Chương
12. Trí tuệ bát nhã
Bồ Tát Quán Tự Tại khi đi vào trí tuệ cùng tột sâu
thẳm, soi thấy năm uẩn đều không, liền vượt khỏi mọi khổ ách.
Này Xá-lợi tử, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng,
hành, thức cũng lại như vậy.
Này Xá-lợi tử, tướng không của
các pháp không sinh không diệt, không sạch không nhơ, không thêm không bớt. Cho
nên trong tánh không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, tiếng, mùi, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới
cho đến không có ý thức giới; không có vô minh cũng không có vô minh hết; cho
đến không có già chết cũng không có già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo,
không trí cũng không đắc, vì không sở đắc.
Bồ Tát nương trí tuệ cùng tột nên
tâm không ngăn ngại; vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng
điên đảo, rốt ráo Niết - bàn.
Chư Phật ba
đời nương trí tuệ cùng tột nên chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Thế nên biết trí tuệ cùng tột là
thần chú lớn, là thần chú sáng lớn, là thần chú vô thượng, là thần chú không gì
sánh bằng, dứt trừ hết thảy khổ ách, chân thật không hư, cho nên nói câu thần
chú trí tuệ cùng tột; liền nói thần chú rằng:
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba
la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.(1)
Kinh Hrdaya Prajnaparamita là
một bản kinh nổi tiếng, đặc biệt được tôn trọng trong truyền thống thiền Phật
giáo ở Triều Tiên và Nhật Bản, và đã có mặt khoảng hơn 1000 năm. Tựa bản kinh
trong tiếng Sanskrit: Hrdaya có nghĩa là trái tim, prajna là trí tuệ, paramita
giới hạnh và sutra là bản kinh (hadaya, panna, parami và sutta là những từ
tương đương trong tiếng Pali, nhưng ở đây chúng ta sẽ dùng từ Sanskrit vì chúng
ta bàn về một bản văn tiếng Sanskrit). Bản kinh này có thể dịch sát nghĩa là
‘Bài thuyết pháp về giá trị của trí tuệ.’ Tuy nhiên, nó thường được dịch là
‘Tâm Trí tuệ bát nhã’ hay đơn giản là ‘Kinh Trái Tim’.
Kinh do một vị đại sư thiền soạn
thảo(2). Kinh giải thích vắn tắt về những yếu tố cuối cùng trong chuỗi duyên
sanh siêu việt, bắt đầu với sự giải thoát khỏi những tình cảm tiêu cực và tiến
dần đến hoàn toàn giải thoát. Dầu kinh chỉ có thể được hiểu từ cái nhìn của sự
thật tuyệt đối, mà tâm phàm phu không thể nào liên tưởng đến, nó vẫn là một bài
kinh nổi tiếng và thường được trích dẫn. Kinh được bắt đầu như sau:
Bồ Tát Quán Tự Tại khi đi sâu
vào trí tuệ cùng tột.
Avalokitesvara xuất phát từ hình
ảnh các vị thần thánh ở Ấn Độ khoảng cùng thời với lúc giáo lý của đức Phật
được truyền bá khắp lục địa này. Ngài thường được mô tả với nhiều tay, biểu
tượng của lòng hoan hỷ vô thượng, khả năng hành thiện và che chở bảo vệ bao
chúng sanh, Ngài do đó đại diện cho lòng bi mẫn dưới hình tướng người nam. Quan
Âm (Kwan Yin) là hình tướng
người nữ của cùng một biểu tượng trong truyền thống Trung Hoa.
Bồ Tát (bodhisattva) là người toàn tâm toàn trí
tìm kiếm giác ngộ. Đức Phật do đó là một Bồ Tát trước khi chứng đắc thành Phật.
Bodhi có nghĩa ‘giác ngộ’ và sattva là ‘người’, vì thế từ này có
nghĩa là ‘người giác ngộ’, nhưng nó cũng có thể được dùng để ám chỉ ‘người đang
đi tìm giác ngộ và nguyện làm tất cả để đạt được mục đích đó.’
Khi đi sâu vào trí tuệ cùng tột,
ngài nhận thấy rằng tất cả mọi thứ trên thế giới đều là không.
