Phần
5. Ý nghĩa khái niệm trung đạo
  201.   Ý nghĩa khái niệm trung đạo
 169. 
‘Kinh Câu Lâu Sấu Vô Tránh’
 Phật dạy: “Đừng nên mong cầu 
dục lạc (Pāli:  na 
kāmasukham anuyuñjeyya,), là nghiệp vô cùng 
hèn hạ,  là hạnh của phàm phu. Cũng đừng mong cầu tự thân khổ hạnh, rất 
khổ, không phải  Thánh hạnh, không tương ưng với nghĩa (Pāli: 
amatthasamhita, không liên  hệ đến mục đích).
Xa lìa hai cực đoan này thì có trung  đạo, tác thành con mắt, tác thành
trí tự tại, tác thành định, đưa đến trí, đưa  đến giác ngộ, đưa đến 
Niết-bàn, có tán thán và chỉ trích, có sự không tán thán  và không chỉ 
trích mà nói pháp, quyết định đúng mức và sau khi đã biết quyết  định, 
thường tùy cầu sự lạc nào đã có bên trong. Đừng nói lời ám chỉ, cũng 
đừng  đối mặt khen ngợi; nói vừa phải chứ đừng quá giới hạn; tùy theo 
phong tục địa  phương (Pāli: janapadaniruttiṃ nābhinivesyya, đừng
cố chấp địa phương  ngữ.), đừng nói thị, 
đừng nói phi. Đó là những vấn đề  của kinh ‘Phân biệt vô tránh’
 “‘Đừng nên mong cầu dục lạc, là  nghiệp vô 
cùng hèn hạ, là hạnh của phàm phu. Cũng đừng mong cầu tự thân khổ  hạnh,
rất khổ, không tương ưng với cứu cánh’. Vấn đề này được nói lên với 
nguyên  nhân nào? Ở đây, ‘Đừng nên mong cầu dục lạc, là nghiệp vô cùng 
hèn hạ, là hạnh  của phàm phu’. Đây là nói về một một cực đoan. ‘Cũng 
đừng mong cầu tự thân khổ  hạnh, rất khổ, không tương ưng với nghĩa’. 
Đây là nói về một cực đoan nữa. Do  bởi sự kiện này mà nói ‘Đừng nên 
mong cầu dục lạc, là nghiệp vô cùng hèn hạ, là  hạnh của phàm phu. Cũng 
đừng mong cầu tự thân khổ hạnh, rất khổ, không tương ưng  với nghĩa’.
 “‘Xa lìa hai cực đoan này thì có trung đạo, 
tác thành  con mắt, tác thành trí tự tại, tác thành định, đưa đến trí, 
đưa đến giác ngộ,  đưa đến Niết-bàn’. Vấn đề này được nói lên với những 
nguyên nhân nào? Ở đây,  Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh 
định, gọi là tám. Do bởi sự kiện  này mà nói ‘Xa lìa hai cực đoan này 
thì có trung đạo, tác thành con mắt, tác  thành trí tự tại, tác thành 
định, đưa đến trí, đưa đến giác ngộ, đưa đến  Niết-bàn’
  
  202.  
Nên nói những lời nói nào 
và không  nên nói những lời nói nào ?
 
 169. 
‘Kinh Câu Lâu Sấu Vô Tránh’
 “‘Không nên nói lời ám chỉ, cũng không nên đối
mặt tán  thán’, vấn đề này được nói lên với nguyên nhân nào?
 “Có lời nói ám chỉ mà không chân thật, hư dối,
không  tương ưng với nghĩa (Pāli: amatthasamhita, không liên hệ đến mục đích).  Cũng có lời nói ám chỉ mà chân thật, không hư 
vọng, tương ưng với nghĩa. Trong  này nếu có lời nói ám chỉ mà không 
chân thật, hư vọng, không tương ưng với  nghĩa, nhất định không nói 
những lời như vậy. Trong này nếu có lời nói ám chỉ mà  chân thật, không 
hư vọng, không tương ưng với cứu cánh, cũng hãy học đừng nói  như vậy. Ở
đây nếu có lời nói ám chỉ chân thật, không hư vọng, tương ưng với  
nghĩa thì hãy nên biết thời, chánh trí, chánh niệm để cho thành tựu lời 
nói ấy.
 “Như vậy, ‘Đừng nói lời ám chỉ, cũng đừng đối 
mặt khen  ngợi’, vấn đề này được nói lên với nguyên nhân như vậy.
 “‘Nói vừa phải, chứ đừng quá giới hạn’, vấn đề
này  được nói lên với nguyên nhân nào?
 “Nói quá giới hạn thì thân phiền nhọc, niệm 
hay quên,  tâm mệt mỏi, tiếng bị hư mà hướng đến trí thì không được tự 
tại. Nói vừa phải  thì thân không phiền nhọc, niệm không ưa quên, tâm 
không mệt mỏi, tiếng nói  không bị hư, hướng đến trí thì được tự tại.
  “‘Nói vừa phải, đừng nói quá giới hạn’, vấn 
đề này  được nói lên với nguyên nhân như vậy….
 “Trong đó nếu có lời nói ám chỉ mà không chân 
thật,  dối láo, không tương ưng với cứu cánh, pháp này là hữu tránh. Vì 
những sự kiện  nào mà nói pháp này là hữu tránh? Vì pháp này có khổ, có 
phiền lao, có nhiệt  não, có ưu sầu, thuộc về tà hạnh, cho nên nói pháp 
này là hữu tránh. 
 “Trong đó, nếu có lời chê bai sau lưng mà chân
thật,  không dối láo, tương ưng với cứu cánh, pháp ấy là vô tránh. Vì 
sự kiện nào mà  nói pháp ấy là vô tránh? Vì pháp này không khổ, không có
phiền lao, không có  nhiệt não, không có ưu sầu, thuộc về chánh hạnh, 
cho nên nói pháp này là vô  tránh.
 “Không nói vừa phải. pháp này là hữu tránh. Vì
những  sự kiện nào mà nói pháp này là hữu tránh? Vì pháp này có khổ, có
phiền lao, có  nhiệt não, có ưu sầu, thuộc về tà hạnh, cho nên nói pháp
này là tranh chấp.
 “Nói vừa phải, pháp này là vô tránh. Vì những 
sự kiện  nào mà nói pháp này là vô tránh? Vì pháp này không khổ, không 
có phiền lao,  không có nhiệt não, không có ưu sầu, thuộc về chánh hạnh,
cho nên nói pháp này  là vô tránh.
 “Thị và phi theo phong tục địa phương, pháp 
này là hữu  tránh. Vì những sự kiện nào mà nói pháp này là hữu tránh? Vì
pháp này có khổ, có  phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc về tà 
hạnh, cho nên pháp này có tranh  chấp.
 “Tùy phong tục địa phương, không  nói thị 
không nói phi, pháp này là vô tránh. Vì những sự kiện nào mà nói pháp  
này là vô tránh? Vì pháp này không khổ, không có phiền lao, không có 
nhiệt não,  không có ưu sầu, thuộc về chánh hạnh, cho nên nói pháp này 
là vô tránh.
 “Đó gọi là tránh pháp. Các ngươi nên biết pháp
tránh  và pháp vô tránh. Đã biết pháp tránh và pháp vô tránh thì nên xả
bỏ pháp tránh,  tu tập pháp vô tránh. Các ngươi cần phải học như vậy.
  
 203.  Địa phương ngữ
 
 169. 
‘Kinh Câu Lâu Sấu Vô Tránh’
 “Tùy theo phong tục địa phương,  đừng nói 
thị, đừng nói phi’, vấn đề này được nói lên với nguyên nhân nào? Thế  
nào là thị và phi tùy theo phong tục địa phương? Địa phương này, nhân 
gian này,  sự việc này, hoặc nói là ‘cái chậu’, hoặc nói là ‘cái khay’, 
hoặc nói là ‘cái  ô’, hoặc nói là ‘cái chén’, hoặc nói là ‘đồ đạc’; hay 
nói là cái khay, hay nói  là cái ô, hay nói là cái chén, hay nói là đồ 
đạc; mỗi nơi tùy theo khả năng mà  nói một mực rằng, ‘Đây là sự thực, 
ngoài ra là láo cả’. Như vậy, đó là tùy theo  phong tục địa phương mà 
nói thị hay phi vậy.
 “Sao gọi là ‘Tùy phong tục địa phương, không 
thị không  phi’? Địa phương này, nhân gian này, sự việc này, hoặc nói là
‘cái chậu’, hoặc  nói là ‘cái khay’, hoặc nói là ‘cái o’â, hoặc nói là 
‘cái chén’, hoặc nói là ‘đồ  đạc’, và ở địa phương kia, nhân gian kia, 
sự việc kia, hoặc nói là ‘cái chậu’,  hoặc nói là ‘cái khay’, hoặc nói 
là ‘cái ô’, hoặc nói là ‘cái chén’, hoặc nói là  ‘đồ đạc’. Với sự việc 
này hay sự việc kia, không tùy khả năng, không nói với một  mực rằng 
‘Đây là sự thật, ngoài ra đều láo cả’, như vậy là tùy phong tục địa  
phương không nói thị không nói phi.
  
  204.   Thế nào gọi là Tỷ kheo Đa Văn
 
 172. 
‘Kinh Tâm’
  Đức Thế Tôn nói: “Này 
Tỳ-kheo, những gì được  Ta thuyết giảng rất nhiều, là chánh kinh, ca 
vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân  duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết, 
sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu pháp và  thuyết nghĩa. Này Tỳ-kheo, nếu
có thiện nam tử chỉ nghe Ta nói bốn câu kệ mà  biết nghĩa, biết pháp, 
thực hành pháp và tùy pháp, thuận theo phạm hạnh, thì này  Tỳ-kheo, nói 
Tỳ-kheo đa văn là chỉ nói như vậy chứ không hơn nữa. Này Tỳ-kheo,  như 
vậy là Tỳ-kheo đa văn. Như Lai tuyên bố như vậy là Tỳ-kheo đa văn”.
  
  205. 
 Thế nào gọi là Tỷ kheo thông minh
?
 
 172. 
‘Kinh Tâm
 Đức Thế Tôn nói: “Nếu Tỳ-kheo
không có niệm gây  tự hại, không có niệm gây hại người, cũng không có 
niệm gây hại cả hai. Tỳ-kheo  chỉ có niệm làm lợi ích cho tự thân và 
lợïi ích cho người, lợi ích cho mọi  người, thương xót thế gian, mong 
muốn cho trời, người được lợi ích và phước  lành, được an ổn khoái lạc. 
Này Tỳ-kheo, như vậy là Tỳ-kheo thông minh có hiệt  tuệ, quảng tuệ, Như 
Lai tuyên bố như vậy là Tỳ-kheo thông minh có hiệt tuệ,  quảng tuệ”.
  
  206.   Đàn nai và người thợ săn
 
 178. 
‘Kinh Lạp Sư’
 Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo rằng: “Người
thợ săn khi bẫy mồi nai, không có tâm như vầy ‘Mong cho nai được béo 
mập, được  tốt đẹp, được sức lực, được sung sướng, sống lâu’. Nhưng 
người thợ săn bẫy mồi  nai với tâm như vầy ‘Bẫy mồi là chỉ muốn chúng 
đến gần để ăn; đã đến gần để ăn  thì sẽ kiêu loạn phóng dật, mà đã kiêu 
sa phóng dật thì sẽ tùy thuộc thợ săn và  quyến thuộc thợ săn’. Người 
thợ ăn bẫy mồi nai với tâm như vậy.
 “Đàn nai thứ nhất đến gần đồ mồi  của thợ 
săn. Sau khi chúng đến gần để ăn, bèn sanh kiêu sa phóng dật rồi do kiêu
loạn phóng dật nên bị tùy thuộc thợ săn và quyến thuộc thợ săn. Như 
vậy là đàn  nai thứ nhất không thoát khỏi cảnh giới của thợ săn và quyến
thuộc thợ săn.
 “Đàn nai thứ hai suy nghĩ rằng ‘Đàn nai thứ 
nhất đã  đến gần để ăn đồ mồi của thợ săn. Sau khi chúng đến gần để ăn, 
bèn sanh kiêu  loạn phóng dật, rồi do kiêu sa phóng dật nên bị tùy thuộc
thợ săn và quyến thuộc  thợ săn. Như vậy là đàn nai thứ nhất không 
thoát khỏi cảnh giới thợ săn và quyến  thuộc thợ săn. Nay ta đừøng ăn đồ
ăn của thợ săn, tránh xa chỗ đáng sợ, nương  nơi rừng vắng an toàn, ăn 
cỏ uống nước được chăng?’ Sau khi suy nghĩ, đàn nai  thứ hai liền bỏ mặc
đồ mồi của thợ săn, tránh xa chỗ đáng sợ, nương ở nơi rừng  vắng an 
toàn, ăn cỏ uống nước. Đến tháng cuối mùa Xuân, cỏ nước đều hết, thân  
thể chúng rất gầy ốm, khí lực hao mòn và rồi lại bị tùy thuộc thợ săn và
quyến  thuộc thợ săn. 
 “Như vậy là đàn nai thứ hai cũng không thoát 
khỏi cảnh  giới của thợ săn và quyến thuộc thợ săn. 
 “Đàn nai thứ ba lại suy nghĩ rằng, ‘Đàn nai 
thứ nhất  và thứ hai, tất cả đều không thoát khỏi cảnh giới của thợ săn 
và quyến thuộc thợ  săn. Nay ta hãy tránh xa thợ săn và quyến thuộc thợ 
săn, nhưng ở một nơi không  xa, sau đó hãy ăn đồ ăn của thợ săn mà đừng 
đến gần. Đã ăn mà không đến gần thì  không kiêu sa phóng dật. Do không 
kiêu loạn phóng dật nên không bị tùy thuộc thợ  săn và quyến thuộc thợ 
săn’. Sau khi suy nghĩ, đàn nai thứ ba liền tránh xa thợ  săn và quyến 
thuộc thợ săn, nhưng ở một nơi không xa. Sau đó ăn đồ mồi của thợ  săn 
mà không đến gần. Ăn mà không đến gần nên không kiêu loạn phóng dật, rồi
do  không kiêu sa phóng dật nên không tùy thuộc thợ săn và quyến thuộc 
thợ săn.
 “Người thợ săn và quyến thuộc thợ săn nghĩ 
rằng ‘Đàn  nai thứ ba này khôn lanh kỳ lạ! Quả thật, rất khôn lanh! Vì 
sao? Vì chúng ăn đồ  ăn của ta mà ta không thể bắt được. Nay ta hãy bủa 
vòng lưới chạy dài. Sau khi  bủa lưới chạy dài chắc sẽ biết được chỗ ở, 
đường lui tới của đàn nai thứ ba  này’. Sau khi suy nghĩ, thợ săn và 
quyến thuộc thợ săn liền bủa vòng lưới chạy  dài và sau đó biết được chỗ
ở, đường lui tới của đàn nai thứ ba. Như vậy, đàn  nai thứ ba cũng 
không thoát khỏi cảnh giới của thợ săn và quyến thuộc thợ săn.
 “Đàn nai thứ tư lại suy nghĩ, ‘Đàn nai thứ 
nhất, thứ  hai và thứ ba, tất cả đều không thoát khỏi cảnh giới của thợ 
săn và quyến thuộc  thợ săn. Nay ta hãy nương ở một nơi mà thợ săn và 
quyến thuộc thợ săn không đến  được. Sau đó hãy ăn đồ mồi của thợ săn mà
đừng đến gần. Đã ăn mà không đến gần  thì không kiêu loạn phóng dật. Do
không kiêu sa phóng dật, sẽ không bị tùy thuộc  thợ săn và quyến thuộc 
thợ săn’.       Sau khi suy nghĩ, đàn nai thứ tư liền  nương ở một nơi 
mà thợ săn và quyến thuộc thợ săn không thể đến được, sau đó ăn  đồ mồi 
của thợ săn mà không đến gần. Đã ăn mà không đến gần nên không kiêu sa  
phóng dật, rồi do không kiêu sa phóng dật nên không bị tùy thuộc thợ săn
và  quyến thuộc thợ săn. Người thợ săn và quyến thuộc thợ săn lại suy 
nghĩ rằng:  “Đàn nai thứ tư này ranh mãnh xảo trá kỳ lạ! Quả thật ranh 
mãnh xảo trá, nếu ta  xua đuổi chúng, chắc chắn không thể được, vì những
nai con khác sẽ kinh sợ bỏ  chạy tán loạn. Vậy ta hãy cứ bỏ mặc đàn nai
thứ tư này’. Sau khi suy nghĩ, thợ  săn và quyến thuộc thợ săn liền bỏ 
mặc.
 “Như vậy là đàn nai thứ tư thoát khỏi cảnh 
giới của  thợ săn và quyến thuộc thợ săn. “Này Tỳ-kheo,
ta nói thí dụ này là muốn  các giải rõ ý nghĩa. Nay Ta nói đây, các 
ngươi hãy quán sát nghĩa lý: “Đồ  mồi của thợ săn, nên 
biết, đó là năm công đức của dục (Pāli: pañca  kāma-gunā): mắt biết sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi  hương, lưỡi nếm vị, 
thân xúc chạm. Đồ mồi của thợ săn, nên biết, đó là năm niệm  công đức 
của dục. Người thợ săn, nên biết, đó chính là Ác ma vương. Quyến thuộc  
của thợ săn, nên biết, đó chính là quyến thuộc của Ma vương. Đàn nai, 
nên biết  đó chính là Sa-môn, Phạm chí vậy.
  
 207. 7 loại bố thí cho Tăng chúng
 
180. ‘Kinh Cù Đàm Di’
 Thiện nam tử hay thiện nữ nhân có tín tâm khi 
Phật còn  tại thế, Phật là vị đứng đầu, mà bố thí cho Phật và chúng 
Tỳ-kheo, như vậy gọi  là loại bố thí thứ nhất cho Tăng chúng sẽ được đại
phước, được đại quả, được đại  công đức, được quả báo rộng lớn.
 “Thiện nam tử hay thiện nữ nhân có tín tâm, 
sau khi  Thế Tôn nhập Niết-bàn không lâu, bố thí cho cả hai bộ chúng, bố
thí cho chúng  Tỳ-kheo, bố thí cho chúng Tỳ-kheo-ni; đi vào tinh xá 
Tỳ-kheo bạch với chúng rằng  ‘Mong trong chúng ở đây cử ra một số 
Tỳ-kheo để chúng con được bố thí’; đi vào  tinh xá Tỳ-kheo-ni bạch với 
chúng rằng ‘Mong trong chúng ở đây cử ra một số  Tỳ-kheo-ni để chúng con
được bố thí’. Như vậy gọi là loại bố thí thứ năm cho  Tăng chúng, sẽ 
được đại phước, được đại quả, được đại công đức, được quả báo  rộng lớn.
 “Này A-nan, trong thời tương lai,  có Tỳ-kheo
thuộc loại danh tánh[2],  khoác áo 
cà-sa mà không tinh tấn, vị ấy đã không tinh tấn, không tinh cần mà vẫn 
được bố thí vì có ở trong chúng, duyên nơi chúng, ở trên chúng, nhân 
nơi chúng,  Ta nói lúc bấy giờ thí chủ sẽ được phước vô lượng không thể 
đếm, không thể kể,  được thiện, được lạc; huống nữa là bố thí cho 
Tỳ-kheo thành tựu hành sự[3],  thành tựu 
trừ sự[4],  thành tựu cả hành sự và trừ sự, thành tựu 
chất trực, thành tựu nhu nhuyến, thành  tựu cả chất trực và nhu nhuyến, 
thành tựu nhẫn, thành tựu lạc, thành tựu cả nhẫn  và lạc, thành tựu 
tương ưng, thành tựu kinh kỹ, thành tựu cả tương ưng và kinh  kỹ, thành 
tựu oai nghi, thành tựu hành lai du[5],  thành tựu 
cả oai nghi và hành lai du[6],  thành tựu 
tín, thành tựu giới, thành tựu đa văn, thành tựu thí, thành tựu tuệ,  
thành tựu cả tín, giới, đa văn, thí, tuệ. Như vậy gọi là loại bố thí thứ
bảy cho  Tăng chúng, sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công 
đức, được quả báo  rộng lớn.       
 “Đó gọi là bảy loại bố thí cho Tăng chúng sẽ 
được đại  phước, được đại quả, được đại công đức, được quả báo rộng lớn.
  
  208.   Bố thí cho từng người
 
180. ‘Kinh Cù Đàm Di’
 “Này A-nan, thế nào gọi là mười bốn loại bố 
thí riêng  cho từng người sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công
đức, quả báo rộng  lớn?
 “Thiện nam tử hay thiện nữ có tín nhân bố thí 
cho Đức  Như Lai, bố thí cho Duyên giác, bố thí cho A-la-hán, bố thí cho
A-la-hán hướng,  bố thí cho A-na-hàm, bố thí cho A-na-hàm hướng, bố thí
cho Tư-đà-hàm, bố thí cho  Tư-đà-hàm hướng, bố thí cho Tu-đà-hoàn, bố 
thí cho Tu-đà-hoàn hướng, bố thí cho  Tiên nhân ngoại đạo ly dục, bố thí
cho người tinh tấn, bố thí cho người không  tinh tấn, bố thí cho súc 
sanh.
  
  209. 
 Bố thí như thế nào để được phước 
đức ?
 
180. ‘Kinh Cù Đàm Di’
 “Lại nữa, này A-nan, có bốn loại  bố thí và 
chỉ ba loại được thanh tịnh.
 “Những gì là bốn? (1) Có loại bố thí do thí 
chủ thanh  tịnh, không phải do người thọ nhận. (2) Có loại bố thí do 
người thọ nhận thanh  tịnh, chứ không phải do thí chủ. (3) Có loại bố 
thí không phải do thí chủ thanh  tịnh, cũng không phải do người thọ 
nhận. (4) Có loại bố thí do thí chủ thanh  tịnh và người thọ nhận cũng 
vậy.
 (1) “Này A-nan, thế nào gọi là loại bố thí do 
thí chủ  thanh tịnh, không phải do người thọ nhận? Là thí chủ thì tinh 
tấn, tu hành diệu  pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo[7].
Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự
bố thí’.  Còn người thọ nhận thì không tinh tấn, tu hành ác pháp, không
thấy có đời sau,  không thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như 
vậy, rằng ‘Không có sự bố  thí, không có quả báo của sự bố thí’. Như vậy
gọi là loại bố thí do thí chủ  thanh tịnh, không phải do người thọ 
nhậïn.
 (2) “Này A-nan, thế nào gọi là loại bố thí do 
người  thọ nhận thanh tịnh, không phải do thí chủ? Là thí chủ thì không 
tinh tấn, tu  hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả 
báo. Do thấy như vậy nên  nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không 
có quả báo của sự bố thí’. Còn  người thọ nhận thì tinh tấn, tu hành 
diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả  báo. Do thấy như vậy nên nói 
như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố  thí’. Như vậy gọi là 
loại bố thí do người thọ nhận thanh tịnh, không phải do thí  chủ.
 (3) “Này A-nan, thế nào gọi là loại bố thí 
không phải  do thí chủ thanh tịnh, cũng không phải do người thọ nhận? Là
thí chủ thì không  tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, 
không thấy có quả báo. Do thấy  như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có 
sự bố thí, không có quả báo của sự bố  thí’. Và người thọ nhận cũng 
không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời  sau, không thấy có 
quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự  bố thí, 
không có quả báo của sự bố thí’. Như vậy gọi là loại bố thí không phải  
do thí chủ thanh tịnh, cũng không phải do người thọ nhận.
 (4) “Này 
A-nan, thế  nào gọi là loại bố thí do thí chủ thanh tịnh và người thọ 
nhận cũng vậy? Là thí  chủ thì tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời 
sau, thấy có quả báo. Do thấy  như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố 
thí, có quả báo của sự bố thí’. Và người  thọ nhận cũng tinh tấn, tu 
hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do  thấy như vậy nên 
nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’. Như  vậy gọi
là loại bố thí do thí chủ thanh tịnh và người thọ nhận cũng vậy.”
  
