Chương 4.
Lỗi của người
“Nếu ta thấy được lỗi người
Tâm ta
nóng giận tức thời dễ sinh
Tăng
thêm phiền não thật nhanh
Xa lìa
an tịnh, quẩn quanh muộn sầu,
Lỗi
người chẳng để tâm lâu
Còn chi sầu
muộn, còn đâu não phiền.”
Dhammapada stanza 253
Kinh Pháp Cú -Câu 253(1)
Hai câu kệ từ kinh Pháp Cú được nói đến ở đây có tính cách
phổ quát thích hợp cho tất cả, và có thể giúp phát sinh các trí tuệ đáng kể.
Trước hết là câu kệ:
“Dễ thay thấy lỗi người
Lỗi mình
mới khó thấy
Lỗi
người ta phanh tìm
Như sàng
trấu trong gạo
Còn lỗi
mình che đậy
Như kẻ
gian dấu bài.”
Ở đây, khuynh hướng che dấu lỗi
lầm của chúng ta cũng giống như một thủ đoạn lừa đảo, vì chính thật là ta không
thành thật với bản thân. Tuy nhiên, chấp nhận con người thật của mình rất khó,
nhất là khi nói về lỗi lầm của mình, vì sự đánh giá bản thân của ta luôn sai
lạc - hoặc là quá cao hay quá thấp. Phương cách tốt nhất để có được một cái
nhìn rõ ràng và thực tế về bản thân là tự soi xét mình với chánh niệm.
Thấy lỗi của người thật không
khó vì chúng thường làm ta khó chịu, và trong trạng thái tâm tiêu cực này ta
cho rằng những gì ta nghĩ là đúng và ta có quyền phán đoán người. Đó là lý do
khiến chúng ta phê bình hấp tấp, rồi quên rằng những suy nghĩ của mình chỉ dựa
trên ý kiến riêng của chính mình, nên không thể nào hoàn toàn khách quan. Ở một
mức độ nào đó, tất cả các quan điểm của chúng ta đều sai lạc, vì chúng khởi
nguồn từ ảo tưởng về bản ngã của ta: ‘Tôi có, tôi muốn, tôi sẽ, tôi tin rằng,
tôi biết, tôi nghĩ.’ Những quan điểm của chúng ta có thể đúng một cách tương
đối, nhưng chân lý tương đối không bao giờ đủ để khiến ta hoàn toàn thỏa mãn,
vì cuối cùng thì nó cũng chỉ thể hiện sự thật của một bản ngã đối chọi với một
bản ngã khác. Một người tin thế này, người khác tin thế kia; người làm cách
này, người khác làm cách hoàn toàn ngược lại. Chân lý xây dựng từ ý niệm của
một bản ngã không thể nào là chân lý tuyệt đối và hoàn toàn. Nhiều lắm, nó chỉ
thể hiện sự lựa chọn của cá nhân. Chân lý tương đối không thể nào hơn thế được.
Nhìn từ quan niệm chân lý tuyệt
đối thì hoàn toàn khác. Từ góc nhìn này, chúng ta bắt đầu ý thức được rằng lỗi
của người mà ta quan tâm đến cũng cần được nhìn thấy nơi ta. Lỗi của người là
phản ảnh của lỗi nơi ta, nếu không ta đã không thể nhận biết chúng. Khi thấy ai
giận dữ hay khoe khoang, chúng ta nhận ra những khuyết điểm này từ kinh nghiệm
của bản thân. Chúng ta biết những cảm xúc này từ đâu đến và tác động của chúng
như thế nào. Tương tự, người ta nói chỉ có Phật mới nhận ra Phật, vì chỉ có
Đấng Giác Ngộ mới biết được sự giác ngộ.
Khi chúng ta ý thức rằng mình
đang phê bình người khác, chúng ta cần ngay tức khắc biết mình sai rồi. Những
lời chỉ trích của chúng ta sẽ không có lợi ích gì; suy cho cùng, có ai đã sửa
đổi khi bị bới móc đâu? Nói xấu người khác luôn có hại, phần lớn là cho mình.
Chúng ta biết người khác cũng có thể khó chịu với ta, và nếu ta phản ứng bằng
sự giận dữ, hờn oán, thì ta có thể rơi vào vòng sân hận dữ dội hơn bao giờ hết,
và có thể mất một người bạn.
