Chương 5.
Hai loại tài sản
Bấy giờ Ugga, vị đại thần của vua đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Ugga,
vị đại Thần của Vua, bạch Thế Tôn.
- Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Giàu có đến như vậy, đại phú đến như vậy,
tài sản nhiều đến như vậy, bạch Thế Tôn, là Migara Rohaneyyo!
- Này Ugga, Migara Rohaneyyo
giàu có đến mức nào, đại phú đến mức nào, tài sản nhiều đến mức nào?
- Bạch Thế Tôn, về vàng có đến
trăm trăm ngàn, còn nói gì về bạc!
- Này Ugga, đây có thể là tài
sản chăng? Không phải Ta nói rằng đây không phải là tài sản. Nhưng tài sản ấy
bị chi phối bởi lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch. Có bảy
tài sản, này Ugga không bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, kẻ thừa tự, thù địch
chi phối. Thế nào là bảy? Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí
tài, tuệ tài. Bảy loại tài sản này, này Ugga, không bị lửa, nước, vua chúa, ăn
trộm, các kẻ thừa tự, thù địch chi phối.
Tăng Chi Bộ VII.7(1)
(Anguttara-Nikaya Vii.7)
Bài giảng ‘Hai Loại Tài Sản’
trích từ Tăng Chi Bộ kinh, cái ‘Giỏ của Những Lời Phật Dạy Tiệm Tiến’ (Basket
of Gradual Sayings) hay ‘Sưu Tập của Những Bài Giảng Có Đánh Số’. Các kinh (sutta)
trong Tăng Chi Bộ được tập họp thành nhóm căn cứ theo số đề mục được nói đến,
nên trong quyển đầu tiên tất cả bài giảng nói về một vấn đề, quyển hai hai vấn
đề và liên tục như thế. Bài giảng này nói về bảy khía cạnh của một vấn đề, đặc
biệt liên hệ đến chúng ta vì nó cho ta thấy sự khác biệt giữa đời sống thế tục
và đời sống tâm linh, phân tích rõ rệt hai chiều hướng mà ta có thể chọn lựa
trong đời sống, và hai loại tài sản mà ta có thể tích lũy. Không có nghĩa rằng
ta phải coi thường một trong hai loại tài sản này. Vì coi thường, trước hết, là
một thái độ tiêu cực. Thêm nữa, cho là cuộc sống đời thường mất hết mọi giá trị
một khi chúng ta đã bước vào con đường phát triển tâm linh là một quan niệm sai
lầm vô cùng nguy hại; chúng ta vẫn còn phải phụ thuộc vào cuộc sống để có
phương tiện tiếp tục tu tập.
Tất cả các tôn giáo đều nhắc nhở
chúng ta rằng mọi của cải vật chất mà ta có được ở trên đời sẽ mất đi, và phần
lớn chúng ta tự trong tiềm thức vẫn biết điều này, nhưng lại hay quên nó đi khi
ta bắt đầu tích lũy tài sản thế tục. Những nguy cơ mà Đức Phật nói đến vẫn luôn
ở quanh ta, tuy đôi lúc thể hiện dưới những hình thức khác nhau: thay vì các
vua chúa, chúng ta phải đóng thuế cho chính phủ, cộng với công ăn việc làm bấp
bênh, trong khi nạn trộm cắp lúc nào cũng có, và nước, lửa, thiên tai cùng các
tai ương do con người tạo ra luôn đe dọa chúng ta.
Một trong nhiều nỗi lo sợ mà tất
cả mọi người phải đối mặt dầu nhiều hay ít là sự sợ mất mát các sở hữu vật chất
của mình. Người ta tự hỏi, ‘Điều gì sẽ xảy ra khi tôi già?’ hay ‘Tình trạng
kinh tế có vẻ ngày càng tệ hại hơn - chừng nào mới hết đây?’ Sự bất an trong
tâm do những nỗi sợ hãi này gây ra khó thể chế ngự được cho đến khi chúng ta
nhận thức được rằng tài sản nội tâm giá trị nhiều hơn bất cứ những gì ta đang
sợ mất – và rằng những lợi lạc ở bên ngoài cũng sẽ tự động theo sau một khi ta
đã có được một tài sản tâm linh. Nhưng ít người tin điều này; họ không có sự tự
tin sâu sắc mà tín tâm đòi hỏi.
Phần đông chúng ta dựa vào của
cải bên ngoài - những sở hữu vật chất như là tài sản và tiền bạc – và sự lo sợ
mất mát khiến chúng ta càng tích lũy nhiều hơn nữa. Ít khi chúng ta giới hạn
những điều mình tham cầu, hay nghĩ rằng mình đã có đủ. Giới hạn thường là do
các yếu tố bên ngoài định đoạt. Hoặc là vì chúng ta không thể kiếm thêm được
nữa hay do ta đã lực cùng sức kiệt, hay bị bế tắc vì những yếu tố khác. Khi còn
có khả năng, tư duy, vọng tưởng, chúng ta luôn nghĩ là mình thiếu thốn. Rất
hiếm khi có người được thừa hưởng một gia tài vật chất lớn. Và ngay cả trong
trường hợp này, người thừa hưởng gia tài cũng phải cố gắng để gìn giữ các ân
huệ và tài sản thừa tự được – cho nên bài pháp cũng cảnh giác rằng người thừa
tự có thể phung phí, làm tiêu tan tài sản. Để có thể hưởng của cải một cách
thích đáng cũng cần phải có sự nỗ lực.
Migāra được nhắc đến một vài lần
trong tạng kinh Pali. Ông sinh trưởng trong một gia - đình khá giả, được thừa
hưởng gia tài do ông nội, là Rohana, tích lũy được. Đức Phật không phủ nhận đây
là một gia tài. Ngài không nói, ‘Tài sản vật chất là xấu.’ Nhưng Ngài chỉ rõ
rằng tài sản ấy không bền vững và không đáng tin cậy. Nếu người có một gia sản
lớn và biết sử dụng nó một cách khôn ngoan thì tất cả đều tốt đẹp, nhưng chúng
ta biết có một tài sản dành cho chúng ta còn quý báu hơn nhiều, mang lại hạnh
phúc chân thật, không lệ thuộc vào của cải vật chất, mà lệ thuộc vào đời sống
nội tâm của ta.
