Phật học cơ bản
Khai Thị (Tập 2)
Đại Sư Tuyên Hóa Việt dịch: Ban Phiên Dịch Đại Học Pháp Giới, Vạn Phật Thánh Thành
06/06/2554 10:23 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Phần giới thiệu

  • Vài nét về Vạn Phật Thánh Thành

  • Sơ lược về Hòa Thượng Tuyên Hóa

  • Mười tám đại nguyện của Hòa Thượng Tuyên Hóa

  • Tám quy luật của ban phiên dịch kinh điển

Vài Nét Về Vạn Phật Thánh Thành

 Khác với Ðạo Phật ở Phương Ðông đã trải qua hơn 2000 năm lịch sử. Phật giáo ở Mỹ quốc chỉ mới phôi thai, sinh mầm nảy nhạ trong khoảng thế kỷ này. Do vậy khi đem Phật pháp truyền tới Mỹ, nhu cầu đòi hỏi chư Tăng, trước thông ngộ Phật chỉ, thông suốt Tam tạng, đạo hạnh cao vút, sau là có thể vận dụng Phật lý viên dung với nền văn hóa Tây phương, dùng ngôn ngữ thời đại. Nền tảng chủ yếu trong việc hoằng pháp là kiến thiết tùng lâm, định đặt một chế độ Tăng-lữ với giới luật nghiêm minh, tạo nhân duyên thuận lợi cho chư Tăng, Ni học tập, nghiên cứu, tu trì và hành đạo.

Với những điểm then chốt ấy, năm 1959, Hòa Thượng Tuyên Hóa, vị đệ tử kế thừa tâm ấn của đại Hòa Thượng Hư Vân, sang lập ra Tổng Hội Pháp Giới Phật Giáo để chủ động việc hoằng pháp. Năm 1966, Giảng Ðường Phật Giáo ở Cựu Kim Sơn được thành lập, rồi tiếp theo là chùa Kim Sơn.

Năm 1973, Viện Quốc Tế Dịch Kinh ra đời. Mục đích chính của viện là dịch chính xác, dễ hiểu Tam Tạng Kinh điển (Kinh, Luật, Luận) từ tiếng Phạn và Hán ra các ngôn ngữ khác trên thế giới như tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Nhật và Việt. Song song với chính văn, phần phiên dịch còn kèm theo lời giảng nghĩa của Hòa Thượng Tuyên Hóa khiến cho độc giả đời nay có thể dễ dàng am hiểu Phật lý và áp dụng vào sự tu hành, sinh hoạt thực tiễn. Ðiểm đặc thù của viện là việc phiên dịch do chư Tăng, tục cộng tác phải thông qua bốn giai đoạn: Dịch từ nguyên văn, kiểm lại ý dịch, trau chuốt lời văn và cuối cùng là ấn chứng cho bản dịch.

Năm 1967, Hòa Thượng sáng lập Vạn Phật Thánh Thành, một đại tùng-lâm với hơn 70 tòa nhà, tọa lạc trên 500 mẫu đất ởTalmage, miền Bắc California. Tất cả Tăng, Ni, cư sĩ không phân biệt quốc tịch đều có thể tới tu hành ở Vạn Phật Thánh Thành. Bởi vì mục đích của tùng lâm ấy là dành cho tất cả mọi chúng sanh nào chân tâm thành ý muốn tới đó tu hành. Cùng năm ấy, 1976, Hòa Thượng sáng lập ra trường Ðại Học Pháp Giới với 4 mục đích: Truyền bá giáo nghĩa của đạo Phật, hun đúc chân tâm của mọi người, tạo lợi ích cho xã hội và giác ngộ chúng sanh.

Các vị Tăng, Ni, cư sĩ cư trú tại Vạn Phật Thánh Thành đều sống thanh đạm, hướng theo sáu tông chỉ của Thánh Thành là: Không tranh, Không tham, Không truy cầu, Không ích kỷ, Không tự lợi và Không dối trá. Thanh, thiếu niên nam và nữ ở Vạn Phật Thánh Thành sống biệt lập; các em hằng ngày có thể theo học ở trường tiểu học Dục Lương hoặc trường trung học Bồi Ðức, là bộ phận trực thuộc của trường Ðại Học Pháp Giới. Ở đây, học sinh sinh viên đều giữ nếp sống thanh khiết: Ăn chay, không uống rượu, không hút thuốc, không cờ bạc, xa rời truyền hình, chiếu bóng và các tập quán ngoài đời.