Vậy thì chỉ trích không có lợi -
nhưng nhận lỗi thì trái lại. Ví dụ, nếu chúng ta thấy một người nào đó không có
chánh niệm, thái độ đúng đắn sẽ là: “Tôi tự hỏi không biết lúc này tôi đang
chánh niệm thế nào?” Đó là phản ứng đáng kể duy nhất. Nếu chúng ta quan sát
thấy một ai đó lầm lỗi, và muốn chỉ trích, ta nên tự nhắc mình là phê bình
người khác sẽ có hại cho mình.
Khi để cho sự phê bình, chỉ
trích lập đi lập lại và trở thành một thói quen, chúng ta đã khắc sâu những nếp
tiêu cực vào bên trong. Chắc là trong chúng ta ai cũng biết một người nào đó có
tánh hay phê bình, chỉ trích, và khi nghe họ nói chuyện thì thật là bực mình.
Vì vậy, chúng ta phải cẩn thận trong việc chỉ trích, và tránh tạo thói quen xấu
nơi kẻ khác. Chúng ta cũng nên ý thức rằng, cứ mỗi khi chỉ trích ai, chúng ta
dần dần tạo cho mình một thói quen xấu.
Ngược lại, nếu nhân cơ hội đó
chúng ta quan sát chính xác điều gì đang xảy ra với người khác, chúng ta có thể
sử dụng sự nhận xét về các hành vi của họ như một tấm gương cho bản thân. Đây
là một tấm gương rất giá trị, vì tuy rằng nó không thể cho ta thấy hình dáng
thể chất của mình, nó có thể giúp ta dấn thân vào một nhiệm vụ khó khăn hơn
nhiều của việc tự biết mình. Trách vụ này khó không những vì chúng ta thiếu
nhận thức, nhưng chính là vì chúng ta thích như vậy - chúng ta thường không
muốn biết sự thật; chúng ta lo lắng tìm cách lẩn tránh nó vì chúng ta sợ sự
thật sẽ làm ta đau lòng.
Hai trong số tám hiện tượng phổ
quát được nhắc đến ở đây: khen và chê trách. Bận tâm để được khen và tránh bị
chê trách rõ ràng là hơi lố bịch, nhưng chúng ta chưa bao giờ thật sự ý thức
được điều đó. Thêm nữa, hai điều này chính là lý do khiến chúng ta miễn cưỡng
trong việc tự hiểu mình: chúng ta sợ sẽ tìm ra những điều về bản thân mà ta có
thể phải chịu sự chê trách. Chúng ta vẫn thích mang vải che mắt và tránh cái
nhìn toàn diện về bản thân.
Sự sợ bị khiển trách có thể được
giải quyết bằng công thức ‘chấp nhận, không trách móc, sửa đổi’. Bước đầu tiên
là ý thức được sự sợ bị khiển trách, sợ sự bất đồng ý kiến, thiếu hỗ trợ, và sợ
không được quý trọng.
Gốc rễ của tất cả mọi nỗi sợ hãi
là sợ không hiện hữu. Sự sợ hãi này ẩn chứa trong tiềm thức của mỗi người chúng
ta, và nó có thể dấy lên trong cơn hoảng hốt chỉ vì chúng ta không muốn chịu sự
khiển trách. Ngược lại, chúng ta luôn sẵn sàng trách người khác, với lòng tin
rằng điều đó không làm hại đến mình. Nhưng chúng ta đã lầm; vì để cho tiêu cực
chế ngự, chính ta mới là người đau khổ.
Sự sợ hãi bị khiển trách cũng
giống như sợ chết, hay là sự sợ cho cái tôi, cái tự ngã. Xét cho cùng, đó là sự
sợ hãi không còn được hiện diện trên thế gian này nữa. Dĩ nhiên, khi dự đoán
phải bị trách móc, chúng ta không sợ thực sự bị tan biến đi ngay tại chỗ, mà
chỉ sợ đánh mất sự tự mãn, là điều tùy thuộc nơi sự quý trọng của người.
Việc này rõ ràng thật điên rồ,
nhưng đa số đều hành động như vậy, và có người còn tệ hại hơn, đến độ luôn phải
cố gắng làm hài lòng tất cả mọi người. Nhưng làm sao chúng ta có thể hy vọng
làm được việc này? Trước hết là chúng ta không biết tình cảm hay ước muốn của
người khác như thế nào. Thế nhưng, tuy chúng ta không thể làm hài lòng tất cả,
chúng ta có thể luôn cố gắng làm những gì tốt đẹp nhất.
