn chúng 
ta là những hành giả đi trên con đường 
đó.
Con đường nào đưa đến 
sắc đẹp? Hãy mở rộng lòng yêu thương, lòng yêu thương 
ban cho sắc đẹp. Lòng yêu thương là mỹ phẩm đắt 
giá nhất. Sự sân hận đưa đến xấu xí. Xấu xí là 
cơn giận dữ kinh niên. Một thử nghiệm thực tế để 
chứng minh điều này. Hãy chọn một người đẹp 
tlai, đánh bất ngờ đằng sau lưng anh ta một cú đấm thật 
mạnh. Hãy xem lập tức gương mặt anh ta trở nên giận 
dữ và xấu xí làm sao. Cùng lúc đó bạn thấy sự giận dữ 
làm anh ta xấu xí. Cơn giận làm thô kệch dị tướng con người.
Bạn thấy đó, lập tức 
giận dữ biến sắc đẹp thành xấu xí qua thử nghiệm 
này–có điều hơi nguy hiểm, bởi 
vì nếu bạn cố thử nghiệm đối với anh ta, thì anh ấy cũng 
có thể làm một cuộc thử nghiệm như vậy với chính bạn. 
Vì thế, thay vì tạo một thử nghiệm thực tế, bạn có thể 
áp dụng lời của tôi là thử nghiệm vào chính bản thân 
mình. Chúng ta hãy tràn ngập lòng yêu thương nếu bạn muốn 
được sắc đẹp, bởi vì lòng 
yêu thương là mỹ phẩm tuyệt hảo nhất.
Sau chiến tranh, hầu hết 
chúng ta đều bị suy liệt mọi mặt. Do sự kiện đó mà 
người ta tiêu phí quá nhiều, thay vì sử dụng tiền của để 
xây dựng trường đại học và những viện nghiên cứu 
trọng yếu, họ lại thích sử dụng 
đồng tiền để mua vũ khí. Thế nên những gì chúng ta 
phải làm là phải cố gắng thực hiện cuộc thử nghiệm đối 
diện. Nghĩa là cổ vũ lòng yêu thương, bởi vì nếu ta sinh 
ra bị xấu xí, cho dù gương mặt ta có khó nhìn thế nào đi 
nữa, nếu ta rèn luyện lòng yêu thương vô lượng thì lòng 
đại tứ bi này sẽ ban cho ta vẻ duyên dáng thầm kín phát lộ 
bên ngoài và tỏa ra toàn bộ chân tướng với vẻ duyên dáng 
nơi khuôn mặt. Chúng ta có thể gặp một người đẹp trai nhất, 
vậy mà nhiều khi ta không bị lôi cuốn, bởi vì vẻ đẹp của 
anh ta có thể bị méo mó, thô kệch do lòng tự phụ kiêu căng 
về vẻ đẹp cúa mình. Ta có thể thấy một người xấu 
xí mà tràn đầy lòng yêu thương vô tận, bạn thấy anh ta thật 
hấp dẫn làm sao, và lôi cuốn được mọi người.
Chúng ta có thể chọn những 
tấm gương sống động trong lịch sử. 
Nếu bạn nhìn về lịch sử Hy Lạp, hiền giả Socrate 
là người thông thái nhất Hy Lạp nhưng không minh triết nhất 
thế giới như Ðức Phật dù cả hai cùng thời đại. Thật là 
kinh khủng làm sao trước Thiên Chúa giáo 600 năm, chúng ta lại 
có những bộ óc siêu phàm như Ðức Phật ở Ấn Ðộ, Khổng 
Tử, Lão Tử ở Trung Quốc, Socrates, Platon và những vị khác 
ở Hy Lạp. Dù sao trí tuệ của Phật là trí tuệ tâm linh 
còn trí tuệ của Socrates có khuynh hướng vật chất. Tuy nhiên 
trí tuệ của Socrates tỏa ra lòng thương vô hạn nên nhờ vậy 
đã thu hút được nhiều người.
