Phật học cơ bản
Ba mươi bảy phẩm trợ Đạo giác ngộ
Đức Đạt Lai Lạt Ma
18/10/2553 16:41 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

NGÀY THỨ NHẤT



MỞ ĐẦU



Chúng ta tập hợp cùng nhau ở Đạo Tràng Giác Ngộ để tiến hành nghi thức truyền pháp Thời Luân (Kalachakra).  Quý vị đã đến từ nhiều nơi khác nhau do nơi lòng thành tín.  Trên những phương tiện vận chuyển nghèo nàn mà quý vị đã phải chịu đựng trong một hành trình nhọc  nhằn, nhưng quý vị đã quên đi điều ấy để tập hợp ở đây.

Chúng ta sẽ thực hiện đại nghi thức khai tâm truyền pháp sau này.  Nhưng trước nhất, có nhiều người ở đây chỉ có một lòng tín ngưỡng đơn thuần trong Pháp Bảo mà không có một sự thông hiểu thực sự về Giáo  Pháp.  Họ không có kinh nghiệm về nghe và lắng nghe Giáo  Pháp, và vì vậy không biết ý nghĩa thật sự của nó.  Trong thời gian lễ khai tâm truyền pháp sẽ không có thời gian dành cho một sự giải thích dài dòng.  Do thế, nếu chúng ta để thời gian này lãng phí, không có điều gì tốt lành được hoàn thành đáp lại cho sự khó nhọc và tổn phí liên hệ đến việc tập họp về Đạo  Tràng Giác Ngộ của quý vị nơi đây.

Mục tiêu sự tập họp của quý vị nơi đây để lắng nghe Giáo Pháp và tiếp nhận lễ truyền pháp nhầm mục đích chuyển hóa tâm thức của quý vị.   Vì cung cách suy nghĩ là nguyên nhân chính để đạt đến, và điều kiện để duy trì, một tính cách tích cực của tinh thần.  Trong một vài trường hợp ngoại lệ một tính tính cực hiện hữu bẩm sinh trong tâm thức, nhưng điều này rất hiếm hoi.  Do vậy, có thể là rất ích lợi nếu chúng tôi dành một ít ngày đầu tiên để giải thích những ý nghĩa tổng quát của Giáo Pháp.  Chúng tôi cảm thấy rằng nên gởi đến (thỉnh thoảng) những lúc tuy ngắn ngủi nhưng thích thú vì thế tất cả chúng ta không cảm thấy mệt nhọc.

Hôm nay chúng tôi sẽ bắt đầu sự giải thích tổng quát này, trong trường hợp đặc biệt chúng tôi sẽ bao gồm một sự giới thiệu đến giáo huấn Đại Thừa.  Chúng tôi sẽ giảng dạy bằng truyền khẩu Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ được sáng tác bởi Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo, là những điều trình bày những hướng dẫn thiết yếu cho sự thực hành của Bồ Tát.

Luật Tạng nói rằng khi lắng nghe Giáo Pháp chúng ta không nên ngồi trên ghế hay đứng, cũng không mang giày, đội nón hay quấn khăn, cũng không mang vũ khí hay che dù.  Một trường hợp ngoại lệ có thể cho phép được làm đến một vài điều trong những điều này ấy là sự kiện bệnh hoạn.  Đức Thế Tôn nói, trong giới luật của Giáo Pháp:

 Nếu xãy ra trường hợp người bệnh phải bán tất cả những đồ trang hoàng của hình tượng Đức Phật, luận giải và kinh điển để tồn tại, thế thì họ nên làm như thế

Điều ngoại lệ này được chế nên bởi vì Phật Pháp căn bản trên lòng từ bi yêu thương.  Thực tế, từ bi yêu thương là gốc rễ của Phật Pháp.  Do thế, điều này được áp dụng ngày hôm nay ở đây.  Mặc dù con người chúng ta chưa bị bệnh, nhưng có nguy cơ rằng họ sẽ ngã bệnh bởi vì mặt trời như thiêu đốt.  Do vậy, (mọi người) được phép đội nón hay che dù.   Tương tự như thế, những tu sĩ nào không có nón có thể dùng một phần của y áo để che lên đầu của họ. 

Sự cải thiện điều kiện vệ sinh phải được quán chiếu thích hợp tốt đẹp đến thời tiết và một thái đội thích nghi tốt tùy theo điều kiện từng quốc độ, nơi chốn và khí hậu.  Những ai đã đã vượt thắng bốn yếu tố nội tại không phải lệ thuộc và những yếu tố ngoại tại.  Nhưng vì chúng ta chưa khắc phục được những yếu tố nội tại chúng ta nên hành động tùy theo với  cường độ của năng lực ngoại tại.

Trước khi giảng pháp trong truyền thống của chúng tôi, chúng ta trì niệm chân ngôn mantra đề ngăn chặn hay nhổ gốc rễ bất thiện, và cũng trì tụng Tâm Kinh Bát Nhã để tiêu trừ chướng ngại.  Đây là bởi vì chúng ta không có kinh nghiệm với  những trở lực kết quả từ những năng lực bất thiện hay từ những ai đã hướng dẫn những người khác lạc đường trong khi lắng nghe và thuyết giảng Giáo Pháp.  Hôm nay chúng ta sẽ trì tụng Tâm Kinh Bát Nhã để tịnh hóa ám chướng và sau đó chúng tôi  muốn khởi đầu những lời cầu nguyện bằng việc trì tụng nghi lễ cúng dường Văn Thù Sư Lợi ba lần; rồi thì chúng tôi sẽ bắt đầu thỉnh cầu đến  Ngài Văn Thù Sư Lợi.

Ô Đấng Từ Bi, bằng những tia quang tuyến từ tâm toàn thiện toàn giác toàn trí…

Rồi thì chúng ta cúng dường thỉnh cầu đến mạn đà la và sau khi hoàn tất mạn đà la này, nhầm mục tiêu hợp nhất động lực của đạo sư và đệ tử, chúng ta phải tiến đến trì tụng cầu nguyện quy y ba lần, và phát sinh tâm vị tha.  Cầu nguyện quy y là:

Con nguyện quy y Phật bảo, Pháp bào, và Tăng bảo cho đến khi đạt đến giác ngộ.

Chúng ta tiến hành quy y với hai dòng này.  Sau đó, chúng ta thường thường hồi hướng công đức mà chúng ta tích tập qua tính quãng đại và lắng nghe và giảng dạy Giáo Pháp.  Người thuyết giảng trì niệm, “Công đức mà con tích tập qua việc giảng dạy…” và thính chúng trì niệm, “Công đức mà chúng con tích tập qua lắng nghe Giáo Pháp…” vì thế thay đổi ngôn ngữ tùy theo trường hợp.  Chúng ta cũng nên bao gồm việc hồi hướng này:  “Với công đức lành này, nguyện cho tất cả những hành vi lành tích tập được của ba thời trở thành nguyên nhân để đạt được thể trạng tối thượng của giác ngộ.”  Đây là đang phát khởi tâm giác ngộ (bodhicitta) trong hình thức của khẩn thỉnh hay nguyện cầu.

Tất cả quý vị đã thiết lập một chí nguyện mạnh mẽ để đến Đạo Tràng Giác Ngộ vì những giáo lý này.  Quý vị không đến đây để nghĩ về thực phẩm hay thức uống được cung cấp cho quý vị, cũng không phải vì một tiết mục lớn được xem ở đây, cũng không phải vì đến đây quý vị sẽ được danh thơm tiếng tốt.  Quý vị đến đây để tiếp nhận những giáo huấn Pháp Bảo, bao gồm những giáo lý của Đại Thừa, Mật Thừa tantra, tantra yoga tối thượng, và lễ truyền pháp quán đảnh Quang Hoa Thời Luân (Kalachakra) của Đức Thế Tôn.  Do thế, quý vị đã đến đây vì một mục tiêu tốt đẹp và đã đặt một nổ lực không mõi mệt để tiếp nhận  những giáo huấn Pháp Bảo này.  Nếu ai đấy ở ngoài từ bên ngoài quán sát điều này, họ có thể cho rằng tất cả những nổ lực này là ở trong sự phù phiếm hão huyền.  Nhưng khi chúng ta nhìn vào mục tiêu và lý luận tiềm ẩn, nó cực kỳ lợi ích.