Ở đây chúng ta có Bồ Tát
Avalokitesvara chìm sâu trong quán tưởng và nhận ra rằng tất cả những gì chúng
ta kinh nghiệm trên thế gian, hoặc về thân, về thọ, tưởng, hành, hay thức,
trong thực tế tất cả chỉ là không. Năm phân loại được nhắc đến ở đây là năm uẩn
(skandhas), thường được dịch
như là ‘những thành tố của sự hiện hữu’ hay ‘tổng hợp’, và chúng phân biệt các
kinh nghiệm của ta bao gồm những gì. Trong phần diễn tả chuỗi liên hoàn của
duyên sanh thế tục có hình ảnh một con quỷ, thân che phủ da cọp, tay cầm một
bánh xe tượng trưng cho vòng tròn này, và đầu đội một vòng nguyệt quế với năm
sọ người, tượng trưng cho năm uẩn (skandhas).
Trên tất cả, năm thành tố này mà
từ đó con người được tạo thành – thân, thọ, tưởng, hành và thức - là không, là
trống rỗng. Nhưng chúng trống rỗng về cái gì? Chúng trống rỗng hình tướng. Đó
là, chúng rỗng vắng về tất cả những gì có thể mang đến cho chúng một ý nghĩa
nào. Ở đây chúng ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn, khi cố gắng hiểu được khái niệm
này. Thật vậy, có thể có một sự hiểu lầm khá tai hại. Sự rỗng vắng không có
nghĩa là tất cả đều không có mặt trong thế giới này – không thể nghi ngờ gì về
sự có mặt của một thế giới đầy biến động. Nhưng tất cả mọi thứ trong đó, bản
chất của chúng là vô thường. Không có bất cứ thứ gì có thể được coi là ngoại lệ
đối với định luật này, mà nó cũng có thể được diễn tả như là một quy tắc chủ
đạo rằng không có gì tự hiện hữu. Vì thế các pháp đối với chúng ta là bền vững,
trong thực tế chỉ là bề ngoài, vì chúng luôn thay đổi không ngừng. Không có gì
ở trong chúng mà có thể sở hữu hay lưu giữ được.
Trong ý nghĩ đó thì chúng là
rỗng vắng.
Và tất cả mọi khổ ách được Ngài
xóa bỏ bằng cách nói,
‘Này Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc.’
Xóa bỏ mọi khổ ách có nghĩa là
chấm dứt mọi đau khổ (dukkha).
Xá Lợi Phất là cánh tay phải của đức Phật lịch sử và là vị đệ tử đệ nhất trí
tuệ, vì thế những người muốn bày tỏ sự chứng ngộ của mình thường tìm gặp đức
Phật hay Xá Lợi Phất. Và đây chính là những gì mà Avalokitesvara đang làm.
Avalokitesvara chứng ngộ được sự đoạn diệt hoàn toàn của tất cả những cay đắng,
khổ đau ở bên trong, ngài đã tự chứng được thực tế đó. Ngài nhận thức được rằng
thế giới hình tướng là rỗng không và rỗng không chẳng gì hơn là thế giới hình
tướng. Rỗng không có nghĩa là thiếu vắng hình tướng, rằng không có một bản thể
nhất định nào đối với vật gì; người cũng như thú, cùng tất cả vũ trụ thiên
nhiên, đúng ra là tất cả những đối tượng vật chất, không nắm giữ điều gì chắc
chắn, bền vững bên trong chúng. Sự thật đơn giản mà ngài đã chứng ngộ được là
tánh không có trong tất cả vạn vật. Tuy nhiên nếu không có kinh nghiệm cá nhân
thực sự về những gì mà từ ngữ đó nói đến thì khó mà hiểu được. Nói một cách
khác là tất cả là không và không là tất cả – nhưng những lời này cũng rất khó
hiểu.
Thế giới hình tướng thì trống
rỗng – nó không chứa đựng gì cả- và thực tế này bao trùm vạn vật. Chính là
chúng ta đã tạo nên thế giới nhị nguyên bằng cách phân biệt các sự vật qua cách
nói: ‘Đây là người. Đây là hoa. Đây là thú. Đây là điều tốt, đó là điều xấu.’
Với những sự phân biệt như thế, tâm lăng xăng cũng bắt đầu, và ta luẩn quẩn
trong đó, không thể thoát ra vì luôn phải tìm một cái gì khác nữa để phán đoán.
Dĩ nhiên, trên tất cả là chúng
ta tự phán xét mình: ‘Tôi đã làm tốt việc này’, ‘tôi đã thất bại điều kia,’
‘tôi muốn làm điều này tốt hơn,’ ‘tôi đã làm việc đó rồi’,‘tôi rất tốt,’ ‘tôi rất
xấu.’ Khuynh hướng phân biệt, phán xét, chọn lựa, khiến cho chúng ta gần như
không thể nhận ra rằng tất cả mọi đối tượng của sự phán xét, đánh giá của chúng
ta không có gì cả, rằng tánh không bao trùm tất cả và rằng không có sự phân
biệt (nhị nguyên) ở trong bất cứ cái gì. Nó chỉ có vẻ như là mọi thứ đều khác
và tách biệt. Thế giới của chúng ta là một thế giới giả tạm, gọi là maya trong truyền thống Ấn Độ. Nhưng vì
mắt ta thấy hiện tượng, tai nghe tiếng nên ta tin vào sự giả tạm, coi đó là
thật.