Những người rất giàu có trong xã
hội thường phải sống dưới nhiều áp lực, luôn phải lo âu, phiền não trong nỗ lực
bám víu lấy tài sản, cố bảo vệ nó, do đó cuộc sống không có được chút an lạc
nào. Nhưng với người làm việc bình thường, vì quá bận rộn kiếm tiền nên không
có thì giờ và sinh lực để tích lũy tài sản tâm linh, thì cũng không khá hơn
chút nào. Sinh lực của chúng ta dĩ nhiên là bị hạn chế, nên nếu muốn theo đuổi
con đường tâm linh thì ta cần dành chỗ, tạo điều kiện cho việc đó trong cuộc
sống hằng ngày của mình. Chúng ta nên xem xét lại các nhu cầu vật chất của mình
để có thể tiết giảm bớt đi. Nhờ đó năng lượng dành dụm được có thể sử dụng vào
việc phát triển tài sản nội tại.
Từ ngữ ‘tài sản’ được sử dụng ở
đây rất thích hợp. Đời sống nội tâm của chúng ta có thể là một thế giới hỗn
loạn và là nguồn gốc của nỗi khổ niềm đau. Tuy nhiên, đời sống nội tâm cũng có
thể là một thế giới đầy cái đẹp và sự hài hòa đáng trân quý, một hạnh phúc rạng
rỡ và là một nguồn vui tràn đầy để chia sẻ với tha nhân.
Việc phát triển đời sống tâm
linh cũng cần nhiều nỗ lực và tự nguyện như là trong công việc nghề nghiệp thế
sự, và chúng ta cần duy trì sự quân bình khôn khéo cho cả hai. Dĩ nhiên, chúng
ta cần duy trì công ăn việc làm để hỗ trợ bản thân và môi trường quanh ta.
Nhưng thường các hoàn cảnh bên ngoài do chúng ta tạo dựng nên không mang hạnh
phúc đến cho đời sống nội tâm. Thực vậy, một khuynh hướng thuần vật chất, dù
thành công đến đâu đi nữa, cũng có thể là một cản trở thật sự cho những nhu cầu
sâu xa hơn của ta. Chúng ta chỉ có thể vui hưởng một đời sống hạnh phúc nội tại
khi có thể bỏ công sức quán tưởng về các kinh nghiệm tâm linh của bản thân, và
biết tạo không gian để tích lũy tài sản tâm linh, loại tài sản thứ hai mà tựa
đề của kinh nhắc đến.
Tín Tâm Và Tự Tin
Tài sản tâm linh đầu tiên mà đức
Phật nói đến là lòng tin và tự tin (tín tài). Đa số chúng ta cần một đối tượng
cho lòng tin, và đối tượng này thường là một hay nhiều người, có thể cũng không
toàn hảo giống như ta. Lòng tin thành hình một cách tầm thường như thế, chứ
không phải đặt căn bản trên tâm linh, thì không thể tránh khỏi thất vọng.
Chúng ta chỉ có thể tin vào
những gì ta yêu thương. Chúng ta cần một lý tưởng mà mình có thể yêu thích,
nhưng cũng phải là một lý tưởng có thể vạch rõ cho ta thấy còn có một cái gì
nữa vượt trội hơn đời sống thế tục. Tất cả chúng ta quá quen thuộc với những
giá trị nhị nguyên vốn đã có sẵn trong chốn thị trường: khi đi mua bán, chúng
ta muốn thu lại cái gì đó tương đương với số tiền đã trả ra. Nhưng vì thái độ
mà chúng ta mang đến thị trường luôn là cái tâm anh - tôi, do đó phân chia giữa
ta với người, khiến ta luôn cũng cảm thấy bị đe dọa, không bao giờ được an
toàn. Chúng ta nghĩ rằng mình có thể mua được sự an toàn, nhưng cái cảm giác an
toàn không thể mua được. Đến một mức độ nào đó, chúng ta cần nhận thức rằng lề
lối suy tư mua bán này, lề lối thường tình của thế gian, chỉ có thể là căn bản
cho sự sinh tồn tối thiểu, và chúng ta là những con người có thể vượt lên trên
mức sinh tồn này. Nếu chúng ta có thể nhận thức được rằng trong ta đã có sẵn
tiềm năng ý thức được một lý tưởng cao cả hơn, một lý tưởng mà ta có thể yêu
thương và tin tưởng, thì ta cũng sẽ có được sự tự tin để phát triển những phẩm
chất nội tâm giúp chúng ta thể hiện được tiềm năng đó.
Tìm an lạc và hạnh phúc nội tâm
trong đời sống thế tục là điều không tưởng. Chúng ta được hòa bình khi không có
chiến tranh, và hạnh phúc khi có những sự giao tiếp thoải mái. Nhưng bản chất
của các cảm giác dễ chịu thường ngắn ngủi, và luôn cần được làm mới lại. Ngược
lại với tài sản phong phú của đời sống tâm linh, chúng ta có thể luôn mang theo
mình. Bản chất của nó là luôn luôn cống hiến một cái gì đó cho cuộc sống của ta,
bất kỳ ta là ai; và cũng không ai có một đời sống tâm linh giống ai. Một khi
chúng ta bắt đầu thấy được điều này, tài sản tâm linh sẽ thay thế cho của cải
trên thế gian, trở thành mục đích sống của ta.
Lòng tin và sự tự tin đòi hỏi ta
phải biết trân quý con đường tiến hóa tâm linh, để đặt hết lòng tin vào đó, và
để khám phá nó ngay nơi bản thân. Chúng đòi hỏi sự ý thức rằng ta có thể hoàn
toàn hiến mình cho con đường đó, hoàn toàn chuyển đổi chúng ta về hướng đó. Dĩ
nhiên, lòng tin và sự tự tin cũng là những phẩm chất nội tại cần thiết, tương
quan đến tiềm năng phát triển tâm linh của chúng ta. Vì thế có thể ta cần phải
thay đổi bất cứ những gì cần thiết để đặt giá trị tâm linh lên trên đời sống
thế tục hằng ngày, nhưng không nhất thiết là phải bỏ việc làm hay bán nhà đi.
Sự trưởng thành xảy ra bên trong ta.
Lòng tin và sự tự tin đòi hỏi
một sự tự nguyện buông xả hoàn toàn. Không có sự tự nguyện này thì không thể có
thiền định; khi thiền quán chúng ta sẽ tiếp tục bám víu vào quá trình tư duy
như là một thành lũy cuối cùng hỗ trợ cho cái ngã. Tự nguyện hướng đến một lý
tưởng tâm linh, một sự thật tối thượng, để vượt qua được thân phận con người
chỉ có thể có được với lòng tin và tự tin. Trong thiền định ta có thể dễ dàng
tin cậy vào hơi thở của mình - suy cho cùng, chúng ta đã biết nó qua bao thập
niên rồi. Nhưng tại sao việc quên mình đi để chỉ nương theo hơi thở của chính
mình vẫn còn quá khó khăn? Chúng ta sợ phải buông bỏ tư duy vì khi không tư
duy, ta không ý thức được sự hiện hữu của chính mình.