Trên thực tế chúng ta ai cũng
muốn được xưng tụng, khen ngợi. Mọi việc ta làm đều hướng về mục đích này,
nhưng nếu quá bức xúc với mong muốn này, chúng ta sẽ bị sự sợ hãi chế ngự,
khiến ta không có cái nhìn khách quan. Nói cách khác, chúng ta sợ bị chỉ trích.
Để có thể loại bỏ sự sợ hãi này, chúng ta nên bắt đầu bằng cách tự mình cố gắng
không quá phê phán, vì biết rằng những gì mình làm sẽ quay lại với mình, như vũ
khí săn bắn tên boomerang(2) của người thổ dân châu Úc.
Bước đầu tiên đi đến sự hiểu
biết về luật nhân quả - là những điều có thể quan sát được khắp nơi trong vũ
trụ - không đủ để giúp ta vượt qua tất cả sợ hãi. Bước thứ hai liên hệ đến sự
hiểu biết về bản chất của sự sợ hãi.Trong cuộc truy tìm sự chấp nhận của tha
nhân, chúng ta trở thành nô lệ của môi trường chung quanh mình. Ngày nào môi
trường này còn không được như ý mình, hay không vĩnh viễn làm cho mình cảm thấy
tuyệt vời, thông minh, đẹp đẽ, chúng ta sẽ còn tiếp tục cảm thấy không thoải
mái. Một thái độ như thế sẽ khiến cuộc sống của ta vô cùng khó khăn, và ngăn
trở sự tiến đến việc tự biết mình.
Ngược lại, sự tự biết mình thật
trung thực rất cần thiết để giúp chúng ta buông xả, kể cả buông xả sự lo sợ bị
chê trách. Chúng ta chỉ có thể buông xả những gì tự mình đã nhận thức rốt ráo,
cũng không cần thiết phải hoán chuyển sự sợ hãi bị chê trách thành sự sợ tự
biết mình; việc chúng ta có thể buông xả cái ngã sau khi đã hiểu được nó, không
có nghĩa là ta đã chết. Nó chỉ có nghĩa là sự vị kỷ (self-centred- ness) không
còn là quyền lực tối ưu trong cuộc đời ta. Mọi việc không nhất thiết phải luôn
theo như ý mình. Thay vào đó,
chúng ta dành một khoảng không gian bên trong ta cho những gì thật sự đúng.
Chúng ta rồi sẽ hiểu rằng vì có những uế nhiễm trong mọi khía cạnh của đời sống
hữu lậu, nên sẽ không bao giờ tìm được gì toàn hảo bất kỳ ở nơi đâu.
Chỉ cần nhìn vào khía cạnh của
vô thường: tất cả những gì đến rồi phải qua đi, không có gì là trường cửu. Nếu
chúng ta cố bám víu vào một kỷ niệm nào đó, nó sẽ như cát rơi xuống khỏi lòng
bàn tay ta. Dĩ nhiên, tính chất luôn biến đổi của sự vật đôi khi trở thành lý
do cho sự chê trách, nhất là khi người khác làm cho mình thất vọng vì lỗi hẹn
hay không làm xong việc ta giao phó.
Không ai lại đi chỉ trích một
ngôi sao trong bầu trời khi nó trở thành một sao băng sáng rực rồi tan biến đi
- chúng ta biết trách móc như thế thật là vô nghĩa vì nó chỉ là một hiện tượng
thiên nhiên. Nhưng trong thực tế đây là bản chất thật sự của vạn vật, nên khi
ta than phiền về tính biến thiên của tất cả mọi thứ khác trong vũ trụ thì cũng
vô nghĩa như vậy. Tất cả những hiện hữu có điều kiện đều không toàn hảo.
Đây là lý do tại sao chúng ta
nên nhìn lại mình mà không sợ hãi, và xét xem những gì chúng ta không thích ở
người. Chúng ta không thích thói xấu của họ? Ta nên tự xét lại các thói xấu của
mình. Ta không thích tính luôn muốn được chú ý tới của họ? Có thể ta cũng muốn
là trung tâm của vũ trụ? Bằng cách này, chúng ta sẽ ngày càng biết rõ mình hơn.
Tất cả chúng ta đều biết những
nỗi sợ hãi luôn dấy khởi, khi thử trắc nghiệm như sau: ‘Có lẽ mình không phải
là người tốt như mình nghĩ - và nếu mình không được tốt như vậy, người khác sẽ
chê trách mình.’ Tôi gọi đây là ‘lối suy tư hướng về kết quả’; chúng ta thấy
rất sợ hãi vì sự đe dọa này, như là bị roi quất vào người, khiến thân xác đau
đớn. Chúng ta muốn rằng mọi việc phải thật đúng, thật toàn hảo. Nhưng ta muốn
điều gì hoàn hảo chứ? Trong vũ trụ này, vạn vật tiến hành theo lề lối riêng của
nó, và cứ liên tục như vậy. Sông chảy, nếu ta ngăn chúng lại sẽ gây ra lũ lụt.