Hiện nay bạn cứ nhìn 
vào tấm gương của thánh Gandhi tại ấn Ðộ, tuy Ngài không 
đủ duyên để sinh ra có khuôn mặt 
đẹp như bạn biết rõ đó, nhưng với tinh thần Ahimsa bất bạo 
động của Ngài và bằng Giáo Pháp của Ðức Phật, 
Ngài đã đạt được vẻ duyên dáng 
kỳ lạ, vẻ đẹp đã làm cho Ngài lôi cuốn được dân 
Ấn Ðộ và những người khác trên thế giới.
Vì lẽ đó chúng ta chớ 
nên tin vào những mỹ phẩm hóa trang, chúng chỉ tạo nên những 
sắc đẹp giả dối, không phải là vẻ đẹp chân 
thật. Chúng ta chỉ có thể trau dồi sắc đẹp bằng mỹ phẩm 
do chính Ðức Phật ban tặng. Mỹ phẩm này vô giá nhưng 
đưa đến sắc đẹp chân thật mà 
người ta gọi là vẻ duyên dáng ở phương đông nhưng cũng gọi 
là vẻ quyến rũ ở phương tây.
Con đường đưa đến tuệ 
giác thì sao? Tu thiền định sẽ 
đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn 
pháp. Không có cái ngã nào biệt lập. Ðoạn diệt lòng 
vị kỷ sẽ trở nên vô ngã. Người ta sinh ra bị ngu dốt là 
do kiếp trước họ không bao giờ quan tâm đến tri kiến. Họ 
luôn luôn kết thân với bạn bè thiếu trí tuệ, kể cả ngay 
lúc bất chợt gặp một vị Thánh Tăng 
họ cũng không bao giờ băn khoăn đặt câu hỏi để nhờ quý 
Ngài khai thị các nghi vấn của mình.
Còn người sinh ra được 
khôn ngoan là nhờ kiếp trước họ luôn luôn tìm cầu tri 
kiến bằng cách tham học với các bậc Thánh Tăng. Cái gì đúng, 
cái gì sai, điều gì lầm lỗi, điều gì vô tội, điều gì 
nên tu tập và điều gì không nên; hành động nào đưa 
đến hạnh phúc an lạc; hành động nào đưa đến bất hạnh 
và đau khổ. Hãy tìm, bạn sẽ thấy rằng bằng cách 
kiên trì tìm cầu tri kiến bạn sẽ đạt 
được tuệ giác.
Khi tham, sân, si đã đoạn 
diệt thì pháp hạnh bố thí, trì giới, thiền định 
đưa đến kết quả vô tham, vô sân, vô si gọi là Niết 
Bàn tối thượng. Khi ta đến diện kiến một nhà Sư, ta không 
phải đến để nhìn mặt vị đó mà 
phải nhìn thấy được tâm thức của 
vị đó. Nhưag cách nhìn tâm người không phải chỉ giữ im lặng 
để chiêm ngưỡng mà phải hỏi Ðạo, vấn Pháp để tìm 
ra nguyên nhân của những sự việc nan giải và cần cầu 
Pháp học để có thể đoạn diệt 
điều ác.
Phải nhớ rằng Chân lý 
là tài sản cao quý nhất. Một người có thể giàu sang, nhiều 
tiền bạc nhưng nếu vị đó kém trí tuệ thì vẫn là kẻ bần 
cùng thua kém; ngược lại một người có thể nghèo kém tiền 
của nhưng lại là hàng trí giả, vị đó vẫn là bậc giàu 
sang được trọng nể.
Trong vài phút qua mà quý vị 
có thể học được làm thế nào để trở nên giàu có–bằng 
sự rộng lòng bố thí; trở nên sắc đẹp bằng tấm lòng 
chan hòa yêu thương và trở nên khôn khéo bằng sự tinh tấn 
tìm cầu Chân lý. Vì vậy tôi cứ tưởng tượng rằng sau khi 
học được cách trở nên giàu có, sắc đẹp và khôn 
khéo trong một thời gian ngắn, bạn sẽ hưởng được 
tiền của xứng đáng đó. Dù sao bạn cũng cần nhớ rằng 
điều đó không đủ để gọi là biêt cách làm giàu, 
làm đẹp, làm cho khôn ngoan hơn người nếu bạn không có toa 
thuốc và lại không uống theo toa đó. Ðương nhiên thuốc sẽ 
không có giá trị gì nếu bạn chỉ cầm thuốc và ngắm 
nghía mãi thay vì uống liền.