  210. Vô  minh là nguồn 
gốc của phiền não
 
181. ‘Kinh Đa Giới
 Thế Tôn nói rằng:  “Thật
vậy, A-nan, những ai có sợ hãi, tất cả chúng đều  từ ngu si mà sanh chứ
không từ trí tuệ. Những ai vướng tai hoạn, ưu não, tất cả  chúng đều từ
ngu si mà sanh, chứ không phải từ trí tuệ. 
 “Này A-nan, cũng như lửa dậy từ  bụi lau, bụi
cỏ, cháy luôn cả lầu các, điện đường. Này A-nan, cũng vậy, những ai  có
sợ hãi, tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh chứ không từ trí tuệ. Những 
ai  vướng tai hoạn, ưu não, tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh, chứ 
không phải từ  trí tuệ.
 “Này A-nan, trong quá khứ, nếu  những ai có 
sợ hãi, tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh chứ không từ trí tuệ. Nếu  
những ai vướng tai hoạn, ưu não, tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh, chứ
không  phải từ trí tuệ.  
 “Này A-nan, trong thời vị lai, nếu những ai có
sợ hãi,  tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh chứ không từ trí tuệ. Nếu 
những ai vướng tai  hoạn, ưu não, tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh, 
chứ không phải từ trí  tuệ.              
 “Này A-nan, trong thời hiện tại, những ai có 
sợ hãi,  tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh chứ không từ trí tuệ. Những 
ai vướng tai  hoạn, ưu não, tất cả chúng đều từ ngu si mà sanh, chứ 
không phải từ trí tuệ.     “Này A-nan, đó gọi là, ngu si có sợ hãi, trí 
tuệ không sợ hãi; ngu si có vấp  ngã, tai hoạn, ưu não; trí tuệ không có
vướng tai hoạn, ưu não.
  
  211.   Thế nào gọi là  ngu si và trí tuệ
 
181. ‘Kinh Đa Giới
 “Này A-nan, nếu có Tỳ-kheo nào không biết 
giới, không  biết xứ, không biết nhân duyên, không biết thị xứ phi xứ[8].
A-nan, Tỳ-kheo như vậy là ngu si, không phải trí tuệ….
“A-nan,  nếu Tỳ-kheo
nào biết giới, biết xứ, biết nhân duyên, biết thị xứ phi xứ; A-nan,  
Tỳ-kheo như vậy là trí tuệ, không phải ngu si”.
  
  212.   Thế nào 
gọi là  xứ, phi xứ ?
 
181. ‘Kinh Đa Giới
 Nhưng, bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo biết 
thị xứ  phi xứ[9]?”
 Thế Tôn đáp: 
“Nếu Tỳ-kheo nào thấy và biết như thật về xứ là xứ, phi xứ là phi xứ. 
Này A-nan,  nếu trong đời có hai vị Chuyển luân vương cùng cai trị, 
trường hợp này hoàn toàn  không có. Nếu trong đời có một Chuyển luân 
vương cai trị, trường hợp này tất có. 
 “Này A-nan, nếu trong đời có hai Đức Như Lai, 
trường  hợp này hoàn toàn không. Nếu trong đời này có một Đức Như Lai, 
trường hợp này  tất có.
 “Này A-nan, nếu một người đã thấy đế lý[10]
mà có ý sát hại cha mẹ, giết A-la-hán, phá hoại Thánh chúng, ác tâm 
với Phật,  làm Như Lai đổ máu, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu 
một người phàm phu cố  ý hại cha mẹ, giết A-la-hán, phá hoại Thánh 
chúng, ác tâm với Phật, làm Như Lai  đổ máu, trường hợp này tất có xảy 
ra.
 “A-nan, nếu một người đã thấy đế lý mà cố tình
phạm  giới, xả giới, bỏ đạo, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu một
người phàm phu  cố ý phạm giới, xả giới, bỏ đạo, trường hợp này tất có.
 “Nếu có một người đã thấy đế lý mà xả ly nội 
đạo này,  tôn thờ ngoại đạo, mong cầu phước điền ở đó, trường hợp này 
hoàn toàn không có.  Nếu một người phàm phu xả ly nội đạo này, tôn thờ 
ngoại đạo, mong cầu phước điền  ở đó, trường hợp này tất có.
 “Này A-nan, nếu một người đã thấy đế lý mà 
theo các  Sa-môn, Phạm chí khác nói như vầy: ‘Các ngài thấy điều đáng 
thấy, biết điều đáng  biết’, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu 
người phàm phu theo các Sa-môn,  Phạm chí khác, nói rằng: ‘Các ngài thấy
điều đáng thấy, biết điều đáng biết’,  trường hợp này tất có. 
 “Này A-nan, nếu người đã thấy đế lý mà còn tin
bói  toán, hỏi cát hung, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu người 
phàm phu tin  bói toán, hỏi cát hung, trường hợp này tất có.
 “Này A-nan, nếu người đã thấy đế lý theo các 
Sa-môn,  Phạm chí khác mà bói toán, hỏi cát hung, trường hợp này hoàn 
toàn không có. Nếu  người phàm phu theo các Sa-môn, Phạm chí khác mà bói
toán, hỏi cát hung, trường  hợp này tất có. 
  
  213. Những việc tỷ kheo cần 
phải làm
 
182. ‘Kinh Mã Ấp’ (A), tham  khảo 183.
‘Kinh Mã Ấp’ (B)
 “Thế nào là pháp như thật Sa-môn và pháp như 
thật Phạm  chí?
 “Thân hành thanh tịnh, chánh đại quang minh, 
khéo léo  giữ gìn, không có tỳ vết. Nhân nơi thân hành thanh tịnh này mà
vẫn không tự đề  cao, không khinh chê người, không ô uế, không vẩn đục,
được các vị Phạm hạnh có  trí khen ngợi. Nếu các ngươi nghĩ rằng, ‘Ta 
thân hành thanh tịnh, điều cần làm  ta đã làm xong, không cần học thêm 
nữa, đã thành tựu đức nghĩa, không còn gì  phải làm thêm’, này Tỳ-kheo, 
Ta nói cho các ngươi biết, không để các ngươi mong  cầu nghĩa của Sa-môn
mà lạc mất nghĩa của Sa-môn.
 “Như muốn cầu học tiến thêm nữa, Tỳ-kheo nếu 
thân đã  thanh tịnh lại phải làm những gì? Phải học khẩu hành thanh 
tịnh, chánh đại quang  minh, khéo léo giữ gìn, không có tỳ vết. Nhân nơi
khẩu hành thanh tịnh này mà  vẫn không tự đề cao, không khinh chê 
người, không ô uế, không vẩn đục, được các  vị Phạm hạnh có trí khen 
ngợi. Nếu các thầy nghĩ rằng, ‘Ta thân, khẩu hành thanh  tịnh, điều cần 
làm ta đã làm xong, không cần học thêm nữa, đã thành tựu đức  nghĩa, 
không còn gì phải làm thêm’, này Tỳ-kheo, Ta nói cho các ngươi biết,  
không để các ngươi mong cầu nghĩa của Sa-môn mà lạc mất nghĩa của 
Sa-môn.
 “Như muốn cầu tiến thêm nữa, Tỳ-kheo nếu thân,
khẩu đã  thanh tịnh, lại phải làm những gì? Phải học ý hành thanh tịnh,
chánh đại quang  minh, khéo léo giữ gìn, không có tỳ vết. Nhân nơi ý 
hành thanh tịnh này mà vẫn  không tự đề cao, không khinh chê người, 
không ô uế, không vẩn đục, được các vị  Phạm hạnh có trí khen ngợi. Nếu 
các ngươi nghĩ rằng, ‘Ta thân, khẩu, ý hành  thanh tịnh, điều cần làm ta
đã làm xong, không cần học thêm nữa, đã thành tựu  đức nghĩa, không còn
gì phải làm làm thêm’, này Tỳ-kheo, Ta nói cho các ngươi  biết, không 
để các ngươi mong cầu nghĩa của Sa-môn mà lạc mất nghĩa của Sa-môn.
 “Như muốn cầu tiến thêm nữa, Tỳ-kheo nếu thân,
khẩu, ý  đã thanh tịnh, lại phải làm những gì? Phải học mạng hành thanh
tịnh[11],
chánh đại quang minh, khéo léo giữ gìn, không có tỳ vết. Nhân nơi mạng
hành  thanh tịnh này mà vẫn không tự đề cao, không khinh chê người, 
không ô uế, không  vẩn đục, được các vị Phạm hạnh có trí khen ngợi. Nếu 
các ngươi nghĩ rằng, ‘Ta  thân, khẩu, ý, mạng hành thanh tịnh, điều cần 
làm ta đã làm xong, không cần học  thêm nữa, đã thành tựu đức nghĩa, 
không còn gì làm phải làm thêm’, này Tỳ-kheo  Ta nói cho các ngươi biết,
không để các ngươi mong cầu nghĩa của Sa-môn mà lạc  mất nghĩa của 
Sa-môn.
 “Như muốn cầu học tiến thêm nữa, Tỳ-kheo nếu 
thân,  khẩu, ý, mạng đã thanh tịnh, lại phải làm những gì? Tỳ-kheo phải 
học thủ hộ các  căn, thường niệm sự khép kín, niệm tưởng muốn minh đạt, 
thủ hộ niệm tâm mà được  thành tựu, hằng mưốn khởi ý. Khi mắt thấy sắc, 
không chấp thủ sắc tướng, không  đắm sắc vị; vì sự phẫn tránh[12]
mà thủ hộ căn con mắt, trong tâm không sanh tham lam, ưu não, ác bất 
thiện pháp,  vì thú hướng đến kia[13],
nên thủ hộ căn con mắt. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, khi ý biết 
pháp không  chấp thủ pháp tướng, không đắm pháp vị; vì sự phẫn tránh mà 
thủ hộ ý căn, trong  tâm không sanh tham lam, ưu não, ác bất thiện pháp,
vì thú hướng đến kia, nên  thủ hộ ý căn. Nếu các ngươi nghĩ rằng, ‘Ta 
thân, khẩu, ý, mạng hành thanh tịnh,  thủ hộ các căn, điều cần làm ta đã
làm xong, không cần học thêm nữa, đã thành  tựu đức nghĩa, không còn gì
làm phải làm thêm’, này Tỳ-kheo, Ta nói cho các  ngươi biết, không để 
các thầy mong cầu cứu cánh của Sa-môn mà lạc mất cứu cánh  của Sa-môn.
 “Như muốn cầu học tiến thêm nữa, Tỳ-kheo nếu 
thân,  khẩu, ý, mạng đã thanh tịnh, đã thủ hộ các căn, lại phải làm 
những gì? Tỳ-kheo  phải học chánh tri khi ra, khi vào, khéo quán sát 
phân biệt; co duỗi, cúi ngước,  nghi dung chững chạc; khéo mang 
Tăng-già-lê và các y bát; đi, đứng, ngồi, nằm,  ngủ, thức, nói năng hay 
im lặng... đều có chánh tri. Nếu các ngươi nghĩ rằng,  ‘Ta thân, khẩu, 
ý, mạng hành thanh tịnh, thủ hộ các căn, có chánh tri khi ra,  khi vào, 
điều cần làm ta đã làm xong, không cần học thêm nữa, đã thành tựu đức  
nghĩa, không còn gì phải làm thêm’, này Tỳ-kheo, Ta nói cho các ngươi 
biết,  không để các ngươi mong cầu nghĩa của Sa-môn mà lạc mất nghĩa của
Sa-môn.
 “Như muốn cầu học tiến thêm nữa, Tỳ-kheo nếu 
thân,  khẩu, ý, mạng đã thanh tịnh, đã thủ hộ các căn, đã biết rõ sự ra 
vào, lại phải  làm những gì? Tỳ-kheo nên học sống cô độc tại nơi xa 
vắng, ở trong rừng vắng,  dưới gốc cây, những nơi không nhàn yên tĩnh, 
sườn non, động đá, đất trống, lùm  cây, hoặc vào trong rừng, hoặc giữa 
bãi tha ma. Vị ấy sau khi ở trong rừng vắng,  hoặc dưới gốc cây, những 
nơi không nhàn yên tĩnh, trải ni-sư-đàn, ngồi kiết già,  chánh thân 
chánh nguyện[,  
hướng niệm nội tâm, đoạn trừ tâm tham lam, tâm không tranh cãi, thấy tài
vật và  các nhu dụng sinh sống của người khác mà không khởi lòng tham 
muốn, muốn khiến  về mình. Vị ấy đối với sự tham lam, tâm đã tịnh trừ. 
Cũng vậy, sân nhuế, thùy  miên, trạo hối, đoạn nghi trừ hoặc, đối với 
các thiện pháp không có do dự. Vị ấy  đối với sự nghi hoặc, tâm đã tịnh 
trừ. Vị ấy đã đoạn trừ năm triền cái, những  thứ làm ô uế, tuệ yếu kém, 
rồi ly dục, ly pháp ác bất thiện, cho đến chứng đắc  đệ Tứ thiền, thành 
tựu an trụ.
 “Tỳ-kheo với định tâm như vậy, thanh tịnh, 
không ô uế,  không phiền nhiệt, nhu nhuyến, khéo an trụ, chứng đắc tâm 
bất động, bèn hướng  đến sự tác chứng Lậu tận trí thông. Vị ấy liền biết
như thật rằng, ‘Đây là Khổ’,  ‘Đây là Khổ tập’, ‘Đây là Khổ diệt’, ‘Đây
là Khổ diệt đạo’. Cũng biết như thật  ‘Đây là Lậu’, ‘Đây là Lậu tập’, 
‘Đây là Lậu diệt’, ‘Đây là Lậu diệt đạo’.  Tỳ-kheo ấy đã biết như vậy, 
thấy như vậy rồi, tâm giải thoát dục lậu, hữu lậu,  vô minh lậu. Giải 
thoát rồi liền biết là mình đã giải thoát, biết như thật rằng  ‘Sự sanh 
đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh 
nữa’. Ta nói vị ấy là Sa-môn, là Phạm chí, là Thánh, là Tịnh dục.
  
   214. Các 
đại đệ tử có quan điểm khác nhau về việc làm thế nào để cho Phật pháp 
được hưng  thịnh
 
184. ‘Kinh Ngưu giác Sa La  Lâm’
 Tôn giả A-nan đáp rằng:  “Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo học rộng, nghe  nhiều, 
nhớ mãi không quên, tích lũy sự nghe nhiều. Với những pháp sơ khởi vi  
diệu, khoảng giữa vi diệu và kết thúc cũng vi diệu, có nghĩa lý, có văn 
chương,  toàn vẹn thanh tịnh, hiển hiện phạm hạnh; những pháp như vậy 
được vị ấy học  rộng, nghe nhiều, tụng tập đến ngàn lần, chuyên ý tư 
duy, kiến giải thông suốt.  Vị ấy thuyết pháp gọn gàng, lưu loát, hoàn 
toàn tương ưng với mục đích đoạn trừ  các kết sử. Thưa Tôn giả Xá-lê Tử,
vị Tỳ-kheo như thế làm rực sáng khu rừng Ngưu  giác sa-la này.”
 Tôn giả Xá-lê Tử hỏi:  “…
Hiền giả Ly-việt-đa, những Tỳ-kheo nào làm rực sáng  khu rừng Ngưu giác
sa-la?”
 Tôn giả Ly-việt-đa đáp rằng :
 “Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo ưa yển 
tọa[14],
bên trong tu hành nội tâm tĩnh chỉ[15],
không bỏ tọa thiền, thành tựu quán tưởng, thường thích nhàn cư, ưa chỗ
yên tĩnh.  Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu 
rừng Ngưu giác  sa-la.”
 Tôn giả Xá-lê Tử lại hỏi:“…Hiền giả 
A-na-luật-đà,  những Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu giác sa-la?”
 Tôn giả A-na-luật-đà đáp rằng:  “Tôn giả Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo đạt được thiên nhãn,  thành 
tựu thiên nhãn, ở trong một ngàn thế giới, với một ít phương tiện, vị ấy
trong chốc lát có thể thấy tất cả. Tôn giả Xá-lê Tử, ví như người có 
mắt ở trên  lầu cao nhìn xuống khu đất trống có một ngàn gò nỗng với một
ít phương tiện, vị  ấy trong chốc lát có thể thấy tất cả. Tôn giả Xá-lê
Tử, cũng vâïy, nếu Tỳ-kheo  có được thiên nhãn, thành tựu thiên nhãn, ở
trong một ngàn thế giới với một ít  phương tiện, vị ấy trong chốc lát 
có thể thấy tất cả. Tôn giả Xá-lê Tử, vị  Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng 
khu rừng Ngưu giác sa-la.”
 Tôn giả Xá-lê Tử lại hỏi:  “…Hiền giả Ca-chiên-diên, những Tỳ-kheo nào làm rực  sáng khu 
rừng Ngưu giác sa-la?”
 Tôn giả Ca-chiên-diên đáp rằng: “Tôn giả Xá-lê
Tử, ví  như hai Tỳ-kheo pháp sư cùng bàn luận về A-tỳ-đàm thâm áo. 
Những điều được hỏi  đều được thấu hiểu tường tận, những lời giải đáp 
thì thông suốt, sự thuyết pháp  thì lưu loát. Tôn giả Xá-lê Tử, vị 
Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu  giác sa-la.” 
 Tôn giả Xá-lê Tử lại hỏi: “.. Hiền giả Đại 
Ca-diếp,  những Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu giác sa-la?”
 Tôn giả Đại Ca-diếp đáp rằng:  “Hiền giả Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo tự mình sống nơi vô  sự[16]
khen ngợi ở nơi vô sự; tự mình có thiểu dục, khen ngợi sự thiểu dục; 
tự mình tri  túc, khen ngợi sự tri túc; tự mình thích sống cô độc viễn 
ly và khen ngợi cô độc  viễn ly; tự mình tu hành tinh tấn, khen ngợi sự 
tu hành tinh tấn; tự mình lập  chánh niệm chánh trí, khen ngợi sự lập 
chánh niệm chánh trí; tự mình đắc định,  khen ngợi sự đắc định; tự mình 
có trí tuệ, khen ngợi sự có trí tuệ; tự mình các  lậu đã sạch, khen ngợi
các lậu đã sạch; tự mình khuyến phát khát ngưỡng, thành  tựu hoan hỷ, 
khen ngợi khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Hiền giả  Xá-lê 
Tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu giác sa-la. 
 Tôn giả Xá-lê Tử lại hỏi:  “…Hiền giả Đại Ca-diếp, những Tỳ-kheo nào làm rực sáng  khu rừng
Ngưu giác sa-la?”
 Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đáp rằng:  “Tôn giả Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo nào có đại như ý  túc, có đại 
oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, được tự tại vô lượng như  ý 
túc, thực hành vô lượng như ý túc, có thể biến một thành nhiều, hợp 
nhiều làm  thành một, một thì trụ trên một, được biết, được thấy; không 
bị trở ngại bởi  vách đá, cũng như đi trong hư không; chìm xuống đất như
chìm xuống nước, đi trên  nước như đi trên đất; ngồi xếp kiết già mà 
bay trên không như chim bay liệng;  với mặt trời và mặt trăng này vốn có
đại như ý túc, đại phước hựu, đại oai thần  mà có thể đưa tay bắt nắm, 
thân cao đến trời Phạm thiên. Tôn giả Xá-lê Tử, vị  Tỳ-kheo như vậy làm 
rực sáng khu rừng Ngưu giác sa-la.” 
 Tôn giả Đại Mục-kiền-liên hỏi:  “Tôn giả Xá-lê Tử, tôi và các vị Thượng tôn mỗi người  đã tự nói
theo sự hiểu biết của mình. Bây giờ tôi hỏi Tôn giả Xá-lê Tử, ‘Khả ái  
thay, rừng Ngưu giác sa-la này, ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều
tỏa  hương thơm ngát, ví như hoa trời’. Hiền giả Đại Ca-diếp, những 
Tỳ-kheo nào làm  rực sáng khu rừng Ngưu giác sa-la?”
 Tôn giả Xá-lê Tử đáp rằng:  “Hiền giả Mục-kiền-liên, nếu có Tỳ-kheo tùy dụng tâm  tự tại, 
chứ không phải tùy tâm[17].
Nếu muốn trú định nào, vị ấy vào buổi sáng an trú định ấy. Nếu muốn an
trú trụ  định vào buổi trưa hay buổi chiều, tức thì vị ấy an trú trụ 
định ấy vào buổi  trưa hay buổi chiều. Hiền giả Mục-kiền-liên, ví như y 
phục của vua và các quan  rất nhiều màu sắc rực rỡ, nếu họ muốn mặc thứ 
nào vào buổi sáng, liền lấy mặc  vào. Nếu họ muốn mặc thứ nào vào buổi 
trưa hay buổi chiều, liền lấy mặc. Hiền  giả Mục-kiền-liên, cũng vậy, 
nếu có Tỳ-kheo nào tùy dụng tâm tự tại, chứ không  phải tùy tâm. Nếu 
muốn trú định nào, vị ấy vào buổi sáng an trú định ấy. Nếu  muốn an trú 
trụ định vào buổi trưa hay buổi chiều, tức thì vị ấy an trú trụ định  ấy
vào buổi trưa hay buổi chiều. Hiền giả Mục-kiền-liên, vị Tỳ-kheo như 
vậy làm  rực sáng khu rừng Ngưu giác sa-la.”
  
 215. Hoà hợp thanh tịnh
 
185. ‘Kinh Ngưu Giác Sa La  Lâm’ (B)
 “Này A-na-luật-đà, vì sao ông  được an ổn, 
không có gì thiếu thốn?”
 Tôn giả A-na-luật-đà bạch rằng:  “Bạch Thế Tôn, con nghĩ rằng con nhờ có thiện 
lợi, có đại công đức, vì con  tu tập cùng với các vị phạm hạnh như vậy. 
Bạch Thế Tôn, con thường hướng đến các  vị phạm hạnh này để tu thân 
nghiệp từ hòa, thấy nhau hay không thấy nhau cũng  như vậy; và tu khẩu 
nghiệp từ hòa, ý nghiệp từ hòa, thấy nhau hay không thấy  nhau cũng như 
vậy. Bạch Thế Tôn, con tự nghĩ, ‘Nay ta hãy tự xả bỏ tâm mình mà  tùy 
theo tâm các Hiền giả này’. Rồi con xả bỏ tâm mình để tùy theo tâm các 
Hiền  giả này. Con chưa từng có một điều gì mà không xứng ý. Bạch Thế 
Tôn, con nhờ như  vậy mà thường được an ổn, không có gì thiếu thốn”.
  