Sắc tức là không, không tức là
sắc.
Không gì có bản thể; chỉ có hình
tướng bên ngoài. Những gì hiện ra trước mắt chúng ta như thật, thực sự chỉ
giống như bọt nước trên mặt biển. Các bong bóng nước hoàn toàn quên rằng chúng
không thể tách biệt khỏi đại dương đã tạo ra chúng, để rồi bắt đầu phát khởi đủ
mọi ý nghĩ về bản thân, rồi nói với nhau rằng: ‘Bạn biết không, tôi là một bong
bóng đẹp hơn bạn nhiều,’ hay ‘tôi khá cao còn bạn khá thấp,’ hay ‘tôi thông
minh hơn bạn,’ hay ‘hãy nhìn tôi, tôi có thể lộn ngược hai vòng.’
Những ý nghĩ này không thể thay
đổi được sự thực là trong thực tế các bong bóng này chính là nước biển, chúng
được hình thành do sự chuyển động của biển. Những gì mà chúng ta coi như là sắc
của vạn vật cũng là một với không, cũng như bong bóng nước là một với biển và
biển là một với bong bóng nước – tất cả vạn vật đều là một phần của tổng thể
này.
Cũng thế đối với thọ, tưởng,
hành, thức.
Lần nữa, Avalokitesvara nhắc đến
năm uẩn (skandhas).
Ngài giải thích với Xá Lợi Phất
rằng không có gì trong chúng ta hơn là năm thành tố này, mà tự chúng cũng là
không. Cũng giống như sự ta tự cho mình là cái gì đó hơn là sự tổng hợp của
những thành tố này, là bề ngoài hơn là sự thực, thì chính chúng (năm uẩn) cũng
chỉ là bề ngoài, không có bản thể nhất định, dầu chúng ta đã coi chúng quan
trọng đến thế nào. Rồi Ngài lập lại:
Xá Lợi Phất, tất cả vạn pháp
trong thực tế đều là không.
Cho đến thời điểm này, chúng ta
hình như có được một loại trí tuệ mà tôi sẽ gọi là ‘giây phút đạt đạo’ - một
giây phút không có gì phát sinh, không có gì đoạn diệt. Trước khi đạt được trí
tuệ này và mô tả nó ở đây, Avalokitesvara đã phải công phu tu tập nó bằng cách
tìm ra một định hướng hoàn toàn mới cho tâm thức. Nhưng giờ chúng ta được nghe
về các quả chứng mà Avalokitesvara đạt được, khi ngài giải thích về viễn ảnh
của một thực tại tuyệt đối phát sinh tiếp ngay sau khi ngài đạt được trí tuệ.
Qua các bài viết của ngài Long
Thọ, một trong những vị đại sư Đại thừa, chúng ta biết rằng không thể hiểu được
Pháp trừ khi chúng ta có thể phân biệt được sự thật tương đối và tuyệt đối. Con
đường mà chúng ta đã chọn trên thế gian này dĩ nhiên là con đường của sự thật
tương đối, ở đó ta nhìn thấy vạn vật bằng con mắt nhị nguyên, và tất cả các
hình tướng đều có ý nghĩa. Nhưng cũng có một con đường khác mà ta có thể đi, là
con đường của sự thật tuyệt đối, nơi hình tướng không còn là hình tướng, và
thực tại thì rỗng không. Thực tại tuyệt đối này chính là niết bàn (nirvana hay nibbana – Pali).
Không sinh, không diệt. Không
nhơ, không sạch. Không thêm, không bớt.