Ðến nay, sau gần 30 năm phát triển, Tổng Hội Pháp Giới Phật Giáo đã sáng lập ra nhiều đạo tràng ở khắp nơi như:

  • Chùa Kim Luân ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ (1976);
  • Chùa Kim Phong ở Seattle, Washington, Hoa Kỳ;
  • Chùa Kim Phật ở Vancouver, Gritish Columbia, Gia Nã Ðại (1983);
  • Chùa Hoa Nghiêm ở Calgary, Alberta, Gia Nã Ðại (1986);
  • Chánh Pháp Phật Học Viện ở Lục Quy, Ðài Loan (1989).

Và gần đây, thêm nhiều tu viện được thành lập rải rác tại tiểu bang California như Pháp Giới Thánh Thành ở Sacramento, Tu Viện Phật Giáo & Học Viện Tôn Giáo Thế Giới ở Berkeley, Long Beach Thánh Tự ở California.

 

Sơ Lược Về Hòa Thượng Tuyên Hóa 

Hòa Thượng Tuyên Hóa họ Bạch, tên thật là An Từ, tự là Ðộ Luân. Ngài quê ở huyện Song Thành, tỉnh Tùng Giang thuộc Ðông Bắc, Trung Hoa, tức là Mãn Châu.

Phụ thân ngài tên Phú Hải, chuyên làm nghề nông. Mẹ họ Hồ, sinh được tất cả tám người con; năm trai, ba gái và ngài là út.

Hồ thái phu nhân thọ chay trường, niệm Phật, chẳng hề gián đoạn. Một đêm nọ phu nhân nằm mộng thấy Ðức Phật A Di Ðà hiện thân phóng đại quang minh chiếu triệt thế giới, chấn động thiên địa. Giật mình tỉnh giấc, phu nhân ngửi thấy mùi hương kỳ diệu khắp phòng, rồi sau đó hạ sinh ra ngài.

Ngài vừa ra đời liền liên thanh khóc suốt ba ngày đêm không dứt. Chính là vì đau xót cho nỗi khổ của thế giới Ta Bà này vậy.

Ngài cư ngụ tại một thôn quê rất nhỏ bé, thưa thớt nhà cửa. Thế nên, đến năm mười một tuổi ngài vẫn chưa thấy qua người chết. Một hôm, ngài cùng lũ bạn trong thôn dạo chơi chốn điềm dã. Bất chợt, ngài thấy một em bé miệng ngậm, mắt nhắm, nằm bó trong đám rơm bên lề. Ngài gọi mà đứa bé chẳng đáp, rờ thì chẳng có hơi thở. Ngài lấy làm khó hiểu vô cùng nên hỏi lũ bạn. Có kẻ hiểu biết liền nói: "Ðứa bé đã chết rồi!" Song ngài vô cùng ngạc nhiên, không hiểu thế nào là chết. Về nhà, ngài liền hỏi mẹ, bà dạy: "Phàm là người, ai cũng phải chết. Có kẻ chết già, có kẻ chết bịnh, cũng có kẻ chết vì tai nạn. Bất luận là giàu sang hay nghèo khó, bất luận là sĩ, nông, công, thương, hay quan lại, ai ai rốt cuộc cũng phải chết."

Ngài lại hỏi: "Nếu thật như vậy, có cách gì thoát được chết không?" Bấy giờ trong nhà có vị khách xưa từng là tu Ðạo, đỡ lời đáp rằng: “Chỉ có cách tu Ð?o, minh ngộ tự tâm, triệt kiến bổn tánh thì mới liễu đoạn sanh tử, siêu thoát luân hồi, thành Chánh Giác, chứng Vô Sinh."

Tuy lúc đó ngài còn nhỏ tuổi, song đối với lời vị khách nói, ngài tỉnh ngộ sâu xa, do đó ngài lập định chủ trương quyết chí xuất gia tu Ðạo.