   216. Làm  thế nào để biết một vị 
khác có thực tu thực chứng hay không ?
 
186. ‘Kinh Cầu giải’
 Thế Tôn bảo rằng:  “Duyên
nơi ý của mình mà không biết như thật về tâm  trí của người khác, phải 
do hai sự kiện để tìm hiểu Như Lai, một là sắc được  biết bởi mắt và hai
là tiếng được nghe bởi tai.
 “Pháp ô nhiễm được biết bởi mắt và  tai, có 
hay không có nơi Tôn giả ấy?  Sau khi tìm 
hiểu, biết rằng pháp ô nhiễm được biết bởi mắt và tai không có nơi  Tôn 
giả ấy. Nếu ở đây không có, lại phải tìm hiểu nữa.
 “Pháp hỗn tạp được biết bởi mắt và tai có hay 
không có  nơi Tôn giả ấy? Sau khi tìm hiểu, biết rằng những pháp hỗn tạp
được biết bởi mắt  và tai không có nơi Tôn giả ấy. Nếu ở đây không có, 
phải tìm hiểu thêm nữa.
 “Pháp bạch tịnh được biết bởi mắt và tai, có 
hay không  có nơi Tôn giả ấy? Sau khi tìm hiểu, biết rằng pháp bạch tịnh
được biết bởi mắt  và tai có nói Tôn giả ấy. Nếu ở đây có, lại phải tìm
nữa.
 “Tôn giả ấy đã thực hành pháp ấy lâu dài hay 
chỉ thực  hành tạm thời? Nếu khi tìm hiểu, biết rằng Tôn giả ấy thực 
hành pháp ấy lâu dài  chứ không phải tạm thời. Nếu là thường thực hành, 
lại phải tìm hiểu thêm nữa.
 “Tôn giả ấy nhập vào thiền này vì danh dự, vì 
lợi  nghĩa, hay không vì danh dự và lợi nghĩa? Nếu khi tìm hiểu, biết 
rằng Tôn giả ấy  nhập vào thiền này không phải vì tai hoạn .…
 “Ở đây, lại cần hỏi thêm vị ấy rằng, ‘Này Hiền
giả, do  hành vi nào, do năng lực nào, do trí tuệ nào để Hiền giả có 
thể biết tường tận  pháp một, đối với các pháp mà chứng đắc cứu cánh, 
tịnh tín nơi Thế Tôn, biết  rằng ‘Thế Tôn là vị Chánh Đẳng Giác?’ Vị ấy 
sẽ trả lời như vầy, ‘Này Hiền giả,  tôi không biết tâm của Thế Tôn, cũng
không do sự kiện nào khác mà biết. Tôi do  nơi Thế Tôn mà có tịnh tín 
như vậy. Thế Tôn nói pháp cho tôi nghe, pháp cao siêu  càng lúc càng cao
siêu, pháp vi diệu càng lúc càng vi diệu, khéo đoạn trừ hắc  bạch. Này 
Hiền giả, như Thế Tôn nói pháp cho tôi nghe, và tôi nghe như vậy như  
vậy, Như Lai nó pháp cho tôi nghe, pháp cao siêu càng lúc càng cao siêu,
pháp vi  diệu càng lúc càng vi diệu, khéo đoạn hắc bạch, và tôi nghe 
như vậy như vậy rồi,  biết tường tận pháp một, đối với các pháp mà chứng
đắc cứu cánh, tịnh tín nơi  Thế Tôn, biết rằng ‘Thế Tôn là vị Chánh 
Đẳng Giác’. Này Hiền giả, tôi do hành vi  như vậy, năng lực như vậy, trí
tuệ như vậy, khiến tôi biết tường tận pháp một,  đối với các pháp mà 
chứng đắc cứu cánh, tịnh tín nơi Thế Tôn, biết rằng ‘Thế Tôn  là vị 
Chánh Đẳng Giác’.’
  
  217.   Quan điểm của Phật về ‘Nhất 
thiết  trí, nhất thiết kiến’
 
 188. 
‘Kinh A Di Na’
 Đức Thế Tôn lại hỏi rằng: “A-di-na,
thế nào là  Sa-môn Man-đầu thật sự tư duy với năm trăm tư duy; nếu có 
dị học, Sa-môn, Phạm  chí nào là vị nhất thiết tri, nhất thiết kiến, tự 
cho là “Ta biết không sót cái  gì’, nhưng nếu có lầm lẫn thì cũng phải 
tự nhận là lầm lẫn?”
 Dị học A-di-na, đệ tử của Sa-môn Man-đầu, đáp 
rằng: “Thưa 
Cù-đàm! Sa-môn Man-đầu nói như vầy,  ‘Nếu khi đi, khi đứng, khi nằm, khi
ngồi, khi ngủ, khi thức, lúc tối hay ban  ngày vẫn thường không chướng 
ngại tri kiến. Nhưng cũng có khi gặp voi chạy càn,  ngựa phóng đại, xe 
ruỗi nhanh, lính bại trận, con trai chạy trốn, con gái chạy  trốn, hoặc 
đi trên con đường nào đó mà gặp voi dữ, ngựa dữ, bò dữ, chó dữ, hoặc  
gặp ổ rắn, hoặc bị ném đất, hoặc bị gậy đánh, hoặc lọt xuống rãnh, hoặc 
rơi vào  hầm xí, hoặc đạp lên bò đang nằm, hoặc sa xuống hầm sâu, hoặc 
đâm vào bụi gai,  hoặc thấy thôn ấp mà phải hỏi tên đường, hoặc gặp kẻ 
trai người gái phải hỏi họ  hỏi tên, hoặc nhìn lầm nhà trống, hoặc vào 
dòng họ nào đó và khi vào rồi được  hỏi rằng: ‘Ông ở đâu đến?’ Ta đáp 
rằng, ‘Này chư Hiền, tôi đi lộn đường’.’
Thưa Cù-đàm! Sa-môn Man-đầu đại  loại như vậy,
tư duy với năm trăm tư duy, và nếu có dị học Sa-môn, Phạm chí nào  là 
bậc nhất thiết trí, nhất thiết kiến, tự cho rằng: “Ta biết không sót cái
gì’,  nhưng vị ấy cũng có những lầm lẫn như vậy.”….
 Đức Phật lại bảo rằng: “Có hai chúng, 
một là chúng pháp, hai là chúng phi  pháp.
 “Sao gọi là chúng phi pháp? Hoặc có người làm 
việc phi  pháp, nói lời phi pháp và chúng ấy cũng làm việc phi pháp, nói
lời phi pháp.  Người phi pháp ấy đứng đầu trong chúng phi pháp, theo 
những điều chính mình đã  biết, nhưng lại bằng những lời hư vọng, không 
chân thật mà hiển thị, phân biệt,  quy định hành vi, lưu bố, tuần tự 
thuyết pháp, muốn đoạn trừ sự xấu xa trong tâm  ý người khác, bị cật vấn
thì không thể trả lời được. Đối với trong Chánh pháp  luật không thể 
xứng lập những điều chính mình đã biết. Nhưng người phi pháp đứng  đầu 
trong chúng phi pháp, tự cho là ‘Ta có trí tuệ, hiểu biết tất cả’. Ở nơi
nào  mà sự kiện trí tuệ được nói đến như vậy, ở đó được gọi là chúng 
phi pháp.
 “Sao gọi là chúng pháp? Hoặc có người làm đúng
pháp,  nói như pháp và chúng ấy cũng làm đúng pháp, nói như pháp. Người
đúng pháp ấy  đứng đầu trong chúng pháp, theo những điều chính mình đã 
biết, không bằng những  lời hư vọng mà bằng sự chắc thật, hiển thị, phân
biệt, quy định hành vi, lưu bố,  tuần tự thuyết pháp, muốn đoạn trừ sự 
xấu xa trong tâm ý người khác, khi bị cật  vấn thì có thể trả lời được, 
đối với Chánh pháp luật có thể xứng lập những điều  chính mình đã biết, 
và người ấy đứng đầu trong chúng pháp, tự cho là ta có trí  tuệ, hiểu 
biết tất cả’. Ở nơi nào mà sự kiện trí tuệ được nói đến như vậy, ở đó  
được gọi là chúng pháp.
 “Cho nên, các ngươi nên biết pháp và phi pháp,
nghĩa  và phi nghĩa. Sau khi đã chứng biết pháp và phi pháp, nghĩa và 
phi nghĩa rồi,  các ngươi nên học pháp như thật và nghĩa như thật.”
 Phật thuyết như vậy rồi, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy,  vào tịnh thất tĩnh tọa…….
 Này chư Hiền, vậy hãy cùng nghe tôi nói.
 “Này chư Hiền, tà kiến là phi pháp, chánh kiến
là  pháp. Nếu điều nào nhân bởi tà kiến mà sanh ra vô lượng pháp ác bất
thiện, đó  gọi là phi nghĩa. Nếu nhân bởi chánh kiến mà sanh ra vô 
lượng pháp thiện, đó gọi  là nghĩa.
 “Này chư Hiền, cho đến tà trí là phi pháp, 
chánh trí  là pháp. Nếu nhân bởi tà trí mà sanh ra vô lượng pháp ác bất 
thiện, đó gọi là  phi nghĩa. Nếu nhân bởi chánh trí mà sanh ra vô lượng 
pháp thiện, đó gọi là  nghĩa.
196. ‘Kinh Châu Na’
  “Này A-nan, ý ngươi nghĩ sao đối với pháp tụ 
mà Ta tự  giác, tự thân chứng ngộ, gồm Bốn niệm xứ, Bốn như ý túc, Năm 
căn, Năm lực, Bảy  giác chi, Tám chi thánh đạo? “Này A-nan, Ni-kiền Thân
Tử thật sự không phải là  Nhất thiết trí nhưng tự cho là Nhất thiết 
trí.“Này A-nan, nếu Ni-kiền Thân Tử là  vị biết tất cả, thấy tất cả thì 
vị ấy đã vì đệ tử mà giảng giải sáu gốc rễ của  đấu tranh; nghĩa là, có 
thể nghe để đình chỉ
 212. ‘Kinh Nhất
thiết trí ’
Ba-tư-nặc
vua nước Câu-tát-la hỏi rằng:
“Bạch 
Cù-đàm, con nghe Sa-môn Cù-đàm nói như vầy, ‘Trong  quá khứ không có, 
trong tương lai không, và hiện tại cũng không có, không có  Sa-môn Phạm 
chí nào là bậc nhất thiết trí, nhất thiết kiến’. Bạch Cù-đàm, Ngài  đã 
nhớ là đã nói như vậy chăng?
Thế Tôn 
đáp rằng:
“Này Đại 
vương, Ta không nhớ là đã nói như vậy, ‘Trong quá  khứ không có, trong 
tương lai không có, và hiện tại không có, không có Sa-môn  Phạm chí nào 
là bậc nhất thiết trí, nhất thiết kiến’.”
Lúc đó 
Đại tướng Bệ-lưu-la[5]  
đứng sau lưng Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la, cầm phất trần hầu vua. Rồi 
Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la quay lại nói với Đại tướng Bệ-lưu-la 
rằng:
“Hôm 
trước Ta ngồi với đại chúng, ai là người đầu tiên nói  rằng, ‘Sa-môn 
Cù-đàm nói như vầy, ‘Trong quá khứ không có, trong tương lai không  có 
và trong hiện tại cũng không có, không có Sa-môn Phạm chí nào là bậc 
nhất  thiết trí, nhất thiết kiến’?”
Đại tướng
Bệ-lưu-la đáp rằng:
“Tâu 
Thiên vương, có Tưởng Niên Thiếu Cát Tường Tử[6]  
là người đầu tiên nói như vậy.”
Ba-tư-nặc
vua nước Câu-tát-la nghe xong, bảo một người  rằng: “Ngươi đến chỗ 
Tưởng Niên Thiếu Cát Tường Tử nói như vầy, ‘Ba-tư-nặc vua  nước 
Câu-tát-la cho gọi ông’.”
Người ấy 
lãnh giáo, đi đến chỗ Tưởng Niên Thiếu Cát Tường  Tử bảo như vầy:
“Này Niên
Thiếu, Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la cho gọi  ông.”
Sau khi người ấy đi,  Ba-tư-nặc vua nước 
Câu-tát-la bạch Thế Tôn:
“Bạch 
Sa-môn Cù-đàm, có thể có những lời nói khác, nhưng  được ghi nhớ khác. 
Bạch Cù-đàm, ngài có nhớ đã nói những gì chăng?”
Thế Tôn 
đáp rằng:
“Này Đại 
vương, Ta nhớ đã từng nói như vầy, ‘Trong quá khứ  không có, trong tương
lai không có, trong hiện tại cũng không có, không có  Sa-môn Phạm chí 
nào trong một thời[7]  
biết tất cả, trong một thời thấy tất cả’. Này Đại vương, Ta nhớ đã nói 
như vậy.”
  
 218.  8 chánh đạo
189.
‘Kinh Thánh Đạo’
 
  219. Khái  niệm ‘không’ 
trong Kinh A hàm
 
190. ‘Kinh Tiểu Không’
 “Này A-nan, như giảng đường Lộc tử mẫu này 
trống  không, không có voi, ngựa, bò, dê, tài vật, lúa thóc, nô tỳ; 
nhưng có cái không  trống không. Đó là chỉ có chúng Tỳ-kheo. Cho nên, 
này A-nan, nếu trong đó không  có gì cả thì chính do đó mà Ta thấy là 
trống không. Nếu trong này còn có cái  khác thì Ta thấy là chân thật có.
Này A-nan, đó là hành trong sự chân thật,  không tánh, sự không điên 
đảo[18].
 “Này A-nan, Tỳ-kheo nào nếu muốn  hành nhiều 
trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác đến ý tưởng về xóm làng, đừng  tác
ý đến ý tưởng về người, mà hằng tác ý đến ý tưởng về duy nhất tánh là ý
tưởng về khu rừng[19].  Vị ấy 
nhận biết như vầy, ‘Trống không ý tưởng về xóm làng, trống không ý tưởng
về người, nhưng có một cái không trống không, đó là duy nhất tánh do ý
tưởng về  khu rừng. Nếu có sự phiền nhọc do ý tưởng về xóm làng, thì ở 
đây ta không có sự  ấy. Nếu có sự phiền nhọc do ý tưởng về người, thì ở 
đây ta không có sự ấy. Ở đây  chỉ có sự phiền nhọc là do duy nhất tánh ý
tưởng về khu rừng’. Nếu trong đó  không có gì cả thì, thì chính do đó 
mà vị ấy thấy đó là trống không. Nếu trong  này còn có cái khác, thì vị 
ấy thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là hành trong  sự chân thật, 
không tánh, sự không điên đảo.
 “Lại nữa, này A-nan, Tỳ-kheo nếu  muốn hành 
nhiều trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác ý đến ý tưởng về người,  
đừng tác ý đến ý tưởng khu rừng mà hằng tác ý đến duy nhất tánh là ý 
tưởng về  đất. Tỳ-kheo ấy nếu thấy đất này có cao có thấp, có ổ rắn, có 
bụi gai, có cát,  có đá, núi chởm, sông sâu thì chớ có tác ý đến. Nếu 
thấy đất này bằng phẳng như  lòng bàn tay, chỗ trông ra được rõ ràng, 
thì hãy thường tác ý đến….
 191. ‘Kinh Đại Không’
 …Này A-nan, như vậy, Tỳ-kheo giữ vững nội tâm 
an trụ,  tĩnh chỉ, khiến cho chuyên nhất và định rồi, hãy tác ý về nội 
không. Vị ấy sau  khi tác ý về nội không rồi, mà tâm bèn di động, không 
hướng đến gần, không được  trong vắt, không an trụ, không giải thoát đối
với nội không, Tỳ-kheo ấy hãy tác  ý về ngoại không. Vị ấy sau khi tác ý
về ngoại không rồi, tâm bèn di động, không  hướng đến gần, không được 
trong vắt, không an trụ, không giải thoát đối với  ngoại không.
 “Này A-nan, nếu Tỳ-kheo trong lúc quán, biết 
rằng mình  đang tác ý về ngoại không mà tâm di động, không hướng đến 
gần, không an trụ,  không giải thoát đối với ngoại không, Tỳ-kheo ấy hãy
tác ý về nội ngoại không.  Vị ấy sau khi suy niệm về nội ngoại không 
rồi mà tâm bèn di động, không hướng  đến gần, không trong vắt, không an 
trụ, không giải thoát đối với nội ngoại  không. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo 
trong lúc lúc quán mà biết rằng mình đang suy niệm  về nội ngoại không 
mà tâm di động, không hướng đến gần, không được trong vắt,  không an 
trụ, không giải thoát đối với nội ngoại không, Tỳ-kheo ấy hãy tác ý về  
sự không di động. ….
  
  220.   Thế nào gọi là  phụng sự chánh pháp
  
 191. ‘Kinh Đại Không’
 Đức Phật nói: “Này A-nan, không phải 
chỉ vì chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết mà một  tín đệ tử đi theo Thế Tôn 
để hành phụng sự cho đến trọn đời. Này A-nan, hoặc từ  lâu vị ấy đã từng
nghe pháp này, tụng tập đến cả ngàn, chuyên ý tư duy quán sát,  thấy 
rõ, thấu triệt sâu xa. Nếu vấn đề này là Thánh luận tương ưng với cứu 
cánh,  khiến tâm nhu hòa, không có những che lấp, tức các vấn đề bố thí,
vấn đề giới,  vấn đề định, vấn đề tuệ, vấn đề giải thoát, vấn đề giải 
thoát tri kiến, vấn đề  tiệm giảm, vấn đề không tụ hội, vấn đề thiểu 
dục, vấn đề tri túc, vấn đề vô dục,  vấn đề đoạn, vấn đề diệt, vấn đề 
tĩnh tọa, vấn đề duyên khởi. Những vấn đề mà  Sa-môn luận bàn như vậy, 
được dễ dàng chứ không khó. Do ý nghĩa này mà một tín  đệ tử đi theo Thế
Tôn để hành phụng sự cho đến trọn đời. Này A-nan, như vậy là  phiền lụy[20]
cho Tôn sư, phiền lụy cho đệ tử, phiền lụy cho các vị đồng phạm hạnh.
 “Này A-nan, thế nào là phiền lụy cho Tôn sư? 
 “Ở đây, một vị Tôn sư xuất thế, có sách lự tư 
duy,  bằng tâm trạng sách lự mà quán sát các loại phàm nhân. Có biện 
tài, vị ấy đi đến  nơi rừng vắng, trong rừng sâu, dưới gốc cây, hoặc ở 
trên sườn cao, vắng bặt  không tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, 
không có bóng người, tùy thuận mà  tĩnh tọa, hoặc sống tại nơi đó mà học
sự viễn ly, tinh cần, được tăng thượng  tâm, sống an lạc ngay trong đời
hiện tại.
 “Vị ấy sau khi học sự viễn ly, tinh cần, sống 
an ổn  khoái lạc, rồi theo các đệ tử trở về với các Phạm chí, Cư sĩ, 
phong ấp, quốc  nhân. Vị ấy sau khi theo đệ tử trở về, với các Phạm chí,
Cư sĩ, phong ấp, quốc  nhân, bèn tự cao mà trở về nhà. Như vậy là phiền
lụy cho Tôn sư và cũng bị phiền  lụy bởi các pháp ác bất thiện, ô uế, 
là gốc rễ cho sự hữu trong tương lai, phiền  nhiệt, khổ báo, nhân của 
sanh-già-bệnh-chết; đó là phiền lụy cho Tôn sư.  
 “Này A-nan, thế nào là sự phiền lụy cho đệ tử?
Đệ tử  của vị Tôn sư ấy học sự viễn ly của vị ấy, vị ấy sống nơi rừng 
vắng, trong rừng  sâu, dưới gốc cây, trên sườn non, vắng bặt không tiếng
động, xa lánh, không có  sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh 
tọa, hoặc sống tại nơi đó mà học  sự viễn ly, tinh cần, được tăng thượng
tâm, sống an lạc ngay trong đời hiện tại  này. Vị ấy sau khi học sự 
viễn ly, tinh cần, sống an ổn khoái lạc rồi, bèn theo  đệ tử trở về với 
các Phạm chí, Cư sĩ, phong ấp, quốc nhân. Vị ấy sau khi theo đệ  tử về 
với các Phạm chí, Cư sĩ, phong ấp, quốc nhân rồi, bèn tự cao mà trở về  
nhà. Như vậy là làm phiền lụy cho đệ tử, và cũng bị phiền lụy bởi các 
pháp ác,  bất thiện, gốc rễ của sự hữu trong tương lai, phiền nhiệt, khổ
báo, nhân của  sanh-già-bệnh-chết. Đó là phiền lụy cho đệ tử….
 Này A-nan, thế nào là đệ tử đối với Tôn sư mà 
gây sự  oán hận, không hành sự từ hòa? 
 “Nếu Tôn sư thuyết pháp cho đệ tử, là vì 
thương yêu,  lo lắng, mong cầu thiện lợi và phước lành, mong cầu sự an 
ổn khoái lạc cho đệ tử  mà phát khởi từ bi tâm, nói rằng, ‘Đây là điều 
hữu ích. Đây là sự an lạc. Đây là  sự hữu ích an lạc’. Nếu đệ tử ấy mà 
không cung kính, cũng không tùy thuận theo,  không an trụ nơi chánh trí,
tâm không hướng đến pháp tùy, pháp hành, không thọ  lãnh chánh pháp, 
trái phạm những điều Tôn sư dạy, không được định, đệ tử như vậy  là đối 
với Tôn sư mà gây sự oán hận, không hành sự từ hòa.
 “Nếu Tôn sư thuyết pháp cho đệ tử, thương yêu,
lo  lắng, mong cầu thiện lợi và an lành, mong cầu sự an ổn khoái lạc 
cho đệ tử phát  khởi từ bi tâm mà nói rằng, ‘Đây là điều hữu ích. Đây là
sự an lạc. Đây là sự  hữu ích an lạc’. Nếu đệ tử thuận hành theo, an 
lập nơi chánh trí, tâm quy hướng  đến pháp tùy, pháp hành, thọ lãnh 
Chánh pháp, không trái phạm lời giáo huấn của  Tôn sư, có thể được định.
Vị đệ tử như thế là đối với Tôn sư mà hành sự từ hòa,  không gây sự oán
hận.
  