Cuộc sống tiếp diễn, khi ngày này hết thì một ngày mới lại bắt đầu. Tại sao
chúng ta không đặt mình vào dòng luân lưu của vạn vật, và hãy thôi nghĩ đến
việc phải mang vào dòng luân lưu này tất cả những gì toàn hảo?
Điều này có thể áp dụng trong
việc hành thiền cũng như với bất cứ chuyện gì khác. Dầu ta có thể đang ngồi
lặng yên trên gối thiền, không bị ai nói gì hay phê phán gì, nhưng ta vẫn đang
tạo áp lực cho bản thân, khiến trở ngại việc hành thiền. Nếu nghĩ rằng việc
hành thiền phải toàn hảo thì chúng ta sẽ không thể thiền quán mà luôn đương đầu
với lo âu.
Thật là vô ích khi mong muốn làm
tất cả mọi việc toàn hảo; chúng ta chỉ có thể cố gắng làm hết sức mình. Chúng
ta cũng sẽ vui hơn nếu bỏ được ước muốn được người khác biết ơn. Dĩ nhiên, nếu
có ai tỏ lòng biết ơn, cảm kích, hay hoan hỷ vì những gì mình đã làm, thì đó
cũng là điều tốt, nhưng là tốt cho họ.
Chúng ta nên nhớ rằng mình cũng
luôn thay đổi. Năng lượng và năng lực của chúng ta lên xuống liên tục. Điều này
cũng đúng trong việc hành thiền. Đôi khi tâm trí ta có thể tập trung rất nhanh;
những lúc khác, có thể vì phải gạn bỏ quá nhiều tư tưởng nên phải mất cả giờ
đồng hồ mới tìm được sự tĩnh lặng. Khả năng tập trung hay phân tán tư tưởng này
thường do ta liên tưởng đến ‘cái ngã’ - ta tự gây ra cho mình - nhưng tại sao
ta cảm thấy cần thiết phải làm vậy? Tất cả cũng vì tâm ta không ngừng thay đổi.
Nếu chúng ta có thể thấy mọi thứ
biến chuyển trong ta như thế nào thì ta sẽ có thể kết luận ở người cũng thế.
Nếu ai đó cư xử không phải phép, chúng ta phải mừng rằng họ sẽ thay đổi, hy
vọng là tốt hơn. Vậy thì, càng chánh niệm về lẽ vô thường - nhất là sự vô thường
của những hành động xấu - chúng ta sẽ thấy dễ buông bỏ tánh vạch lá tìm sâu,
tìm lỗi của người nữa.
Như chúng ta đã thấy, những gì
ta chê trách nhất ở người là những tính cách ta cũng ít thích nhất nơi bản
thân. Chúng ta cũng đã thấy rằng nếu thỉnh thoảng ta bỏ thì giờ để quán sát,
tìm hiểu các thói xấu này, ta có thể nỗ lực khắc phục được chúng. Tuy nhiên,
trong tiến trình này, chúng ta có thể phải chịu sự chỉ trích khắt khe, vì trong
lúc những hành vi ta đang quan sát có thể giống hành vi của ta, người mà ta
đang chỉ trích có thể không nỗ lực để cải thiện chúng như ta. Một thái độ như
vậy tạo ra rất nhiều va chạm trong sự liên hệ giữa người với người; điều này
không nhất thiết được biểu lộ ra ngoài, dầu vậy ta vẫn chất chứa cảm giác không
tán thành, chống đối. Chúng ta nên luôn luôn cố gắng chấp nhận tha nhân, và cố
kiềm chế sự phê bình họ. Điều này cũng ứng dụng với chính mình nữa. Chúng ta
không nên bắt bẻ, bới móc lỗi người, mà hãy luôn tự nhắc mình nhớ đến công
thức, ‘Chấp nhận, không trách móc, sửa đổi.’
Trong phần đầu - soi thấu rõ
được bản thân - là phần khó nhất. Phần thứ hai - không trách móc - cũng không
dễ thực hiện, vì tâm ta tự động có phản ứng tiêu cực đối với bất cứ cảm giác
khó chịu nào. Tất cả những gì chúng ta không thích về mình - tất cả những gì ta
không thể chấp nhận và muốn thay đổi - tạo ra những cảm giác khó chịu và tự
trách, rồi con đường đi đến tự giác có thể biến mất khỏi tầm nhìn.