Ngay cả nếu quý vị không từ bỏ đời sống trần tục này để theo đuổi Giáo Pháp, hãy làm một nổ lực như điều này biểu lộ rằng một sự hy hiến được tiến hành vì lợi ích của Giáo Pháp và là một dấu hiệu quyết định mạnh mẽ.  Điều gì là mục tiêu phía sau nổ lực không mệt mõi và một quyết định mạnh mẽ như thế?  Mục tiêu, hay lợi ích, và căn bản của việc tìm cầu Giáo Pháp đấy là tất cả chúng sinh cùng chia sẻ một cảm giác của “cái tôi” và ước ao khao khát hạnh phúc và hòa bình, cũng như là một khát vọng xa lánh đau buồn và khỗ não.

Loại cảm giác này được kinh nghiệm ngay cả bời một con côn  trùng nhỏ bé.  Trong trường hợp của nhân loại, chúng ta có thể thấy rằng cho dù người đến từ phương Tây, Đông, trung nguyên hay biên địa của xứ sở họ và cho dù làn da của họ là đen, đỏ, vàng hay trắng, tất cả đều tìm cầu hạnh phúc và xa lánh đau buồn.

Trong tâm tư chúng ta có thể bày tỏ một suy nghĩ, “Xin cho tôi có hạnh phúc,” mặc dù chúng ta không hiểu cảm giác này của “cái tôi” một cách rõ ràng.  Trên cơ sở kinh nghiệm của “cái tôi”, chúng ta đã từng nghĩ chẳng hạn như, “Xin cho tôi hạnh phúc; xin cho tôi đừng gặp khó khăn, xin cho tôi sống lâu và đừng chết; xin cho tôi có một đời sống tốt đẹp với vô số thực phẩm và áo quần.”  Vì thế mọi thứ trở về lại ‘cái tôi’.  Sau đấy, chúng ta nghĩ về thân quyến ‘tôi’, xứ sở ‘tôi’.

Điều này giống nhau ở mỗi con người, và cũng đúng cho tất cả mọi tạo vật cho đến một con côn trùng bé nhỏ.  Chúng không có một tâm thức rộng rãi và thông minh, chúng cũng không sở hữu một tư tưởng đa dạng mà con người chúng ta có.  Tuy nhiên, chúng vẫn có một cảm giác của ‘cái tôi’ và chúng có thể cảm thấy. “Xin cho tôi hạnh phúc,”  hay “Tôi đang trong tình trạng nguy cấp, xin cho tôi được thoát khỏi cơn nguy biến này,”  Do thế, tất cả chúng sinh cùng nguyện vọng giống nhau,như khao khát cho hạnh phúc và không muốn khổ đau.  Có những nguyện vọng này là quyền lợi của chúng ta, nó là hợp lý, và chúng thường có thể được hoàn thành.  Chúng ta dựa trên những phương pháp khác nhau để theo đuổi những mục tiêu này, để thích ứng với năng lực của chúng ta và để đối phó với nhiều trình độ khác nhau của khổ đau để chúng được tiêu trừ và hạnh phúc được đạt đến.



Hạnh phúc và khổ đau có thể tùy thuộc trên thân thể hay tâm thức.  Hơn thế nữa, chúng có thể tùy thuộc trên thân thể hay tâm thức ngắn hạn hay dài hạn; không chỉ trong kiếp sống này mà cũng trong kiếp sống tới.  Cho đến khi nào đời sống này còn hiện hữu và quan tâm, chúng ta có thể phản chiếu trên những lợi lạc từ tuổi thơ cho đến tuổi già; trong những hình thức của của giây phút hiện tại, chúng ta có thể nghĩ về những lợi ích dài hạn  liên hệ đến hôm nay và ngày mai.

Mặc dù côn trùng có những suy tư về hạnh phúc và khổ đau tương tự như con người, khả năng tìm cầu hạnh phúc và loại bỏ khổ đau của chúng thì tạm thời và trải ra một khoảng thời gian ngắn ngủi.  Chúng không thể suy nghĩ về tương lai xa xôi trong những hình thức như 5, 10, hay 30 năm tới cũng không thể nhớ lại thời thơ ấu của chúng.  Nhưng những con người chúng ta suy nghĩ việc hoàn thành hạnh phúc và khử trừ khổ đau không chỉ cho hôm nay, ngày mai và ngày kia, mà xuyên qua toàn bộ đời sống của chúng ta.  Chúng ta cũng nhìn xa hơn chính chúng ta để suy tư về hạnh phúc của thân quyến và bè bạn của chúng ta, xa hơn nữa là xứ sở chúng ta và toàn thế giới.

Do thế, tìm cầu hạnh phúc và loại trừ khổ đau liên quan đến sự hiện hữu những khả năng khác nhau trong nhiều phương thức khác nhau.  Một số người hoàn thành những việc to lớn và những người khác kém hơn.  Nói một cách phổ quát, so sánh với động vật con người chúng ta có một phạm vi rộng rãi về những loại hạnh phúc mà chúng ta cố gắng để đạt đến và khổ đau chúng ta cố gắng để loại trừ.  Từ thời điểm con người hình thành cho đến nay, chúng ta đã dành đời sống chúng ta để theo đuổi những khuynh hướng này, mặc dù chúng ta có thể không thức tỉnh rằng chúng ta đã liên hệ trong một sự theo đuổi như thế từ thời khắc lọt lòng mẹ.  Trãi qua thời gian thơ ấu chúng ta có thể có kinh nghiệm một số hạnh phúc tạm thời náo đấy, những điều mà sau này chúng ta tìm kiếm giống như thế.  Thí dụ, chúng ta có thể đã từng nói dối một điều nho nhỏ nào đấy, chẳng hạn như để đón nhận những lời ngọt ngào hay quà cáp, và chúng ta liên hệ chính mình hoàn toàn trong một mục tiêu nhỏ bé như vậy nhầm mục tiêu kinh nghiệm một hạnh phúc nho nhỏ và để tránh một khổ đau be bé.  Dần dần, khi chúng ta lớn lên, khổ đau và hạnh phúc của chúng ta trở nên to lớn rộng rãi hơn và sâu sắc hơn và những khó khăn hơn cũng sinh khởi.

Phương pháp quan trọng nhất để tìm cầu hạnh phúc và loại trừ khổ đau là gia tăng kiến thức, và vì thế chúng ta làm nên chương trình qua việc thành lập trường học.  Và trong những trường học này, nhiều môn học khác nhau được giảng dạy, bao gồm những ngôn ngữ.  Ngôn ngữ bao gồm nhiều từ ngữ và chuyên chở nhiều ý nghĩa trên nhiều chủ đề khác nhau.  Tâm thức quản lý tất cả những điều này phải là rất sắc bén và có thể suy nghĩ trong nhiều cách khác nhau; chúng ta đưa ra một nền giáo dục chính xác nhầm mục tiêu phát triển những bộ não mà chúng là hàm tàng những tâm tư rộng rãi khoáng đạt như thế.

Cũng có những khổ đau của thân thể mà chúng ta cố gắng để tránh.  Những bệnh viện đã được thành lập để chửa trị nhiều bệnh tật khác nhau.  Giống như thế, mục tiêu của ăn, uống, làm việc – cho dù nó là công việc đồng áng, hảng xưởng nhà máy hay bất cứ điều gì – cũng là để tìm cầu hạnh phúc và loại trừ khổ đau.  Trong thế giới ngày nay, chúng ta tìm ra toàn bộ phạm vi của những phong tục và hệ thống, tình hình và chính sách, tiêu chuẩn tiền tệ và quan điểm, tuy thế tất cả có cùng khuynh hướng tìm cầu hạnh phúc và loại trừ khổ đau và đơn giản là những phương diện và phương pháp khác nhau.