Lòng tin, và trên tất cả là lòng
tin nơi bảy tài sản, mở cánh cửa vào đời sống tâm linh, vì lòng tin cho ta thấy
một cái gì cao cả hơn. Mỗi người đều chứa kho báu này bên trong mình. Đã bao
lâu nay lòng tin ấy bị chôn vùi trong sự suy tư tiêu cực, lòng tham và thù hận
- có thể nói là một đống gạch vụn. Nhưng ta có thể thu dọn đống gạch vụn này,
mở cánh cửa này ra qua thiền định và từ đó làm hiển lộ những lớp tư tưởng mới,
trong đó có sự yêu thương biểu lộ qua lòng tin và sự tự tin. Trong khi cả hai,
khối óc và con tim đều cần thiết, nhưng lòng tin và sự tự tin nói chung là vấn
đề của con tim.
Nếu không đặt lòng tin và tự tin
vào điều gì, thì tâm ta không cảm thấy gắn bó. Chúng ta sẽ thấy mình khập khểnh
bước tới, trên một chân của tri thức, và sẽ không tiến được xa lắm. Tri thức
giúp chúng ta hiểu, nhưng chỉ có tâm mới có thể chiêm nghiệm, và những điều đức
Phật dạy cần được chiêm nghiệm, chứ không chỉ để hiểu mà thôi. Lòng tin gắn bó
với tiềm năng của tâm, nơi các quan điểm và ý kiến của ta không còn quan trọng
nữa. Chúng ta tự tin vào một lý tưởng.
Không cần phải đặt tên cho nó, chúng ta có thể cũng không biết nó là gì, nhưng
trong thâm tâm ta biết có một cái gì đó cao hơn, một cái gì đó vượt lên trên
những vấn đề thế sự. Phần lớn chúng ta, khi quán sát nội tâm, khám phá ra sự
khát khao cho một cái gì đó không thể diễn tả được, và trong quá trình tìm kiếm
điều đó, ta thường bị sai lệch hay đi lầm hướng, trước khi ta ý thức được rằng
chỉ có thể tìm thấy điều đó trong nội tâm mình.
Tư Cách Đạo Đức
Tư cách đạo đức (giới tài) là
tài sản thứ hai, tương quan đến ngũ giới. Các giới này tạo căn bản chủ yếu cho
một đời sống hài hòa. Nếu sống với giới luật như thế mỗi ngày, chúng ta sẽ
không gặp phải những khó khăn có thể làm lụn bại sự tu tập tâm linh của mình.
Giới đầu tiên là không sát sinh.
Điều này bao gồm tất cả sinh linh, bất chấp lớn nhỏ. Giới này nhằm mục đích làm
giảm bớt và bứng tận gốc rễ của sân hận trong chúng ta, để dần đưa đến sự loại
trừ tất cả mọi tiêu cực đối với bất cứ điều gì. Điều này không có nghĩa là chúng
ta sẽ không phân biệt giữa tốt và xấu. Chúng ta vẫn biết được tốt và xấu, nhưng
ta hiểu rằng mình không có quyền phán đoán tha nhân. Bổn phận của chúng ta
không gì khác hơn là đạt được giải thoát bằng cách diệt trừ mọi uế nhiễm.
Chức năng của giới này không chỉ
làm giảm bớt đi lòng sân hận trong ta, mà đồng thời còn phát triển tình yêu
thương vô điều kiện. Những ý tưởng chúng ta có về tình yêu thương luôn gắn liền
với bao phiền não – không những vì chúng ta bị ràng buộc, mà còn vì tâm đổi
chác làm điên đảo chúng; khi cho đi là chúng ta muốn nhận lại một cái gì đó.
Cách suy nghĩ này thật là lầm lạc: bản chất của tình yêu thương là giải phóng,
không phải để ràng buộc, và không chứa đựng sự sợ hãi. Tình yêu thương chỉ có
một mục đích: trao tặng, và với thời gian chúng ta sẽ hiểu điều này, tình yêu
là một phẩm chất của con tim, nó không tùy thuộc nơi người nhận, nhưng tùy vào
khả năng ban tặng bất chấp người nhận. Từ khía cạnh của tình yêu thương, việc
người này thay vì người khác được nhận chỉ là việc ngẫu nhiên. Thật ra việc
tình thương yêu có được biết đến hay mong đợi –hay ngay cả có ai nhận nó hay
không, cũng không quan trọng lắm.
Nếu thông minh là khả năng của
tri thức, thì tình yêu thương là khả năng của con tim. Nhưng trong lúc phần lớn
các học viện đề cao sự huấn luyện tri thức, thì ta lại không có những cơ sở
giáo dục dạy về sự phát triển phẩm chất của con tim. Chúng ta mong muốn tình
yêu thương đến một cách tự nhiên. Nhưng không có gì xảy ra một cách tự động;
ngay cả những tiến trình tự nhiên như là thở cũng lệ thuộc vào sự hỗ trợ của
một số điều kiện tương ứng nào đó. Suy nghĩ rằng tình yêu thương tự nó có thể
điều chỉnh là một hư cấu của trí tưởng tượng, không đem lại gì khác hơn là
phiền não, rắc rối. Tuy nhiên, chúng ta có thể sử dụng tình yêu thương mà chúng
ta biết như là một vườn ươm hạt giống, và cố gắng tạo ra kinh nghiệm của tình
yêu vô điều kiện từ kinh nghiệm của tình yêu có điều kiện. Làm được như vậy,
chúng ta cũng huân tập để giảm bớt tâm sân hận. Chữ ‘sân hận’ ở đây là chỉ
chung cho tất cả mọi sự tiêu cực, cùng với những lời chối lỗi, biện minh mà
chúng ta dùng để bênh vực nó.
Không nên coi giáo lý của đức
Phật như là lý thuyết tâm lý, tâm lý liệu pháp, hay là chuyên luận về triết lý,
mà là những lời dạy thực tiễn đưa ta tới hạnh phúc và an lạc nội tâm. Ngày nào
chúng ta còn lệ thuộc nơi các điều kiện bên ngoài hay nơi người khác, chúng ta
vẫn không được tự do. Khi còn phải lệ thuộc vào những gì xảy ra theo ý mình,
chúng ta khác gì những tên nô lệ. Chúng ta chỉ có thể vượt khỏi sự ràng buộc này
khi đã thanh lọc bản thân và phát triển các tiềm năng của tâm đến mức chúng có
thể tự hỗ trợ cho nhau. Sự độc lập này là khởi điểm của sự giải thoát, nơi ta
có thể nhìn thấy được bóng dáng của giải thoát thực sự.