Sự thấu hiểu về vô thường giúp
ta dễ dàng quán chiếu bản thân. Khi đã rõ rằng mọi vật ta đang thấy trước mắt
biến mất đi ngay lúc đó, thì việc tránh không tự trách mình sẽ trở nên dễ dàng
hơn. Tất cả mọi vật đến, sẽ đi và không trở lại nữa - và không có gì đến sau đó
sẽ giống như cái đến trước, dù chúng có vẻ giống nhau đến đâu. Bằng cách quán
sát vô thường như thế, ta có thể bắt đầu sẵn sàng chấp nhận bản thân và tha
nhân hơn.
Nhận thức được bản chất thật sự
của những gì mà ta chê trách ở người giúp ta có cái nhìn mới mẻ về bản thân.
Chúng ta dứt bỏ được những gì làm mình khó chịu không phải bằng cách quay lưng
lại với người có các lỗi này, nhưng bằng cách không còn bắt người khác chịu
trách nhiệm vì họ không như ý ta muốn.
Trong tiến trình này chúng ta có
thể nhận thức được cả vô thường và khổ đau. Ý thức được rằng khổ đau đến từ
chính những phản ứng tiêu cực của mình, trong đó có cả sự sợ bị chỉ trích, sẽ
giúp ta dễ kiềm chế việc phê bình tha nhân. Chúng ta có thể thấy rõ rằng hầu
như mọi người đều biết nỗi bất an do không được ủng hộ, chấp nhận, và rằng sự
lệ thuộc nơi người khác thật vô cùng khó chịu.
Làm sao chúng ta biết người khác
nhận xét về mình có đúng không? Chúng ta có bao giờ thức tỉnh để biết rằng tất
cả đều bị kẹt trong cái bẫy ảo tưởng khiến không thể nào ta có được một quan
điểm thật sự khách quan? Ảo tưởng đó là tất cả chúng ta đều là những cá thể
riêng biệt và rằng nếu đủ khôn ngoan để sắp xếp mọi thứ đúng cách, ta có thể có
những sự dễ chịu riêng.
Tất cả mọi người đều sống với ảo
tưởng này, khiến họ khao khát hiện hữu và lo sợ bị hủy diệt. Vậy thì làm thế
nào để người khác xác nhận sự hiện hữu của chúng ta? Mọi sự sợ hãi phản ảnh nỗi
sợ hãi bị hủy diệt. Sự sợ hãi không chỉ giới hạn trong sự sợ cho sự hiện hữu
của thân xác, mà bao gồm cả sự hiện hữu của cảm xúc, sự xác định của bản ngã.
Nhưng nếu ý thức được sự sợ hãi này, chúng ta cũng có thể phát triển một sự cảm
thông sâu sắc đối với tha nhân, vì tất cả nhân loại đều khát khao sinh tồn
khiến phát sinh nỗi khổ đau lớn lao nhất.
Nỗi sợ hãi với gốc rễ đã ăn sâu
này làm cho con người không thể hoàn toàn được mãn nguyện, và một khi đã hiểu
được sự tương quan này, chúng ta sẽ không còn đi tìm sự mãn nguyện một cách sai
lầm nữa. Thay vào đó, chúng ta sẽ cố gắng chuyển hóa những khó khăn của kiếp
con người do ngã tưởng gây ra. Tuy nhiên, trước hết chúng ta phải nhận diện
được nỗi lo sợ của việc tự soi xét một cách chân thực, cùng với nỗi lo sợ bị
người khác chê trách, và ý muốn chỉ trích lại, tất cả là do sự thúc đẩy của nhu
cầu muốn tâng bốc tự ngã. Khi kết tội người khác, ta cảm thấy dễ chịu hơn. Nếu
chấp nhận rằng tất cả chúng ta ai cũng có khiếm khuyết, thì ta tiến gần đến sự
thật hơn.