Trong những điều này, những quan điểm khác nhau đã hình thành bời vì con người bắt đầu khám phá vấn đề này một phần nào đấy sâu sắc hơn.  Nhiều phương pháp khác nhau nhầm mục tiêu mang đến hạnh phúc và loại trừ khổ não đã được thiết lập như kết quả của việc khám phá phân  tích như thế.  Một trong những điếu ấy là sự hình thành đảng Cộng Sản.  Những người Cộng Sản nói rằng nguyên nhân chính của khổ đau nhân loại loại là sự bất bình đẳng về tài sảncủa những khu vực hay giai cấp trong xã hội.  Vì vậy, sự phân phối lại tài sản là phương pháp mà những người Cộng Sản hành động nhầm mục đích mang lại hạnh phúc cho nhân dân và loại trừ khổ đau cho họ.  Đây chỉ là một quan niệm.

Trong tất cả những quan điểm hiện hữu, có những thứ không chỉ dừng tại sự khám phá đơn thuần những phương pháp để mang đến hạnh phúc tạm thời và giải thoát khổ đau ngắn hạn.  Những người chủ trương những quan điểm này bắt đầu bằng việc khám phá nguyên nhân và điều kiện tạm thời này, quán sát sự sinh khởi của những nguyên nhân và điều kiện tạm thời này và rồi thì tại nguyên nhân của nguyên nhân, và nguyên nhân của nguyên nhân ấy, và tiếp tục, giống như liên kết của một dây xích. Bằng sự suy nghĩ và khảo sát sâu sắc chúng ta đi đến quan điểm của Giáo Pháp.

Chúng ta có thể quán chiếu nhiều khía cạnh khác nhau của khổ đau và hạnh phúc – làm thế nào những khổ đau này đến với chúng ta; làm thế nào đế hạnh phúc phát sinh trong một ý nghĩa rộng lớn; làm thế nào và từ nơi nào mà thế giới này đi đến hình thành hiện hữu và tùy thuộc vào nguyên nhân nào; mục tiêu và lợi ích gì của đời sống trong thế giới này (vì cho dù có lợi ích hay không, thế giới vẫn hình thành hiện hữu căn cứ trên sự tồn tại trước đây của nó); tương lai sẽ là gì, và cá nhân có thể làm gì về nó, và chúng ta nghĩ gì về nó.  Hãy suy nghĩ một cách xây dựng về ý nghĩa của những điều này rằng chúng ta không chỉ tùy thuộc vào những gì chúng ta thấy bằng cặp mắt của chúng ta và nghe qua đôi tai của chúng ta, mà chúng ta phải tiến sâu hơn vào trong chủ đề.

Một số người quy cho sự hiện hữu của thế giới và nhân loại là do Thượng Đế, và nói rằng đây là tất cả sự tạo dựng của Ngài.  Có nhiều sự giải thích khác xa điều này, cũng có một số căn cứ trên lý luận một số thì không.  Do thế, một số người cho ra đời những triết thuyết với lời tuyên bố rằng, “Điều này là hợp lý điều đó là không hợp lý,” trong khi những người khác không có những tư tưởng thâm sâu như thế nhưng dành hết đời sống của họ có được cho một cuộc sống, dựa trên trên hạnh phúc tạm thời và xa lánh tạm thời khổ đau.  Trong hai loại người này, một là loại mang trong mình một triết thuyết và thứ đến là loại không nghĩ đến một chủ thuyết nào.  Trong những người mang lấy triết thuyết lại có hai loại, những người mang chủ thuyết về ngoại tại (không Phật Giáo) và quan điểm nội tại (Phật Giáo).

Khi đối diện với vấn đề sâu sắc này, làm thế nào để đạt hạnh phúc và tiêu trừ khổ não, trong việc liên hệ với thân thể chúng ta có thể thấy rằng đấy là sự tập trung trên sự cần thiết của thực phẩm và áo quần, với những khía cạnh tiếp theo là nhà cửa, giường chiếu, và những nhu dụng vật  chất khác.  Nhưng chẳng bao lâu rõ ràng rằng không đủ chỉ có thể tìm ra thực phẩm thỏa mãn cho bao tử.  Khi chúng ta khám phá sự khổ não và hạnh phúc của thân thể sâu xa hơn, chúng ta thấy rằng mặc dù chúng là những kinh nghiệm mạnh mẽ, so sánh với nói về hạnh phúc và khổ đau của tâm thức thì cường độ mạnh hơn nhiều.  Người nào đấy có thể có một thân thể khỏe mạnh và dồi dào thức ăn và uống, nhưng nếu người ấy có một tâm tư đau buồn, người ấy có thể trở nên quẩn trí và ngay cả dự tính tự tử.  Có những người trở nên giàu có vô cùng nhưng luôn luôn căng thẳng; họ hô hấp nặng nhọc và thường nói năng trong tư thái không thỏa mãn và không vui lòng.

Trái lại, chúng ta có thể quán sát những người luôn duy trì sự tĩnh lặng và an lạc ngay cả khi họ thiếu thốn đồ ăn và thức uống.  Nếu chúng ta có một tinh thần an lạc và thanh thản, thế thì họ hoàn toàn có thể chịu đựng những khổ đau của thân thể.  Tuy thế, nếu tâm tư chúng ta quá căng thẳng,  khi tiếp nhận một vật phẩm gì đấy chúng ta liền muốn một thứ khác ngay lập tức và thế là chẳng biết một sự phõng đoán nào có thể có cho sự liên hệ như thế tiếp theo.  Khi điều gì ấy xãy ra hơi sai sót, chúng ta không thể chịu đựng nó.  Một tâm tư như thế, không có một sự chịu đựng mạnh mẽ, sẽ luôn luôn không hài lòng ngay cả nếu người ấy sống trong một hoàn cảnh rất tốt đẹp.  Do thế, chúng ta có thể thấy rằng tâm thức là điều quan trọng chính yếu, và rằng chúng ta có thể loại trừ khổ não tinh thần và tìm thấy nguồn gốc an lạc hạnh phúc qua cung cách suy tư của chúng ta.

Đó là tại sao người ta đối diện những hoàn cảnh tương tự trong những phương thức khác nhau.  Thí dụ, chúng ta có thể thấy hai bệnh nhân trong một bệnh viện, một người tiếp nhận Giáo Pháp và có niềm tin trong luật nhân quả, và người kia không có tư tưởng về nghiệp báo và trở nên khích động, cố gắng để loại trừ hiện trạng khổ đau lúc ấy.  Châm ngôn Tây Tạng có câu, “toạt miệng, toét mũi” – có nghĩa là điều bất hạnh xãy ra cho cả hai người – tuy thế một người trong họ cảm thấy hoàn toàn thất vọng và không thể chịu đựng nỗi khổ, kêu khóc trong đớn đau.  Người kia cũng bị dày vò với cùng nỗi đau khổ, lại hiếm khi biểu lộ nó, duy trì một sự thái độ tĩnh lặng và mạnh dạn.

Chúng ta có thể nhìn vào những người Tây Tạng: vào thời điểm này của lịch sử  quê hương tuyết sơn, chúng tôi bị cướp mất non sông và phải rãi rác khắp nơi trên thế giới, và rõ ràng có một sự đau buồn về điều này trong cộng đồng chúng tôi.  Tột cùng của điều này chúng tôi đã trở thành những người tị nạn và phải dựa vào những người khác.  Tuy nhiên, mặc dù chúng tôi đối diện với những khó khăn này, tâm tư chúng tôi rất tĩnh lặng và dường như rất thõa mãn.  Đã gần 15 năm từ khi chúng tôi trở thành những người tị nạn và bây giờ, nói một cách phổ thông, có rất it những vấn nạn xãy ra.  Nhiếu người Tây Tạng đã tập họp về đây vì  khóa thuyết giảng giáo huấn này dường như thoãi mái, và đại đa số những người Tây Tạng đến từ Bhutan, Ấn Độ và Sikkim đã tham dự buổi tiếp kiến hôm qua trang phục rất sặc sở, mặc dù như những người tị nạn chúng tôi không sở hữu một nơi chốn riêng của chúng tôi (nhưng chúng tôi có) đấy là kích thước lòng bàn tay của chúng tôi.