Khi ngài mang chuyện xuất gia bàn với mẹ, bà dạy: "Xuất gia là chuyện tốt lắm, nhưng cũng không phải là chuyện dễ làm. Cần có thiện căn, có đại nguyện lực, cần phát Ð?i Bồ Ðề tâm thì mới có thể thành tựu Vô Thượng Ðạo. Nay con có lòng vậy, ta hết sức đồng ý, cũng thật phù hợp với giấc mộng xưa kia vậy. Nay ta đã già, ngày tháng chẳng còn bao lâu, các anh chị con đều đã tự lập. Con nên ở lại để phụng dưỡng cha mẹ; khi ta mất rồi, con xuất gia tu hành, lúc đó cũng chẳng muộn."

Ngài vâng lời cha mẹ, rồi sau đó hằng ngày thường theo mẹ lạy Phật. Lạy Phật xong, ngài lạy cha mẹ.

Ngày qua ngày, đông tàn xuân đến, ngài cung kính phụng dưỡng song thân như đối vớI Phật vậy. Chẳng bao lâu tiếng tăm hiếu thảo đồn khắp bốn phương, khi đó mọi người đều gọi ngài là Bạch Hiếu Tử (người con chí hiếu họ Bạch)

Năm ngài 19 tuổi thì mẹ ngài qua đời; bấy giờ ngài từ giã họ hàng lên chùa lạy Hòa Thượng Thường Trí làm thầy và quy y, chính thức xuất gia, thọ giới. Sau đó, ngài về lại nơi mộ phần thân mẫu để thủ hiếu trong ba năm. Suốt thời gian ấy, ngài sống trong một túp lều tranh nhỏ, ngày ngày tọa thiền, đọc tụng kinh điển Ð?i thừa và niệm danh hiệu A Di Ðà. Rất nhiều lần ngài ngồi thiền rồi nhập định, liên tiếp trong nhiều tuần lễ chẳng rời thiền sàng.

Một đêm nọ, dân trong thôn gần đó hốt hoảng thấy túp lều tranh của ngài hừng hực lửa đỏ. Ánh lửa hồng phừng thẳng lên giữa không trung và túp lều tranh thì sáng rực lên như ban ngày. Nhiều người chạy đến mộ hô hoán: "Nhà Hiếu Tử bị cháy rồi!" Cả trăm người trong làng hè nhau xách gáo, đem xô tới để chữa cháy. Song, khi tới nơi họ chỉ thấy túp lều tranh bình lặng, lửa chẳng cháy và ngài thì vẫn an nhiên tĩnh mặc trong Thiền Ðịnh.

Có lần ngài đang tọa thiền chợt cóvị khách đến viếng. Vị khách ấy, ngạc nhiên thay, chính là Lục Tổ Huệ Năng! Ðức Tổ Sư dạy ngài rằng trong tương lai ngài sẽ đi tới Mỹ quốc để độ sinh, rằng ở Tây phương ngài sẽ gặp nhiều kẻ hữu duyên có thể hoằng dương Phật Pháp và ngài sẽ độ vô lượng vô biên chúng sanh. Mãi đến lúc Ðức Tổ Sư biệt quay đi rồi ngài mới choàng tỉnh, nhớ lại rằng Ðức Huệ Năng vốn là người đời Ðường, 1200 năm về trước. Sau Ð? Nhị Thế chiến, ngài vân du khắp nơi. Cuối cùng, trải hơn ba ngàn dặm, ngài tới chùa Nam Hoa, bái kiến vị Ðại Thiện Tri Thức của thời bấy giờ là lão Hòa Thượng Hư Vân. Lão Hòa Thượng lúc ấy đã 109 tuổi. Vừa nhìn thấy ngài, Lão Hòa Thượng liền nhận ra ngay sự chứng ngộ của ngài. Khi đó, Lão Hòa Thượng nói: "Như thị, như thị"; và ngài cũng đáp lại: "Như thị, như thị."

Bấy giờ Lão Hòa Thượng Hư Vân ấn chứng sở đắc của ngài và ngài chính thức trở thành vị Tổ thứ chín của dòng pháp Quy Ngưỡng.

Sau đó, Lão Hòa Thượng dạy ngài ở lại chùa đảm nhận chức viện trưởng Viện Giới Luật của chùa Nam Hoa.