Nhận thức này đưa ta tiến xa hơn
đến sự hiểu biết về những thiếu sót cơ bản của sự hiện hữu ở cõi nhân sinh hữu
lậu này. Chỉ khi nào chúng ta ý thức được sự khiếm khuyết này thì ta mới cảm
thấy thôi thúc phải vượt lên trên cõi này - dĩ nhiên không nói về thể chất,
nhưng trong ý nghĩa để buông bỏ được ngã tưởng. Những khó khăn chúng ta đã vượt
qua sẽ không còn quấy nhiễu ta nữa, và chúng ta sẽ đạt được tri kiến về những
vấn đề khác đang còn gây khó khăn cho ta. Chúng ta sẽ có thể thấy là mình chưa
chuyển đổi được các vấn đề khi chúng vẫn còn phiền nhiễu ta. Chẳng hạn như, khi
đọc những tin tức không hay và ngay lập tức cảm thấy lòng ta đầy bực tức, ta có
thể tự biết rằng mình chưa bỏ hết được những tham lam, sân hận của mình. Thế
giới vẫn còn đầy bao biến động, nhưng bực bội, kết tội chỉ cho thấy là sân hận
vẫn còn đầy trong ta.
Chúng ta sinh ra với sáu gốc rễ
- ba rễ tốt và ba rễ xấu - thế nên việc lên án bản thân hay tha nhân thật là vô
ích. Vấn đề là nhận thức được bản chất của những gốc rễ này, và tự nguyện hỗ
trợ cho những rễ tốt phát triển, đồng thời làm giảm bớt các rễ xấu.
Dĩ nhiên, các gốc rễ xấu là
tham, sân, và si (vô minh trong ý nghĩa về ngã tưởng). Những đối nghịch của
chúng cũng rất quen thuộc với chúng ta. Nếu chúng ta có thể thấy ba gốc rễ
thiện - bố thí, tình yêu thương vô điều kiện, và trí tuệ - nơi tha nhân, thì ta
có thể kết luận rằng chúng cũng có mặt trong ta. Thực ra, chúng ta biết rất rõ
ràng phải thực hành khi nào, ở đâu và như thế nào. Ngôn từ và giới luật, tự
chúng, không bao giờ đủ cả, nhưng ta đã có đủ trí tuệ trong ta để cảm nhận được
sự thật khi nghe đến nó, và biết có thể tìm được nó ở đâu.
“Ai thấy lỗi của người
Thường
sanh lòng chỉ trích
Người ấy
lậu hoặc tăng
Rất xa
lậu hoặc diệt” (2)
‘Dứt bỏ tham muốn’ là một cụm từ
khác để chỉ sự hoàn toàn thanh lọc. Có nghĩa là tham sân không còn có mặt, và
khi chúng đã bị hủy diệt thì ta đã đến rất gần với sự giác ngộ hoàn toàn. Cho
đến lúc đó, theo những lời Đức Phật dạy rất rõ ràng này, chúng ta cần phải nỗ
lực luyện tâm, vì khi nào chúng ta còn chê trách, chúng ta sẽ không ý thức được
những động cơ thật sự của mình và không thể sửa đổi chúng.
Các động cơ này chính là hai cội
rễ của tham và sân. Cả hai khởi nguồn từ vô minh, tăm tối, từ ảo tưởng đưa ta
đến việc tin rằng thật sự có ‘một ai đó’. Nói một cách tương đối, rõ ràng là
chúng ta đang ngồi đây trên gối thiền, nhưng dựa trên chân lý tuyệt đối thì
hoàn toàn khác. Khi ta còn sống theo chân lý tương đối, khi ‘tôi’ hiện hữu
trong tương quan với ‘anh’, chúng ta tự thấy mình tách biệt với tha nhân, nên
muốn tự bảo vệ bằng cách xây những bức tường quanh mình. Chúng ta dựa vào những
động cơ này để làm như vậy, và bất cứ khi nào chúng ta còn tiêu cực, thì các
động cơ này càng thêm cường độ.
Đây là lý do khiến cho việc luôn
quan sát một cách chánh niệm các phản ứng tình cảm của mình trở thành rất quan
trọng - giữ chánh niệm về chúng không ngừng, khi chúng xảy ra, ngay cả khi ta
không thể buông bỏ được chúng. Một khi ta đã nhận biết được các phản ứng này, ta
cũng nhận thấy chúng gây ra bao bồn chồn, và do đó rất độc hại cho sự an tĩnh
mà ta cần có để hành thiền. Trong đời sống hằng ngày, thật không dễ gì thấy
được sự khác biệt giữa một tâm tĩnh lặng và một tâm lăng xăng, nhưng khi hành
thiền qua một thời gian, sự khác biệt này sẽ rõ ràng hơn. Ta sẽ thấy rằng những
phản ứng của ta không chỉ gồm có chỉ trích mà thôi; gốc rễ của chúng có thể
được truy trở về từ tham ái, sân hận, và từ sự sợ hãi.