Trong thực tại tuyệt đối không
có sinh, cũng không có diệt; đó là không có tử, do đó không có sinh. Tất cả thế
giới hình tướng mà chúng ta coi quá quan trọng đã được trả trở về thực tại mà
từ đó chúng phát sinh. Giống như những bọt bong bóng trên mặt biển của thực tại
tuyệt đối, khi đã nhận thức ra được thực tại tuyệt đối này là chúng ta tự để
mình hòa quyện trở lại với biển. Chúng ta không còn muốn là những bong bóng nhỏ
lăng xăng trồi sụt để khẳng định tánh bong bóng cá biệt của mình, vì đã nhận
thức được rằng một sự tự khẳng định như thế chỉ mang đến đau khổ. Qua tri kiến
này, rồi từ đó ta hòa nhập trở lại với bản thể ban đầu của chúng sanh, ta nhận
thấy được rằng không có gì phát sinh hay chấm dứt. Ở đó không có gì sinh ra hay
diệt, không có gì tăng hay giảm. Không có cái hai, không có cái đối nghịch,
tách biệt. Đó là một tổng thể, không có hình tướng của hiện tượng chia rẽ. Thế
giới giả tạm được khôi phục trở lại tính không.
Trong tánh không, không có sắc,
thọ, tưởng, hành, thức.
Trong tánh không, sự phân loại
của năm uẩn không phát sinh; do đó, cũng không có sự hiện hữu của chúng sanh.
Không có mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ý.
Nếu không có uẩn nào, hoặc là
thân hay tâm, thì cũng không có sự xúc chạm của các căn. Như thế điều này đưa
ta đến một hướng ngược lại với chuỗi duyên sanh thế tục, nơi mà sự phát khởi
của tâm thân được coi như dẫn đến sự xúc chạm giác quan. Ở đây, khi đã nhận
thức được các sự xúc chạm giác quan đã phát khởi từ năm uẩn như thế nào, ta
càng có thể nhận thức sâu hơn rằng trong thực tế các uẩn tự chúng là giả có,
trống rỗng, nên không còn có điều kiện gì để thân và tâm phải có mặt. Không có
các giác quan, thì dĩ nhiên, sẽ không có các xúc chạm của giác quan, do đó:
Không có nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt,
thân hay ý; cũng không có vô minh hay trí.
Vô minh, được coi là động lực
chính của chuỗi duyên sanh thế tục, và do đó của tất cả mọi hiện hữu, cũng
không còn ở đó nữa. Không còn có ai để có thể là vô minh.
Dĩ nhiên, điều này không diễn tả
được bản chất thực sự của thực tại tuyệt đối. Bất cứ sự diễn tả nào cũng chỉ có
thể là hướng ta đến một tri kiến như thế. Nó không bao giờ có thể diễn tả được
ý nghĩa thực sự của nó đối với những người chưa từng chứng nghiệm qua. Điều nó
có thể làm là bày tỏ cho ta biết tất cả mọi khổ đau sẽ được đoạn diệt như thế
nào. Không thể tận diệt khổ đau trong thế giới này, nhưng chắc chắn rằng có thể
tận diệt cái ngã và do đó buông xả được bản chất nhị nguyên. Như thế chúng ta
sẽ không còn có thể coi là thật những sự phân biệt giả tạm cơ bản mà chúng ta
đã bày vẽ ra. Chúng ta nhận ra năm uẩn qua đó sự hiện hữu của ta kết hợp, tích
tụ lại với nhau, cũng là giả có, và không còn coi sự hiện hữu tương hợp đó là
tuyệt đối quan trọng. Ngay giây phút của một chứng nghiệm như thế, chúng ta
hiểu rằng tất cả mọi thứ khác cũng như thế, và rằng chúng ta chẳng bao giờ cảm
thấy cần phải đánh mất sự tiếp xúc với bản thể nguyên thủy của mình, vì bất cứ
khi nào chúng ta làm thế thì chúng ta sẽ chỉ thấy khổ đau.
Không có già chết, cũng không có
hết già chết.
Già và chết không xảy ra ở đây,
vì không có sinh. Trở lại hình ảnh của đại dương, thì điều này có nghĩa là nếu
không có bọt biển trên mặt biển thì không có sự vỡ tan; nếu một bong bóng biển
không được tạo ra thì nó cũng không phải bị diệt. Thật thế, sự đau khổ của già
và chết chấm dứt khi – và chỉ khi- không còn có khả năng của sinh nữa. Không có
cách gì khác để tránh khỏi sự đau khổ này.
Không có khổ đau, cũng không có
hết khổ đau, không có hoại diệt, cũng không có hết hoại diệt.
Điều tiên quyết là ta nhận thức
được sự khổ đau, một sự nhận thức sâu sắc, mãnh liệt đến nỗi ta không còn bám
víu vào thân và tâm. Sự buông xả hoàn toàn việc bám víu vào thân - một sự bám
víu luôn mang đến khổ đau, khi nhận thức ra, đã mở ra cánh cửa dẫn đến sự đoạn
diệt của khổ đau. Lúc đó người ta có thể nhận ra bản ngã của mình chỉ có vẻ như
là một cá thể tách biệt, độc lập và không có một yếu tố quan trọng hay đặc biệt
nào có thể gán cho cái ngã vì nó chỉ được xem như là một hiện tượng giả tạm.