Thực tế rằng mặc dù sống trong những hoàn cảnh khó khăn và căng thẳng như thế, chúng tôi đã sinh sống thoãi mái là một phần qua sự thông tuệ và tinh thần sắc xảo.

Nhưng trong một chiều hướng khác nó tùy thuộc trên phước đức của chúng tôi, cả to lớn hơn và kém cỏi hơn.  Tùy thuộc vào phước đức của chúng tôi chúng tôi không rơi vào một tình cảnh không lo liệu được và mọi việc đã diễn ra một cách tương đối êm ái.  Hãy nhìn vào một viễn cảnh rộng rãi hơn, thời điểm này trong lịch sử Tây Tạng không phải là lúc không lo liệu được (hay không nơi nương tựa hay không ai giúp đở).  Nói đúng hơn, trong trường hợp của chúng tôi, như những người Tây Tạng, đang đi vào một thời kỳ u ám tạm thời.  Chúng tôi chưa dùng tất cả những phước đức của chúng tôi; nó đang bị vướng mắc giống như La Hầu La nắm bắt mặt trời và mặt trăng.  Điều này xãy ra rất một cách rất bất ngờ, nhưng không phải nó chấm dứt tất cả và có hy vọng một sự tăng trưởng phước đức của chúng tôi.   Vì thế, tất cả chúng ta phải phát sinh một lòng can đảm phi thường, hoàn thành tất cả những việc làm nhiều nhất mà chúng ta có thể, tích tập phước đức và có những tấm lòng hảo tâm.  Thu thập phước đức là quan trọng và cực kỳ mạnh mẽ. 

Tương tự như thế, tôi đã có một quyết tâm mạnh mẽ bởi vì tuổi trẻ của tôi sống nhiều năm.  Tất cả chúng ta nên có một tâm tư mạnh mẽ như thế nhầm để sống cho một thời gian dài và thái độ của chúng ta nên là một thái độ phát sinh can đảm như tôi đang làm.  Những tu sĩ lão niên không nên chán nãn hay ngã lòng, mặc dù chúng ta già đi, tóc chúng ta trắng thêm hay bị hói đầu.  Nói chung, phước đức hay công đức của quý vị sẽ biểu lộ sự hổ trợ.

Đây là chủ đề của tất cả mọi khía cạnh, và điểm chính của chúng tôi là điều này: mặc dù chúng ta đối diện nhiều vấn nạn và nghịch lý, nhưng hãy vẫn có hy vọng và tĩnh lặng trong tâm chúng ta. Có một tâm tịnh tĩnh trong khi đối diện những khó khăn là tất cả sự lợi lạc.  Nó không có nghĩa rằng bằng sự thực tập Giáo Pháp chúng ta sẽ lập tức loại trừ nạn đói khát hay làm tăng thêm tổng lượng thực phẩm cần thiết của đồ ăn và thức  uống.  Nhưng bằng sự tư duy về Giáo Pháp chúng ta có kinh nghiệm tịch tĩnh và sự tịch tĩnh ấy sẽ cho chúng ta một niểm hỉ lạc.  Điều này là xứng đáng, có phải không?

Do vậy, mặc kệ có đời sống sau khi chết hay không, có nhân quả hay không, có Ba Viên ngọc quý hay không, trãi qua cả cuộc đời của chúng ta và trong đời sống hằng ngay của  chúng ta chúng ta nên giữ nội tâm của chúng ta tĩnh lặng và đừng làm khó khăn cho những người bạn của chúng ta.  Rất tốt để duy trì một thái độ vui tươi trào phúng, đem lợi ích đến cho những người khác và dành đời sống trong mục tiêu này.  Cũng thế, khi chúng ta thức dậy vào sáng sớm, chúng ta nên tỉnh thức về khả dĩ rằng điều gì ấy không may có thể xãy ra cho chúng ta hôm nay.  Rồi thì nếu có điều gì bất hạnh thực sự xãy ra, tâm tư chúng ta đã chuẩn bị tốt và chúng ta sẽ có thể duy trì sự cân bằng tình trạng của tâm thức.  Trước khi đi ngủ vào buổi tối chúng ta nên phản chiếu trên những sự chuẩn bị tốt mà chúng ta đã làm qua suy nghĩ những tư tưởng như vậy trong buổi sáng.  Trái lại, nếu chúng ta dự đoán là an bình vui vẻ mỗi ngày và chỉ nghĩ về những khía cạnh tích cực, tâm tư chúng ta sẽ bị quấy động khi điều gì ấy không vui xãy ra hay chúng ta gặp một người mà với họ chúng ta không cảm thấy thoãi mái, và chúng ta có một đêm bồn chồn vào cuối một ngày.

Chúng ta phải có một sự can đảm để chịu đựng bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào có thể khởi lên.  Nếu một người khác giáng xuống một sự tổn hại trên chúng ta và chúng ta trả đủa lại, có thể chúng ta cuối cùng phải đến tòa án; nếu chúng ta để cho những người bạn của mình liên hệ trong trường hợp sẽ có những vấn đề với tổn phí và sở hữu.    Không có mục tiêu nào làm nguyên nhân cho quá nhiều vấn đề khó khăn, trái lại sẽ có lợi ích trong nhẫn nại với vấn nạn.  Hầu hết mọi người không thể thực hành trong cách này và là lòng tốt bụng (từ bi) đến mọi người, biểu lộ lòng yêu thương đến người khác và giúp đở người khác.  Nếu chúng ta có thể tăng trưởng thái độ này trong xã hội, thế thì sẽ có hy vọng thật sự và chân thành cho hòa bình trong thế giới này.

Thật là sai lầm để theo đuổi những mục tiêu cho hạnh phúc và xa lánh khổ đau bằng việc lừa dối và làm mất mặt người khác.  Chúng ta phải cố gắng đạt đến hạnh phúc và loại trừ khổ đau bằng lòng tốt bụng của từ bi và cư xử tốt.  Thật không tốt để nghe về những người tìm kiếm những mục tiêu này bằng cách cư xử không đứng đắn và mánh khóe lừa dối, bằng việc ám sát và qua chiến tranh.  Nhưng trong thế giới ngày nay người ta biểu lộ ra bằng hành động của tham lam và lừa dối, và thật sự đang dùng những phương thức như vậy để tìm cầu hạnh phúc.

Chúng ta đã đang thấy những tiến trình vật chất to lớn trên thế giới, nhưng những nước lớn tiếp tục làm thất vọng những nước nhỏ và rất nhiều chết  chóc xãy ra như một kết quả.  Mặc người ta có thể tin tưởng họ sẽ tìm hạnh phúc và loại trừ khổ đau trong cách này, thật sự sẽ có nhiều sự đấu tranh , nhiều đói khát, nhiều dối trá, nhiều căng thẳng, và nói chung những người bị áp bức phải chịu đựng nhiều khổ đau hơn trong thể kỷ 20.

Điều này không xãy ra bởi vì thiếu thốn thực phẩm hay điều kiện thuận lợi.  Trường học và bệnh viện đang được phát triển và nhà cửa và phương tiện giao thông đã được cải thiện, đồ ăn thức uống đang gia tăng.  Nhưng sự thật và tính lương thiện đã bị đánh mất trong xã hội và đó là tại  sao có ít hạnh phúc an lạc hơn.  Những ai với sự giàu có và quyền lực có thể làm bất cứ điều gì họ muốn, trái lại một người chân thật và trung thực nhưng không có quyền lực và phú quý sẽ không thể thành công.

Những thí dụ này thường thấy trong xã hội ngày nay, là những điều rất buồn, và những giá trị sai lầm phổ biến như thế lại cũng là nguyên nhân cho những bất hạnh đổ xuống Tây Tạng.  Những ngày này mọi người đang nói về hòa bình và sự thật từ Trung Hoa và Ấn Độ đến những quốc gia phương Tây.  Nhưng trong thực tế, những khổ đau đã đến những người bị áp bức bởi vì những khái niệm sai lầm ở phía sau cung cách mà xã hội chúng ta thực hiện chức năng của nó.