Trong Phật Giáo món ăn mà 
ta phải dùng là thực phẩm tâm linh và tinh thần, bởi vì 
toàn thế giới đang đau khổ vì 
thiếu thực phẩm tinh thần, đó là 
nguyên nhân của chiến tranh. Chúng ta phải thường dùng món 
ăn tinh thần hàng ngày. Thử nghĩ nếu chúng ta chỉ mất một 
bữa ăn thường thôi thì chắc chắn chúng ta sẽ la hét quạu 
quọ đủ thứ, còn khi mất một bữa ăn tinh thần thì chúng 
ta lại hoàn toàn hài lòng.
Một hôm khi đang thuyết 
giảng trong một trường học, một số nam sinh chợt nhớ có 
trận đấu bóng đá đang diễn ra. Chúng liền rời khỏi buổi 
giảng đang nửa chừng để tham dự trận đấu. Sau khi chúng 
đi khỏi tôi mới nói với số thính giả còn lại rằng 
trận đấu của chúng ta là trận đấu tâm linh và chúng ta phải 
học cách nào để đá tung quả bóng 
Vô Minh để tận hưởng niềm an vui toàn thắng Niết 
Bàn. Chúng ta dùng thức ăn vật chất trong sạch thì tại sao 
ta lại không dùng món ăn tinh thần tinh khiết. Nếu bạn ngỏ 
lời với hiệu sách và hỏi sách nào bán giá cao nhất, ông 
ta sẽ trả lời rằng loại sách càng bẩn thỉu thì giá bán 
càng cao nhất. Nói cách khác, người ta thích món ăn 
loại văn chương ghê tởm chớ không thích loại đúng đắn. 
Vì vậy chúng ta nên dùng món ăn 
tinh khiết cho tâm thức. Món đó là “Kinh sách Phật”. Nếu 
bạn ham đọc sách Phật , tâm ý bạn sẽ được thuần hóa, 
minh triết. Nếu bạn đọc loại văn 
chương uế nhiễm thì tâm thức bạn sẽ trở nên hôi tanh như 
đống rác. Nhân nói chuyện về thức 
ăn khiến tôi nhớ đến mẩu chuyện như sau: xưa có hai vợ 
chồng và đứa con cùng vượt qua sa mạc, khi tất cả đến nửa 
đường sa mạc thì bỗng lương thực khô cạn, và trong 
lúc tuyệt vọng không biết giải quyết cách nào, người chồng 
liền đề nghị với vợ: "Này hiền thê ! Trong tình thế 
nguy nan này, một người chết thì tốt hơn cả ba đều chết: 
Thế nên đây là cơ hội duy nhất chúng ta ăn 
thịt đứa con của chúng ta, có vậy chúng ta mới sống và vượt 
qua nửa đường sa mạc còn lại. Nếa không làm vậy 
thì cả ba đều chết". Và rồi với nước 
mắt đầm đìa thương tiếc, họ giết và ăn 
thịt đứa con. Không phải họ ăn thịt con để được to mập 
hay dễ nhìn hoặc để trở thành một võ sĩ hay nhà đô 
vật, mà chỉ vì muốn vượt qua sa mạc, duy trì mạng sống 
chứ không mong gì hơn.
Tương tự Ðức Phật đã 
dạy: này các Sa Môn, trong mỗi đĩa 
thức ăn ta dùng đều có cái chết. Tất cả đều là xương 
thịt của con cái mà chúng ta đành đắm 
lệ nhai nuốt để phương tiện vượt qua biển khổ luân hồi 
mong tới được bờ bên kia giải thoát. Thế nên chúng 
ta chỉ ăn để sống chứ không phải 
sống ăn.
Không phải ăn vì 
lòng tham dục mà chỉ ăn để có sức 
khỏe vững bước trên đường Chánh đạo. Tại La Mã có số 
người ăn nhậu từ sáng đến tối, họ luôn luôn có mặt 
trong các quán rượu và ăn uống bội thực đến nỗi phải 
ói mữa tại phòng tắm và rồi sau đó phải hối hả 
trở lại bàn nhậu và khởi sự trở lại một lần nữa. Thật 
bi thương khổ lụy.