Ai cũng có khả năng yêu thương,
nhưng phần lớn chỉ phát triển nó đến một mức độ giới hạn bằng việc tùy thuộc
vào đối tượng có dễ thương không, hay tình thương yêu đó có được đáp trả không.
Có người lại còn nghĩ rằng mình không có tiềm năng đó. Thật ra, ai cũng có khả
năng yêu thương, nếu họ biết cách phát triển nó. Dĩ nhiên, sẽ dễ có cảm giác
yêu thương khi đối diện với một người đẹp và đáng yêu, nhưng cảm giác đó là cảm
giác tùy thuộc, và đức Phật dạy rằng về phương diện này chỉ có sự độc lập mới
đưa chúng ta cuối cùng ra khỏi khổ đau, khỏi tiếc nuối.
Giới thứ hai là không lấy của
không cho. Đối nghịch với trộm cắp là tính hào phóng hay mở rộng vòng tay vị
tha mà tự nó là một trong bảy tài sản sẽ nói đến sau. Câu nói ‘ta được nhiều
khi cho hơn khi nhận,’ rất nổi tiếng nhưng thật sự mấy ai thực hành vì tin như
vậy. Ai thật sự làm theo những câu châm ngôn như thế trong đời sống hằng ngày?
Thường thì chúng ta không nghĩ đến điều này, vì biết và thực hành là hai cực
đối nghịch. Tuy chúng ta có thể có sự hiểu biết lý thuyết, ta không biết rằng
mình ít khi áp dụng nó. Kiến thức tuy hữu dụng, và được coi như là một trong
bảy tài sản - sự thực tập thật sự chỉ bắt đầu khi chúng ta có thể biến những
tài sản này thành của mình. Chúng ta phải làm việc mỗi ngày để kiếm sống, và
với đời sống tâm linh cũng phải thế. Chúng ta cũng phải hằng ngày quán sát bản
thân để khám phá ra những tài sản nội tâm này.
Giới thứ ba là không tà dâm. Đối
nghịch với tà dâm là trung thành, có trách nhiệm, và đáng tin cậy - kể cả trung
thành với bạn bè và gia đình. Nói chung, giới này đòi hỏi ta phải sống thế nào
để không làm ai đau đớn về tinh thần, hay thể xác. Nguyên tắc không làm khổ hại
ai dựa trên nền tảng của sự vun trồng tình yêu thương, nhưng cũng như giới thứ
hai, giới này cũng nhắm vào việc giảm thiểu tham dục – trong ý nghĩa của bất cứ
những gì có liên hệ đến sự mong cầu và tham muốn của chúng ta. Lòng tham muốn
sở hữu mang đến cho ta bao rắc rối, khó khăn, đồng thời khiến ta chìm đắm trong
tâm trạng bất an. Một khi chúng ta muốn cái gì, sẽ không bao giờ có đủ, vì
chúng ta bám víu vào nó. Chúng ta muốn tiếp tục được có nó hay có nó mãi, điều
này thật là một sự phí phạm năng lực. Dầu cùng nguy hại như nhau, lòng tham dục
khó nhận biết hơn là sân hận.
Khi chê trách, tránh né hay phản
kháng một điều gì, chúng ta có thể - nếu chú ý cẩn thận - nhận biết một cảm
giác khó chịu không thể nhầm lẫn. Tuy nhiên, tham muốn lại hứa hẹn một sự hài
lòng, vì chúng ta tưởng tượng rằng một khi mong ước của mình được thỏa mãn, tất
cả mọi thứ đều sẽ êm đẹp. Đến một lúc nào đó, chúng ta ý thức rằng những gì
chúng ta mong cầu đều không phải đúng là vật ta muốn, không phải là điều đem
đến cho ta sự thỏa mãn tuyệt đối thì lòng tham muốn của ta lại chuyển qua đối
tượng khác. Cứ như thế, chúng ta bị mắc vào cái bẫy của sự bất an không dừng
dứt, một sự lo âu liên tục không biết mình sẽ được những gì mình muốn hay không
và không biết mình có nắm giữ được nó mãi không. Khi điều không thể tránh xảy
ra và ta mất nó, cái vòng tham muốn lại tái diễn.
Để nhận diện được mô thức này
chúng ta cần có chánh niệm ở một mức độ nào đó. Những tài sản này chỉ có thể
được nhận biết khi chúng ta chú tâm đến bản thân. Chánh niệm tuy không được coi
như một trong bảy tài sản này, nhưng nó là điều kiện tiên quyết cho con đường
tâm linh. Không có cái nhìn quán chiếu, chúng ta sẽ không thể khám phá ra được
kho báu bên trong.
Giới kế tiếp liên quan đến việc
nói sai sự thật và dùng ác ngữ. Bao gồm bất cứ loại ngôn từ nào có thể gây não
hại, chê trách điều gì một cách bất nhã, phơi bày ác ý, và cả những lời thị
phi, chuyện trò vô bổ. Đối nghịch lại là nỗ lực thanh lọc ý để có được những
lời nói chân thật, hòa nhã. Điều kiện tiên quyết để làm được như thế là phải
chánh niệm về nội dung tư tưởng của mình. Khi bắt đầu thiền định chúng ta ý
thức được ngay là tâm ta nghĩ tưởng ra bao điều không thật có, đôi khi rất quái
dị, không ích lợi và không đưa đến đâu cả - chỉ là bao ý nghĩ, và mộng tưởng vô
dụng. Nhận thức được điều này sẽ giúp ta loại được những tư tưởng xấu trong đời
sống hằng ngày dễ dàng hơn, hay biến chúng thành những tư tưởng tốt. Nếu chúng
ta muốn theo con đường tâm linh, sự thực tập chánh niệm là điểm khởi đầu ích
lợi nhất.
Lời đức Phật dạy về ‘tứ chánh
cần’ có thể được nhớ đến một cách dễ dàng qua công thức xúc tích sau đây: ‘ngăn
ngừa, chế ngự, phát triển, duy trì’ – nhưng dĩ nhiên, thực hành được chúng lại
là một điều khác. Trước hết nó nhắc nhở ta làm thế nào để không cho các tư
tưởng xấu có cơ hội phát khởi. Nếu chúng đã có mặt thì phải kiềm chế chúng,
bằng cách thay thế chúng với các tư tưởng thiện. Nếu các thiện ý chưa phát
khởi, phải tạo ra chúng. Và thứ tư, nếu các thiện ý đang có mặt, phải duy trì
chúng.