Do vậy, chúng ta trở lại điều được gọi là Pháp Bảo.  Giáo Pháp không nên được thực hành riêng cho những người ở những vùng xa xôi hẻo lánh, hay những người thô lổ có quan niệm hẹp hòi.  Trái lại nó nên được thực hành bởi những người có tâm tư cởi mở và tấm lòng rộng rãi.  Nhưng không có điều gì kỳ diệu về kiến trúc của chùa chiền hay tu viện, cũng không về sự phủ phục,nhiễu Phật, hay cúng dường.  Thực tế, không chắc về phần đó có phải thật sự là Giáo Pháp hay không.  Nếu trong tâm thức chúng ta có năng lượng tích cực (thiện) thế thì đấy là Giáo Pháp.  Nếu có năng lượng tiêu cực (bất thiện) thì đó không phải là Giáo Pháp.

Giáo Pháp phải là trong trái tim chúng ta.  Nếu tâm thức chúng ta thuần hóa, tĩnh lặng, và thư giản, chúng ta đang thực hành Giáo Pháp.  Nếu ai đấy mặc y áo và nói về tam tạng Pháp Bảo nhưng không có một tâm thức thuần hóa, đấy không phải là một người thực hành Giáo Pháp. Bất cứ ai có Giáo Pháp thì tâm tư rất cởi mở, thư thái, khiêm tốn, tĩnh lặng và có lòng hảo tâm một cách tự nhiên;  nhưng những ai lừa gạt cùng xem thường người khác và nói dối thì không đang thể nhập việc thực tập Giáo Pháp.  Thái độ thật sự là thực hành Giáo Pháp cốt tại sự kiềm chế đối với sự lừa dối và không thay đổi với chân lý, không làm giảm giá trị và chế nhạo người khác, thể hiện sự khiêm tốn và tiếp nhận một vị trí khiêm nhường, có một lòng tốt, giúp đở người khác và hy sinh tự ngã.

Ngay cả những người nào đó không chấp nhận thuyết tái sinh, v.v…có thể phân tích để thấy chúng ta có cần Giáo Pháp trong chính đời sống này hay không và rồi họ sẽ biết.  Chúng ta muốn an lạc hạnh phúc cho chính mình, và chúng ta muốn thân hữu chúng ta vui vẻ.  Nhưng, mặc dù chúng ta có thể có đồ ăn thức uống dồi dào hiện tại, lại có một trạng thái lo lắng trong tâm, và chúng ta phải sống với cảm giác này.  Chúng ta bắt đầu bất hòa với bè bạn chúng ta, lừa dối và bắt nạt và làm nhục họ.  Trong ngắn hạn, chúng ta có thể đạt mục tiêu giàu sang và sở hữu vật chất bằng cách này, và có thể mặc vào áo quần đắc tiền, mang một chiếc đồng hồ đẹp, ăn thức ăn ngon, và uống thức hiếm.  Nhưng chúng ta sẽ không vui vẻ nếu tất cả những sự giàu sang này và những sở hữu này đã đến từ sự bắt nạt, hạ bệ, và lừa dối người khác.

Có lẻ nó sẽ hao mòn tâm thức chúng ta rằng những hành động của chúng ta có thể đưa chúng ta đến tòa án.  Bởi vì chúng ta là những người với sự giàu sang và quyền lực ngay bây giờ, bạn bè chúng ta có thể dùng những ngôn ngữ tôn trọng trước mặt chúng ta.  Họ có thể nói về những phẩm chất tốt đẹp của chúng ta như hiện diện ngay cả vĩ đại hơn những Đức Thế Tôn nào đấy.  Phía sau lưng chúng ta họ sẽ nguyền rũa chúng ta và nói những thứ như, “Cầu cho kẻ ấy chết rất thảm thiết,” và chúng ta có thể rất khó khăn tìm thấy bất cứ người nào thích chúng ta.  Do thế, nếu chúng ta phải sống trong cách này, mặc dù chúng ta có thể có tràn ngập những thứ để ăn và uống, chúng ta tìm hạnh phúc của mình nơi nào?  Trong chiều sâu của tâm tư chúng ta sẽ không an ổn.

Cho dù chúng ta có bị điều khiển bởi những người khác hay không, khi chúng ta sắp chết chúng ta cảm thấy rằng chúng ta đã sống cuộc mình trong một cách bất chính, thế thì chúng ta sẽ rất là đau buồn.  Tài sản mà chúng ta đã tích tập bởi tà mạng không thể mang theo chúng ta được.  Chúng ta có thể có một tòa nhà rất lớn nhưng phải bỏ lại sau lưng.  Chúng ta có thể có những tài khoản tiết kiệm thực sự nào đấy trong ngân hàng với giấy tờ chứng minh, nhưng ở thời điểm lâm chung chúng ta không thể xử dụng gì được với tiền của ấy.  Chúng ta phải bỏ lại cho người thân, cha mẹ chúng ta, và những người khác, những người chăm sóc chúng ta ở hậu trường.  Tệ hại nhất trong điều này là chúng ta phải bỏ lại thân thể của chính chúng ta.

Do thế, bất cứ tiền của nào được tích lũy bằng tà mạng trong đời sống này sẽ không mang được lợi ích nào trong lúc lâm chung và thậm chí có thể mang đến rắc rối, như lo lắng về việc ai sẽ chăm sóc những tài sản của chúng ta sau khi chúng ta chết đi.  Hay chúng ta có thể trở nên lo lắng  trong khi chúng ta hấp hối, sợ hải rằng những thân nhân tốt bụng của chúng ta cuối cùng sẽ tranh đấu với nhau nhầm mục tiêu rớ tay vào tài sản ấy.  Có tệ không nếu chúng ta phải kết thúc đời sống mình trong cách này?

Tuy nhiên, nếu chúng ta lương thiện, với một bản chất tự nhiên tử tế và một lòng hảo tâm, sinh sống trầm tĩnh và thư thái, làm lợi ích cho người khác va luôn luôn xem mình như thấp hơn họ, chúng ta có thể chống chọi với sự thiếu thốn đồ ăn thức uống tạm thời và có thể thường kết bạn tốt với mọi người, và họ trở nên như những người thân của chúng ta.  Rồi thì khi chúng ta đối diện với khó khăn đúng là có những ai đấy sẽ giúp đở chúng ta.

Chúng ta những người Phật tử tin tưởng rằng có đời sống sau khi chết, và nó có thể được chứng tỏ bằng lý luận.  Do thế, chúng ta nên phân tích với một tâm tư cởi mở, suy nghĩ một cách sâu sắc  về kinh nghiệm của chúng ta.  Chắc chắn có đời sống sau khi chết.  Bởi vì sự kiện này, những nghiệp báo tích tập (y báo)  của chúng sinh đã mang đến kết quả hoàn cảnh của thế giới chúng ta (chính báo) trong tổng quát, và nghiệp quả cá nhân đã đưa đến những điều kiện mà chúng ta hưởng thụ.   Nếu không có đời sống sau khi chết, chúng ta đã phải nói rằng thế giới này đã hình thành và hiện hữu mà không có một nguyên nhân – không có thể có một sự giải thích nào khác hơn.

Chúng ta cũng sẽ kinh nghiệm hạnh phúc trong đời sống kế tiếp nếu chúng ta sống trong một cung cách ân cần và từ bi bây giờ, do thế chúng ta có thể cảm thấy thoãi mái về điều ấy.  Nhưng mặt khác, sẽ khổ đau như thế nào chúng ta sẽ phải chịu đựng trong kiếp này và kiếp tới nếu chúng ta đam mê trong việc phi đạo đức?  Vì thế đây là một lý do giá trị để tham gia trong việc thực hành Giáo Pháp.  Tóm lại, người thể hiện tốt bụng và lịch sự đem đến hạnh phúc; kẻ biểu hiện thô lỗ là nguyên nhân cho nhiều thứ tai hại xãy ra.