Theo đức Phật, dục vọng của ta
tăng lên khi ta thấy lỗi của người, và tự cho phép mình có những phản ứng tiêu
cực, vì điều này củng cố thêm tâm phân biệt của chúng ta, và tâm này càng làm
cho ngã tưởng thêm sâu dày. Ngược lại, các mối liên hệ của ta với người cũng có
thể giúp ta có được sự hiểu biết sâu sắc hơn, nếu ta ý thức rằng tha nhân cũng
phải tuân theo luật vô thường, khổ đau, và bất như ý như bản thân ta. Thực ra,
chúng ta nên xem các tương quan với người như là những cơ hội để tu tập, và nếu
biết sử dụng chúng, ta sẽ được những lợi lạc từ một hệ thống giáo dục hàng đầu.
Thật vậy, chúng ta có thể xem toàn bộ cuộc đời của mình là một cơ hội học hỏi
liên tục. Tất cả các mối liên hệ có thể là phương tiện để huấn luyện chúng ta
trong tình thương yêu, bi mẫn, và là một cơ hội tuyệt hảo để hiểu biết về bản
thân.
Nếu chúng ta xua đuổi hay trách
móc ai, tâm chúng ta sẽ không an. Ngay khi ta vừa buông bỏ cái cảm giác của sự
khắt khe, niềm an lạc trở lại với tâm. Buông xả thật không dễ, nhưng có nhiều
sự hiểu biết nhỏ có thể giúp ta trên con đường tiến đến đó, ví dụ như, sự hiểu
biết rằng chính ta đã tạo ra sự bất an này, và rằng chính nó làm hại ta.
Nếu tiếp tục suy gẫm về vô
thường và khổ, chúng ta sẽ bắt đầu hiểu rằng cả vũ trụ đều phải tuân theo
chúng. Tất cả mọi vật đều ở trong tiến trình phân hủy không ngừng nghỉ, hoại diệt,
rồi lại tái tạo. Chính vì sự chuyển động không ngừng của mọi vật mà không có gì
có thể hoàn toàn vừa ý cả. Một khi nhận thức được lý vô thường trong mọi vật,
chúng ta sẽ không còn khổ đau vì nó. Xét cho cùng, chúng ta chỉ là một trong
cộng đồng của sáu tỉ người, mà mỗi chúng ta ai cũng bị luật vô thường chi phối.
Chúng ta có thể áp dụng những
nguyên tắc tổng quát của vô thường và khổ cho bất cứ tình huống nào. Đây là
bước kế tiếp trên con đường dẫn đến sự tỉnh thức, và ta phải quan sát những
tính chất này trong tất cả mọi vật quanh ta. Chúng ta rồi sẽ thấy không có gì
là hoàn toàn như ý, và tất cả là vô thường. Khi quán sát như thế, không thể có
ngoại lệ nào. Tất cả phải được kể đến. Chúng ta không thể nói, ‘Tôi đã kinh qua
khổ đau, nhưng người làm tôi quá đau khổ thì chẳng ra gì.’ Thật ra, người đó
cũng chiêm nghiệm khổ đau nhiều như ta. Cứ thế dần dần, bằng cách này, chúng ta
phát triển một cảm giác là cuộc đời là một tổng thể, không chỉ gồm những hiện
tượng cá thể.
Mỗi khi chúng ta phản ứng bằng
sự sợ hãi, tổng số sợ hãi trong đời sống tăng lên. Mỗi khi chúng ta chất chứa
uế nhiễm, không hằng thuận, hay trách móc, toàn thể tổng số của uế nhiễm tăng
lên. Trái lại, nếu chúng ta hiểu vô thường và khổ, sự hiểu biết này làm tăng
thêm toàn thể tổng số trí tuệ thế gian. Nếu chúng ta thấy rõ rằng mỗi cá nhân
mang một trách nhiệm cho tổng thể, chúng ta sẽ sẵn sàng hơn để trụ ở tầng mức
nơi ta không còn thấy sự phân biệt giữa mọi vật.
Mỗi việc làm tốt góp thêm cái
thiện cho cuộc đời, vì chúng ta là cuộc đời. Cảm xúc, tư tưởng, ngôn từ, và
hành động của chúng ta là yếu tố cấu tạo nên thế giới này. Trên căn bản này,
thật là thiển cận khi chỉ trích hay phê bình, vì làm như vậy là đã quên đi
những đặc tính căn bản hay ‘những dấu hiệu’ của sự hiện hữu, đó là vô thường,
vô ngã, và khổ. Chúng ta hành thiền càng lâu, và càng thâm nhập, suy gẫm sâu xa
hơn về những sự thật phổ quát của Pháp, chúng ta càng thấy dễ chánh niệm hơn về
những đặc tính này của sự hiện hữu, và dễ áp dụng chúng vào đời sống hằng ngày.