Khi bắt đầu thực hành tứ chánh
cần, chúng ta không còn buông thả tư tưởng của mình như trước. Chúng ta không
còn thật sự tin cậy những tư tưởng của mình, và chúng ta kiểm nhận cẩn thận xem
chúng là tốt hay xấu, khéo hay vụng. Điều này lúc đầu khó làm nhưng sau một
thời gian nó đến một cách tự nhiên, và nó trở nên rất rõ ràng là ta có thể thay
thế các ác ý bằng thiện ý, kết quả là tâm được tĩnh lặng.
Các tư tưởng tiêu cực, uế nhiễm
đem lại sự bất an, nặng nề cho tâm, và nếu chúng ta muốn có một đời sống tâm
linh hài hòa, thì quan trọng là ta phải quán sát các trạng thái tâm linh để có
thể khiến chúng hiển bày, nếu không, sự hăng say của ta, ngay cả ở mức độ tâm
linh, chỉ đưa đến mộng tưởng và cao vọng. Hơn bao giờ hết, sự thanh lọc tâm có
thể giúp ta chế ngự được những bấn loạn của tâm.
Vì đối thoại là một tiến trình
tức thời, chúng ta thường không ý thức được lời nói đến từ tư tưởng, vì vậy
điều kiện tiên quyết để giúp ta giữ được giới thứ tư là sự chánh niệm quán sát
các tư tưởng và hành động thông thường của ta.
Giới thứ năm là về việc không
uống rượu và sử dụng ma túy vì chúng chỉ làm cho đầu óc ta thêm xáo trộn. Nói
rõ hơn, giới này nhắc ta thực hành chánh niệm trong đời sống hằng ngày. Khi
luôn quan sát bản thân, ta sẽ hiểu mình rõ hơn, sâu sắc hơn, rồi dần dần ta sẽ
có thể nhìn thấy được chân lý tuyệt đối của sự hiện hữu. Chúng ta có rất nhiều
ảo tưởng về ta là ai - những ý tưởng này duy trì ảo tưởng rằng chúng ta là một
ai đó đặc biệt, hư cấu rằng chúng ta luôn đổi mới do chấp ngã. Tuy nhiên nếu
quán sát sâu sắc hơn, ta sẽ nhận thức được mình thật sự là ai.
Chánh niệm trong đời sống hằng
ngày bắt đầu với sự quan sát những chuyển động nơi thân, các cảm giác, trạng
thái, và tư tưởng. Sự chánh niệm của ta có thể dễ dàng bị xao lãng, nhưng khi
ta nhận biết được điều này thì ta có thể trở lại với chánh niệm. Vấn đề là ta
phải huân tập làm sao để cẩn trọng hơn với tâm, việc này cũng tương tự như khi
chúng ta học cách chăm sóc cơ thể của mình - ta không muốn có tai nạn, hay chỉ
trầy da thôi – do đó ta cần suy nghĩ, nói năng, và hành động một cách thận
trọng, để tâm ta không bị tổn thương.
Hành vi đạo đức là một phần rất
quan trọng và sâu xa trong gia tài nội tâm của ta. Không những chúng ta nhận
biết được các tiêu chuẩn phải theo để bảo vệ bản thân, mà sự hành trì giới luật
cũng mở ra các cơ hội để phát triển thiện xảo của hai tài sản kế tiếp, sự biết
hổ thẹn và sự sợ bị thiện tri thức khiển trách.
Hổ Thẹn
Sự hổ thẹn (tàm tài) và sợ bị
thiện tri thức quở trách được coi là những hộ vệ của cuộc đời, vì sự cảm nhận
về lễ nghi, phép tắc và sự sợ bị người tốt khiển trách không cho phép chúng ta
làm việc xấu. Nếu các lễ nghi, phép tắc căn bản không còn, như trong thời chiến
hay dưới các chế độ độc tài, thì kết quả là đạo đức bị đảo lộn, ảnh hưởng đến
tâm trí của cả một dân tộc nói chung - dầu trong những hoàn cảnh như thế, mỗi
cá nhân vẫn phải có trách nhiệm, có lương tâm đạo đức. Vậy thì sự biết hổ thẹn
là người bảo vệ cho cả cộng đồng và cá nhân không rơi vào sự đổ vỡ đạo đức quá
mức tệ hại.
Không có ai có thể sống không có
sự hỗ trợ của tha nhân. Đôi khi chúng ta cần nên hỏi: ‘Thức ăn của tôi từ đâu
đến? Ai xây lên nhà tôi? Ai làm ra áo quần tôi mặc? Thư từ đến tay tôi bằng
cách nào? Là một thành viên trong cộng động, tôi phải làm gi?’ Trả lời những
câu hỏi trên chúng ta có thể thấy không ai có thể hoàn toàn sống một mình. Tất
cả chúng ta không thở cùng một bầu không khí sao? Tất cả chúng ta không tùy
thuộc vào cùng một thế giới thiên nhiên sao?
Dĩ nhiên điều ngược lại cũng
đúng. Khi chúng ta nói rằng một người làm điều xấu là mang vết nhơ ấy vào cuộc
sống và làm ô nhiểm môi trường, chúng ta muốn nói đến sự tương quan giữa tất
cả. Chúng ta chỉ cần nhớ đến bất cứ biến cố nào đã gây thiệt hại đến nhân mạng.
Môi trường có thể bị ô nhiễm bởi tư tưởng của chỉ một người hay một nhóm người
nhưng hằng triệu người phải đau khổ gánh chịu; ví như cuộc thế chiến vừa qua.
Tuy nhiên, sức mạnh của điều
thiện cũng mãnh liệt như việc ác, và với tàm tài (tài sản của sự biết hổ thẹn)
chúng ta có thể phấn đấu để tự hoàn thiện bản thân và tạo được ảnh hưởng chống
lại cái xấu. Vì không sống cô lập nên mỗi chúng ta mang một trách nhiệm phải
nuôi dưỡng và duy trì điều thiện bằng tư tưởng và hành động. Điều ác có thể áp
đảo cuộc sống bằng nhiều cách, ở nhiều thời điểm khác nhau, nhưng điều thiện
vẫn trụ thế, nếu không chúng ta đã bị tiêu diệt từ lâu rồi. Luôn có bao người
làm điều thiện trong cuộc sống này.