Năm 1950, ngài từ giã chùa, lên đường sang Hương Cảng. Ở đây, ngài sống tại một sơn động biệt lập, chẳng vãng lai gì đến bụi trần, tục lụy. Chẳng bao lâu, có một số Tăng-lữ từ Trung Hoa Ð?i Lục qua Hương Cảng tỵ nạn, và họ cần sự giúp đỡ của ngài. Cuối cùng, ứng với nhân duyên, ngài rời sơn động lập ra giảng đường và hai ngôi chùa, cùng trợ giúp xây dựng nhiều đạo tràng khác.

Trong suốt mười hai năm ở Hương Cảng, ngài là tấm gương sáng khổ hạnh, tinh tấn tu Ðạo, quên mình vì Phật pháp. Ngài đã ảnh hưởng vô số thiện nam tín nữ, khiến họ phát tâm Bồ Ðề, quy y Tam Bảo, ủng hộ Phật Pháp.

Năm 1962, ngài đến San Francisco, Mỹ quốc. Tại đây, nơi một nhà kho nhỏ, ngài kiên trì tu hành trong im lặng, chờ đợi cho cơ duyên hoằng dương Ðạo Pháp chín mùi. Lúc ấy ngài tự gọi mình là Mộ Trung Tăng (nhà sư trong phần mộ) hay là Hoạt Tử Nhân (người đã chết nhưng còn sống). Những Phật tử hiểu biết sự tu hành chân chính của ngài đều rất cảm động và cung kính ủng hộ, cúng dường ngài.

Năm 1968, ngài biết cơ duyên đã đến, ngài nói: "Một đóa hoa sẽ nở ra năm cánh.” Mùa hè năm đó, ngài chủ trì Pháp Hội giảng Kinh Lăng Nghiêm trong 96 ngày. Khi Pháp Hội kết thúc, quả nhiên có năm người Mỹ đầu tiên xin xuất gia với ngài.

Từ đó, ngài tiếp tục chủ trì nhiều Pháp Hội khác, giảng giải Tâm Kinh, Kinh Ðịa Tạng, Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Ðàn v.v… Năm 1971, ngài giảng bộ kinh tối cao của Ðại Thừa, đó là kinh Hoa Nghiêm.

Song song với việc giảng kinh, thuyết Pháp, ngài còn làm vô số công đức độ sinh khác. Năm 1976, ngài thành lập Vạn Phật Thánh Thành, nền tảng căn cứ địa để hoằng dương Phật pháp ở Mỹ quốc. Tại Thánh Thành, ngài xây dựng chế độ Tùng-lâm, đào tạo Tăng, Ni, học chúng, tạo nhân duyên thù thắng cho sự chân chính tu hành.

 

Mười Tám Ðại Nguyện Của Hòa Thượng Tuyên Hóa

Năm Hòa Thượng Tuyên Hóa 19 tuổi thì mẫu thân ngài qua đời. Sau đó lo liệu chu toàn việc mai tang, ngài tới chùa Tam Duyên ở Hợp Nhĩ Tân (Harbin), chính thức xuất gia, lạy Hòa Thượng Thường Trí làm thầy. Ít lâu sau, ngài tới mộ phần của mẫu thân thủ hiếu. Năm đó, nhân ngày vía Ðức Quán Thế Âm, ngày 19 tháng 6, ngài đối trước chư Phật, Bồ Tát phát mười tám đại nguyện: 

"Kính lạy mười phương Chư Phật,

Cùng với Tam Tạng Pháp,

Quá khứ, hiện tại Hiền ThánhTăng,

Nguyện rủ lòng tác chứng:

Ðệ tử Ðộ Luân,

Thích An Từ,

Con nay phát tâm rằng:

Chẳng cầu phước báo hàng Trời, Người,

Cùng Thanh Văn, Duyên Giác,

Cho đến hàng Bồ Tát quyền thừa.

Duy nương TốI Thượng Thừa

Mà phát Bồ Ðề tâm.

Nguyện cùng Pháp Giới chúng sinh,

Nhất thời đồng đắc

A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.”