  221.   Lý do 
Phật chế  không ăn chiều
  
 192. ‘Kinh Ca Lâu Ô Đà Di’
 “Bạch Thế Tôn, con lại nghĩ rằng,  ‘Nếu có 
Tỳ-kheo phi thời đi vào thôn ấp khất thực, hoặc có thể gặp kẻ đạo tặc  
đang hành sự hay chưa hành sự, hoặc gặp cọp, gặp nai, hoặc gặp cả cọp 
nai, hoặc  gặp beo gặp gấu, hoặc gặp cả beo gấu, hoặc sống[7]  ở những chỗ như vậy, hoặc gặp voi dữ, ngựa dữ, bò dữ, chó dữ,
hoặc gặp ổ rắn,  hoặc bị ném đất, hoặc bị gậy đánh, hoặc té vào mương 
rãnh, hoặc rơi vào hầm xí,  hoặc cỡi lên bò đang nằm, hoặc lọt xuống hầm
sâu, hoặc vướng vào bụi gai, xem  xét thấy nhà trống mà bước vào nhà 
như vậy, khi vào trong đó rồi, người con gái  thấy rủ rê làm việc bất 
tịnh hạnh xấu xa.
 “Bạch Thế Tôn, xưa có một Tỳ-kheo  trong đêm 
tối mịt, trời mưa lâm râm, chớp lóe như lửa xẹt, mà phi thời đi vào  nhà
người ta khất thực. Bấy giờ người đàn bà đi ngoài rửa chén bát. Khi ấy 
người  đàn bà này trong cơn chớp lóe, trông xa thấy Tỳ-kheo tưởng là 
quỷ. Thấy rồi, bà  ta kinh hãi, lông tóc dựng ngược, thất thanh la lớn, 
tức thì ngả xuống[8],  miệng nói rằng, ‘Ông là ma! Ông là ma!’ Tỳ-kheo mới nói với 
người đàn bà ấy  rằng, ‘Này cô em, tôi không phải là ma đâu, tôi là 
Sa-môn đến khất thực.’ Bấy  giờ người đàn bà ấy giận và mắng vị Tỳ-kheo 
rất nhức nhối, rất dữ dằn rằng,  ‘Sa-môn hãy vong mạng cho lẹ đi! Bố mẹ 
Sa-môn hãy chết cho lẹ đi! Dòng họ Sa-môn  hãy tuyệt diệt đi! Sa-môn hãy
lòi ruột đi! Sa-môn trọc đầu, đen thui, tuyệt tự,  không con cái! Hãy 
cầm dao bén mà tự mổ bụng đi! Chớ đừng đi khất thực phi thời  ban đêm. 
Ôi chao! Tại Sa-môn mà tôi bị té!’ Bạch Thế Tôn, con nhớ vị ấy rồi tâm  
sanh hân hoan. Bạch Thế Tôn, con nhờ sự hân hoan này mà sung mãn châu 
thân,  chánh niệm chánh trí, phát sanh hỷ, khinh an, lạc, định. Bạch Thế
Tôn, con nhờ  định này, sung mãn châu thân mà được chánh niệm chánh 
trí. Như vậy, bạch Thế  Tôn, con không thiếu thốn gì, thường được an ổn,
khoái lạc, khí lực bình  thường.”
  
  222.   Dù chỉ là ngôi  nhà rách, 
người vợ chột mắt cũng rất khó bỏ
 192. ‘Kinh Ca Lâu Ô Đà Di’
 “Này Ô-đà-di, ví như người nghèo  khổ, không 
có của cải, cũng không có thế lực; người ấy có một người vợ mà cặp  mắt 
bị mù, lại xấu xí, không khả ái; chỉ có một cái nhà đổ nát, mưa dột, 
chim  quạ bu đến đậu, tệ không thể ở. Lại có một cái giường bị gãy sập, 
tệ không thể  nằm; có một cái lu bị thủng không dùng được. Người ấy thấy
vị Tỳ-kheo sau khi ăn  xong, rửa sạch chân, trải ni-sư-đàn ngồi dưới 
một gốc cây mát mẻ điều hòa mà tu  tập tăng thượng tâm. Người ấy thấy 
vậy trong tâm nghĩ rằng ‘Sa-môn thật là khoái  lạc, Sa-môn như Niết-bàn.
Ta thật là xấu xa vô đức. Vì sao? Vì ta có một người  vợ mà cặp mắt bị 
mù, lại xấu xí, không khả ái, nhưng không thể bỏ; chỉ có một  cái nhà đổ
nát, mưa dột, chim quạ bu đến đậu, tệ không thể ở, nhưng cũng không  
thể bỏ. Lại có một cái giường bị gãy sập, tệ không thể nằm; có một cái 
lu bị  thủng không dùng được nhưng cũng không thể bỏ. Ta ưa thích 
Tỳ-kheo, cạo bỏ râu  tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống 
không gia đình, xuất gia học  đạo. Này Ô-đà-di, nếu có người nói như 
vầy, ‘Người nghèo khổ kia không có tiền  của cũng không có thế lực, mà 
bị trói buộc không cứng không chặt, không càng lúc  càng gắt gao, có thể
đoạn tuyệt có thể giải thoát, nói như vậy có đúng chăng?”
 Tôn giả Ô-đà-di đáp: “Không đúng, bạch Thế 
Tôn! Vì sao? Vì người nghèo khổ kia không có  tiền của cũng không có thế
lực, có một người vợ mà cặp mắt bị mù, lại xấu xí,  không khả ái, nhưng
không thể bỏ; chỉ có một cái nhà đổ nát, mưa dột, chim quạ  bu đến đậu,
tệ không thể ở, nhưng cũng không thể bỏ. Lại có một cái giường bị  gãy 
sập, tệ không thể nằm; có một cái lu bị thủng không dùng được nhưng cũng
không thể bỏ. Dù người ấy ưa thích như vị Tỳ-kheo, cạo bỏ râu tóc, mặc
áo ca-sa,  chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học 
đạo. Bạch Thế Tôn,  thế cho nên người nghèo khổ kia, không có tiền của 
cũng không có thế lực, bị  trói rất cứng, rất chặt, càng lúc càng gắt 
gao không thể đoạn tuyệt cũng không  thể giải thoát được.”
 “Cũng vậy, này Ô-đà-di, nếu có người ngu si mà
Ta  khuyên rằng ‘Ngươi hãy từ bỏ điều ấy, người ấy lại nói rằng ‘Đó là 
việc nhỏ  nhặt, đủ thiếu gì mà phải từ bỏ. Nhưng Thế Tôn dạy ta phải từ 
bỏ! Thiện Thệ dạy  ta phải từ bỏ!” Và cũng nói ‘Vị Đại Sa-môn này không 
tiêu hóa đồ ăn.’ Rồi người  ấy không đoạn trừ. Nó không chỉ đối với Ta 
sanh tâm không vừa ý, không chấp  nhận, mà đối với các Tỳ-kheo giữ gìn 
giới hạnh cẩn thận, nó cũng sanh tâm không  vừa ý, không chấp nhận. Này 
Ô-đà-di, thế cho nên người ngu si kia bị trói rất  cứng, rất chặt, càng 
lúc càng gắt gao, không thể đoạn trừ, không thể giải thoát.  Này 
Ô-đà-di, nếu một thiện gia nam tử mà Ta khuyên rằng ‘Ngươi hãy từ bỏ 
điều  này,’ người ấy không nói như vầy ‘Ấy là việc nhỏ nhặt, đủ thiếu gì
mà phải từ  bỏ. Nhưng Thế Tôn dạy ta phải từ bỏ! Thiện Thệ dạy ta phải 
từ bỏ!” Và cũng không  nói ‘Vị Đại Sa-môn này không tiêu hóa đồ ăn.’ Rồi
người ấy đoạn trừ. Người không  chỉ đối với Ta không sanh tâm không vừa
ý, không chấp nhận, mà đối với các  Tỳ-kheo giữ gìn giới hạnh cẩn thận,
nó cũng không sanh tâm không vừa ý, không  chấp nhận. Này Ô-đà-di, thế 
cho nên thiện gia nam tử kia bị trói không cứng,  không chặt, không càng
lúc càng gắt gao, có thể đoạn trừ, có thể giải thoát.
 “Này Ô-đà-di, ví như cư sĩ, con  cư sĩ, rất 
giàu có, sung sướng, rất nhiều tiền của, sản nghiệp súc mục không thể  
tính được, phong hộ thực ấp, lúa gạo, bao nhiêu những nhu dụng sinh sống
đều rất  đầy đủ. Nô tỳ, voi ngựa thôi thì không kể. Người ấy thấy vị 
Tỳ-kheo sau khi ăn  xong, rửa tay chân, trải ni-sư-đàn ngồi dưới một gốc
cây mát mẽ điều hòa mà tu  tập tăng thượng tâm. Thấy vậy người ấy nghĩ 
rằng ‘Sa-môn thật là khoái lạc,  Sa-môn như Niết-bàn. Ta nên từ bỏ sự 
giàu sang sung sướng, vàng bạc châu báu,  voi ngựa, nô tỳ, hâm mộ làm 
Tỳ-kheo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa  bỏ gia đình, sống 
không gia đình, xuất gia học đạo!’ Này Ô-đà-di, có người lại  nghĩ rằng 
‘Người cư sĩ, con người cư sĩ kia bị trói rất cứng, rất chặt, càng lúc  
càng gắt gao, không thể đoạn trừ, không được giải thoát.’ Nói như vậy có
đúng  không?”
 Tôn giả Ô-đà-di bạch rằng: “Không đúng, bạch Thế 
Tôn! Vì sao? Vì người cư sĩ hay con người cư sĩ  kia có thể xa lìa, vứt 
bỏ sự giàu sang, phú quý, vàng bạc châu báu, lúa gạo, voi  ngựa, nô tỳ 
để làm Tỳ-kheo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia  đình,
sống không gia đình, xuất gia học đạo. Bạch Thế Tôn, thế cho nên người 
cư  sĩ hay con người cư sĩ kia bị trói không cứng chặt, không càng lúc 
càng gắt gao,  có thể đoạn trừ, có thể giải thoát được.”
 “Cũng như vậy, này Ô-đà-di, nếu một thiện gia 
nam tử  mà Ta khuyên rằng ‘Ngươi hãy từ bỏ điều này,’ người ấy không nói
như vầy ‘Ấy là  việc nhỏ nhặt, đủ thiếu gì mà phải từ bỏ. Nhưng Thế Tôn
dạy ta phải từ bỏ! Thiện  Thệ dạy ta phải từ bỏ!” Và cũng không nói ‘Vị
Đại Sa-môn này không tiêu hóa đồ  ăn.’ Rồi người ấy đoạn trừ. Người 
không chỉ đối với Ta không sanh tâm không vừa  ý, không chấp nhận, mà 
đối với các Tỳ-kheo giữ gìn giới hạnh cẩn thận, nó cũng  không sanh tâm 
không vừa ý, không chấp nhận. Này Ô-đà-di, thế cho nên thiện gia  nam tử
kia bị trói không cứng, không chặt, không càng lúc càng gắt gao, có thể
đoạn trừ, có thể giải thoát.
 “Này Ô-đà-di, Tỳ-kheo hành xả. Vị  ấy hành xả
rồi, phát sanh suy niệm tương ưng với dục, bị ái lạc ràng buộc. Vị ấy  
ham thích nó, không đoạn, không trụ, không nhả bỏ. Này Ô-đà-di, Ta nói 
đó là  trói buộc, không nói là giải thoát. Vì sao? Vì các kết sử là bất 
thiện. Ô-đà-di,  vì kết sử là bất thiện, cho nên Ta nói đó là trói buộc,
không nói là giải thoát.
  
  223.  
Tỷ 
kheo than cận  với Tỷ kheo Ni
 193. ‘Kinh Mâu Lê Phá Quần Na’
 Bấy giờ Tỳ-kheo Mâu-lê-phá-quần-na[21]
thường tu tập với các Tỳ-kheo-ni. Nếu có vị nào trước mặt 
Mâu-lê-phá-quần-na mà  nói xấu các Tỳ-kheo-ni, thầy liền sân hận, hằn 
học cho đến cãi vã. Hoặc có vị  nào trước mặt Tỳ-kheo-ni nói xấu Tỳ-kheo
Mâu-lê-phá-quần-na các Tỳ-kheo-ni nghe  vậy liền sân hận hằn học cho 
đến cãi vã. Một số đông các Tỳ-kheo nghe như vậy  liền đến chỗ Phật, 
đảnh lễ dưới chân, ngồi qua một bên thưa rằng:
 “Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Mâu-lê-phá-quần-na 
thường  tụ tập với các Tỳ-kheo-ni. Nếu có vị nào trước mặt Tỳ-kheo 
Mâu-lê-phá-quần-na  nói xấu các Tỳ-kheo-ni, thầy ấy nghe vậy liền sân 
hận, hằn học cho đến cãi vã.  Hoặc có vị nào trước mặt các Tỳ-kheo nói 
xấu Tỳ-kheo Mâu-lê-phá-quần-na, các  Tỳ-kheo-ni nghe vậy liền sân hận, 
hằn học cho đến cãi vã.”
  
 224. Lời  nói
  
 193. ‘Kinh Mâu Lê Phá Quần Na’
 “Cũng vậy, ở đây, một người khéo thủ hộ, khéo 
đi, khéo  đến, là do người khác không nói lời cộc cằn. Khi người khác 
không nói lời cộc  cằn, vị ấy không phẫn nộ, không hằn học, không ưu 
phiền oán hận, không giận dữ  thù nghịch, không lộ vẻ hung dữ. Các 
Tỳ-kheo kia thấy vậy, bèn nghĩ: ‘Hiền giả  này là người nhẫn nhục, ôn 
hòa, giỏi chịu đựng, khéo tự chế, khéo định tĩnh,  khéo tịch tịnh.’ Nếu 
khi có người khác nói lời cộc cằn bèn phẫn nộ, hằn học, ưu  phiền oán 
hận, giận dữ, thù nghịch, lộ vẻ hung dữ, các Tỳ-kheo khác thấy vậy bèn  
nghĩ rằng: ‘Hiền giả này hung dữ, nóng nảy, thô lỗ, không định tĩnh, 
không tự  chế, không tịch tịnh.”
 Lại nữa, có năm con đường của ngôn ngữ[22],
hoặc nói đúng thời hay không đúng thời, hoặc nói chân thật hay không 
chân thật  hoặc nói dịu dàng hay cứng ngắt, hoặc nói từ hòa hay sân 
nhuế, hoặc nói có nghĩa  lợi hay không nghĩa lợi.
 Với năm con đường ngôn ngữ này, các ngươi nếu 
khi  người khác nói mà với tâm bị biến đổi, có thể miệng phát ra lời nói
cộc cằn, Ta  nói các ngươi do đó mà bị suy thoái.
 Các người hãy học, với năm con đường ngôn ngữ 
này, khi  người khác nói mà tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra 
lời nói cộc cằn,  hãy hướng đến kẻ thù nghịch, hãy duyên nơi kẻ thù 
nghịch mà khởi tâm từ mẫn, tâm  tương ưng với từ biến mãn một phương, 
thành tựu và an trụ. Cũng vậy, hai, ba,  bốn phương tứ duy, trên dưới, 
bao trùm tất cả, tâm tương ưng với từ, không kết,  không oán, không 
nhuế, không tranh, rộng lớn, vô lượng, vô biên, khéo tu tập,  biến mãn 
khắp cả thế gian, thành tựu an trụ. Cũng vậy, bi và hỷ. Tâm tương ưng  
với xả, không kết, không oán, không nhuế, không tranh, rộng lớn, vô 
lượng, vô  biên khéo tu tập, biến mãn khắp cả thế gian, thành tựu an 
trụ. Các ngươi hãy học  như vậy…….
  
  225.   Thái độ Tỷ kheo  khi bị khiển trách
  
 194. ‘Kinh Bạt Đà Hoà Lợi’
 Đức Thế Tôn nói: “Này Bạt-đà-hòa-lợi, 
hoặc có Tỳ-kheo thường xuyên phạm giới; do bởi  thường xuyên hay phạm 
giới nên các Tỳ-kheo đồng phạm hạnh khiển trách bằng những  điều được 
thấy, được nghe, hay từ người khác mà nghi ngờ. Vị ấy sau khi bị các  
đồng phạm hạnh khiển trách bằng những điều được thấy, được nghe, hay từ 
người  khác mà nghi ngờ, bèn nói lãng sang vấn đề khác, những việc ngoài
vấn đề; sân  hận, thù nghịch, phẫn nộ, bất mãn, xúc nhiễu chúng Tăng, 
khinh mạn chúng Tăng,  nói như vầy, ‘Tôi phải làm gì để chúng Tăng hoan 
hỷ mà vui lòng.’ Với ý nghĩ như  vậy. Này Bạt-đà-hòa-lợi, các Tỳ-kheo 
bèn nghĩ rằng, ‘Nhưng Hiền giả này thường  hay phạm giới. Và do thường 
hay phạm giới, nên bị các vị đồng phạm hạnh khiển  trách bằng những điều
được thấy, được nghe, hay từ người khác mà nghi ngờ. Vị  này sau khi bị
các vị đồng phạm hạnh khiển trách bằng những điều được thấy được  nghe 
hay từ người khác mà nghi ngờ, bèn nói sang vấn đề khác, những sự việc  
ngoài vấn đề, sân hận, thù nghịch, phẫn nộ, bất mãn, xúc nhiễu chúng 
Tăng, khinh  mạn chúng Tăng, nói như vầy ‘Tôi phải làm gì để chúng Tăng 
được hoan hỷ mà hài  lòng.’ Sau khi thấy vậy, bèn nói rằng: “Này chư 
Tôn, hãy xem xét khiến để kéo  dài một thời gian. 
 “Hoặc giả có Tỳ-kheo thường hay phạm giới; do 
thường  hay phạm giới cho nên bị các vị đồng phạm hạnh khiển trách bằng 
những điều được  thấy, được nghe, hay từ người khác mà nghi ngờ. Vị ấy 
sau khi bị các vị đồng  phạm hạnh khiển trách bằng những điều được thấy,
được nghe, hay từ người khác mà  nghi ngờ, không nói lãng sang vấn đề 
khác, những sự việc ngoài vấn đề, không sân  hận, thù nghịch chúng Tăng,
phẫn nộ, bất mãn, xúc nhiễu và khinh, mạn, không nói  như vầy, ‘Tôi 
phải làm gì để Tăng chúng hoan hỷ mà hài lòng.’ Không có ý nghĩ  như 
vậy. Này Bạt-đà-hòa-lợi, các Tỳ-kheo bèn nghĩ rằng, ‘Nhưng Hiền giả này 
thường hay phạm giới, do bởi thường hay phạm giới nên các vị đồng phạm 
hạnh  khiển trách bằng những điều được thấy, được nghe hay từ người khác
mà nghi ngờ.  Vị ấy sau khi bị các vị đồng phạm hạnh khiển trách bằng 
những điều được thấy,  được nghe, hay từ người khác mà nghi ngờ, vị ấy 
không nói lãng sang vấn đề khác,  những sự việc ngoài vấn đề không sân 
hận, thù nghịch, phẫn nộ, bất mãn, không  xúc nhiễu chúng Tăng, không 
khinh mạn chúng Tăng, không nói như vầy, ‘Tôi phải  làm gì để chúng Tăng
hoan hỷ mà hài lòng.’ Sau khi thấy như vậy bèn nói rằng,  ‘Này chư Tôn,
hãy xem xét mà khiến cho diệt sớm.’ Trường hợp phạm các cấm giới  nhẹ 
cũng vậy.
  
  226. 
 Một ngày ăn một  bữa
  
 195. ‘Kinh A Thấp Bối’
 Đức Phật nói với các Tỳ-kheo rằng: “Ta một ngày chỉ ăn một
lần. Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi vô  cầu, không bệnh không đau,
thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn khoái lạc.  Các ngươi cũng 
nên một ngày chỉ ăn một lần. Một ngày chỉ ăn một lần xong, vô vi,  vô 
cầu, không bệnh không đau, thân thể nhẹ nhàng, khí lực dồi dào, an ổn 
khoái  lạc.”
 Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn vì chúng  Tỳ-kheo mà 
thi thiết giới, một ngày chỉ ăn một lần. Các Tỳ-kheo đều phụng trì  theo
học giới này và các pháp vi diệu trong cảnh giới của Thế Tôn. Rồi Thế 
Tôn  lần hồi đi đến Ca-la-lại[23],  trụ trong rừng Thi-nhiếp-hòa ở phía Bắc 
thôn Ca-la-lại.
  
   227. Có hai loại  lạc: Lạc liên 
hệ giải thoát và lạc liên hệ khổ đau
  
 195. ‘Kinh A Thấp Bối’
 “Vì sao? Ta không nói tu tập tất cả thân lạc, 
cũng  không nói không nên tu tập tất cả thân lạc. Ta không nói tu tập 
tất cả thân khổ,  cũng không nói không nên tu tập tất cả thân khổ. Ta 
không nói tu tập tất cả tâm  lạc, cũng không nói không nên tu tập tất cả
về tâm lạc. Ta không nói tu tập tất  cả tâm khổ, cũng không nói không 
nên tu tập tất cả tâm khổ.
 “Thế nào là thân lạc mà ta nói là không tu? 
Nếu tu  thân lạc mà pháp ác bất thiện tăng trưởng, pháp thiện lại giảm, 
thì thân lạc như  vậy ta nói không tu. Thế nào là thân lạc mà Ta nói tu?
Nếu tu thân lạc mà pháp  ác bất thiện giảm, thiện pháp tăng trưởng, 
thân lạc như vậy ta nói tu. Thế nào  là thân khổ mà ta nói không tu? Nếu
tu thân khổ mà pháp ác bất thiện tăng  trưởng, pháp thiện lại giảm, 
thân khổ như vậy, ta nói không tu. Thế nào là thân  khổ mà ta nói tu? 
Nếu tu thân khổ mà pháp ác bất thiện lại giảm, pháp thiện tăng  trưởng. 
Thân khổ như vậy, ta nói tu. 
 “Thế nào là tâm lạc ta nói không tu? Nếu tu 
tâm lạc  mà các pháp ác bất thiện tăng trưởng, pháp thiện lại giảm. Tâm 
lạc như vậy, ta  nói không tu. Thế nào là tâm lạc ta nói phải tu? Nếu tu
tâm lạc mà pháp ác bất  thiện lại giảm, pháp thiện tăng trưởng. Tâm lạc
như vậy ta nói tu. Thế nào là  tâm khổ mà ta nói không tu? Nếu tu tâm 
khổ mà các pháp ác bất thiện tăng trưởng,  pháp thiện lại giảm. Tâm khổ 
như vậy ta nói không tu. Thế nào là tâm khổ mà ta  nói tu? Nếu tu tâm 
khổ mà pháp ác bất thiện lại giảm, pháp thiện tăng trưởng,  tâm khổ như 
vậy, ta nói tu.
  