Ðó là nguyên nhân đưa 
đất nước đến chỗ suy sụp. Thế nên nếu bạn không muốn 
đất nước mình đi xuống, bạn nên có ý thức ăn để sống 
chứ không phải sống để ăn, bởi vì thức ăn giống như món 
y dược có công năng làm tỉnh lặng chứng bệnh đói khát của 
chúng sanh.
Nhân đây tôi muốn nói 
qua về món ăn tinh thần đầu tư chất xám. Quý vị hãy 
dũng mãnh cố gắng thiết lập một trường Bồ Ðề ở 
Singapore. Chúng ta nên cổ vũ thực hiện cho được một 
cơ sở giáo dục Phật học (trường Bồ đề). Bởi vì 
nếu chúng ta gởi con em vào trường ngoại đạo là mở đường 
cho họ có dịp bắt cóc tâm thức các con em chúng ta. Họ rất 
muốn nắm giữ tâm hồn trẻ thơ nhỏ dại và dễ uốn nắn. 
Tôi dám chắc rằng nếu như người ta cố 
ăn trộm thân xác con em mình thì quý vị sẽ đau 
khổ rất nhiều, nhưng nếu họ ăn trộm tâm linh con em mình 
thì quý vị lại điềm nhiên, chớ không hề nhận ra đó là 
một đại họa của gia đình, 
cho họ hàng, xóm làng, đất nước, quê hương.
Nếu quý vị yêu thương 
con em và tín ngưỡng của mình thì quý vị phải làm sao thấy 
được con em của mình thông suốt nền giáo dục Phật học, 
có vậy tôn giáo của quý vị mới phát triển, con em của 
mình mới có một tương lai Phật học sáng chói, bởi vì trẻ 
em sẽ tránh sát hại súc vật và từ bỏ uống rượu.
Ở Tây phương người ta nói 
bắn giết thú vật là một hình thức thể thao và những ai 
giết giỏi nhiều con vật được gọi là nhà thể thao quán 
quân. Vì vậy quý vị nên cho con em mình theo học ở các trường 
Phật học. Ở Penang (Mã Lai) có nhiều trường Phật học nổi 
tiếng. Tôi vô cùng phấn khởi khi đề 
cập đến các học sinh ở trường đó. Vì thế hãy nhớ 
rằng chân lý chỉ thấm nhuần khi nào nó phát triển. Khi nó 
ngừng không phát triển, nó sẽ ứ đọng và suy tàn. Tín ngưỡng 
sẽ bế tắc và diệt vong nếu nó không phát huy. Phương pháp 
làm cho nó trưởng thành và sống mãi là thấy các con em của 
quý vị mãi mãi là Phật tử thuận thành. Tôi sắp sang hoằng 
Pháp bên Mỹ để nâng cao số Phật tử trên khắp thế giới, 
đáp lại với số nhà truyền giáo nước ngoài đã đến 
đây. Tôi còn nhớ ngày xưa Java là một nước Phật Giáo. 
Quý vị có thể đọc nhiều sách 
trong đó có đề cập nhiều ngôi chùa kỳ diệu lừng 
danh thế giới. Ðừng cho phép tín ngưỡng của quý vị bị 
suy tàn do đặt tâm hồn mềm yếu non trẻ của con em quý vị 
trong tay những người không phải là Phật tử. Họ giống như 
những nhà điêu khắc dùng đất sét uốn nắn theo mẫu hình 
của họ. Khi nào thấy rằng các con em của chúng ta được 
huấn luyện theo đường lối của Phật Giáo nghiêm túc 
thì Ðạo Phật của chúng ta mới hy vọng phát huy rộng khắp 
thế giới. Trong những năm Phật lịch 
2500 trở đi, Phật Giáo như một cái dù che kín vũ trụ thoát 
khỏi ngọn lửa đau khổ. Khổ đau và khoái lạc chỉ 
là một; chúng không tách rời nhau, chính Phật Giáo đã khai 
thị con đường giải thoát như vậy.
 
        
 --- o0o ---