Như thế ta có thể sẵn sàng để
cho cái ngã được hòa nhập trở lại với bản thể đầu tiên của chúng sinh, nơi
không còn khả năng phân biệt hay không phân biệt của ngã, của sinh, của sắc,
thinh, hương, vị. Cũng như không còn nữa sự đau khổ hay sự chấm dứt đau khổ,
chúng cũng được nhận ra là không, là giả có. Ở nơi không có gì - nơi chúng ta
hiểu rằng từ ban sơ trong thực tế đã không có gì – không có gì có thể khổ đau
và ở nơi không có khổ đau, thì khổ đau không cần phải được chế ngự.
Thế giới hình tướng khiến ta lầm
lạc tin tưởng rằng nó có thể thỏa mãn chúng ta, vì tâm ta rất dễ chóng quên
những khía cạnh đau khổ của sự vật mà chỉ trụ trên những khía cạnh dễ chịu.
Chúng ta có thể gọi tâm là một nhà ảo thuật: nó có thể biến hóa ra bất cứ thứ
gì, nhưng nó cũng có thể tự hướng đến sự chứng nghiệm về sự thật tuyệt đối.
Chúng ta tìm thấy loại chứng
nghiệm như thế được diễn tả trong tất cả các bản văn thần bí và từ đủ loại thần
linh. Mặc dầu cách diễn tả khác nhau, loại kinh nghiệm mà chúng ta nói đến
thường rất giống nhau. Thí dụ, Meister Eckhart, một thầy dòng Đo-mi-ních gốc
Đức, cuối thời trung cổ đã nói,
‘Con người không là gì cả’ – và
lập tức bị kết án về những điều vừa nói.
Vì thế giới chúng ta sống đầy
khổ đau, nên chúng ta tìm kiếm sự giải thoát ra khỏi khổ đau. Đôi lúc ta cũng
có thể kinh nghiệm được những sự giải thoát như thế, nhưng chúng luôn vô thường
như bất cứ mọi giây phút khổ đau nào. Tất cả mọi thứ đều tiếp tục đoạn diệt. Do
đó, trong thực tế, không có gì thực sự từng có mặt, khi nhìn lại hình như mọi
thứ đều vuột khỏi tay ta.
Chúng ta có thể quán sát quá
trình đó xảy ra trên chiếc đồng hồ. Mỗi giây phút là sự di chuyển đến giây phút
kế tiếp. Nếu nó đứng yên, tất cả quá trình trong đó từng giây phút là một thành
phần phụ thuộc sẽ bị phá vỡ. Bản chất của thời gian là nó qua đi và kinh nghiệm
của chúng ta có thể không thuộc vào tương lai hay quá khứ. Như thế, sẽ còn lại
điều gì? Chỉ là khoảng khắc của một giây trong tích tắc của giây kim đồng hồ -
đó có thể là một hình ảnh tốt như bất cứ hình ảnh nào để chuyển tải ý niệm của
không. Quá khứ đã qua, tương lai thì chưa đến. Chỉ có kim đồng hồ chuyển động,
tất cả mọi thứ khác đều giả tạm.
Vì không có khổ đau, nên cũng
không có sự chấm dứt khổ đau, cũng không có con đường đến giải thoát. Bồ Tát
Avalokitesvara đã đi trên con đường giải thoát rồi. Con đường đó chỉ hiện hữu
trên thế giới này và nó trở nên cũ mòn khi ta đã nhìn được mặt thật của thế
giới. Trên bình diện tuyệt đối hoàn toàn không có gì xảy ra, chỉ hoàn toàn
trống không. Cũng không có ai ở đó để tận hưởng nó.
Không có trí tuệ, cũng không đắc
trí tuệ.
Vô minh và trí tuệ cùng có mặt
trong thế giới hình tướng thân thuộc của chúng ta. Trong thế giới này có người
khôn, kẻ ngu, người đang đi trên đường trí tuệ để tìm kiếm phương cách giải
thoát và cũng có kẻ không màng gì đến tất cả những thứ đó. Tuy nhiên ngay khi
chúng ta đang du hành trên con đường của sự tuyệt đối, những sự phân biệt đều
biến mất. Trong bản thể ban sơ của con người không có gì để biết, hay không
biết, không có sự tìm kiếm và cũng không có khám phá.