  1. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Bồ Tát ở mười phương ba đời, trong tận cùng hư không, biến khắp Pháp Giới, mà chưa thành Phật thì tôi thề không thủ Chánh Giác.
  2. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Duyên Giác ở mười phương ba đời, trong tận cùng hư không, biến khắp Pháp Giới, mà chưa thành Phật thì tôi thề không thủ Chánh Giác.
  3. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Thanh Văn ở mười phương ba đời, trong tận cùng hư không biến khắp Pháp Giới, mà chưa thành Phật, tôi thề không thủ Chánh Giác.
  4. Nếu có một vị thuộc hàng Trời, Người ở trong Tam Giới, mà chưa thành Phật thì tôi thề không thủ Chánh Giác.
  5. Nguyện rằng nếu có một Người ở trong mười phương thế giới mà chưa thành Phật thì tôi thề không thủ Chánh Giác.
  6. Nguyện rằng nếu có một vị Trời, Người, A Tu La chưa thành Phật, tôi thề không thủ Chánh Giác.
  7. Nguyện rằng trong thế giới loài Súc Sinh, nếu còn một loài nào chưa thành Phật, tôi thề không thủ Chánh Giác.
  8. Nguyện rằng trong thế giới loài Ngạ quỷ, nếu còn một kẻ chưa thành Phật, tôi thề không thủ Chánh Giác.
  9. Nguyện rằng trong thế giới loài Ðịa Ngục, nếu còn một kẻ chưa thành Phật, tôi thề không thủ Chánh Giác.
  10. Nguyện rằng trong Tam Giới, nếu những kẻ từng quy y với tôi, hoặc là Trời, Người, A Tu La, các loài bay lặn, động vật, thực vật, linh giới, rồng, súc sanh, quỷ thần mà chưa thành Phật, tôi thề không thủ Chánh Giác.
  11. Nguyện rằng tất cả phước lạc mà tôi đáng được hưởng đều hồI hướng phổ thí cho tất cả chúng sanh trong Pháp Giới.
  12. Nguyện rằng một mình tôi nhận chịu hết tất cả khổ nạn của chúng sanh trong Pháp Giới.
  13. Nguyện rằng tôi sẽ phân linh vô số, phổ nhập tâm chúng sinh nào không tin Phật Pháp, làm cho họ bỏ ác, hướng thiện, hối quá, sửa mình, quy y Tam Bảo rồi cuối cùng thành Phật.
  14. Nguyện rằng tất cả chúng sinh nàokhi thấy mặt tôi, cho đến chỉ nghe tên tôi, đều phát tâm Bồ Ðề, mau đắc thành Phật đạo.
  15. Nguyện rằng luôn tôn kính điều Phật dạy, và thực hành mỗi ngày ăn một bữa.
  16. Nguyện giác ngộ loài hữu tình, khắp nhiếp thọ các loài căn cơ.
  17. Nguyện trong đời nay tôi sẽ đắc Ngũ Nhãn, Lục Thông và phi hành tự tại.
  18. Nguyện tất cả mọi cầu nguyện đều hoạch đắc mãn túc.

Cuối cùng:

"Chúng sanh vô biên thề nguyện độ.

Phiền não vô biên thề nguyện đoạn.

Pháp môn vô biên thề nguyện học.

Phật Ðạo vô thượng thề nguyện thành." 

 

Tám Quy Luật của Viện Phiên Dịch Kinh Ðiển 

  1. Dịch giả phải thoát mình ra khỏi động cơ tự truy cầu danh lợi
  2. Dịch giả phải tu tâm dưỡng tánh, dứt bỏ đi thói cao ngạo.
  3. Dịch giả phải tự chế, không được tự khen, rồi chê bai kẻ khác.
  4. Dịch giả không được tự cho mình là tiêu chuẩn, là thước đo, rồi hạ thấp kẻ khác bằng cách tìm lỗi lầm nơi tác phẩm của họ.
  5. Dịch giả phải lấy tâm Phật làm tâm mình.
  6. Dịch giả phải dùng Trạch Pháp Nhãn để phán xét đâu là chân lý.
  7. Dịch giả phải cung kính cầu thỉnh Cao Tăng, Ðại Ðức ở mười phương chứng minh cho bản dịch của mình.
  8. Dịch giả phải hoan hỷ truyền bá giáo nghĩa nhà Phật bằng cách in Kinh, Luật, Luận một khi phần phiên dịch của mình được chứng minh là đúng đắn.

--- o0o ---