 228. Tùy cơ thuyết giáo
  
 195. ‘Kinh A Thấp Bối’
 Thế nào là Tỳ-kheo không thực hành sự không 
phóng dật?  Nếu có vị Tỳ-kheo nào chứng câu giải thoát[24].
Thế nào là Tỳ-kheo có câu giải thoát? Nếu có Tỳ-kheo đối với tám giải 
thoát,  thân đã chứng[25],
thành tựu an trụ, do tuệ kiến[26]
mà các lậu đã diệt tận, đã biết rõ. Như vậy là Tỳ-kheo có câu giải 
thoát. Vị  Tỳ-kheo này ta nói thực hành sự không phóng dật. Nếu Hiền giả
này vốn có phóng  dật thì điều ấy không bao giờ có. Vì vậy, Ta nói vị 
Tỳ-kheo này không thực hành  sự không phóng dật.
 “Hoặc có Tỳ-kheo không phải câu giải thoát mà 
có tuệ  giải thoát. Thế nào là Tỳ-kheo có tuệ giải thoát? Nếu có Tỳ-kheo
đối với tám  giải thoát mà thân không chứng, thành tựu an trú, nhưng do
tuệ kiến mà các lậu  đã diệt tận, đã biết rõ. Như vậy là Tỳ-kheo có tuệ
giải thoát. Vị Tỳ-kheo này Ta  nói không thành tựu sự không phóng dật. 
Vì sao? Vì Hiền giả này vốn đã thành tựu  sự không phóng dật. Nếu Hiền 
giả này vốn có phóng dật thì điều ấy không bao giờ  có. Vì vậy Ta nói vị
Tỳ-kheo này không thành tựu sự không phóng dật.
 “Hai hạng Tỳ-kheo này Ta nói không thành tựu 
sự không  phóng dật. Này các Tỳ-kheo, tại sao Ta nói thành tựu sự không 
phóng dật? Hoặc có  Tỳ-kheo không có câu giải thoát, cũng không có tuệ 
giải thoát mà có thân chứng.  Thế nào là Tỳ-kheo có thân chứng? Nếu có 
Tỳ-kheo đối với tám giải thoát, thân đã  chứng, thành tựu an trụ, không 
do tuệ kiến mà các lậu đã diệt tận, đã biết rõ.  Như vậy là Tỳ-kheo có 
thân chứng. Tỳ-kheo này Ta nói thực hành sự không phóng  dật. Ta thấy vị
Tỳ-kheo này hành không phóng dật. Vì có quả gì khiến Ta nói  Tỳ-kheo ấy
hành không phóng dật? Ở đây, vị Tỳ-kheo này tìm cách chế ngự các căn,  
học tập theo thiện tri thức, sống tùy thuận an trú, các lậu đã diệt tận,
đắc  được vô lậu, giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong hiện tại, tự 
tri, tự giác,  tự tác chứng thành tựu và an trú, biết như thật rằng ‘Sự 
sanh đã dứt, phạm hạnh  đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái
sanh nữa.’ Vì Ta thấy vị  Tỳ-kheo này không phóng dật, có được quả như 
thế, cho nên Ta nói vị Tỳ-kheo này  thực hành sự không phóng dật.
 “Hoặc có vị Tỳ-kheo không phải câu giải thoát,
không  phải tuệ giải thoát, cũng không phải thân chứng, nhưng lại kiến 
đáo[27].
Thế nào là Tỳ-kheo có kiến đáo? Nếu Tỳ-kheo nào có lòng tin dứt khoát 
đối với  Phật, Pháp, Tăng, tùy thuộc pháp được nghe, rồi do tuệ mà có 
tăng thượng quán và  tăng thượng nhẫn[28].
Như thế, vị Tỳ-kheo này có kiến đáo. Vị Tỳ-kheo này Ta nói không phóng
dật. Vì  có quả gì khiến Ta nói vị Tỳ-kheo này hành không phóng dật? 
nếu có Tỳ-kheo nào  tìm cách chế ngự các căn, học tập các vị thiện tri 
thức, sống tùy thuận an trú,  các lậu đã tận diệt, được vô lậu, tâm giải
thoát, tuệ giải thoát, ngay trong  hiện tại, tự tri tự giác, tự chứng, 
thành tựu và an trụ, biết một cách như thật  rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm 
hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái  sanh nữa.’ Vì Ta 
thấy vị Tỳ-kheo này hành không phóng dật có quả như vậy. Cho  nên Ta nói
vị Tỳ-kheo này hành không phóng dật.
 “Nếu Tỳ-kheo nào không phải câu giải thoát, 
không phải  tuệ giải thoát, cũng không phải thân chứng, cũng không phải 
kiến đáo, nhưng lại  có tín giải thoát. Thế nào là Tỳ-kheo có tín giải 
thoát? Nếu Tỳ-kheo nào có lòng  tin dứt khoát đối với Phật, Pháp, Tăng, 
tùy theo pháp được nghe, rồi do tuệ mà  có quán và nhẫn nhận, không bằng
kiến đáo[15].
Như vậy là vị Tỳ-kheo này có tín giải thoát. Vị Tỳ-kheo này Ta nói 
hành không  phóng dật. Ta thấy vị Tỳ-kheo này hành không phóng dật, vì 
có quả gì, khiến Ta  nói vị Tỳ-kheo này hành không phóng dật? nếu có vị 
Tỳ-kheo nào tìm cách chế ngự  được các căn, học tập theo các vị thiện 
tri thức, sống tùy thuận an trú, các lậu  đã diệt tận, được vô lậu, tâm 
giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong hiện tại,  tự tri, tự giác, tự 
tác chứng thành tựu và an trụ, biết một cách như thật rằng  ‘Sự sanh đã 
dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh  
nữa.’ Vì Ta thấy vị Tỳ-kheo này hành không phóng dật, vì có quả như vậy,
cho nên  Ta nói vị Tỳ-kheo này hành không phóng dật.
 “Nếu có vị Tỳ-kheo nào không có câu giải 
thoát, không  có tuệ giải thoát, không có thân chứng, không có kiến đáo 
cũng không có tín giải  thoát, nhưng có pháp hành[16].
Thế nào là Tỳ-kheo có pháp hành? Nếu Tỳ-kheo nào có lòng tin tuyệt đối
với Phật,  Pháp, Tăng, tùy theo pháp được nghe, rồi do tuệ mà có tăng 
thượng quán, tăng  thượng nhẫn[17].
Như vậy, Tỳ-kheo này có pháp hành. Vị Tỳ-kheo này Ta nói hành không 
phóng dật.  Ta thấy vị Tỳ-kheo này hành không phóng dật, vì có quả gì 
khiến Ta nói vị  Tỳ-kheo này hành không phóng dật? Nếu có Tỳ-kheo nào 
tìm cách chế ngự các căn,  học tập theo thiện tri thức, sống tùy thuận 
an trú, đối với trong hai quả chắc  chắn sẽ đạt được một. Hoặc ngay 
trong hiện tại được cứu cánh trí, nếu còn hữu dư  được A-na-hàm. Vì Ta 
thấy vị này hành không phóng dật, có quả như vậy. Cho nên  Ta nói vị 
Tỳ-kheo này hành không phóng dật.
 “Nếu có Tỳ-kheo nào không có câu giải thoát, 
không có  tuệ giải thoát, không có thân chứng, không có kiến đáo, không 
có tín giải thoát,  không có pháp hành, nhưng lại có tín hành. Thế nào 
là Tỳ-kheo có tín hành? Nếu  vị Tỳ-kheo nào có lòng tin dứt khoát đối 
với Phật, Pháp, Tăng, tùy theo pháp  được nghe, rồi do tuệ mà quán và 
nhẫn, không như pháp hành. Như vậy, Tỳ-kheo này  có tín hành. Vị Tỳ-kheo
này Ta nói hành không phóng dật. Ta thấy vị Tỳ-kheo này  hành không 
phóng dật, vì quả gì khiến Ta nói vị Tỳ-kheo này hành không phóng  dật? 
Nếu có vị Tỳ-kheo nào tìm cách chế ngự các căn, học tập theo thiện tri  
thức, sống tùy thuận an trú, đối với trong hai quả chắc chắn sẽ đạt được
một,  hoặc ngay trong hiện tại được cứu cánh trí, nếu còn hữu dư, đắc 
A-na-hàm. Vì Ta  thấy vị Tỳ-kheo này hành không phóng dật. Các vị 
Tỳ-kheo này Ta nói hành không  phóng dật. 
  
  229. Sự  kiện kỳ Na giáo 
rạn nứt chia rẽ
 
196. ‘Kinh Châu Na’
 Bấy giờ sa-di Châu-na[29]
()[3],
kiết hạ ở Ba-hòa ()[4].
Tại xứ Ba-hòa có một Ni-kiền tên là Thân Tử[5].
Nơi đây, vị ấy qua đời. Sau khi qua đời không bao lâu, các đệ tử 
Ni-kiền Thân Tử  chia rẽ và phá hoại nhau, nói những lời chia rẽ và phá 
hoại nhau. Họ tranh đấu,  kiện tụng, cột trói nhau, thù nghịch nhau, 
tranh luận với nhau rằng, “Ta biết  pháp này, ngươi không biết. Ngươi 
biết pháp sao bằng chỗ ta biết? Ta nói tề  chỉnh, còn ngươi không tề 
chỉnh. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Điều  đáng nói trước, 
ngươi nói sau; điều đáng nói sau ngươi lại nói trước. Ta hơn,  còn ngươi
không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế 
phục ngươi, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi
lại.” Họ  kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ mong mình nói hơn,
mà không có người  nào để khiển trách. Nếu có những người bạch y tại 
gia, đệ tử của Ni-kiền Thân  Tử, thấy vậy, họ đều chán nản và lãng xa 
các đệ tử của Ni-kiền Thân Tử này. Vì  sao vậy? Bởi vì những điều họ nói
ấy đều là ác pháp luật, không phải là pháp  xuất yếu, không dẫn đến 
Chánh giác, cũng không phải là lời dạy của Đấng Thiện  Thệ. Nó là sự 
băng hoại, không thể đứng vững, không nơi nương tựa và cậy nhờ.  Bởi vì 
bậc thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng  
Chánh Giác.
  
   230.   Có phải Kinh Châu 
Na này ghi lại sự  chia rẽ trong Tăng đoàn  không ?
 
196. ‘Kinh Châu Na’
 Đức Thế Tôn nói:  “Này
A-nan, nếu đấu tranh do bởi giới tăng thượng, tâm  tăng thượng, quán 
tăng thượng thì sự đấu tranh ấy quá nhỏ nhặt. Này A-nan! Nếu  có sự đấu 
tranh trong chúng Tăng do đạo và đạo tích[30]
thì sự đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi 
người. Nó  không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn
khoái lạc.
 “Này A-nan, khi ngươi thấy ở trong đấy có hai 
Tỳ-kheo  vì mỗi người có mỗi ý kiến khác nhau mà gây ra cuộc đấu tranh 
mà nói rằng, ‘Đây  là pháp, đây là phi pháp; đây là luật, đây là phi 
luật; đây là phạm, đây là phi  phạm; hoặc nhẹ, hoặc nặng; có thể sám 
hối, không thể sám hối; có thể thủ hộ,  không thể thủ hộ; dư tàn, không 
dư tàn; khởi, không khởi[31].
 “Này A-nan, ý ngươi nghĩ sao đối với pháp tụ 
mà Ta tự  giác, tự thân chứng ngộ, gồm Bốn niệm xứ, Bốn như ý túc, Năm 
căn, Năm lực, Bảy  giác chi, Tám chi thánh đạo? “Này A-nan, Ni-kiền Thân
Tử thật sự không phải là  Nhất thiết trí nhưng tự cho là Nhất thiết 
trí.“Này A-nan, nếu Ni-kiền Thân Tử là  vị biết tất cả, thấy tất cả thì 
vị ấy đã vì đệ tử mà giảng giải sáu gốc rễ của  đấu tranh; nghĩa là, có 
thể nghe để đình chỉ
 
 231. Có liên quan đến Đại Thiên
 
196. ‘Kinh Châu Na’
 “Này A-nan, nếu một người nào có ác dục, tà 
kiến, ác  tánh không biết phục thiện thì không cung kính Tôn sư, không 
thấy pháp, không  giữ giới. Người ấy đã không cung kính Tôn sư, không 
thấy pháp, không giữ giới, ở  trong chúng nó gây ra sự đấu tranh như 
vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai  mà chỉ gây khổ cho mọi người,
không phải sự thiện lợi và hữu ích, không phải là  sự an ổn khoái lạc, 
cho đến trời người phải chịu đau khổ và tai hoạn. Này A-nan!  Nếu ngươi 
thấy sự đấu tranh như vậy, ở bên trong hay bên ngoài, mà không dứt hết  
được, vậy, để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, ngươi phải nhanh chóng tìm cầu 
phương  tiện, học tập tinh cần, chánh niệm, chánh trí, kiên nhẫn, đừng 
để thối thất. Này  A-nan, ví như có người bị lửa đốt cháy đầu, đốt cháy 
áo, thì phải cấp tốc tìm  phương tiện để chữa cháy đầu, chữa cháy áo. 
Cũng vậy, nếu ngươi thấy sự đấu  tranh như vậy, ở bên trong hay bên 
ngoài, mà không dứt hết được, vậy để đoạn trừ  sự đấu tranh ấy, ngươi 
phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần,  chánh niệm 
chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất.
 “Này A-nan, sự đấu tranh như vậy, bên trong 
hay bên  ngoài, mà ngươi thấy đã được chấm dứt, ngươi phải thủ hộ cái 
tâm đó hơn nữa,  luôn luôn không buông lung, vì để ngăn chặn sự đấu 
tranh ấy vậy. Như vậy, sự  tranh chấp này được ngươi đoạn trừ từ gốc rễ.
Này A-nan, ví như có người bị lửa  đốt cháy đầu, đốt cháy áo, thì phải 
cấp tốc tìm phương tiện để chữa cháy đầu,  chữa cháy áo. Cũng vậy, nếu 
ngươi thấy sự đấu tranh như vậy, ở bên trong hay bên  ngoài, mà ngươi 
thấy đã được chấm dứt, ngươi phải thủ hộ cái tâm đó hơn nữa,  luôn luôn 
không buông lung, vì để ngăn chặn sự đấu tranh ấy vậy. Như vậy, sự  
tranh chấp này được ngươi đoạn trừ từ gốc rễ.
  
  232. Luật:
bảy phương pháp đình chỉ đấu tranh
 
196. ‘Kinh Châu Na’
 “Lại  nữa, này A-nan, có bảy phương pháp đình 
chỉ đấu tranh[32].  Bảy phương pháp 
đó là: một là ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật, hai là ưng dữ ức  chỉ 
tránh luật, ba là ưng dữ bất si chỉ tránh luật, bốn là ưng dữ phát lồ 
chỉ  tránh luật, năm là ưng dữ quân chỉ tránh luật, sáu là ưng dữ triển 
chuyển chỉ  tránh luật, bảy là ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật[33].
 “Này A-nan, thế nào là ưng dữ diện tiền chỉ 
tránh  luật (diệt tránh pháp 滅 諍 法; Pāli: adhikaraṇa-samathā.)? Làm thế 
nào để đoạn trừ  sự đấu tranh này? Tức là điều luật đình chỉ đấu tranh 
bằng sự hiện diện. Này  A-nan, hoặc một người đối với một người, mà 
khuyến giáo, khiển trách, thủ hộ  bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo,
với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Một  người đối với hai người, một 
người đối với nhiều người, một người đối với chúng  Tăng mà khuyến giáo,
khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ  giáo, với sự
hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người đối với hai người mà khuyến  
giáo, khiển trách, thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự 
hiện  diện khiến được hoan hỷ. Hai người đối với nhiều người, hai người 
đối với chúng  Tăng, hai người đối với một người mà khuyến giáo, khiển 
trách, thủ hộ bằng pháp  luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện 
khiến được hoan hỷ. Nhiều người  đối với nhiều người mà khuyến giáo, 
khiển trách, thủ hộ bằng pháp luật như Tôn  sư đã chỉ giáo, với sự hiện 
diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người đối với chúng  Tăng, nhiều người 
đối với một người, nhiều người đối với hai người mà khuyến  giáo, khiển 
trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo với sự hiện  
diện khiến được hoan hỷ. Chúng Tăng đối với một người, chúng Tăng đối 
với hai  người, chúng Tăng đối với nhiều người mà khuyến giáo, khiển 
trách, được thủ hộ  bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện 
diện khiến được hoan hỷ. Này  A-nan, như vậy gọi là ưng dữ hiện tiền chỉ
tránh luật. Sự đấu tranh ấy được đoạn  trừ như vậy, tức do luật chấm 
dứt đấu tranh bằng sự hiện diện.
 “Này A-nan, thế nào là ưng dữ ức chỉ tránh 
luật[19]?  làm thế nào để đoạn trừ sự 
tranh đấu này? Tức là do đình chỉ đấu tranh bằng nhớ  lại. Này A-nan, 
nếu có một người nào phạm giới mà không nhớ lại giới mình đã  phạm. Các 
Tỳ-kheo thấy vậy, nói với vị ấy rằng, ‘Thầy đã phạm giới mà không nhớ  
lại giới mình đã phạm. Thầy hãy đến trong chúng mà xin luật ức niệm. 
Tăng chúng  sẽ ban cho Hiền giả luật ức niệm.’ Này A-nan, nếu ở một nơi 
nào có Tăng chúng  hòa hợp mà nhóm họp vị Tỳ-kheo kia phải đến đó, trịch
vai áo, bỏ guốc, vào trong  chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc 
Trưởng lão thượng tôn Tỳ-kheo,  chắp tay quỳ mọp mà bạch với các trưởng 
lão thượng tôn rằng, ‘Bạch chư Tôn, mong  các ngài nghe cho, con đã từng
phạm giới mà không nhớ, nay con từ nơi chúng Tăng  cầu xin luật ức 
niệm. Mong Tăng chúng hòa hợp ban cho con luật ức niệm.’ Này  A-nan, 
Tăng chúng hòa hợp lại để ban cho vị Tỳ-kheo này luật ức niệm, bằng Pháp
và Luật như Tôn sư đã chỉ dạy, với sự hiện diện khiến cho được hoan 
hỷ. Này  A-nan, như vậy gọi là ưng dữ ức chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy
phải được đoạn  trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng cách 
nhớ lại.
 “Này A-nan, thế nào là ưng dữ bất si chỉ tránh
luật[20]?
Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức là luật đình chỉ đấu 
tranh bằng sự  không si cuồng. Này A-nan, nếu có một người do phát cuồng
mà tâm điên đảo, nên  làm nhiều điều không thanh tịnh, không phải là 
pháp của Sa-môn, không tùy thuận  theo pháp hành mà nói vi phạm. Người 
ấy sau khi trở lại tâm trạng như trước, gặp  các Tỳ-kheo và được bảo 
rằng: ‘Thầy đã phát cuồng và tâm điên đảo, do phát cuồng  và tâm điên 
đảo, nên làm nhiều điều không thanh tịnh, không phải là pháp của  
Sa-môn, không tùy thuận theo pháp hành mà nói vi phạm. Này Hiền giả, nếu
Hiền  giả sau khi trở lại tâm trạng như trước, Hiền giả có thể đến nơi 
chúng Tăng mà  cầu xin luật bất si. Chúng Tăng sẽ ban cho Hiền giả luật 
bất si.’ Này A Nan, nếu  một nơi nào đó Tăng chúng đang hòa hợp và nhóm 
hội, vị Tỳ-kheo ấy nên đến đó,  trịch vai áo, bỏ guốc, vào trong Tăng 
chúng, cúi đầu lễ sát dưới chân các bậc  Trưởng lão thượng tôn Tỳ-kheo 
chắp tay quì mọp, mà bạch với các Trưởng lão  thượng tôn Tỳ-kheo rằng, 
‘Bạch chư Tôn, xin nghe cho, con đã từng phát cuồng và  tâm điên đảo. Do
con đã phát cuồng và tâm điên đảo nên làm nhiều điều không  thanh tịnh,
không phải là pháp của Sa-môn, không tùy thuận theo pháp hành mà nói  
vi phạm. Về sau con trở lại tâm trạng như trước. Nay con từ nơi chúng 
Tăng xin  cầu luật bất si. Mong chúng Tăng hòa hợp ban cho con luật bất 
si.’ Này A-nan,  chúng Tăng cùng hòa hợp và nhóm hội, ban cho vị Tỳ-kheo
ấy luật bất si, bằng  Pháp và Luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện 
diện, khiến được hoan hỷ. Này  A-nan, đó gọi là ưng dữ bất si chỉ tránh 
luật. Sự đấu tranh ấy được đoạn trừ như  vậy, tức do luật chấm dứt đấu 
tranh bằng sự không si cuồng.
 “Này A-nan, thế nào là ưng dữ tự phát lồ chỉ 
tranh  luật[21]?
Sự đấu tranh làm thế nào để chấm dứt? Tức do luật chấm dứt đấu tranh 
bằng sự tự  thú nhận. Này A-nan, nếu có một người phạm giới, hoặc nói ra
hay không nói ra,  hoặc có nhớ hay không nhớ. Này A-nan, nếu tại nơi 
nào đó có chúng Tăng đang hòa  hợp và nhóm hội. Vị Tỳ-kheo kia nên đến 
đó, trịch vai áo, bỏ guốc, vào trong  chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân 
các bậc Trưởng lão thượng tôn Tỳ-kheo, chắp tay  quì mọp mà bạch rằng, 
“Bạch chư Tôn, xin nghe cho, con phạm giới đó, con nay  hướng về các bậc
Trưởng lão thượng tôn Tỳ-kheo, chí tâm phát lồ, tự mình nói và  trưng 
bày rõ, không dám che giấu, từ nay về sau sẽ khéo léo hộ trì không tái  
phạm. Này A-nan, chúng Tỳ-kheo nên hỏi vị ấy rằng, ‘Này Hiền giả, có tự 
thấy  điều mình phạm không?’ Vị Tỳ-kheo ấy đáp, ‘Con thật sự có thấy 
điều con phạm.’  Đại chúng cũng nên nói với vị ấy rằng, ‘Hiền giả nên 
cẩn thận giữ gìn đừng tái  phạm.’ Này A-nan! Đó là ưng dữ tự phát lồ chỉ
tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải  được đoạn trừ như vậy. Tức do luật 
chấm dứt đấu tranh bằng sự từ thú nhận.
 “Này A-nan, thế nào là ưng dữ quân chỉ tranh 
luật[22]?  Làm sao để đoạn trừ sự đấu 
tranh ấy? Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng chín  đương nhân. Này 
A-nan! Nếu có người không biết xấu hổ, không hối hận những tội  bị thấy,
bị nghe và bị người khác nghi ngờ là ác dục. Người ấy đã phạm giới rồi 
nói là mình biết ở một nơi, mình thấy ở một nơi. Sau khi nói mình biết ở
một nơi  này, lại nói mình thấy ở một nơi. Sau khi nói mình thấy ở một 
nơi, lại nói mình  biết ở một nơi. Ở trong Tăng chúng mà nói là mình 
biết ở một nơi, ở trong Tăng  chúng mà nói là mình thấy ở một nơi. Nói 
mình biết ở một nơi, rồi lại nói mình  thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở 
một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi. Này  A-nan! Vì vị Tỳ-kheo ấy, 
Tăng chúng hòa hợp và nhóm họp mà ban quân luật, nói  rằng: ‘Nhà ngươi 
không đạo lý, nhà ngươi ác bất thiện. Vì sao? Vì ngươi đã phạm  giới rồi
lại nói mình biết ở một nơi, mình thấy ở một nơi. Nói mình biết ở một  
nơi, rồi lại nói mình thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở một nơi, rồi lại 
nói mình  biết ở một nơi. Ở trong chúng mà nói mình biết ở một nơi. Ở 
trong chúng mà nói  mình thấy ở một nơi. Nói mình biết ở một nơi rồi lại
nói mình thấy ở một nơi.  Nói mình thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết
ở một nơi.’ Này A-nan, như vậy gọi  là ưng dữ quân chỉ tránh luật. Sự 
đấu tranh ấy phải được đoạn trừ bằng sự như  vậy. Tức do luật chấm dứt 
đấu tranh bằng chính đương nhân.
 “Này A-nan, thế nào là ưng dữ triển chuyển chỉ
tránh  luật? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức là do luật 
chấm dứt đấu tranh  bằng sự diễn tiến. Này A-nan, ở đây, giữa hai vị 
Tỳ-kheo vì một số ý kiến mà gây  ra sự đấu tranh như vầy, ‘Đây là pháp, 
đây là phi pháp; đây là luật, đây là phi  luật; đây là phạm, đây là phi 
phạm; đây là nhẹ, đây là nặng; khả thuyết, không  khả thuyết[23];  có thể thủ hộ, không thể thủ 
hộ; dư tàn, không dư tàn; có thể sám hối, không thể  sám hối[24].  Này A-nan, Tỳ-kheo kia ngay tại
chỗ đang cãi vã ấy mà chấm dứt đấu tranh. Nếu  ngay tại chỗ cãi vã mà 
chấm dứt đấu tranh, thì sự đấu tranh này được tuyên bố là  chấm dứt. Nếu
ngay tại chỗ cãi vã mà không chấm dứt, có thể đưa sự đấu tranh ra  bạch
với chúng Tăng. Nếu ở trong chúng Tăng mà chấm dứt, thì sự đấu tranh ấy
được tuyên bố là chấm dứt. Nếu trong chúng Tăng không chấm dứt, thì 
này A-nan,  gần đó có Tỳ-kheo giỏi kinh, giỏi luật, giỏi luận[25],  các Tỳ-kheo kia cùng đến vị này
thưa việc đấu tranh ấy. Nếu ngay trên đường đi  mà chấm dứt, thì sự đấu
tranh được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ngay trên đường đi  mà không chấm 
dứt, lại hãy đem sự đấu tranh ấy nói trước chúng Tăng. Nếu ở trước  
chúng Tăng mà chấm dứt, sự đấu tranh ấy được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ở
tại  chúng Tăng mà không chấm dứt, thì này A-nan, nếu nhiều trợ bạn 
giỏi kinh, giỏi  luật, giỏi luận, thì các vị này phải chấm dứt sự đấu 
tranh ấy bằng Pháp và Luật  như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện 
khiến được hoan hỷ. Này A-nan, như vậy  gọi là ưng dữ triển chuyển chỉ 
tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ  như vậy, tức là do luật 
chấm dứt đấu tranh bằng sự triển chuyển.
 “Này A-nan, thế nào gọi là ưng dữ như khí phấn
tảo chỉ  tránh luật? Làm sao để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức là luật 
chấm dứt đấu tranh  như quăng bỏ giẻ rách. Này A-nan, nếu các vị Tỳ-kheo
ở chung một chỗ tranh chấp,  kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét 
nhau, này A-nan, do đó các Tỳ-kheo kia  chia ra hai nhóm. Sau khi chia 
ra hai nhóm rồi, trong một nhóm có bậc Trưởng lão  thượng tôn Tỳ-kheo, 
hay dưới trưởng lão một bậc; hoặc có người làm tông chủ hay  nhỏ hơn 
tông chủ một bậc. Này A-nan, vị Tỳ-kheo này nói với các vị Tỳ-kheo kia  
rằng, ‘Này chư Hiền, xin nghe cho, chúng ta không có đạo lý, chúng ta là
người  ác bất thiện. Vì sao vậy? Vì chúng ta đối với Pháp và Luật được 
khéo giảng dạy  mà chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, để học 
đạo, nhưng chúng ta  tranh chấp kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán 
ghét nhau, cãi vã nhau. Này chư  Hiền, do sự tranh chấp này mà chúng ta 
đã phạm giới, ngoại trừ tội Thâu-lan-giá  và ngoại trừ tội tương ưng với
hàng tại gia. Tôi vì chính mình và cũng vì chư  Hiền nữa, nên hướng đến
chư Hiền phát lồ, tự nói mà trình bày rõ ràng, không dám  che giấu, lại
cẩn thận giữ gìn sau không tái phạm nữa.’ Này A-nan, nếu ở trong  nhóm 
này mà không có vị Tỳ-kheo nào ứng theo, thì này A-nan, Tỳ-kheo ấy nên 
đi  đến nhóm thứ hai. Đến nơi rồi, cúi đầu đảnh lễ các bậc Thượng tôn 
trưởng lão  Tỳ-kheo chắp tay quì mọp mà thưa rằng, ‘Thưa chư Tôn, xin 
nghe cho, chúng ta  không có đạo lý, chúng ta là người ác bất thiện. Vì 
sao vậy? Vì chúng ta đối với  Pháp và Luật được khéo giảng dạy mà chí 
tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình  để học đạo, nhưng chúng ta 
tranh chấp, kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét  nhau, cãi vã 
nhau. Này chư Hiền, do sự tranh đấu này mà chúng ta đã phạm giới,  ngoại
trừ tội Thâu-lan-giá, và ngoại trừ tội tương đương với hàng tại gia. 
Tôi  vì chính mình và cũng vì chính chư Hiền nữa, nên hướng đến chư Hiền
chí tâm phát  lồ, tự nói mà trình bày rõ ràng, không dám che giấu, lại 
cẩn thận giữ gìn sau  không tái phạm nữa.’ Này A-nan, các Tỳ-kheo kia 
nên nói với vị Tỳ-kheo này như  vầy, ‘Này Hiền giả, thầy tự thấy mình 
phạm giới chăng?’ Vị Tỳ-kheo này đáp, ‘Quả  thật tôi tự thấy mình đã 
phạm giới.’ Tỳ-kheo kia nên nói, ‘Vậy hãy cẩn thận giữ  gìn, đừng để tái
phạm.’ Nhóm thứ hai cũng làm như vậy. Này A-nan, như vậy gọi là  ưng dữ
như khí phấn tảo chỉ tránh luật. Này A-nan! Sự đấu tranh ấy phải được  
đoạn trừ như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ giẻ rách.
  