Ngay cả cụm từ ‘bản thể ban sơ
của con người’ cũng phải được xóa bỏ trước khi ta có thể hiểu nó muốn nói đến
điều gì. Chúng chỉ là những thuật ngữ. Tất cả mọi thuật ngữ đều dùng để nói đến
những thực tại tương đối, ngay cả thuật ngữ ‘thực tại tuyệt đối’. Ở đây chúng
ta đối mặt với vấn đề phải diễn tả những kinh nghiệm siêu việt với những từ ngữ
chỉ có thể dùng để diễn tả những kinh nghiệm tầm thường. Đó là lý do tại sao
những sự diễn tả được dùng thường có vẻ nghịch lý và không thể hiểu được.
Vì Bồ Tát nương trí tuệ cùng tột
nên tâm không ngăn ngại, không sợ hãi.
Bất cứ ai đã chứng đắc được điều
này trong cuộc sống thì tâm họ hoàn toàn không phiền não. Họ không còn cảm thấy
bị ảnh hưởng bởi những gì mà các bong bóng khác làm, vì họ giờ đã biết rằng
trong thực tế các bong bóng kia chỉ là không khí và chúng sẽ vỡ tan khi thân đã
già. Nhận thức này sẽ tháo gỡ được bao gánh nặng khỏi tâm tư, khiến cho nó
không phiền não và không sợ hãi.
Như thế tâm không sợ hãi là cái
gì? Là tâm không còn phải lo bảo vệ một cái ngã, không phải khẳng định một đẳng
cấp hay danh dự, không phải chứng minh một chứng đắc nào. Như thế sẽ không còn
chỗ cho sự tấn công, do đó không cần phải sợ hãi bất cứ điều gì phát sinh. Thân
không còn là một sở hữu cá nhân. Tâm cũng không tùy thuộc vào ai. Cả hai chỉ là
những tướng trạng của một thế giới hình tướng duyên hợp rồi chỉ để rã tan lần
nữa lúc chết.
Tất cả chúng sinh chưa giác ngộ
đều có những nỗi sợ hãi, ngay cả khi đã qua ba giai đoạn đầu của chứng ngộ, khi
vẫn còn những dấu vết của ngã. Trong tâm ta, sợ hãi mang nhiều tên và hình
tướng: sợ bóng tối, sợ người lạ, tuổi già, bịnh tật, khủng bố và chiến tranh.
Trong thế giới hình tướng, chúng ta không ngừng đặt tên cho tất cả mọi thứ để
buộc chúng với hình tướng. Chúng ta giới hạn tất cả mọi thứ vào trong không
gian và thời gian, để có thể nắm bắt và hiểu được chúng.
Sau mọi nỗi sợ hãi đều ẩn giấu
sự sợ hãi cái ngã bị tấn công hay bị tiêu diệt, dầu là thân vật chất, tình cảm
hay tâm linh. Bao giờ còn có một cái ngã thì sẽ còn có những nỗi sợ hãi. Sự
chấp ngã điên rồ càng mạnh thì nỗi sợ hãi càng lớn hơn và cuộc sống của người
đó càng khốn khổ hơn. Giải thoát khỏi sự sợ hãi chỉ đến khi chúng ta đã được
giải thoát, với sự chứng ngộ được tánh không.
Ngài xa lìa mọi vọng tưởng điên
đảo, chứng đắc niết bàn trong hiện tại.
Chúng ta phác họa ra bao ý nghĩ
về niết bàn phải như thế nào. Chúng ta huyễn hoặc ra bao phương cách để có thể
xếp đặt một cuộc sống huy hoàng cho bản thân. Chúng ta có những quan điểm về
người và bản thân, và chúng ta tưởng tượng ra thiên đường hay cõi trời với các
thiên thần. Nhưng tất cả những sự tưởng tượng này đều không có căn cứ - một
giấc chiêm bao mà ta chỉ có thể thức tỉnh khi đã chứng ngộ. Tất cả mọi thứ đều
là giả tạm, đến rồi đi, cái này tiếp nối cái kia không dừng dứt. Nếu chúng ta
có thể nghĩ về bao nhiêu người đã từng sống trên trái đất nhỏ bé này, họ đã đến
và đi như thế nào và giờ đến lượt chúng ta - và nếu chúng ta có thể nhớ rằng ta
chỉ ở đây trong chốc lát như thế nào trước khi ta cũng ra đi và nhường chỗ cho
những người khác tiếp nối, và rằng cuối cùng không có ai sẽ nhớ chúng ta thực
sự là như thế nào – ta sẽ thấy rằng ta chỉ là một phần của thế giới giả tạm,
của sự tưởng tượng.