Ngày nay có những người trên thế giới không tin tưởng nơi Giáo Pháp và phê phán nó.  Do thế, nó tùy thuộc chúng ta khéo giảng giải tốt về Giáo Pháp và rồi thì sẽ không có cơ sở nào cho sự bình phẩm.  Thí dụ tốt thiết lập bởi một hành giả thực hành Giáo Pháp, người hành động với một trái tim tốt và lòng từ bi đối với chúng sinh cùng xã hội trong tổng quát, có thể được nhìn thấy và chấp nhận bởi mọi người, cho dù họ có tin có đời sống sau khi chết hay không.  Từ quan điểm của đời sống này đơn thuần, có một trái tim tốt và làm lợi ích cho người khác là những thái độ thích đáng cho mọi người, cho dù họ có là những người thực hành Giáo Pháp hay không.

Do thế, cốt lõi của Giáo Pháp là phát sinh một trái tim tốt, và sự giải thích hoàn toàn làm thế nào để sinh khởi một lòng hảo tâm được tuyên thuyết trong giáo huấn Đại Thừa.  Giáo huấn Phật Giáo này xuất hiện trong kỳ kiếp của một nghìn Đức Phật.  Trong những Đức Phật đã thị hiện, vị thứ tư, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, thường được biết đến trong thế giới hiện tại.  Trên mãnh đất tôn quý Ấn Độ và tại  ngay nơi này,ĐạoTràng Giác Ngộ, Đức Phật Thích Ca đã giác ngộ 2.500 năm trước đây. Ngài  đã chuyển pháp luân lần đầu tiên ở vườn Lộc Uyển và tuyên thuyết nhiều giáo huấn Pháp Bảo cho đến khi nhập niết bàn.  Ngài làm sáng tỏ nhiều khía cạnh khác nhau của Giáo Pháp trong thế giới loài người và chư thiên, cũng như dưới mặt đất, trên mặt đất và phía bên trên mặt đất, từ những đệ tử thông thường, đến những nhóm nhỏ của những thính chúng bất thường, đến những thính chúng lạ lùng, phi thường bí mật.  Ngài đã ban bố những giáo huấn Pháp Bảo khác nhau, mạnh mẽ, thâm thúy trong cách này.

Nếu cô đọng, chúng hình thành hai loại xe, mà Đại Thừa cao sâu hơn Tiểu Thừa trong lĩnh vực của tư duy đấy là tâm sinh và trong sự hướng dẫn của sáu toàn thiện (lục ba la mật), và kết quả của sự thực tập này là ba thân (pháp thân, báo thân, và hóa thân).  Giáo huấn Đại Thừa là siêu việt trong những khía cạnh chỉ đạo đa dạng.  Trong Đại Thừa lại có kinh điển hiển giáo và  mật điển tantra, trong ấy tantra xuất hiện sau kinh điển.   Vì thế, sự phối hợp giáo huấn của kinh điển và mật điển là cực kỳ quý báu.  Đây là thể loại Giáo Pháp nở hoa ở Ấn Độ và được truyền sang Tây Tạng, non nước Tuyết Sơn.

Giáo huấn Đạo Phật cũng lan rộng về phía Bắc đến Mông Cổ và nhiều vùng đất cho đến gần đây chúng ta biết là một bộ phận của Nga, và phía Đông đến Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản và v.v…Về  phía Tây, Giáo Pháp truyền đến A Phú Hản và một số địa điểm khác nữa.   Chính Đức Phật đã tiên đoán rằng giáo huấn Đại Thừa sẽ lan truyền ‘về hướng Bắc’, đấy là từ Ấn Độ vào Tây Tạng và từ phía Bắc Tây Tạng vào Mông Cổ.

Phật Pháp bắt đầu ở Ấn Độ trong thời kỳ Đức Phật Thích Ca còn tại thế,  Ngài đã chuyển pháp luân lần thứ nhất mà giáo lý chính yếu là căn bản cho Phật Giáo Tiểu Thừa.  Ngài đã giảng dạy giáo lý Đại Thừa đến một số người diễm phúc, mặc dù dường như rằng những giáo huấn này không phổ biến hay cũng không  được biết đến nhiều trong thời Phật tại thế.  Đấy là tại sao trong quá khứ cũng như ngày nay một số người đã phàn nàn rằng giáo lý Đại Thừa không phải là những lời tuyên thuyết của Đức Phật.

Sau khi Phật nhập niết bàn, giáo lý Đại Thừa thoái hóa cho đến khi chỉ còn danh xưng và tình trạng ảnh hưởng này đã diễn ra trong một thời gian dài.  Theo sự tiên đoán của Đức Phật, Long Thọ và Vô Trước đã đặt nền tảng cho sự sống lại của Đại Thừa, và giáo huấn Đại Thừa đã rộ nở nhiều thế kỷ sau đó.  Rồi thì cả giáo thuyết Tiểu Thừa và Đại Thừa dần dần yếu ớt xanh xao trên thánh địa Ấn Độ cho đến khi dường như giáo thuyết đã bị biến mất một cách hoàn toàn.

Trong khi ấy, ở Tây Tạng, có nhiều cuộc thăng trầm từ khi Giáo Pháp được du nhập cho đến năm 1959, nhưng Phật Pháp không bao giờ bị chết đến không còn một dấu vết nào trên đất nước chúng tôi.  Giáo Pháp đã bị suy thoái trong thời kỳ của Langdarma, và thời kỳ đó kéo dài khoảng 80 năm.   Tuy nhiên điều ấy chi xãy ra ở U-Tsang, bộ phận trung tâm của Tây Tạng, và Giáo Pháp vấn duy trì năng động trong những vùng chung quanh trung tâm.  Sau đó có một vài sự huy hoàng và suy thoái trong sự lan truyền của Giáo Pháp, nhưng sự phối hợp giáo lý của kinh điển hiển giáo và mật điển tantra đã từng được duy trì bảo quản ở Tây Tạng trong một nghìn năm.

Sự phát triển theo thứ tự thời gian đã diễn tiến ở Tây Tạng từ cựu phái Nyingma đến tân phái Sarma.  Trong tân phái Sarma có các tông Sakya, Kagyud, Kadam, Jonang, và Gelugpa.  Xuyên qua những tông phái này, có nhiều danh xưng và kỷ năng được phát triển, cũng như có nhiều phương pháp mở rộng tinh vi những giáo huấn của kinh điển và mật điển và những cung cách giữ gìn những hướng dẫn của những đạo sư tôn kính của các tông phái.  Có những sự khác biệt nho nhỏ trongsự tiếp cận (hay tiến trình), nhưng tất cả đều giống nhau trong sự phối hợp giáo lý của hiển giáo và tantra, mà nó đã trở thành sự phát triển cao độ ở Tây Tạng.  Do bởi điều này, những vùng lân cận của Bhutan, Sikkim, Ladakh, Mon (Arunachal Pradesh), và Mongolia đã trở thành những học trò của nền văn hóa tôn giáo Tây Tạng.  Ngày nay những vị thầy giáo Tây Tạng đã là những người tị nạn trong khi những người đệ tử tiếp tục duy trì ổn định một cách thoải mái; nhưng hôm nay thầy và trò cùng tập họp với nhau ở đây.

Giáo huấn của Đức Phật mà chúng ta đang thực hành, bao gồm sự phối hợp của kinh điển và mật điển, là cực kỳ thuần khiết và lợi ích.  Tâm giác ngộ (bodhicitta) và một trái tim đức hạnh thánh thiện, được diễn giải trong kinh điển hiển giáo là nền tảng chính.  Mật điển tantra sẽ trở nên những ngôn ngữ đơn thuần khô khan nếu chúng ta không có tâm giác ngộ (bodhicitta) và cũng không có gì đặc biệt hay kết quả thâm sâu đạt được trong việc học hỏi nó.  Tương tự như thế, cả Tiểu Thừa và Đại Thừa là được diến giải từ kinh thừa (hay kinh điển hiển giáo).  Nếu quan điểm thâm thúy của tính không – được trình bày một cách thiện xảo trong giáo huấn Đại Thừa – vắng mặt, tantra trở nên không có tác dụng và không thể đơm hoa kết quả trong bất cứ sự thực chứng nào.