 233. Luật: Pháp Yết Ma
 
197. ‘Kinh Ưu Ba Li’
 “Này Ưu-ba-ly, nếu chúng Tỳ-kheo cùng hòa hợp 
mà tác  biệt kiết ma thuyết biệt kiết ma, đó không phải là kiết ma đúng 
Pháp, kiết ma  đúng Luật, chúng Tăng cũng có tội.
 “Này Ưu-ba-ly, nếu chúng Tăng cùng hòa hợp, 
trong  trường hợp cần ban cho luật diện tiền lại ban cho luật ức niệm, 
cần ban cho luật  ức niệm lại ban cho luật diện tiền, đó không phải là 
kiết ma đúng Pháp, kiết ma  đúng Luật, chúng Tăng cũng có tội.
 “Này Ưu-ba-ly, nếu chúng Tỳ-kheo cùng hòa hợp 
trong  trường hợp cần ban cho luật ức niệm lại ban cho luật bất si, cần 
ban cho luật  bất si, lại ban cho luật ức niệm. Đó không phải là kiết ma
đúng Pháp, kiết ma  đúng Luật, chúng Tăng cũng có tội.
 “Này Ưu-ba-ly, nếu chúng Tỳ-kheo cùng hòa hợp,
trong  trường hợp cần ban cho luật bất si, lại ban cho luật tự phát lồ,
cần ban cho  luật tự phát lồ lại ban cho luật bất si. Đó không phải là 
kiết ma đúng Pháp,  kiết ma đúng Luật, chúng Tăng cũng có tội.
 “Này Ưu-ba-ly, nếu chúng Tỳ-kheo cùng hòa hợp,
trong  trường hợp cần ban cho luật tự phát lồ lại ban cho luật quân, 
cần ban cho luật  quân lại ban cho luật tự phát lồ. Đó không phải là 
kiết ma đúng Pháp, kiết ma  đúng Luật, chúng Tăng cũng có tội.
 “Này Ưu-ba-ly, nếu chúng Tỳ-kheo cùng hòa hợp,
trong  trường hợp cần ban cho luật quân, lại khiển trách, cần khiển 
trách lại ban cho  luật quân. Đó không phải là kiết ma đúng Pháp, kiết 
ma đúng Luật, chúng Tăng  cũng có tội.
 “Này Ưu-ba-ly, nếu chúng Tỳ-kheo cùng hòa hợp,
trong  trường hợp cần ha trách lại hạ trí, cần hạ trí lại ha trách. Đó 
không phải là  kiết ma đúng Pháp, kiết ma đúng Luật, chúng Tăng cũng có 
tội.
 “Này Ưu-ba-ly, nếu chúng Tỳ-kheo cùng hòa hợp,
trong  trường hợp cần hạ trí, nhưng lại dùng cử tội, cần cử tội lại hạ 
trí. Đó không  phải là kiết ma đúng Pháp, kiết ma đúng Luật, chúng Tăng 
cũng có tội.
 “Này Ưu-ba-ly, nếu chúng Tỳ-kheo cùng hòa hợp,
trong  trường hợp cần cử tội lại diệt tẫn, cần diệt tẫn lại cử tội. Đó 
không phải là  kiết ma đúng Pháp, kiết ma đúng Luật, chúng Tăng cũng có 
tội.
 “Này Ưu-ba-ly, nếu chúng Tỳ-kheo cùng hòa hợp,
trong  trường hợp cần diệt tẫn, nhưng lại dùng ức niệm, cần ban cho ức 
niệm lại diệt  tẫn, đó không phải là kiết ma đúng Pháp, kiết ma đúng 
Luật, chúng Tăng cũng có  tội.
 “Này Ưu-ba-ly, nếu chúng Tỳ-kheo cùng hòa hợp,
trong  trường hợp cần ban cho luật ức niệm, nhưng lại do căn bản trị, 
cần ban do căn  bản trị, lại ban cho luật ức niệm. Đó không phải là kiết
ma đúng Pháp, kiết ma  đúng Luật, chúng Tăng cũng có tội.
 “Này Ưu-ba-ly, nếu chúng Tỳ-kheo cùng hòa hợp,
trong  trường hợp cần do căn bản trị, nhưng lại khu xuất, cần khu xuất 
lại do căn bản  trị, đó không phải là kiết ma đúng Pháp, kiết ma đúng 
Luật, chúng Tăng cũng có  tội.
 “Này Ưu-ba-ly, ông nên học tùy theo loại kiết 
ma nào  mà thuyết kiết ma đó. Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho 
luật diện tiền,  cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm, cần
ban cho luật bất si liền  ban cho luật bất si, cần ban cho luật tự phát
lồ, liền ban cho luật tự phát lồ,  cần ban cho luật quân liền ban cho 
luật quân, cần khiển trách liền khiển trách,  cần hạ trí liền hạ trí, 
cần cử tội liền cử tội, cần diệt tẫn liền diệt tẫn, cần  dùng căn bản 
trị liền dùng căn bản trị, cần khu xuất liền khu xuất, cần hành bất  mạn
liền hành bất mạn, cần trị liền trị.
  
 234. Thế nào gọi là người ngu si
 
199. ‘Kinh Si Tuệ Địa’
 Đức Phật dạy: 
Thế nào là pháp ngu si? Người ngu si có ba: Sự tướng, tiêu thức ngu si 
và ấn  tượng ngu si. Tức là người thành tựu sự ngu si thì nói là ngu si.
 Những gì là ba? Người ngu si suy tư bằng tư 
niệm ác,  nói bằng lời nói ác, và làm việc làm ác. Do đó, người ngu si 
được gọi là ngu si.  Nếu người ngu si không suy nghĩ ý nghĩ ác, không 
nói lời nói ác, và không làm  việc ác, như vậy thì làm sao người ngu si 
được nói là ngu si? Vì người ngu si  suy nghĩ ý nghĩ ác, nói lời nói ác 
và làm việc làm ác, cho nên người ngu si được  nói là ngu si.
  
 235. Địa  ngục
 
199. ‘Kinh Si Tuệ Địa’
…Này  Tỳ-kheo, thế 
nào là khổ địa ngục? Chúng sanh sanh trong địa ngục, đã sanh vào đó  
rồi, ngục tốt nắm lấy, tay cầm búa sắt trui lửa đỏ rực mà đốt thân thể. 
Chỗ để  hình phạt hoặc xây tám góc, hoặc xây sáu góc, hoặc vuông vức, 
hoặc hình tròn,  hoặc cao, hoặc thấp, hoặc tốt, hoặc xấu. Như thế, tội 
nhân bị khảo trị thống khổ  bức ngặt, trải qua nhiều năm cho đến trăm 
nghìn năm, cảm thọ vô lượng khổ, cực  kỳ thống khổ, nhưng không thể chết
được, trừ khi tội ác bất thiện đã dứt. Như  vậy gọi là khổ địa ngục….
  
 236. Làm được thân người là khó
 
199. ‘Kinh Si Tuệ Địa’
 “Này các Tỳ-kheo, nếu như người ngu si kia ra 
khỏi  đường súc sanh, trở lại sanh lên làm người là việc cực kỳ khó 
khăn. Vì sao? Vì  kẻ kia trong loài súc sanh không làm nhân nghĩa, không
theo phép tắc lễ nghi,  không làm việc lành, súc sanh lại ăn nuốt lẫn 
nhau. Con mạnh ăn con yếu, con lớn  nuốt con bé. Này Tỳ-kheo, như đây 
này tràn đầy những nước. Có một con rùa đui,  sống lâu vô lượng trăm 
ngàn năm. Trên mặt nước kia có miếng ván nhỏ, chỉ có một  lỗ duy nhất bị
gió thổi trôi. Này các Tỳ-kheo, các ông nghĩ sao? Con rùa đui  kia, đầu
nó có thể chui vào cái lỗ duy nhất của miếng gỗ nhẹ nhỏ kia chăng?”
 Các Tỳ-kheo đáp:  “Bạch Thế Tôn, có thể chui được,  nhưng thật 
lâu, thật lâu và rất khó.
 Thế Tôn bảo: 
“Này các Tỳ-kheo, hoặc con rùa đui kia trải qua một trăm năm, rồi nó từ
phía  Đông đến, ngóc đầu lên một lần. Miếng ván nhỏ kia chỉ có một lỗ 
lại bị gió thổi  từ phương Đông dời qua phương Nam. Hoặc lúc con rùa đui
qua một trăm năm từ  phương Nam đến, ngóc đầu lên một lần, thì miếng 
ván một lỗ kia, lại bị gió thổi  từ phương Nam dời đến phương Tây. Hoặc 
có lúc con rùa đui đợi một trăm năm qua  từ phương Tây đến, ngóc đầu lên
một lần, thì miếng ván có một lỗ kia, lại bị gió  từ phương Tây thổi 
dời đến phương Bắc. Hoặc lúc con rùa đui kia từ phương Bắc  đến, ngóc 
đầu lên một lần nữa, thì miếng ván có một lỗ kia lại bị gió thổi từ  
phương Bắc dời tới các phương khác. Này các Tỳ-kheo, ý ông nghĩ sao? Con
rùa đui  kia có chui vào được lỗ ván ấy chăng?
 Tỳ-kheo đáp: 
“Bạch Thế Tôn, con rùa cũng có thể chui vào được lỗ ván ấy. Nhưng thật 
lâu, thật  lâu và khó lắm.”
  
 237. Thế nào là người trí tuệ ?
 
199. ‘Kinh Si Tuệ Địa’
 “Thế nào là pháp trí tuệ? Là  người trí tuệ 
có ba: sự tướng, tiêu thức và ấn tượng trí tuệ. Tức là người đã  thành 
tựu trí tuệ nên nói là trí tuệ.
 “Những gì là ba? Người trí tuệ suy  nghĩ với ý
nghĩ thiện, nói lời nói thiện và làm việc thiện. Vì là người trí tuệ,  
nên được nói là trí tuệ vậy.
 “Nếu kẻ trí chẳng nghĩ điều thiện, không nói 
là thiện  và không làm việc thiện, thì người trí làm sao biết được họ là
trí? Vì người có  trí tuệ, nghĩ thì nghĩ thiện, nói thì nói thiện và 
làm thì làm thiện nên người  có trí nói là kẻ trí.
  
  238. Phật  pháp bị hiểu sai và sự nguy hiểm của
nó
 
200. ‘Kinh A Lê Tra’
 Nếu pháp Ta nói mà ý nghĩa được hiểu biết đầy 
đủ,  tường tận thì nên thọ trì đúng như vậy. Nếu pháp Ta nói mà ý nghĩa 
không được  hiểu biết đầy đủ, tường tận thì phải hỏi lại Ta hay các vị 
Phạm hạnh có trí. Vì  sao? Hoặc có người ngu si ghi nhớ và hiểu biết 
điên đảo văn và nghĩa. Chúng do  tự mình hiểu biết điên đảo và ghi nhớ 
điên đảo mà biết pháp kia như vậy như vậy,  tức chánh kinh, ca vịnh, ký 
thuyết, kệ-tha, nhân duyên, soạn lục, bản khởi, thử  thuyết, sanh xứ, 
quảng giải, vị tằng hữu pháp và thuyết nghĩa[7].
Chúng vì tranh luận mà biết nghĩa này, chứ không vì giải thoát mà biết
nghĩa  này. Chúng biết pháp này vì mục đích ấy nên không đạt đến nghĩa 
này, chỉ chuốc  lấy cực khổ luống công, tự gây phiền nhọc. Vì sao? Vì 
chúng ghi nhớ và hiểu biết  điên đảo về pháp.
 “Cũng như có người muốn bắt được rắn, bèn đi 
tìm rắn.  Khi đi tìm rắn, nó đi vào rừng hoang, thấy con rắn rất lớn, 
liền bước tới, dùng  tay nắm lấy lưng rắn; con rắn ngóc đầu quay lại, 
hoặc mổ vào tay, chân, hoặc các  chi thể khác. Nó làm công việc tìm bắt 
rắn, nhưng không đạt được mục đích, chỉ  chuốc lấy cực khổ luống công, 
tự gây phiền nhọc. Vì sao? Vì không biết rõ phương  pháp bắt rắn. Cũng 
vậy, có thể có người ngu si ghi nhớ và hiểu biết điên đảo văn  và nghĩa.
Chúng do tự mình hiểu biết điên đảo và ghi nhớ điên đảo mà biết pháp  
kia như vậy như vậy, tức chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ-tha, nhân 
duyên,  soạn lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu
pháp và thuyết  nghĩa. Chúng vì tranh luận mà biết nghĩa này, chứ không
vì giải thoát mà biết  nghĩa này. Chúng biết pháp này vì mục đích ấy 
nên không đạt đến nghĩa này, chỉ  chuốc lấy cực khổ luống công, tự gây 
phiền nhọc. Vì sao? Vì chúng ghi nhớ và  hiểu biết điên đảo về pháp.
  
  239. Hiểu  đúng Phật pháp và sự lợi ích của nó
 
200. ‘Kinh A Lê Tra’
 “Hoặc có một thiện gia nam tử ghi nhớ và hiểu 
biết về  nghĩa và văn không điên đảo. Người ấy do tự mình ghi nhớ và 
hiểu biết không điên  đảo về nghĩa và văn mà biết pháp kia như vậy như 
vậy, tức chánh kinh, ca vịnh,  ký thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn lục, 
bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng  giải, vị tằng hữu pháp và thuyết 
nghĩa. Người ấy không vì tranh luận mà biết  nghĩa này, nhưng vì giải 
thoát mà biết nghĩa này. Người ấy biết pháp này vì mục  đích ấy nên đạt 
đến nghĩa này, không chuốc lấy cực khổ luống công, không tự gây  phiền 
nhọc. Vì sao? Vì ghi nhớ và hiểu biết không điên đảo về pháp.
 “Cũng như có người muốn bắt được rắn, bèn đi 
tìm rắn.  Khi đi tìm rắn, người ấy tay cầm gậy sắt, đi trong rừng hoang,
thấy một con rắn  rất lớn, liền lấy gậy sắt đè lên đầu con rắn, rồi lấy
tay nắm đầu nó. Con rắn  kia tuy ngoặt đuôi lại, hoặc quấn tay chân, 
hoặc các chi thể khác, nhưng không  thể mổ. Người kia làm như vậy để tìm
bắt rắn và đạt được mục đích, không chuốc  lấy cực khổ luống công, cũng
không tự gây phiền nhọc. Vì sao? Vì người ấy khéo  biết cách bắt rắn. 
Cũng vậy, hoặc có thiện gia nam tử ghi nhớ và hiểu biết về  nghĩa và văn
không điên đảo. Người ấy do tự mình ghi nhớ và hiểu biết không điên  
đảo về nghĩa và văn mà biết pháp kia như vậy như vậy, tức chánh kinh, ca
vịnh,  ký thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết, 
sanh xứ, quảng  giải, vị tằng hữu pháp và thuyết nghĩa. Người ấy không 
vì tranh luận mà biết  nghĩa này, nhưng vì giải thoát mà biết nghĩa này.
Người ấy biết pháp này vì mục  đích ấy nên đạt đến nghĩa này, không 
chuốc lấy cực khổ luống công, không tự gây  phiền nhọc. Vì sao? Vì ghi 
nhớ và hiểu biết không điên đảo về pháp.
  
  240. Giáo pháp như chiếc bè 
qua sông
 
200. ‘Kinh A Lê Tra’, (205.  ‘Kinh Ngũ Hạ Phần Kiết’)
 Ta thường nói cho các ngươi nghe về thí dụ 
chiếc bè,  là để cho các thầy biết xả bỏ, chứ không phải để chấp thủ. 
 “Ta thường nói cho các thầy nghe về thí dụ 
chiếc bè  như thế nào, để các thầy biết xả bỏ chứ không phải để chấp 
thủ?
 “Ví như, con nước từ núi đổ xuống, rất sâu, 
rất mênh  mông, chảy xiết và cuốn trôi nhiều thứ. Ở khoảng giữa đó không
có thuyền, bè,  cũng không có cầu ngang. Một người đi đến, có việc ở bờ
bên kia nên cần phải  qua. Người ấy bèn nghĩ rằng, ‘Ở đây con nước từ 
trên núi chảy xuống, rất sâu,  rất mênh mông, chảy xiết và cuốn trôi rất
nhiều thứ. Ở khoảng giữa không có  thuyền bè, cũng không có cầu ngang 
để có thể qua. Ta có công việc ở bờ bên kia  cần phải qua phải dùng 
phương tiện gì để ta đến bờ bên kia được yên ổn?’ Rồi  người ấy tự suy 
nghĩ, ‘Nay ở bên này, ta hãy góp nhặt cỏ, cây, cột lại làm bè[8]  để bơi qua.’ Người ấy bèn ở bên 
bờ bên này, góp nhặt cỏ cây, cột lại làm bè rồi  bơi qua. Đến bờ bên kia
được yên ổn, rồi tự nghĩ rằng, ‘Chiếc bè này có nhiều  lợi ích. Nhờ nó 
mà ta đã yên ổn bơi từ bờ bên kia đến bờ bên này. Nay ta hãy vác  nó lên
vai phải hoặc đội trên đầu mà đi.’ Người ấy bèn vác lên vai phải, hoặc 
trên đầu mà mang đi. Ý các ngươi nghĩ sao? Người ấy làm như vậy, có lợi
ích gì  đối với chiếc bè không?”
 Các Tỳ-kheo đáp: “Bạch Thế  Tôn, không.”
 Thế Tôn lại nói: “Người ấy  phải làm thế nào 
mới có thể có lợi ích đối với chiếc bè? Người ấy nghĩ như vầy,  ‘Chiếc 
bè này có nhiều lợi ích, nhờ nó mà ta an ổn từ bờ bên kia đến bờ này. 
Nay  ta có nên thả chiếc bè này trở lại trong nước, hoặc để nó trên bờ 
rồi bỏ đi  chăng?’ Người ấy mang chiếc bè này thả lại trong nước, hoặc 
để nó bên bờ rồi bỏ  đi. Ý các ngươi nghĩ sao? Người ấy làm như vậy, có 
thể có lợi ích đối với chiếc  bè chăng?”
 Bấy giờ các Tỳ-kheo đáp: “Bạch Thế Tôn, có.”
 Thế Tôn lại nói: “Cũng vậy,  Ta thường nói cho
các ngươi nghe về thí dụ chiếc bè là để cho các ngươi biết mà  xả bỏ, 
chứ không phải để chấp thủ. Nếu các ngươi biết Ta thường nói thí dụ về  
chiếc bè, đối với pháp còn phải xả bỏ huống là phi pháp chăng?
  