Cảm nhận về nghi lễ, phép tắc
bảo vệ chúng ta và cuộc sống khỏi bao uế nhiễm. Người có phẩm cách không bao
giờ ra đường với mặt mày và áo quần dơ dáy. Nếu có, chắc chắn là họ sẽ lập tức
làm gì đó để sửa đổi - quay về rửa ráy và thay áo quần sạch sẽ. Chúng ta cũng
phải biết hổ thẹn với cái xấu, với những tư tưởng tiêu cực giống thế và sửa đổi
ngay tức khắc.
Nếu chúng ta có thể nhờ chánh
niệm mà ý thức được rằng không ai có thể sống tách biệt, thì ta sẽ dễ dàng thấy
mình có trách nhiệm với cuộc sống. Mỗi chúng ta đóng một vai trò quan trọng
trong chuổi sự kiện phức tạp quyết định cách thế giới này vận hành. Giữ được
năm giới này đương nhiên sẽ giúp chúng ta sống theo đạo đức để không phải cảm
thấy hổ thẹn hay nuối tiếc. Trái lại, chúng ta sẽ vui sướng biết rằng mình đã
làm tròn bổn phận.
Trong một bài giảng khác nói về
kết quả của đời sống đạo đức, sự không tiếc nuối được nhắc đến như là một trong
những điều kiện để đi suốt con đường tâm linh. Chúng ta sẽ không nuối tiếc, hối
hận khi đã thanh lọc tư tưởng và lời nói. Nếu cư xử không phải đạo, hiển nhiên
ta sẽ cảm thấy hối hận; không biết hỗ thẹn không phải là cách giúp ta thoát
được sự hối hận. Ngược lại, nuối tiếc chuyện quá khứ cũng không khôn ngoan chút
nào. Chúng ta phải tự nhắc nhở mình rằng người làm điều sai bậy trong quá khứ
không phải là người đang ăn năn - nếu ta đã biết sống tỉnh thức như hiện tại,
thì ta đã không làm điều sai quấy. Thay vì than khóc chuyện đã qua, ta nên tha
thứ con người quá khứ của mình mà bắt đầu lại. Mỗi ngày là một bắt đầu mới. Làm
khổ mình bằng cách tự trách sẽ chỉ khiến ta khó bước chân lên con đường tâm
linh.
Sự Sợ Bị Trách Móc
Cùng với tài sản của sự biết hổ
thẹn hay của nhân phẩm là sự lo sợ bị thiện tri thức phê phán (quí tài). Sự sợ
bị trách móc là một sự sợ hãi lành mạnh: sợ làm điều gì không đúng. Điều này
hoàn toàn hợp lý vì chúng ta luôn bị lôi cuốn để cho sân hận hay ái dục phát
sinh mà không kể đến hậu quả của chúng. Khuynh hướng hay rơi vào tiêu cực này
rất vi tế khiến ta không nhận ra điều đó, mà tin rằng các chủ định của ta có
thể chấp nhận được. Do đó đi đôi với sự biết hổ thẹn là ý thức về nhu cầu hành
trì chánh niệm.
Sự sợ làm điều sai quấy cũng
phát sinh khi chúng ta ý thức được mình là đối tượng của luật nghiệp quả. Mọi
người đều biết một câu từ kinh Tân Ước: ‘Bất cứ ta gieo gì, ta sẽ gặt nấy’,
nhưng liệu ta có thật sự hiểu ý nghĩa của câu này khi thực hành? Nghiệp, hay sự
giải thích của lý nhân quả trên bình diện đạo đức là nền tảng của Phật giáo. Sự
sợ không dám làm điều ác căn cứ trên sự hiểu biết là chính mình chứ không ai
khác sẽ lãnh hậu quả. Chúng ta không nên trốn tránh sự hổ thẹn và trách nhiệm;
chúng là người bảo vệ, ngăn cản ta khỏi rơi vào những hoàn cảnh khó khăn, phiền
não trong cuộc đời.
Không có gì có thể bào chữa được
cho những hành động bất thiện. Hoàn cảnh khó khăn phải là động lực giúp ta tu
tập. Giả sử chúng ta đang tức giận ai: tâm sân hận này não hại chính ta hơn là
người bị giận – và đối với tất cả mọi ý tưởng tiêu cực khác đều giống như thế,
không kể đó là cao ngạo, ghen tị, đố kỵ, hoặc là tính hay đổ lỗi cho người
khác. Nhưng sự tiêu cực cũng có thể làm não hại người khác nếu chính họ cũng
phản ứng lại với những cảm giác tương tự; trong trường hợp đó họ cũng tạo
nghiệp xấu. Ta cũng có thể tạo ra sự tiêu cực nơi tha nhân mà không ý thức
được. Đức Phật đã nói, ‘Này các tỳ kheo, hãy ghi nhớ lời ta, nghiệp bao gồm chủ
định’, nhưng con đường tâm linh đòi hỏi trước tiên là ta phải chịu trách nhiệm
về tư tưởng, lời nói và hành động của ta. Nếu không khóa xe, ta tạo cơ hội cho
người ăn cắp, đối với đời sống tâm linh cũng thế: chúng ta nên tránh tạo cơ hội
cho người khác gây nghiệp xấu.
Kiến Thức
Tài sản kế là kiến thức (văn
tài). Đức Phật đã để lại một di sản có thể đưa chúng ta đến an lạc và hạnh phúc
hoàn toàn, nhưng trước khi có thể khởi sự bước đi trên con đường này, chúng ta
cần hiểu thêm về nó. Chúng ta cần biết các phương pháp và giáo lý của đức Phật.
Tiếc thay, chúng ta đã có quá nhiều dữ liệu trong đầu đến nỗi khó mà tiếp thu
thêm cái mới. Thêm nữa, chúng ta thường ngay tức khắc so sánh các dữ liệu mới
với những gì mình đã biết, xem coi chúng có ăn khớp với nhau không. Sự so sánh
và đánh giá này, dựa trên quan điểm riêng của ta, thật sự không đưa đến đâu cả.
Thay vào đó, ta nên có chút lòng tin nơi giáo lý này, thử nghiệm nó, xem nó ảnh
hưởng đến chúng ta như thế nào. Nếu không có hiệu quả, chúng ta có thể tìm
phương cách khác, nhưng nếu chỉ so sánh trên khía cạnh thuần tri thức, theo
sách vỡ thôi là sai lầm. Sự so sánh như thế chỉ có giá trị và ích lợi khi ta đã
đi trọn vẹn con đường cho đến đích. Chỉ từ cái nhìn của sự Giác Ngộ và tỉnh
thức tột cùng con người mới có thể thấy được những con đường khác đưa đến cùng
cứu cánh. Trước khi đạt đến điểm này, sự tiếp thu các thông tin mới chỉ là tri
thức.