Như đã được diễn giải trong kinh điển, tâm giác ngộ (bodhicitta) tôn quý ấp ủ những người khác thân thiết hơn chính mình có lòng từ bi và yêu thương như gốc rễ của nó.  Và quan điểm về tính không, mà nó có nghĩa là tất cả mọi hiện tượng không có một sự hiện hữu vốn có và là thuần khiết từ ngay lúc ban đầu, cũng được giải thích trong ấy.  Nếu chúng ta thiếu kiến thức kinh nghiệm về sự phối hợp của hai điều này, tâm giác ngộ và tính không, thế thì chúng ta không thể đạt đến những kết quả từ việc thực hành Giáo Pháp thâm diệu của mật điển tantra.

Do thế, chúng ta phải giữ gìn sự viễn ly, tâm giác ngộ (bodhicitta) và quan điểm đúng đắn (của tính không) như nền tảng, như đã được diễn giải trong kinh điển.  Từ quan điểm của Tantra Yoga Tối Thượng, chúng ta phải căn cứ trên giai tầng phát khởi và giai tầng hoàn thiện trên nền tảng này.  Nếu chúng ta làm điều này, những kết quả thâm diệu và bao quát sẽ xãy ra, như đã được giải thích trong mật điển tantra và những luận giải tương ứng của chúng.

Không có lợi lạc nào trong những hướng dẫn thâm sâu như thế mà không có nền tảng ấy, mặc dù có thể có những giai tầng phát khởi và hoàn thiện, kinh mạch, khí, và hạt, v.v…  Chúng ta phải biến thành một sự thiện xảo thật sự để tiếp nhận những lời giảng dạy, giống như chúng ta có thể đón nhận được một loại thuốc mạnh được ban cho chúng ta và không thể có một thể trạng quá yếu đuối để chịu đựng nó.  Do thế, chúng ta phải biết ba phương diện chính của con đường giác ngộ - viễn ly, tâm giác ngộ và chính kiến (về tính không) – nhầm mục tiêu để thực tập giáo pháp tantra, và rồi tư duy cùng uốn nắn tâm thức chúng ta một cách thích đáng.  Rồi thì sự thực hành tantra sẽ rở thành sự phối hợp của kinh điển hiển giáo và mật điển tantra.

Năng lực sống động của bất cứ con đường nào, cho dù nó là kinh điển hiển giáo hay mật điển tantra, là tâm giác ngộ (bodhicitta) tôn quý.  Vì thế nó cực kỳ quan trọng.


***


Bây giờ chúng tôi bắt đầu trao truyền và giảng giải về Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ (hay Ba Mươi Bảy Điều Thực Hành của Một Vị Bồ Tát), được sáng tác bời học giả Tây Tạng Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo.  Không có thời gian để tìm hiểu tiểu sử chi tiết của ngài bây giờ, nhưng ngài là người cùng thời và rất được tôn kính và tin tưởng bởi Buton Thamchad Khyenpa (Buton Rinpoche).  Chuyện được kể rằng, có một lần Buton Rinpoche có một nỗi đau đớn trên tay ông và ông thỉnh cầu tác giả, nói rằng,  “Ngài có tâm giác ngộ trong tim ngài, vì thế hảy gia hộ cho tay con.”  Có rất nhiều đệ tử tìm học những giáo huấn của cả Buton Rinpoche và Thogmed Zangpo.

Bất cứ quan điểm nào ngài theo đuổi, chỉ đơn thuần nhìn vào luận bản của ngài chúng ta có thể biết rằng Thogmed Zangpo là hiện thân của tâm giác ngộ, và vì thế sự hướng dẫn này cực kỳ lợi lạc.  Những vị Bồ Tát có thể được biết bằng những dấu hiệu tự nhiên của các ngài, giống như ngọn lửa vô hình có thể kết luận qua khói và nước có thể được phỏng đoán qua việc thấy con diệc.  Qua việc đọc luận bản này chúng ta hiểu sự thích hợp với danh hiệu Bồ Tát cho Thogmed Zangpo.

Thogmed Zangpo có một con cáo mà ngài thường đem theo bên ngài, giống như như một con chó nuôi.  Bởi vì Thogmed Zangpo tĩnh lặng và từ tâm cực độ, con cáo cũng trở nên tốt bụng.  Nó không làm tổn thương bất cứ ai và cũng không ăn thịt.  Tâm hồnThogmed Zangpo rất nhạy cảm nên ngài luôn luôn khóc khi ban bố giáo huấn.  Một số đệ tử nói rằng họ luôn luôn vui cười bất cứ khi Toàn thiện Rinpoche Buton giảng và bất cứ khi nào Thogmed Zangpo dạy họ luôn luôn phải rơi nước mắt.

Thogmed Zangpo đã trở thành một học giả lớn do sự học hỏi nghiên tầm một cách rộng rãi vào thuở thiếu thời và ngài trước tác những luận giải trên những luận thuyết lớn.  Ngài đã đặt tâm giác ngộ (bodhicitta) làm đối tượng chính trong sự thực tập của ngài vào cuối cuộc đời của ngài, và ngài trở thành một đại học giả và hành giả qua việc tập trung chỉ trên tâm giác ngộ (bodhicitta).

Chúng tôi tiếp nhận sự truyền khẩu Ba Mươi Bảy Điều Thực Hành của Một Vị Bồ Tát và sự giảng dạy này từ Khunu Lama Tenzin Gyaltsen Rinpoche.  Ngài tiếp nhận nó từ một đại hành giả viễn ly cực độ, một đạo  sư của Nyingma  ở  tu viện Dzogchen miền Đông Tây Tạng.



BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO GIÁC NGỘ



Chúng ta bắt đầu với nghi thức khai đàn kiểu mẫu của luận bản, tiếp theo là phần chính của luận bản, và cuối cùng là kết luận.  Nội dung cúng dường khuôn mẫu đến những bậc giác ngộ được phân chia làm kính lễ và phát nguyện trước tác luận bản:



Nam Mô Thánh Quán Tự Tại

Con luôn luôn phủ phục tôn kính qua ba nghiệp (1) đến

Đạo sư tối thượng và Đấng hộ vệ Quán Tự  Tại, những vị luôn luôn nhìn thấy

Tất cả những hiện tượng là không đi không đến

Nhất tâm nổ lực để làm lợi ích cho chúng sinh

Bằng việc xưng danh, “Nam mô Thánh Quán Tự Tại”, tác giả đang cúng dường đến đạo sư và Đấng hộ vệ Quán Thế Âm.  Phật và các vị Bồ Tát trong phổ thông không được đề cập ở đây, nhưng sự đề cập đặc biệt đến đạo sư và Quán Thế Âm, điều này chứng tỏ rằng luận bản này biểu lộ sự thực hành của những vị Bồ Tát.

Vì gốc rễ của tâm giác ngộ (bodhicitta) là từ bi và đại từ bi là gốc rễ của sự phát sinh một khuynh hướng cương quyết, bằng việc dựa trên từ bi mà tâm giác ngộ (bodhicitta) sẽ được sinh khởi.  Quán Thế Âm là thân thị hiện của từ bi và của tất cả những bậc giác ngộ, hay chư Phật, và vì thế tác giả đã đặc biệt cúng dường đến Ngài. Giống như thế, tác giả cũng làm như thế đến đạo sư tối thượng bởi vì trong ngôn ngữ của Tổ Sư A Để Sa, “Tất cả những phẩm chất trọng đại và thứ yếu được phát sinh bằng việc tín cẩn đạo sư.”  Điều này có nghĩa là tất cả những phẩm chất lợi ích cường tráng trong tổng quát, đặc biệt những phẩm chất của Đại Thừa, thể hiện qua có lòng tin tưởng ở đạo sư.