Sự chứng ngộ hoàn toàn thanh
tịnh - vắng bặt tất cả mọi sự tưởng tượng: ‘Không là tất cả, và tất cả là
không’. Đây là sự chấm dứt của mọi mộng ảo. Chúng ta có thể kinh nghiệm được
niết bàn ngay bây giờ, trong chính cuộc sống hiện tại; ta có thể sống trong sự
giải thoát. Đức Phật đã giác ngộ ở tuổi ba mươi lăm, và tiếp tục sống cho đến
khi Ngài được tám mươi trong trạng thái hoàn toàn giải thoát, dùng khả năng của
Ngài để giúp người khác thoát ra khỏi thế giới mê lầm với niềm tin rằng Ngài có
thể giúp những người với ‘một ít bụi trong mắt họ.’
Chư Phật trong ba đời – quá khứ,
hiện tại và tương lai- đều nương theo trí tuệ cùng tột nên chứng được Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.
‘Buddha’ không phải là tên gọi,
đó là một danh hiệu có nghĩa là ‘Đấng Giác Ngộ’, và đã có những vị Phật trước
đó. Siddhartha Gautama, là vị Phật mà giáo lý của người vẫn còn được truyền đạt
đến chúng ta ngày nay, là vị Phật thứ bảy trong chu kỳ vũ trụ tính theo truyền
thống Nguyên Thủy, (hay thứ hai mươi bốn theo truyền thống Đại thừa). Tất cả
các vị Phật, người này tiếp theo người kia, chứng đắc như nhau. Thật vậy, tất
cả những vị giác ngộ đều đi trên một con đường và đạt đến cùng một giác ngộ về
sự thật tuyệt đối.
Đức Phật của thời hiện tại là
người mà giáo lý của Ngài chúng ta nói đến hôm nay. Đức Phật tương lai là người
sẽ được gọi là Di Lặc (Maitreya hay Metteyya trong tiếng Pali), nhưng thời gian
xuất hiện của ngài vẫn còn xa, vì thế chúng ta không nên hy vọng có thể được
sống vào thời của một đức Phật, vì những thời điểm như thế rất hiếm hoi. Chúng
ta được khuyên tốt hơn là dấn thân thực hiện việc đại sự của ta ngay bây giờ,
và thích nghi với hoàn cảnh hiện tại hơn là chờ đợi, hy vọng những điều kiện
tốt hơn trong tương lai. Sự giác ngộ không chỉ có thể có khi đức Phật còn tại
thế, mà còn có thể có được bất cứ lúc nào khi Pháp – những lời dạy còn lưu
truyền hậu thế của Ngài để dẫn dắt chúng ta theo đúng hướng - còn hiện hữu. Pháp
vẫn luôn hiện hữu khi ta còn tìm đến, khám phá ra nó bằng cách đọc hay nghe
Pháp như hôm nay.
Tất cả những ai nương theo trí
tuệ bát nhã đều đạt được giải thoát viên mãn.
Sau khi đã nói tất cả những điều
này, Bồ Tát Avalokitesvara tiếp tục khuyến khích tất cả hãy tự chứng nghiệm trí
tuệ này.
Vì thế tất cả chúng ta hãy nương
theo trí tuệ tột cùng này. Đây là thần chú lớn, là thần chú vô thượng, là thần
chú không gì sánh bằng, dứt trừ hết thảy khổ ách, chân thật không dối, khai mở
trí tuệ cùng tột.
Ngay ở đó, câu tiếp theo, gần
như một thần chú:
Hãy đến, tất cả chúng sanh, hãy
cùng đi đến sự giải thoát cùng tột này, sự giải thoát vĩ đại, vô thượng, đến
Giác ngộ. Đó là tâm trí tuệ bát nhã.
Câu chú bằng tiếng Phạn như sau:
Gate, gate, paragate,
parasamgate, bodhi, svaha. (Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ
đề sa bà ha).
Mà ta có thể dịch sát nghĩa như
sau:
Hãy đi, hãy đi
Hãy đi xa hơn nữa,
Hãy vượt qua chính mình, Để đến
được Giác ngộ.
Những lời này Bồ Tát
Avalokitesvara muốn nhắn gửi đến tất cả chúng sanh; ngài dạy tất cả mọi người
hãy cùng nhau đi đến ‘một sự tự do rộng lớn, một sự tự do vô hạn, đến giác ngộ,
đến tâm trí tuệ bát nhã.’