  241. Thế  Tôn đối với 
những vấn đề khen chê
 
200. ‘Kinh A Lê Tra’
 “Như Lai chánh giải thoát như vậy, dù 
Nhân-đà-la (Thiên  Đế 
Thích), dù Thiên Y-sa-na (Pāli: Īsānā),  dù Phạm thiên và quyến thuộc, không ai có thể
tìm thấy thức sở y của Như Lai.  Như Lai là Phạm, Như Lai là Mát lạnh, 
Như Lai là Không phiền nhiệt, Như Lai là  Bất dị. Ta nói như vầy, Các 
Sa-môn Phạm chí xuyên tạc Ta bằng những lời hư vọng  không chân thật 
rằng, ‘Sa-môn Cù-đàm chủ trương hư vô. Quả thật có chúng sanh,  nhưng 
lại chủ trương là đoạn, diệt, hoại. Nhưng nếu trong đó không có, thì Ta 
đã  không nói rằng, ‘Như Lai ấy trong đời hiện tại, được nói là không ưu
phiền, nếu  có ai mạ lỵ, đánh đập, sân hận, trách mắng Như Lai; trong 
trường hợp đó Như Lai  không sân hận, không thù hận, trọn không có hại 
tâm.’ Nếu có ai đánh đập, mạ lỵ,  sân hận, trách mắng Như Lai, ý Như Lai
thế nào? Như Lai tự nghĩ như vầy, ‘Có  hành vi tạo tác nào của Ta trong
quá khứ để đưa đến sự kiện này.’ Đối với sự mạ  lỵ, đánh đập, sân hận, 
trách mắng Như Lai, Như Lai nghĩ như vầy, ‘Nếu có ai cung  kính cúng 
dường, lễ bái, tôn trọng, thừa sự Như Lai; Như Lai không do đó mà vui  
thích, không do đó mà hoan hỷ, tâm không do đó mà hoan lạc.’ Nếu có ai 
cung  kính, cúng dường, lễ bái, tôn trọng thừa sự Như Lai, thì ý Như Lai
thế nào? Như  Lai tự nghĩ, ‘Ta nay do những gì được biết, do những gì 
được đoạn trừ mà đưa đến  sự kiện này?’ Nếu có ai cung kính, cúng dường,
lễ bái, tôn trọng, thừa sự Như  Lai, Như Lai nghĩ như vậy.”
 Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:  “Nếu có ai mạ lỵ đánh đập, trách mắng các ngươi; hay  nếu có ai 
cung kính, cúng dường, lễ bái, tôn trọng, thừa sự các ngươi; các ngươi  
nhân đó cũng chớ nên sân hận, thù hằn, chớ có tâm hại, cũng chớ vui 
thích, hoan  hỷ, cũng đừng có tâm hoan lạc. Vì sao? Hãy nghĩ rằng, 
“Chúng ta không có thần  ngã, không có sở hữu của thần ngã. Ví như nay 
đây, ngoài cửa Thắng lâm này có cỏ  khô, cây khô, có một người mang đi 
đốt, tùy ý mà dùng. Ý các ngươi nghĩ sao? Cây  cỏ khô kia có nghĩ rằng, 
‘Người ấy mang ta đi đốt, tùy ý mà dùng không’?”
 Các Tỳ-kheo đáp:“Bạch Thế Tôn, không.”
 Cũng vậy, nếu có ai mạ lỵ, đánh  đập, sân 
hận, trách mắng các ngươi hay nếu có ai cung kính, cúng dường, lễ bái,  
tôn trọng, thừa sự các ngươi; các ngươi nhân đó cũng chớ nên sân hận, 
thù hằn,  chớ có hại tâm cũng chớ có vui thích, hoan hỷ, cũng đừng có 
tâm hoan lạc. Vì  sao? Hãy nghĩ rằng, ‘Ta không có thần ngã, không có sở
hữu của thần ngã.’
  
 242. 3 loại trai giới
 
202. ‘Kinh Trì Trai’
 Thế Tôn hỏi: 
“Này Bà cư sĩ, hôm nay bà trì loại trai nào? Vì trai có ba loại. Những 
gì là ba?  Thứ nhất là loại trai của mục đồng; thứ hai là loại trai của 
Ni-kiền; thứ ba là  Thánh trai tám chi.
 “Này Bà cư sĩ, thế nào là loại trai của mục 
đồng? Mục  đồng buổi sáng thả trâu trong đầm, buổi xế dẫn trâu về thôn. 
Khi về thôn, nó  nghĩ rằng, ‘Ngày hôm nay ta thả trâu ở chỗ này; ngày 
mai ta sẽ thả trâu ở chỗ  kia. Ngày hôm nay ta cho trâu uống ở chỗ này; 
ngày mai ta sẽ cho trâu uống nước  tại chỗ kia. Này Bà cư sĩ, nếu người 
trì trai nghĩ rằng, ‘Ngày hôm nay ta ăn đồ  ăn như vầy; ngày mai ta sẽ 
ăn đồ ăn như kia. Ngày hôm nay ta uống thức uống như  vầy; ngày mai ta 
sẽ uống thức uống như kia. Ngày hôm nay ta nuốt thức ăn như  vầy; ngày 
mai ta sẽ nuốt thức ăn như thế kia’. Người ấy ở đây trải qua ngày đêm  
hoan lạc, đắm trước trong dục vọng như vậy. Đó gọi là loại trai của mục 
đồng.  Nếu trì loại trai mục đồng như vầy, không thu hoạch được đại lợi,
không được đại  quả, không có đại công đức, không được phát triển.
 “Này Bà cư sĩ, thế nào là loại trai của 
Ni-kiền (Pāli:  
Niganthūposatha)? Nếu có người xuất gia học 
theo  Ni-kiền, vị ấy khuyên người rằng, ‘Ngươi đối với chúng sanh ở 
ngoài một trăm  do-diên về phía Đông, để ủng hộ chúng sanh ấy, hãy loại 
bỏ dao gậy. Cũng vậy,  đối với phương Tây, phương Nam và phương Bắc, 
ngoài một trăm do-diên mà có chúng  sanh nào, vì để ủng hộ chúng sanh 
ấy, hãy loại bỏ dao gậy’. Người ấy khuyến  khích sách tấn người khác như
vậy. Hoặc chúng sanh có tưởng được thủ hộ, hoặc  chúng sanh không có 
tưởng không được ủng hộ, ngươi vào ngày mười lăm là ngày  thuyết Tùng 
giải thoát, cởi bỏ y phục, để mình trần truồng, đứng ngay về phương  
Đông, nói như vầy, ‘Ta không có cha mẹ, không thuộc về cha mẹ. Ta không 
có vợ  con, không thuộc về vợ con. Ta không có nô tỳ, không thuộc về nô 
tỳ’. Này Bà cư  sĩ, người ấy khuyến khích sách tấn bằng lời nói chân 
thật, nhưng ngược lại sự  khuyến khích sách tấn trở thành những lời nói 
hư dối. Người ấy ngày ngày gặp mặt  cha mẹ mình và nghĩ rằng, ‘Đây là 
cha mẹ ta’. Cha mẹ người ấy ngày ngày cũng  thấy con mình cũng nghĩ 
rằng, ‘Đây là con ta’. Người ấy gặp mặt vợ con và nghĩ  rằng, ‘Đây là vợ
con ta’. Vợ con cũng thấy người ấy và cũng nghĩ rằng ‘Đây là  tôn 
trưởng của ta’. Người ấy gặp mặt nô tỳ cũng nghĩ rằng, ‘Đây là nô tỳ của
ta’. Nô tỳ cũng thấy người ấy và cũng nghĩ rằng, ‘Đây là chủ của ta’. 
Người ấy  thọ dụng dục lạc này, không được cho mà thọ dụng, chứ không 
phải được cho mà thọ  dụng. Đó gọi là loại trai của Ni-kiền như vậy 
không thu hoạch được đại lợi,  không được đại quả, không được phát 
triển.
 “Này Bà cư sĩ, thế nào là Thánh trai tám chi[34]?
Đa văn Thánh đệ tử khi trì trai tư duy như vầy, ‘A-la-hán chân nhân 
trọn đời xa  lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh, dẹp bỏ dao gậy, có tàm, có
quý, có tâm từ bi,  làm lợi ích cho tất cả cho đến côn trùng, vị ấy đối
với sự sát sanh tâm đã tịnh  trừ. Tôi cũng trọn đời xa lìa sát sanh, 
đoạn trừ sát sanh, dẹp bỏ dao gậy, có  tàm có quý, có tâm từ bi, làm lợi
ích cho tất cả cho đến côn trùng. Đối với việc  sát sanh nay tôi tịnh 
trừ tâm ấy.Tôi do chi này mà đồng đẳng không khác với  A-la-hán’. Ta coi
chi này đồng đẳng không khác với A-la-hán, cho nên nói là  trai….
  
 243. Hai loại mong cầu
 
204. ‘Kinh La Ma’
 “Có hai loại tìm cầu. Một là Thánh cầu và hai 
là phi  Thánh cầu. Thế nào là phi Thánh cầu? Có một hạng người thật sự 
lệ thuộc bệnh tật  nhưng lại tìm cầu tật bệnh; thật sự lệ thuộc sự chết 
nhưng lại tìm cầu sự chết,  thật sự lệ thuộc vào ưu bi khổ não, lệ thuộc
sự tạp uế, nhưng lại tìm cầu sự tạp  uế. 
 “Thế nào là thật sự lệ thuộc vào bệnh tật 
nhưng lại  tìm cầu sự bệnh tật? Thế nào là sự tật bệnh? Con cái, anh em,
đó là bệnh pháp.  Voi, ngựa, bò, dê, nô tỳ, tiền tài, trân bảo, lúa 
gạo, là sự bệnh pháp. Chúng  sanh ở trong đó xúc chạm, đắm nhiễm, tham 
ái, dính trước, kiêu ngạo mà thọ nhập,  không thấy sự nguy hiểm, không 
thấy sự xuất yếu. 
 “Thế nào là sự lệ thuộc sự già, sự chết, sự 
sầu bi ưu  não, sự tạp uế? Con cái, anh em đó là sự tạp uế. Voi, ngựa, 
bò, dê, nô tỳ, tiền  tài, trân bảo, đó là sự tạp uế, sự tổn hại. Chúng 
sanh ở trong đó đắm nhiễm, xúc  chạm, tham ái, dính trước, kiêu ngạo mà 
thọ nhập, không thấy sự nguy hiểm, không  thấy sự xuất yếu. Người đó 
muốn tìm cầu cái không tật bệnh, an ổn, vô thượng,  Niết-bàn, nhưng đạt 
được Niết-bàn an ổn vô thượng là trường hợp không thể có.  Tìm cầu cái 
không già, không chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế, vô thượng  an 
ổn Niết-bàn, nhưng đạt được Niết-bàn vô thượng an ổn là trường hợp không
thể  có. Đó gọi là phi Thánh cầu.
 “Thế nào là Thánh cầu? Có một hạng người suy 
nghĩ như  thế này, ‘Ta thật sự lệ thuộc tật bệnh, nhưng không bỏ tìm cầu
sự tật bệnh. Ta  thật sự lệ thuộc sự già, sự chết, sự sầu bi khổ não, 
sự tạp uế, nhưng không bỏ  sự tìm cầu tạp uế. Vậy ta hãy tìm cầu cái 
không bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn.  Tìm cầu cái không già, không 
chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế, vô thượng  an ổn, Niết-bàn’. 
Người ấy bèn tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn  và đạt 
được không bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn là trường hợp có thể có. Tìm  
cầu cái không già, không chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế, vô 
thượng an  ổn Niết-bàn, và đạt được không già, không chết, không sầu bi 
ưu não, không tạp  uế, vô thượng an ổn Niết-bàn, là trường hợp có thể 
có…..
  
  244.  5 hạ 
phần kiết sử
 
 205. 
‘Kinh Ngũ Hạ Phần Kiết’
 “A-nan, ở đây có một hạng người bị dục quấn 
chặt. Dục  tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly; do không 
biết như thật về sự xả  ly, nên tham dục càng tăng thạnh, không thể chế 
trừ. Đó là hạ phần kết.
 “A-nan, ở đây có một hạng người bị nhuế quấn 
chặt.  Nhuế tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly. Do không 
biết như thật xả  ly sân nhuế càng tăng thạnh, không thể chế trừ. Đó là 
hạ phần kết.
 “A-nan, ở đây có một hạng người bị thân kiến 
quấn  chặt. Thân kiến tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly. 
Do không biết  như thật xả ly, thân kiến càng tăng thạnh, không thể chế 
trừ. Đó là hạ phần kết.
 “A-nan, ở đây có một hạng người bị giới thủ 
quấn  chặt. Giới thủ tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly. Do
không biết  như thật xả ly, giới thủ càng tăng thạnh. Không thể chế 
trừ. Đó là hạ phần kết.
 “A-nan, ở đây có một hạng người bị nghi quấn 
chặt.  Nghi tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly, nghi càng 
tăng thạnh.  Không thể chế trừ. Đó là hạ phần kết.
  
  245.   Vấn đề đời trước đời sau và nhất  thiết trí
 
 212. 
‘Kinh Nhất Thiết Trí’
 Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la hỏi rằng:
“Bạch  Cù-đàm, con  nghe Sa-môn Cù-đàm  nói như vầy, ‘Trong 
quá khứ không có, trong tương lai không, và hiện tại cũng  không có, 
không có Sa-môn Phạm chí nào là bậc nhất thiết trí, nhất thiết kiến’.  
Bạch Cù-đàm,  Ngài đã nhớ  là đã nói như  vậy chăng?
 Thế Tôn đáp  rằng: “Này Đại  
vương, Ta không nhớ là đã  nói như vậy, ‘Trong quá khứ không có, trong 
tương lai không có, và hiện tại  không có, không có Sa-môn Phạm chí nào 
là bậc nhất thiết trí, nhất thiết kiến’.”
 Lúc đó Đại tướng  Bệ-lưu-la đứng  sau lưng 
Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la, cầm phất trần hầu vua. Rồi Ba-tư-nặc vua 
nước Câu-tát-la quay lại nói với Đại  tướng Bệ-lưu-la rằng: “Hôm
trước Ta ngồi với đại chúng, ai là  người đầu  tiên nói rằng, ‘Sa-môn 
Cù-đàm  nói như vầy, ‘Trong quá khứ không có, trong tương lai không có 
và trong hiện tại  cũng không  có, không có Sa-môn Phạm chí nào là bậc 
nhất thiết trí, nhất thiết kiến’?”
 Đại tướng Bệ-lưu-la đáp rằng: “Tâu
Thiên vương, có Tưởng Niên Thiếu Cát Tường Tử là người đầu tiên nói như
vậy.”
 Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la nghe xong, bảo 
một người  rằng: “Ngươi đến  chỗ Tưởng Niên Thiếu Cát Tường Tử nói như 
vầy, ‘Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la  cho gọi ông’.”
 Người ấy lãnh giáo, đi đến  chỗ Tưởng Niên 
Thiếu Cát Tường Tử bảo như vầy: “Này Niên Thiếu, 
Ba-tư-nặc  vua nước Câu-tát-la cho gọi ông.”
 Sau khi người ấy đi,  Ba-tư-nặc vua nước 
Câu-tát-la bạch Thế Tôn: “Bạch Sa-môn Cù-đàm,  có thể có những lời nói 
khác, nhưng được  ghi nhớ khác. Bạch Cù-đàm,  ngài có nhớ đã  nói những 
gì chăng?”
 Thế Tôn đáp  rằng: “Này Đại  
vương, Ta nhớ đã  từng nói như vầy, ‘Trong quá khứ không có, trong tương
lai không có, trong hiện  tại cũng  không có, không có Sa-môn Phạm chí 
nào trong một thời biết tất cả, trong một  thời thấy tất cả’. Này Đại  
vương, Ta nhớ đã  nói như vậy.”
  
   246. 
 Ngoại 
đạo phê bình Thế Tôn là người  không biết biên tế đời trước đời sau
 
 209. 
‘Kinh Bệ Ma Na Tu’
 Ngay lúc đó dị học Bệ-ma-na-tu nổi giận đối 
với Phật,  nổi ghen ghét, không vừa ý, muốn vu báng Thế Tôn, muốn hạ 
nhục Thế Tôn, và ông  vu báng Thế Tôn như vầy, hạ nhục Thế Tôn như vầy: 
“Cù-đàm, có Sa-môn, Phạm chí,  không biết biên tế đời trước, không biết 
biên tế đời sau, không biết sanh tử vô  cùng mà tự cho là chứng đắc Cứu 
cánh trí, biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt,  phạm hạnh đã vững, việc 
cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Cù-đàm,  tôi nghĩ như vầy,
‘Vì sao Sa-môn, Phạm chí này không biết biên tế đời trước,  không biết 
biên tế đời sau, không biết sanh tử vô cùng mà tự cho là chứng đắc  Cứu 
cánh trí, biết như thật ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm
đã  làm xong, không còn tái sanh nữa’?”….
 “Thế Tôn biết rồi bảo rằng: “Này Ca-chiên, nếu
có  Sa-môn, Phạm chí này không biết biên tế đời trước, không biết biên 
tế đời sau,  không biết sanh tử vô cùng mà tự cho là chứng đắc Cứu cánh 
trí, biết như thật  ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã 
làm xong, không còn tái sanh  nữa’; thì người đó phải nói như vầy, ‘Hãy 
gác qua biên tế đời trước, hãy gác qua  biên tế đời sau’. Nhưng này 
Ca-chiên, Ta cũng nói như vầy, ‘Hãy gác qua biên tế  đời trước, hãy gác 
qua biên tế đời sau’. Giả sử không nhớ một đời. Khi đệ tử  Tỳ-kheo của 
Ta đến, không nịnh hót, không lừa gạt, mà thẳng thắn thì Ta giáo hóa  
họ. Nếu cứ theo sự giáo hóa của Ta mà thực hành đúng như vậy thì nhất 
định biết  được Chánh pháp.
 “Này Ca-chiên, cũng như một đứa trẻ nhỏ thân 
còn yếu,  nằm ngửa. Cha mẹ nó buộc tay chân nó lại. Đứa bé đó sau lớn 
lên, các căn thành  tựu, cha mẹ lại cởi trói tay chân cho nó ra. Nó chỉ 
nhớ khi được cởi trói, chớ  không nhớ khi bị trói.
 “Cũng vậy, này Ca-chiên, Ta nói như vầy, ‘Hãy 
gác lại  biên tế đời trước, hãy gác lại biên tế đời sau’. Giả sử không 
nhớ một đời. Khi  đệ tử Tỳ-kheo Ta đến, không nịnh hót, không lừa dối, 
mà thẳng thắn thì Ta giáo  hóa họ. Nếu cứ theo sự giáo hóa của Ta mà 
thực hành đúng như vậy thì nhất định  biết được Chánh pháp.
 “Này Ca-chiên, cũng như do dầu, do tim, mà đốt
đèn,  không có người thêm dầu, không có người đổi tim, dầu trước đã 
hết, sau lại không  rót thêm thì không thể còn mà chóng tự tắt vậy.
 “Cũng vậy, này Ca-chiên, Ta nói như vầy, ‘Hãy 
gác lại  biên tế đời trước, hãy gác lại biên tế đời sau’. Giả sử không 
nhớ một đời. Khi  đệ tử của Ta đến, không nịnh hót, không lừa dối mà 
thẳng thắn thì Ta giáo hóa  họ. Nếu cứ theo sự giáo hóa của Ta mà thực 
hành đúng như vậy thì nhất định biết  được Chánh pháp.
  
  247.   Sự khác nhau giữa chết và điệt thọ  tưởng định
 
 211. 
‘Kinh Đại Câu Hy la’
 Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành.
Lại  hỏi: “Hiền giả Đại Câu-hy-la, chết và nhập diệt 
tận định khác nhau như  thế nào?”
Tôn  giả Đại 
Câu-hy-la đáp: “Chết là thọ mạng đã diệt, hơi nóng ấm 
đã đi, các  căn tan rã. Tỳ-kheo nhập diệt tận định, tuổi thọ chưa hết, 
hơi ấm cũng chưa đi,  các căn chưa tan rã. Chết và nhập diệt tận định 
khác nhau như vậy.”….( giống  như210. ‘Kinh Pháp Lạc Tỷ Kheo 
Ni’)
  
  248. Sự khác nhau giữa các định
 
 210. 
‘Kinh Pháp Lạc Tỷ Kheo Ni’
 Bạch Ni sư, một người chết và nhập diệt tận 
định khác  nhau như thế nào?”
 Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng: “Chết
là mạng đã  dứt, hơi ấm lìa thân, các căn bại hoại. Còn Tỳ-kheo nhập 
diệt tận định thì tuổi  thọ chưa dứt, hơi ấm cũng không lìa thân, các 
căn không bại hoại. Đó là sự khác  biệt giữa một người chết và nhập diệt
tận định.”…
 Lại hỏi rằng: “Bạch Ni sư, 
một người diệt tận  định và một người nhập vô tưởng định khác nhau thế 
nào?”
 Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng: “Một
người nhập  diệt tận định thì tưởng và tri đều diệt còn một người nhập 
vô tưởng định thì  tưởng và tri không diệt. Đó là sự khác biệt giữa một 
người nhập diệt tận định và  nhập vô tưởng định.”…
 Lại hỏi rằng: “Bạch Ni sư, 
một người từ diệt  tận định ra và từ vô tưởng định ra khác nhau như thế 
nào?”
 Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng: “Tỳ-kheo
từ diệt  tận định ra không khởi suy nghĩ này, ‘Ta từ diệt tận định ra’.
Tỳ-kheo khi từ vô  tưởng định ra, khởi ý nghĩ này, ‘Ta là hữu tưởng? 
Hay ta là vô tưởng?’ Đó là sự  khác nhau giữa một người từ diệt tận định
ra và từ vô tưởng định ra.”…
 Lại hỏi: “Tỳ-kheo khi nhập 
diệt tận định có  khởi ý nghĩ rằng, ‘Ta nhập diệt tận định không’?”
 Pháp lạc Tỳ-kheo đáp: “Tỳ-kheo
khi nhập diệt  tận định không khởi ý nghĩ rằng, ‘Ta nhập diệt tận 
định,’ nhưng do theo tâm thức  đã tu tập từ trước, y như vậy mà tiến 
tới.”…
 Lại hỏi rằng: “Bạch Ni sư, tỳ-kheo từ diệt tận
định ra  có khởi ý nghĩ rằng, ‘Ta từ diệt tận định ra’ hay không?”
 Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng: “Tỳ-kheo
khi từ  diệt tận định ra không khởi ý nghĩ, ‘Ta từ diệt tận định ra”, 
nhưng bởi thân này  và sáu xứ duyên mạng căn, cho nên từ định mà ra.”…
 Lại hỏi rằng: “Bạch Ni sư, Tỳ-kheo từ diệt tận
định  ra, tâm lạc những gì? Thú hướng những gì? Và thuận những gì?”
 Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc đáp rằng: “Tỳ-kheo
từ diệt  tận định ra, tâm lạc đối với viễn ly, thú hướng viễn ly và tùy
thuận viễn ly.”
  
  249.   Mối liên hệ giữa thọ, tưởng tư
 
 211. 
‘Kinh Đại Câu Hy la’
 Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp rằng: “Thọ,
tưởng,  tư, ba pháp này hiệp nhất không riêng biệt. Không thể thi thiết
ba pháp này là  riêng biệt. Vì sao? Những gì được cảm thọ bởi thọ, cũng
được tưởng bởi tưởng,  được tư bởi tư. Cho nên nói ba pháp này hiệp 
nhất không riêng biệt, và không thể  thi thiết ba pháp này riêng biệt.”
  