Dựa trên chân lý tuyệt đối,
không có những thực thể tách biệt, tất cả mọi vật là do duyên khởi, nhưng trên
bình diện tương đối mọi người đều mang trách nhiệm phải phát khởi điều thiện.
Sợ hãi là một đặc tính có thể truy nguyên từ lòng tham muốn được là những cá
thể với bản chất cố định, biệt lập, và muốn có một đời sống luôn vừa ý mình. Cả
hai tham muốn này đều không thực tế: chúng ta không thể nào sống mãi trong cuộc
đời này và mọi việc không thể nào luôn luôn được như ý mình muốn, do đó sợ hãi
phát sinh từ cả hai mục tiêu đó và làm cản trở con đường của chúng ta. Sợ hãi
có thể là một cảm xúc rất mãnh liệt. Có câu nói rằng ‘sự sợ chết còn tệ hại hơn
cái chết’. Tương tự, một cảm xúc như thế làm mất khả năng duy trì sự tỉnh thức
trong ta. Hầu như mọi thiền sinh đều biết rằng sợ hãi có thể phát sinh trong
lúc đang tập trung tư tưởng, khi đột nhiên cảm nhận về bản ngã của họ tạm thời
vắng bóng.
Một khi chúng ta đã chế ngự được
sự sợ hãi này, bước kế đến là ý thức rằng chúng ta đang theo đuổi điều không
tưởng. Rồi thì điều mơ ước, hay đúng ra là sự thôi thúc, được vượt lên mức độ
hiện hữu của con người phàm phu này sẽ phát triển. Sự sợ hãi phát sinh trong
tiến trình này cần được từ bỏ, không phải chỉ một mà nhiều lần, bất cứ khi nào
ta có cảm giác là bản ngã của mình bị đe dọa. Căn bản sự sợ hãi này cũng giống
như khi ta bị trách cứ, hay bị khước từ cái bản ngã mà ta khát khao. Có nhiều
tên khác nhau cho sự sợ hãi, nhưng căn bản đó là sự sợ hãi không được hiện hữu.
Thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất
cho thói tìm lỗi của ta và tha nhân là sự chứng nghiệm được sự thật về vô
thường và khổ. Tự bảo mình: ‘Tôi không nên tìm lỗi’, thật sự không đủ. Chúng ta
có lẽ đã biết điều này lâu lắm rồi. Điều khó khăn là chúng ta thường hay bị lôi
cuốn vào những gì chúng ta nên tránh xa. Nói đến điều này, có lẽ chỉ có thái độ
dấn thân với trí tuệ, mục tiêu chính của việc hành thiền, mới có thể giúp được
ta.
Thiền được coi như là phương
cách giúp chúng ta chiêm nghiệm bản thân một cách sâu sắc hơn, và đó là lý do
tại sao thiền định cần được hỗ trợ bằng sự trầm tư, quán chiếu, để làm tăng
trưởng sự tự biết mình: Chúng ta đã nuôi dưỡng sự sợ hãi trong ta đến mức độ
nào? Chúng ta sợ đánh mất mình đến đâu? Tự soi xét như vậy đưa ta đến gần hơn
với sự thật. Vấn đề quan trọng ở đây không phải là chúng ta có thể buông xả sự
sợ hãi ngay tức khắc hay không, mà là chúng ta có thể đạt được những hiểu biết
mới mẻ qua sự tự quán chiếu.
Chúng ta có thể học nhiều điều
từ lỗi lầm của người. Nhưng trên hết, chúng ta có thể hiểu được rất nhiều về
bản thân; khi được như vậy, chúng ta sẽ cảm thấy tương quan, đoàn kết với
người, như thể họ là anh chị em của mình. Trái lại, khi nào chúng ta còn tự
tách biệt và quá chú trọng đến những sự khác biệt cá nhân, thì lòng tham, sân
sẽ càng lớn mạnh thêm.
1. Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Tâm
Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thơ, Diệu Phương xuất bản 2003.
2.
Dụng cụ bằng gỗ của thổ dân Úc, có nhiều hình dáng, kích cỡ, sử dụng cho nhiều
mục đích. Có đặc tính là khi vứt đúng cách, nó sẽ quay trở lại hướng người vứt.