Kiến thức thu thập được từ giáo
lý của đức Phật, một khi đã nhập tâm rồi, có thể đem ra thực hành ngay, nếu như
chúng ta có thể nhớ. Tâm trí ta thường quá bận rộn với thế sự nên hoàn toàn
quên việc tâm linh, thế nên chúng ta cần luyện tâm trí trong đời sống hằng
ngày. Một trí nhớ tốt rất ích lợi cho ta, nếu không, thì viết ra giấy cũng tốt
– ví dụ như, viết ra ‘ngăn ngừa, chế ngự, phát triển, duy trì’ – và dán lên nơi
nào đó. Bất cứ khi nào nhìn thấy những chữ đó, chúng ta sẽ được nhắc nhở để
ngăn ngừa và chế ngự cái xấu, để phát triển và duy trì điều thiện. Dĩ nhiên,
lắng nghe các bài pháp thoại và ghi chú cũng tốt, cho đến khi mọi thứ đã khắc
sâu vào tâm trí để ta có thể hiểu và thực hành giáo lý của đức Phật một cách
hiệu quả.
Bố Thí
Tài sản kế chót, bố thí (tài
thí), bổ sung cho giới thứ hai: không lấy của không cho. Bố thí – cho mà không
nghĩ đến việc nhận lại - thường được đức Phật đặt lên hàng đầu trong các loại
công đức. Đối nghịch với bố thí là vị kỷ hay thói coi mình là trung tâm của vũ
trụ, biểu lộ qua lòng tham muốn sở hữu cho riêng mình và tỏ ra bực tức nếu có
người muốn lấy gì của mình. Sự vị kỷ này là nguồn gốc của tất cả mọi khổ đau
của chúng ta: nếu không có cái ngã này thì có ai để khổ đau? Do đó tất cả giáo
lý của đức Phật đều hướng về sự nhận thức được ảo tưởng tạo ra từ sự quan trọng
hóa bản ngã của mình. Bằng cách phát huy tâm bố thí rộng rãi, chúng ta sẽ loại
bỏ được lòng vị kỷ.
Sự thực tập chúng ta đang nói
đến liên quan đến nhiều thứ hơn là làm giảm thiểu những hành động đầy chấp ngã.
Một người độ lượng, rộng rãi không chờ đến lúc có người mong đợi quà tặng từ
họ, ví dụ như trong một dịp đặc biệt nào đó, hay đến khi được hỏi mới nghĩ đến
việc bố thí. Trong xã hội chúng ta, phần lớn ai cũng có nhiều hơn họ cần, nên
không khó để tìm những món vật chất để cho - nhưng cũng vì vậy nên khó mà cho
được những món quà vật chất có ý nghĩa. Trong kinh này đức Phật nói rằng lý do
chánh đáng duy nhất để duy trì của cải là để chia phần với người. Dĩ nhiên, còn
tùy từng cá nhân làm thế nào để quản lý của cải và muốn cho bao nhiêu, nhưng sự
chia sẻ như thế phải thực sự hiệu quả: không nên chỉ là bố thí của cải cho
người nghèo. Ngay nếu như không có của cải, chúng ta vẫn có thể chia sẻ nhiều
thứ khác được: thì giờ, năng khiếu, tình thương yêu, hạnh lắng nghe. Năng lượng
của chúng ta ít ra cũng đem lại lợi lạc cho tha nhân không kém gì tiền bạc.
Theo đức Phật, còn có một điều
đáng quan tâm nữa: đó là sự trong sáng của người nhận làm thanh lọc vật cho. Sự
bố thí cần phải thích đáng, biểu hiện sự quan tâm đến người nhận và nhu cầu của
họ. Sự phán đoán thường dễ biến thành lòng thương hại, và lòng thương hại, nói đúng
ra, không phải là một cảm xúc tích cực hay trong sáng.
Chúng ta có thể bố thí từ lòng
trắc ẩn, lòng độ lượng, hay từ sự mong muốn tạo được nghiệp tốt, nhưng tâm bố
thí chân thật phát xuất từ sự nhận thức được rằng tất cả chúng ta đều là thành
phần của cùng một thực tại, là những biểu hiện của hiện hữu. Điều này khó ý
thức được vì cái ảo tưởng rằng tất cả chúng ta đều tách biệt, nhưng trong thực
tế, không có gì tách biệt với bất cứ cái gì khác. Nói một cách đơn giản, nếu
chúng ta làm cho một người hạnh phúc, chúng ta làm tăng thêm hạnh phúc cho cuộc
đời. Tất cả chúng ta đều có khả năng - thật ra, là trách nhiệm - ban trải hạnh
phúc khắp nơi.
Hơn thế nữa, bố thí phải hoan
hỷ. Có người gây nhiều bất mãn với những hành vi, ý nghĩ, quan điểm phô trương
mà họ cố bắt người khác chấp nhận. Nhưng ta có thể giúp đỡ những người như thế
bằng cách nhắc họ rằng làm điều tốt nhất thiết phải với niềm vui. Tất cả chúng
ta đều cần được động viên để hướng đến điều thiện; vì tiếc thay, điều này không
tự động xảy ra. Mỗi người sanh ra với ba gốc rễ tốt và ba gốc rễ xấu, tất cả
đều biểu lộ bằng cách này hay cách khác, và chúng ta luôn cần nỗ lực để tăng
cường các gốc rễ tốt thay vì xấu. Gốc rễ xấu chính là vô minh, trong ý nghĩa
rằng ta bị ảo tưởng về bản ngã dẫn dắt với niềm tin rằng ‘tôi là một ai đó’. Từ
gốc rễ này phát sinh hai rễ xấu khác là tham và sân. Ba gốc rễ tốt là khả năng
được trí tuệ, tình thương yêu, và độ lượng.