  250. 
 Mối quan hệ giữa 5 căn và ý căn (Abhidhamma)
 
 211. 
‘Kinh Đại Câu Hy la’
 Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành.
Lại  hỏi: “Hiền giả Đại Câu-hy-la, có năm căn với hành
dị biệt, cảnh giới dị  biệt, mỗi căn lãnh thọ cảnh giới riêng. Nhãn 
căn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn. Năm  căn hành tướng dị biệt, cảnh giới dị
biệt, mỗi căn tự lãnh thọ cảnh giới riêng.  Vậy cái gì lãnh thọ tất cả 
cảnh giới cho chúng? Cái gì làm sở y cho chúng?”
 Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp rằng: “Năm
căn với  hành tướng dị biệt, với cảnh giới dị biệt, mỗi căn lãnh thọ 
cảnh giới riêng.  Nhãn căn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn. Năm căn này với 
hành tướng riêng biệt, với  cảnh giới riêng biệt, mỗi căn lãnh thọ cảnh 
giới riêng; ý lãnh thọ tất cả cảnh  giới cho chúng. Ý làm sở y cho 
chúng.”
  
 251. Còn gì sau khi chết ?
 
 211. 
‘Kinh Đại Câu Hy la’
 “Ý nương tựa vào đâu mà tồn tại?”
 Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp: “Ý
nương tựa vào  tuổi thọ mà tồn tại.”…
 Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành.
Lại  hỏi: “Hiền giả Đại Câu-hy-la, tuổi thọ nương vào 
đâu mà tồn tại?”
 Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp rằng: “Tuổi
thọ nương  vào hơi ấm mà tồn tại.”…
 Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành.
Lại  hỏi: “Hiền giả Đại Câu-hy-la, tuổi thọ và hơi ấm,
hai pháp này hiệp nhất  hay riêng biệt? Có thể thi thiết hai pháp này 
riêng biệt chăng?”
 Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp: “Tuổi
thọ và hơi ấm  hai pháp này hiệp nhất không riêng biệt. Không thể cho 
rằng hai pháp này riêng  biệt. Vì sao? Nhân tuổi thọ mà có hơi ấm; nhân 
hơi ấm mà có tuổi thọ. Nếu không  có tuổi thọ thì không có hơi ấm, nếu 
không có hơi ấm thì không có tuổi thọ. Cũng  như do dầu do bấc mà đốt 
được đèn; và ở đây do ngọn mà có ánh sáng, do ánh sáng  mà có ngọn. Nếu 
không có ngọn thì không có ánh sáng, không có ánh sáng thì không  có 
ngọn. Cũng vậy, nhân tuổi thọ mà có hơi ấm, nhân hơi ấm mà có tuổi thọ. 
Nếu  không có tuổi thọ thì không có hơi ấm, không có hơi ấm thì không có
tuổi thọ.  Cho nên hai pháp này hiệp nhất không riêng biệt, và không 
thể cho rằng hai pháp  này riêng biệt.”…
 Tôn giả Xá-lê Tử khen xong hoan hỷ phụng hành.
Lại  hỏi: “Hiền giả Đại Câu-hy-la, có bao nhiêu pháp 
khi sanh thân chết rồi bỏ  xác ngoài bãi tha ma như cây gỗ vô tình?”
 Tôn giả Đại Câu-hy-la đáp: “Có
ba pháp khi sanh  thân chết rồi bỏ xác ngoài bãi tha ma như cây gỗ vô 
tình. Những gì là ba? Một là  tuổi thọ, hai là hơi ấm, ba là thức. Ba 
pháp này sau khi sanh thân chết rồi, bỏ  xác ngoài bãi tha ma như cây gỗ
vô tình.”
  
   252. Bình  đẳng giữa 4 giai cấp 
chỉ khác nhau hành nghiệp của mỗi người
 
212. ‘Kinh Nhất Thiết Trí’
 Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la hỏi rằng:  “Bạch Cù-đàm!  Ở đây có bốn  chủng tộc, Sát-lợi, Phạm chí, Cư 
sĩ,  Công sư. Bốn chủng tộc này có sự hơn kém nào không? Và có sự sai 
biệt nào?”
 Thế Tôn đáp  rằng: “Bốn
chủng tộc này, Sát-lợi, Phạm  chí, Cư sĩ,  Công sư có hơn kém và sai 
biệt. Hạng Sát-lợi, và Phạm chí ở trong nhân gian được coi là  tối 
thượng. Hạng Cư sĩ  và hạng Công sư ở trong nhân gian được  coi là hạ 
liệt. Trong bốn hạng này, Sát-lợi, Phạm chí, Cư sĩ  và Công sư đó  là sự
hơn kém và đó  là sự sai biệt.”
 Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la nghe xong khen 
rằng: Những gì Sa-môn Cù-đàm  nói như Sư. Những gì 
Sa-môn Cù-đàm  nói như Thiện sư.”
 Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la lại bạch:  “Bạch Cù-đàm,  con không hỏi những vấn đề  trong hiện tại, mà 
con muốn hỏi cả những vấn đề đời sau nữa,  mong Ngài nghe con hỏi 
chăng?”
 Thế Tôn đáp: “Đại
vương, nếu có điều  muốn hỏi, cứ tùy ý hỏi.”
 Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la hỏi:  “Bạch Cù-đàm,  ở đây có bốn  chủng tộc, Sát-lợi, Phạm chí, Cư sĩ
và Công sư, có sự hơn kém nào, có sự sai biệt nào ở đời sau chăng?”
 Thế Tôn đáp  rằng: “Bốn hạng này, Sát-lợi, Phạm chí, Cư sĩ, và Công
sư, có sự hơn kém, có sự sai biệt cả trong đời  sau nữa. Bốn hạng này, 
Sát-lợi, Phạm chí, Công sư và Cư sĩ nếu thành tựu được năm đoạn  chi này[9], chắc chắn sẽ gặp được bậc Thiện sư, là Như Lai, 
Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, chắc chắn được vừa ý, không có điều gì 
không vừa ý, và cũng luôn luôn được thiện lợi và hữu ích, an ổn khoái 
lạc. Những gì là năm chi? Đa văn Thánh đệ tử đối với Như Lai đã gieo 
trồng tín căn, đã quyết định vững bền, không ai có thể tước đoạt, dù là 
Sa-môn, Phạm chí, Thiên, Ma, Phạm và các loài thế gian khác. Đó gọi là 
đoạn chi thứ nhất.
 “Lại nữa, Đại  vương, Đa văn  Thánh đệ tử,  ít
bệnh, không bệnh, thành tựu sự điều  hòa thực đạo,  không quá lạnh, 
không quá nóng, dễ chịu, không bị bực dọc. Nghĩa  là sự ăn uống được 
tiêu hóa  dễ dàng an ổn. Đó  gọi là đoạn  chi thứ hai.
 “Lại nữa, này Đại  vương, Đa văn  Thánh đệ tử 
không siểm mị, không dối gạt, chất trực, tự bộc lộ sự chân thật đối với
Thế Tôn và  các vị phạm hạnh. Đó  gọi là đoạn  chi thứ ba.
 “Lại nữa, Đại  vương, Đa văn  Thánh đệ tử  
thường thành tựu hạnh tinh tấn, đoạn  trừ ác và bất thiện pháp, siêng tu
các thiện pháp, luôn luôn tự sách tấn, chuyên  nhất kiên cố, đối  với 
gốc rễ các thiện pháp, không hề từ bỏ phương tiện. Đó gọi là đoạn chi 
thứ bốn.
 “Lại nữa, Đại vương, Đa văn Thánh đệ tử tu 
hành trí  tuệ, quán pháp hưng suy và chứng đắc trí tuệ như vậy, thánh 
tuệ minh đạt phân  biệt thấu triệt, do đó mà chơn chánh diệt tận. Đó gọi
là đoạn chi thứ năm.
 “Có bốn chủng tộc, Sát-lợi, Phạm chí, Cư sĩ và
Công sư. Bốn hạng này nếu thành tựu được năm đoạn chi này, nhất định 
được gặp bậc Thiện sư, là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, ắt được
vừa ý, không có điều gì không vừa ý, luôn luôn được thiện lợi và hữu 
ích, an ổn khoái lạc.
 “Có bốn chủng tộc này, Sát-lợi, Phạm chí, Cư 
sĩ và  Công sư. Đó là hơn kém, đó là sự sai biệt ở đời sau vậy.”
  
  253. Những  việc làm 
người trí chê trách
 
214. ‘Kinh Bệ Ha Đề’
 “A-nan, thế nào là thân hành bị người trí ghê 
tởm?”
 Tôn giả A-nan đáp: “Đại
vương, đó là  những thân hành hại mình, hại người, hại cả hai, diệt 
trí tuệ, hỗ trợ sự ác,  không chứng đắc  Niết-bàn, không dẫn đến  trí, 
không dẫn đến  giác, không dẫn đến  Niết-bàn. Người ấy đối  với pháp nên
hành, không biết như thật, đối  với pháp không nên hành cũng  không 
biết như thật. Khi đối  với pháp nên hành không biết như thật, và pháp 
không nên hành cũng  không biết như thật rồi, đối  với pháp nên chấp thủ
không biết như thật, và đối với pháp không nên chấp thủ cũng  không 
biết như thật. Sau khi đối  với pháp nên thủ đã  không biết như thật, và
đối  với pháp không nên thủ cũng  không biết như thật rồi, đối  với 
pháp nên đoạn  trừ không biết như thật, và đối  với pháp không nên đoạn 
trừ cũng  không biết như thật. Sau khi đối  với pháp nên đoạn  trừ đã 
không  biết như thật, và đối  với pháp không nên đoạn  trừ cũng  không 
biết như thật; thì đối  với pháp nên thành tựu không biết như thật và 
đối với pháp không nên thành tựu cũng  không biết như thật. Sau khi đối 
với pháp nên thành tựu đã  không biết như thật và pháp không nên thành 
tựu cũng  không biết như thật rồi, do đó,  pháp nên hành trì thì không 
hành, pháp không nên hành trì lại hành. Sau khi pháp  nên hành trì thì 
không hành, pháp không nên hành trì lại hành rồi, đối với pháp nên thủ  
thì không thủ và pháp không nên thủ lại thủ. Sau khi đối với pháp nên 
thủ  thì không thủ, đối  với pháp không nên thủ lại thủ rồi, đối  với 
pháp nên đoạn  trừ thì không đoạn  trừ, đối với  pháp không nên đoạn  
trừ lại đoạn  trừ. Sau khi đối  với pháp nên đoạn  trừ thì không đoạn  
trừ, và đối  với pháp không nên đoạn  trừ lại đoạn  trừ rồi, đối  với 
pháp nên thành tựu thì không thành tựu, và đối với pháp không  nên thành
tựu lại thành tựu. Sau khi pháp nên thành tựu thì không thành tựu, và  
pháp không nên thành tựu lại thành tựu rồi thì pháp bất thiện càng tăng 
và pháp thiện càng giảm. Vì vậy, Như Lai không bao giờ hành những pháp 
ấy.”
  
  254.  37 phẩm trợ
đạo
 
 222. 
‘Kinh Lệ’
 “Nếu muốn đoạn  trừ vô minh, nên tu Bốn niệm 
xứ.
 “Thế nào gọi là muốn đoạn trừ vô minh nên  tu 
Bốn niệm xứ? Nếu khi Đức  Như Lai xuất thế, là Vô Sở Trước, Minh Hạnh 
Thành Tựu, Đẳng Chánh Giác,  Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo
Pháp Ngự,  Thiên Nhân Sư, hiệu là Phật, Chúng Hựu. Vị ấy đoạn trừ cho 
đến năm  triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, quán nội thân 
như thân, cho đến quán thọ,  tâm, pháp như pháp. Đó  là nếu muốn đoạn  
trừ vô minh, nên tu Bốn niệm xứ. Như vậy, số đoạn,  giải thoát, quá độ, 
bạt tuyệt, diệt, chỉ, tổng tri và biệt tri.  
 “Nếu muốn biệt tri vô minh, nên tu Bốn niệm 
xứ. Thế  nào là muốn biệt tri vô minh nên tu Bốn niệm xứ? Nếu khi Như 
Lai xuất thế, là Vô  Sở Trước, Đẳng  Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, 
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự,  Thiên Nhân Sư, 
hiệu là Phật, Chúng Hựu; vị ấy đoạn trừ cho đến năm  triền cái, những 
thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, quán nội thân như thân, cho đến quán thọ 
tâm, pháp như pháp. Đó  là muốn biệt tri vô minh nên tu Bốn niệm xứ. 
 “Nếu muốn đoạn  trừ vô minh nên tu Bốn chánh 
đoạn.  Thế nào là muốn đoạn  trừ vô minh nên tu Bốn chánh đoạn?  Nếu khi
Đức  Như Lai xuất thế, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng  Chánh Giác, Minh Hạnh 
Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự,  Thiên Nhân
Sư, là Phật, Chúng Hựu; vị ấy đoạn  trừ cho đến năm  triền cái, những 
thứ làm ô uế, tuệ yếu kém; đối  với pháp ác bất thiện đã  sanh, vì muốn 
đoạn  trừ cho nên phát khởi dục tâm, tìm cầu phương tiện, tinh cần, 
khích lệ và kiên  trì tâm, chánh đoạn. Đối với pháp  ác bất thiện chưa 
sanh, vì muốn không sanh cho nên phát khởi dục tâm, tìm cầu  phương 
tiện, tinh cần, khích lệ và kiên trì tâm, chánh đoạn. Đối với pháp thiện
chưa sanh, vì muốn sanh khởi, cho nên phát khởi dục tâm, tìm cầu 
phương tiện,  tinh cần, khích lệ và kiên trì tâm, chánh đoạn. Đối với 
pháp  thiện đã  sanh, vì muốn kiên cố, không quên mất, không suy thoái, 
tăng  trưởng, quảng đại,  tu tập viên mãn, cho nên phát khởi dục tâm, 
tìm cầu phương tiện, tinh cần, khích  lệ và kiên trì tâm, chánh đoạn. Đó
là, nếu  muốn đoạn trừ  vô minh nên tu Bốn chánh đoạn.  Như vậy, số 
đoạn,  giải thoát, quá độ,  bạt tuyệt, diệt, chỉ, tổng tri và biệt tri.
   (Ngoài 
ra, 4 chánh cần, 4 như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, 7 Bồ đề phần, 8 chánh 
đạo  cũng mô tả giống như vậy)
 
  255. Những vấn 
đề ngoại đạo thảo  luận
208  ‘Kinh Tiễn 
Mao’
Bấy
giờ, trải qua đêm, lúc vừa sáng, Thế Tôn mang y  cầm bát vào thành 
Vương xá để khất thực. Khất thực xong, thu dọn y bát, rửa chân  tay, 
Ngài khoác ni-sư-đàn trên vai và đi đến vườn Dị học, trong rừng Khổng 
tước.  Tại rừng Khổng tước, trong vườn Dị học, bấy giờ có một người Dị 
học tên là Tiễn  Mao là một danh đức, bậc tông chủ, được mọi người tôn 
làm thầy, có tiếng tăm  lớn, mọi người kính trọng, thống lãnh đồ chúng 
đông đảo, được năm trăm vị dị học  tôn trọng. Vị này ở giữa một đại 
chúng đang ồn ào, nhiễu loạn, nói năng lớn  tiếng, bàn luận đủ mọi vấn 
đề súc sanh, tức là vấn đề vua chúa, về giặc, về việc  đấu tranh, việc 
ăn uống, về y phục, về đàn bà, về con gái, về dâm nữ, về thế gian,  về đồng trống, về dưới biển 
và việc nước, việc dân. Những người ấy cùng  nhau nhóm họp ngồi bàn luận
về những vấn đề như súc sanh vậy.
  
  
   
     
   
   
[1]
Pāli: svākkhato bhagavato 
dhammo suppaṭipanno      sāvakasaṅgho,      Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, Tăng đệ tử của Thế 
Tôn khéo thực hành.
 
  
     
   
   
[2]
Danh tánh chủng, chỉ Tỳ-kheo 
chỉ có danh      tự, chứ không có thực chất (?). Pāli: Gotrabhuno.
 
  
     
     
   
[3]
Tức bốn hành: không an ổn, an 
ổn, điều      phục và tịch tịnh. Chúng đệ tử Phật hành ba loại sau. Tham
chiếu Pāli, D.      33. Saṅgīti-suttanta:      catasso paṭipadā:      akkhamā paṇipadā      (không 
kham nhẫn), khamā paṭipadā      (kham nhẫn), damā paṭipadā      (điều phục), samā paṭipadā      (tịch tĩnh).
 
  
     
     
   
[4]
Trừ sự,      trong kinh 215, tám thắng xứ được 
gọi là tám trừ xứ, nhưng ở đây trừ sự có      thể chỉ cho bốn thông hành
(xem kinh số 215 ở sau).
 
  
     
     
   
[5]
Hành lai du,      tham khảo Pháp Uẩn 3 (No.1537, 
Đại 26, trang 463 b), được gọi là Pháp tùy,      tức tám chi 
Thánh đạo. Chúng đệ tử của Phật tùy thuận du lịch thiệp hành      trong 
đó.
 
  
     
     
   
[6]
Mười sự thành tựu trên đây, 
trừ những      thành tựu: nhu nhuyến, nhẫn và lạc,
còn lại có thể so      với những đức tánh Tăng bảo thường được tán 
thán, mà theo văn của Tập Dị và      Pháp Uẩn như vầy: “Cụ túc diệu 
hành, chất trực hành, pháp tùy pháp hành, hòa      kỉnh hành, tùy pháp 
hành”.
 
  
     
   
   
[7]
Kiến lai kiến quả;      Xem Tập Dị (No.1536, Đại 26, trang
402): hữu y kiến, hữu quả kiến.
 
  
     
   
   
[8]
Thị xứ phi xứ: 
trường hợp đúng và trường hợp 
sai.
 
  
     
   
   
[9]
Pāli: thānāthānakusala (xứ phi
xứ thiện      xảo).
 
  
     
   
   
[10]
Kiến đế nhân, đây chỉ vị 
Tu-đà-hoàn.
 
  
     
   
   
[11]
Mạng hành thanh tịnh, sinh 
hoạt, hay sự      nuôi sống, thanh tịnh. Pāli: parisuddho ājīvo.
 
  
     
     
   
[12]
Vị phẫn tránh cố 謂    
忿     諍     故; vì sự phẫn nộ và tranh cãi.      Pāli: yatvādhikaraṇam enam…, do      nguyên nhân gì 
mà… Trong bản Hán, adhikaraṇa,
nguyên nhân, được hiểu là sự tranh cãi
 
  
     
   
   
[13]
Thú hướng bỉ cố      趣     向     彼     故;      Pāli: (akusalā dhammā) anvāssaveyyṃ,      (các pháp bất thiện) có thể khởi lên (trôi chảy vào 
tâm).
 
  
     
   
   
[14]
Yển tọa      燕     坐;      ngồi nơi chỗ vắng vẻ. Pāli: 
patisallāna.
 
  
     
   
   
[15]
Nội hành chỉ      內     行     止.      Pāli: 
ajjhattaṃ      cetosamathānuyutto.
 
  
     
   
   
[16]
Chỉ Tỳ-kheo A-lan-nhã, tu theo
hạnh chỉ      sống trên rừng. Pāli: araññaka.
 
  
     
   
   
[17]
Pāli: cittaṃ      vasaṃ vatteti, no... cittassa      vasena 
vatteti, (Tỳ-kheo chế ngự tâm chứ không phải bị tâm chế ngự).
 
  
     
     
   
[18]
Hành chân thật không bất điên 
đảo. Pāli:      Yathābhuccā avipallatthā parisuddhā sunnatāvakkam. Thâm 
nhập không tánh,      chân thật, thanh tịnh, không điên đảo. Bốn từ này ở
đây được coi là đồng      nghĩa.
 
  
     
     
   
[19]
Hán: niệm nhất vô sự tưởng 
念     一     無     事     想.      Pāli: 
araññasaññaṃ      paṭicca      manasi 
karoti ekattaṃ,      duyên vào ý tưởng về khu rừng mà 
tác ý cái một. Duyên vào ý tưởng rừng mà      tập trung trên một đối 
tượng duy nhất, nhất tánh.
 
  
     
   
   
[20]
Phiền sư, Pāli: 
ācariyūpaddava, bất      hạnh, hay nguy hại cho thầy.
 
  
     
   
   
[21]
Mâu-lê-phá-quần-na     
牟     犁     破     群     那.      Pāli: Moliyaphagguna.
 
  
     
   
   
[22]
Ngũ
ngôn đạo      五     言     道      hay
ngũ ngữ lộ      五     語     珞.      
Xem Tập Dị 13, No.1536, Đại 26, tr.421c). Pāli: Pañca Vacanapathā.
 
  
     
   
   
[23]
Ca-la-lại      迦     羅     賴.      Pāli: Kīṭagiri.
 
  
     
     
   
[24]
Câu giải thoát tức Câu phần 
giải thoát     俱     分     解     脫.      Gọi là Cu phần vì có hai phần 
chướng, phiền não phần chướng và giải thoát      phần chướng (xem Tập Dị
Môn Luận 17, Đại 26 tr.436a). Pāli:      Ubhatobhāgavimutta.
 
  
     
     
   
[25]
Thân xúc      身     觸;      Tập Dị (đd.,nt.): Thân dĩ chứng 身     已     證.      Pāli: 
santā vimokhā atkkama rūpe āruppā te kāyena phassitvā viharati, tịch    
tịnh giải thoát, vượt qua các sắc và vô sắc, sau khi thể nghiệm bằng 
thân,      vị ấy an trụ.
 
  
     
   
   
[26]
Tuệ kiến, Pāli: paññāya cassa 
divā, sau      khi thấy bằng tuệ.
 
  
     
   
   
[27]
Kiến đáo      見     到,      cũng gọi là kiến chí. Pāli: diṭṭhipatto.
 
  
     
   
   
[28]
Tức là bậc Thánh này căn cứ 
trên địa vị      tùy pháp hành (xem dưới) chứng đắc Đạo loại trí, với sự
bén nhạy của tuệ      (Tập Dị đd., tr.435c Cu-xá đd., nt.). Pāli: 
paññāya vodiṭṭhā      honti vocaritā, do tuệ mà quán 
sát và thấu triệt.
 
  
     
   
   
[29]
Sa-di Châu-na      沙     彌     周     那.      Pāli: Cunda samaṇuddesa.      Được 
đồng với Mahā-Cunda em ruột ngài Sāriputta và đắc quả A-na-hàm trong    
lúc là Sa-di.
 
  
     
   
   
[30]
Đạo và đạo tích. Pāli: magge 
vā hi      patipadāya, tranh chấp trong các vấn đề liên hệ Thánh đạo và 
sự tu tập Thánh      đạo.
 
  
     
   
   
[31]
Có 18 tránh sự, theo các Luật 
tạng.      Trong đây chỉ nêu 16. Hai điều thuyết và phi thuyết đề cập 
riêng.
 
  
     
   
   
[32]
Chỉ tránh     止     諍      hay nói là diệt tránh pháp      滅      諍     法;      Pāli: 
adhikaraṇa-samathā.
 
  
     
     
   
[33]
Thuật ngữ theo Luật Tứ Phần: 
1. Hiện      tiền tì-ni (Pāli: sammukhāvinaya), 2. Ức niệm tì-ni 
(sativinaya), 3. Bất si      tì-ni (amūḷhavinaya),      4.
Tự ngôn trị (paṭiññayā      kāretabbaṃ),      5. Đa nhân ngữ (yebhuyyasikā), 6. Tội xứ sở 
(tassapāyikā), 7. Như thảo phú      địa (tiṇavatthāraka)ø.
 
       
   
   
[34]
Thánh bát chi trai     
聖     八     支     齋.      Pāli: atthaṅga      samannāgato upasatho hay 
ariyūposatha.