Tựa kinh, Hrdaya Prajnaparamita
hay ‘tâm trí tuệ bát nhã’ thật khéo chọn, vì nó muốn nói rằng khi đạt được trí
tuệ phải có sự giải thoát của con tim. Trí tuệ là một chứng đắc, nhưng nó cũng
là một cảm giác, vì thế liên quan đến trái tim. Nếu chúng ta chỉ hiểu ngữ văn
kinh một cách lý trí, thì rất khó hiểu, ý nghĩa kinh sẽ vẫn lạ lẫm, huyền bí
cho đến khi ta có thể thực sự cảm nhận chúng trong trái tim ta. Chỉ với cả hai
bộ phận: lý trí và trái tim, chúng ta mới có thể mở lòng ra đón nhận sự giải
thoát khỏi tất cả mọi phân biệt, mọi ảo tưởng, mọi chia rẽ. Và cả mọi phiền
não, vì một khi đã đạt được tánh không, không là gì cả, và có thể trụ trong đó,
thì không có gì còn có thể khiến chúng ta phiền não bằng bất cứ cách nào. Tất
cả mọi sự sợ hãi đều đoạn diệt, vì con đường đã được đi qua. Bất cứ ai đã đi
trên con đường này đều thưa cùng đức Phật hay Xá Lợi Phất, ‘Con đường đã đi,
phận sự đã thành, không còn gì phải làm nữa’.
Khi cảm giác rằng không còn gì
cần phải làm nữa được mở ra, có nghĩa là ta đã đạt được sự an bình, thanh tịnh
thực sự. Đây không phải là sự an tịnh vật lý bề ngoài mà là một cuộc sống nội
tâm an bình, tĩnh lặng; chính đấy là tất cả mọi việc đều đã hoàn thành. Kết
luận này bao gồm tất cả mọi mục đích và trọng điểm của thiền. Nếu chúng ta
không soi việc hành thiền và con đường đạo dưới ánh sáng này, ta sẽ bị dính mắc
và khó có tiến bộ trong việc hành thiền. Trái lại, nếu chúng ta thực sự cố gắng
hành thiền, nếu chúng ta tự nguyện đi theo con đường đạo, chúng ta sẽ trước sau
gì cũng đến được nơi đó. Một sự quán sát tâm sâu sắc sẽ cho ta thấy rằng niềm
ước muốn thầm kín sâu sắc nhất là đạt được được sự thanh tịnh sâu xa, sự tự tại
và hạnh phúc, cùng với sự chấm dứt mọi phiền não - và chỉ trên con đường đạo,
chúng ta mới có thể đạt được những điều này.
Kinh Hrdaya Prajnaparamita không
phải là kim ngôn của đức Phật(3), nhưng đức Phật đã diễn tả cùng một kinh
nghiệm và trí tuệ như thế trong những lời sau:
Có một cõi không có đất hay
nước, không có lửa hay không khí (bốn ‘yếu tố’ căn bản mà từ đó tất cả vạn vật
được hình thành). Không có cõi của không gian vô tận, cũng không có cõi của
thức vô biên (định thứ năm và thứ sáu), không có cõi của không, cũng không có
cõi ở đó chúng ta có thể nói gì về tưởng (định thứ bảy và tám). Thế giới này
cũng không có ở đó, cũng như không có thế giới kia, không có mặt trời cũng
không có mặt trăng. Không có đến, không có đi, không có thường hằng, không có
sinh, cũng không có tử. Niết bàn dựa trên tánh không, không lay chuyển, vượt
trên tất cả mọi tưởng tượng. Đó là sự đoạn diệt của tất cả mọi khổ đau.’ (Udana
viii.1)(4)
Niết bàn tối thượng hơn tất cả
những gì chúng ta có thể tưởng tượng ra; nó không thể nghĩ bàn. Chúng ta do đó
phải buông bỏ mọi suy nghĩ và để làm được thế chúng ta phải sẵn sàng để buông
xả bản thân. Như thế ta mới có thể chứng nghiệm được một thực tế nơi không có
sinh, cũng không có tử, không đến, cũng không đi. Đó là sự chấm dứt của mọi khổ
đau.
1. Phật Ở Trong Lòng, Thích
Thiện Siêu, NXB Tôn Giáo 2003, tr. 392.
2. Ở đây có lẽ Ni Sư Ayya Khema
muốn nói đến Luận sư Long Thọ, là người có công hệ thống hóa các tư tưởng được
nêu lên trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh.
3. Có lẽ vì tác giả theo Phật
giáo Nguyên Thủy nên không coi Bát Nhã Tâm Kinh là do Phật thuyết.
4. Udana (Ưu-đà-na): Tự thuyết
(một phần trong Tiểu Bộ Kinh).