Qua sự chia sẻ tài sản vật chất
bên ngoài, chúng ta sẽ cảm nhận được tài sản nội tại của tâm bố thí. Thực vậy,
nỗ lực của chúng ta trong việc hành trì tất cả bảy loại tài sản đưa đến nhiều
kết quả tích cực đến nỗi tài sản nội tâm trở nên đáng giá hơn bất cứ tài sản
thế tục nào. Một khi đã cảm nhận được hoàn toàn giá trị của những của cải này,
chúng ta sẽ không thể nào đánh mất niềm vui nội tâm, trong khi đó ngay cả người
giàu có nhất cũng không thể kéo dài thú vui nghiền ngẫm các sổ tài khoản của
mình - vì chắc rằng người đó đang lo lắng cho sự trồi sụt giá cả của các chứng
khoán của mình. Trong khi chúng ta thì lại có thể tích lũy tài sản nội tâm,
đồng thời cũng có thể chia sẻ chúng với tha nhân. Không ai có thể lấy mất tài
sản này. Có lẽ điều tốt đẹp nhất chúng ta có thể chia sẻ được là niềm hỷ lạc mà
đời sống tâm linh mang lại, điều này chắc chắn sẽ giúp khuyến khích người khác
để họ tự tìm đến niềm vui này.
Có thể nói rằng hạnh bố thí,
đứng đầu trên mọi đức hạnh, khai mở các cánh cửa của những đức hạnh khác. Khi
thật sự bố thí, chúng ta mở lòng với tha nhân; chúng ta không muốn gì cho bản
thân. Chính yếu ở đây là ‘buông xả’; thật vậy, buông xả là chìa khóa để vào con
đường tâm linh nói chung, và vào thiền định nói riêng. Những quan điểm chúng ta
đã tích lũy và khăng khăng bám víu vào chúng cản ngăn không cho ta nhận thức
được chân lý, và sự phát khởi lòng tham sân càng gây khó khăn cho việc tìm ra
được chân hạnh phúc luôn có mặt bên trong ta.
Trí Tuệ
Tài sản cuối cùng trong số bảy
tài sản là trí tuệ (tuệ tài), trong ý nghĩa đối nghịch với vô minh. Trí tuệ
biểu thị sự chứng nghiệm trong hiểu biết, trí tuệ được chiêm nghiệm và cảm nhận
trong tim ta. Để có thể hiểu được những điều chiêm nghiệm, chúng ta cần có kiến
thức về con đường tâm linh và các giáo lý giảng dạy về con đường đó. Chúng ta
hiểu được rằng qua sự vun trồng chánh niệm, chúng ta có thể chứng nghiệm được
sự an lạc và thanh tịnh trong thiền định - bằng cách nhận biết được lòng tham,
sân, cùng si mê vọng tưởng bên trong ta, và cố gắng loại trừ chúng.
Vậy thì kinh nghiệm thực chứng
(understood experience) là bước đầu tiến đến trí tuệ, vì cả hai, sự chứng
nghiệm và sự hiểu biết đều cần thiết trên con đường tâm linh. Đạt được kiến
thức không khó. Chúng ta vẫn không ngừng thu thập kiến thức, từ mẫu giáo đến
đại học, để vươn lên trong đời sống thế tục, nhưng không thể vì thế mà ta đến
gần được trí tuệ hơn. Kiến thức của chúng ta về con đường tâm linh cần được đem
ra thực hành trong suy tư, thảo luận và hành động hằng ngày. Chúng ta kinh qua
và hiểu được con đường ấy nếu chúng ta tránh được sự ghét bỏ những điều ta
không thích và sự bám víu vào những gì làm ta hài lòng. Chỉ khi đó chúng ta mới
ý thức được những thói xấu của mình, và dựa trên đó cố gắng chuyển hóa chúng để
chúng không còn cản trở bước tiến của ta nữa. Chính ngã chấp cản trở con đường
tâm linh: Tôi muốn, tôi sẽ, tôi phải, tôi có thể, tôi nên, tôi muốn vứt bỏ cái
này hay cái kia. Hãy buông bỏ quy định này để trở nên một quan sát viên trung
lập của đời sống nội tâm của mình, rồi thanh lọc những điều xấu, đó là con
đường tâm linh giúp phát huy trí tuệ.
Đọc (văn) và hiểu (tư) giúp mở
các cánh cửa tâm linh, nhưng chúng không mang lại cho ta sự chứng nghiệm. Hiểu
là một tiến trình của trí não; chứng nghiệm là tiến trình của tâm. Nếu hai điều
này không đi đôi với nhau, chúng ta chỉ mới đi được nửa đường.
Nếu cả tâm và trí đều tham dự,
chúng ta có thể phát triển một cái nhìn mới về cuộc đời và về chính mình, không
còn nhìn cuộc đời qua cái nhìn hạn hẹp của tự ngã, nhưng nhìn nó như là một
tổng thể. Thí dụ, nếu nói đến khổ đau hay dukkha, khuynh hướng tự nhiên của
chúng ta là phản kháng lại nó – và khi ta càng chống đối lại một điều gì, ta
lại càng cảm thấy đau đớn hơn. Nhưng khi ta hiểu được rằng đau khổ là thường
tình, ta sẽ không còn chống đối nó nữa. Kết quả là, khi chúng ta phát khởi lòng
bi mẫn đối với bản thân và tất cả muôn loài, chúng ta không còn đau khổ như thế
nữa.
Tiến trình này chỉ có thể được
cảm nhận qua sự thực tập hằng ngày. Nếu muốn xây dựng đời sống của mình trên
một nền tảng tâm linh thật sự, chúng ta phải hành trì chánh niệm mỗi ngày để có
thể giúp phát sinh sự ‘chứng nghiệm trong hiểu biết’. Điều này lúc đầu có thể
khó khăn, vì nó mới lạ, nhưng một khi chúng ta đã thực tập trong một thời gian,
sống chánh niệm trở thành một việc tất nhiên. Suy cho cùng, sống chánh niệm như
thế cũng giúp chúng ta tránh khỏi bao ác nghiệp.
Cuối bài kinh, câu kệ kết này
tóm lược tất cả bảy tài sản:
Bất cứ
ai sống đời đạo hạnh, với tự tin và lòng tin,
Biết sợ
trách móc và có lương tri,
Tu tập
tâm rộng lượng và kiến thức,
Với trí
tuệ là tài sản thứ bảy –
Bất kỳ
ai đã tìm được những tài sản này,
Dầu nam
hay nữ,
Đều được
coi như những người giàu có,
Họ không
sống cuộc đời vô nghĩa.
Đó là lý
do thiện hữu tri thức phải
Thực
hành tự tin và trì giới,
Cũng như
trí tuệ và tín tâm,
Sống
chánh niệm với những lời Phật dạy.
1. Hòa Thượng Thích Minh Châu,
Tăng Chi Bộ Kinh, Tập 3.NXB Tôn Giáo 2005, tr. 283.