Gốc rễ của Đại Thừa là lòng yêu thương và đặc trưng nhất của tâm giác ngộ (bodhicitta) căn cứ trên lòng từ bi.  Tất cả những phương pháp của thực hành tâm giác ngộ (bodhicitta) xuất hiện trong luận thuyết của tôn giả Tịch Thiên (Shantideva), như pháp bình đẳng và pháp trao đổi chính mình với người khác là những thực hành của những vị Bồ Tát với những tâm thức cực kỳ mạnh mẽ và là được phát triển bằng sự tín cẩn đạo sư.  Đây là lý do tại sao cho những sự tôn kính đặc thù được thể hiện đến đạo sư.

Nếu một người tự hỏi về những phẩm chất mà một vị đạo sư và Quán Thế Âm được phú cho, câu trả lời là các ngài là toàn thiện trong việc từ bỏ những phiền não và trong thực chứng.  Đây cũng là đòi hỏi sự thực chứng đồng thời của hai chân lý.  Nếu chúng ta không có thể nhổ gốc rễ và từ bỏ những phiền não và những chướng ngại đến giác ngộ, chúng ta không thể nhận thức hai chân lý một cách đông thời.  Rồi thì không thể giúp ích cho sự thể hiện vô trụ một cách toàn tâm toàn ý, căn cứ trên sự không dao động và thông hiểu hoàn toàn tất cả những hiện tượng như trống không.  Do thế, chúng ta cung kính phủ phục đến những đạo sư như thế và Đức Quán Thế Âm, những vị được phú cho những phẩm chất này và biểu lộ những phẩm hạnh của Phật, hoàn hảo trong việc từ bỏ (phiền não) và thực chứng.

Như được tuyên bố trong đoạn kệ tán lễ của luận bản gốc của Trung quán luận là:

Mặc dù thấy tất cả mọi hiện tượng là không đi và không đến,…

Tất cả những hiện tượng duyên khởi là những điều sinh và diệt trong tính tự nhiên như thế, có nghĩa là một cách căn bản chúng lìa tám khía cạnh khác nhau của duyên khởi như sinh-diệt, khứ-lai, v.v…

Thể trạng của tâm là không dao động ngay cả trong một khoảnh khắc từ sự cân bằng tinh thần vô phân biệt trong điều mà chủ thể và khách thể là không hai, và ở chỗ không có ngay cả một  chướng ngại nhỏ nhất từ tâm bất nhị vi tế, có thể được so sánh như đổ nước vào trong nước.  Với một trạng thái bất động của tâm, chúng ta phát ra những hình thể khác nhau trong hàng trăm hay hàng nghìn vị trí biến khắp những thế giới tịnh độ và uế độ khác nhau của trần gian.

Nếu nhân duyên hội tụ ở chúng sinh, những hành vi của các bậc giác ngộ sẽ lợi lạc cho họ một cách không thay đổi.  Do thế, chúng ta nên quy y đến Đấng giác ngộ Quán Thế Âm và làm như thế không chỉ khi những hoàn cảnh không lành xãy ra.  Tác giả nói rằng ngài luôn luôn quy mạng từ ba nghiệp thân, khẩu, ý với lòng tôn kính từ ngày này trở về sau.

Tiếp theo đến lời nguyện ước trước tác luận bản:

Những Đức Phật toàn hảo, cội nguồn của tất cả những lợi ích và an lạc

Sinh khởi từ sự thực hành Giáo Pháp thánh thiện

Khi hoàn thành điều này cũng tùy thuộc trên sự thông hiểu những sự thực hành về nó

Tôi sẽ giải thích sự thực hành của những vị Bồ Tát.

Những nghiệp báo của chúng ta là cội nguồn chính yếu mà từ đấy tất cả những khổ đau hay hạnh phúc sinh khởi,  hạnh phúc từ thiện nghiệp và khổ đau từ bất thiện nghiệp.  Vì những nguyên nhân của khổ đau là những sai lầm của tâm thức, những sai lầm này phải được loại trừ; trong khi những nguyên nhân của an lạc, như thái độ đạo đức tốt, và những phẩm chất tốt nên được tăng trưởng.  Nếu chúng ta phân tích trong chiều sâu, chúng ta thấy rằng phương thức để tăng trưởng những phẩm chất tốt và vì thế gặt hái được an lạc là tham gia vào (sự thực hành) Giáo Pháp, vì cội nguồn của tất cả lợi ích và an lạc là giáo huấn của Đức Phật.

Do thế, như được tuyên thuyết trong Đại Diễn Giải Mật Thừa của Tổ Sư Tông Khách Ba:

Cội nguồn của lợi ích và an lạc của tất cả chúng sinh lang thang (ở cõi luân hồi)

Kể cả chư thiên, chỉ có giáo huấn của Đức Phật.  Bằng sự tin tưởng trong điều này

Giữ gìn Giáo Pháp thánh thiện với một sức mạnh mãnh liệt và

Kiên quyết, ngay cả bằng giá của cả đời sống của các con.



Chúng ta có thể trở nên giác ngộ hoàn toàn, phú cho tất cả những phẩm chất tốt đẹp một cách hoàn toàn và thoát khỏi tất cả những ác nghiệp nếu chúng ta thực hành theo Giáo Pháp.  Rồi thì một sự tràn ngập tự động của những hành vi đức hạnh sẽ xãy ra diễn bày vũ điệu huyền bí để hiển lộ những khía cạnh  khác nhau tùy theo tính khí và niềm tin của mỗi loại chúng sinh chúng ta có thể làm lợi ích cho những kẻ khác một cách đồng thời mà không phải nổ lực.  Những thành quả như thế của thể trạng giác ngộ tối thượng sinh khởi từ sự thực hành Thánh Giáo, và trong cách này Giáo Pháp có thể được thấy là nguồn gốc của tất cả những lợi ích và an lạc.

Bằng sự thực hành Giáo Pháp này, những Đức Phật quá khứ trở nên giải thoát với tất cả những lỗi lầm và bối bổ những phẩm hạnh tốt đẹp, hoàn thiện những mục tiêu của các ngài và hoàn thành những mục tiêu cho những người khác một cách đồng thời và một cách không mệt nhọc.  Nhớ lại mục tiêu để đạt đến giác ngộ, những phẩm hạnh cùng những lợi lạc của Giáo Pháp, chúng ta nên đặt nó vào sự thực hành và không hạn chế chính mình đến kiến thức thông minh thuần khiết qua lắng nghe nó.

Biết một chữ của Giáo Pháp và đặt để vào trong sự thực hành đem đến những kết quả thâm sâu và đặc biệt; trái lại những kẻ có thể lập lại từ trí nhớ  một trăm nghìn luận bản nhưng không thực hành Giáo Pháp sẽ không có kinh nghiệm được tất cả lợi ích nhiều như thế.  Do vậy, đề cập đặc biệt là hãy thiết lập mục tiêu cho thực hành ngay lúc này.

Vì thế, chúng ta nên đặt Giáo Pháp vào trong sự thực hành ngay bây giờ nếu chúng ta đang tìm cầu hạnh phúc và khao khát xa lánh khổ đau, nếu chúng ta ao ước được thoát khỏi những sai lầm và để hoàn thiện tất cả những phẩm hạnh tích cực.  Tác giả cũng giải thích làm thề nào để thực hành tâm giác ngộ (bodhicitta) tôn quý để yêu mến người khác hơn chính mình, của điều gọi là sự thực tập tâm giác ngộ (bodhicitta).

Để tiếp tục đến luận thuyết thực sự, dường như rằng chúng tôi phân chia tùy theo sự những sự thực tập của những người của ba khả năng khác nhau, nó bắt đầu với một sự giải thích của những người giới hạn thuộc một phạm vi:



ĐIỀU THỨ NHẤT





Bây giờ, khi mà sự biểu hiện to lớn của thư nhàn và những hoàn cảnh lợi lạc được tìm thấy,

Đấy là sự thực hành của những vị Bồ Tát tuân theo,

Quán chiếu và thiền tập ngày và đêm để giải thoát

Chính họ và những người khác khỏi đại dương của sinh tử luân hồi



Dịch kệ:



1. Tinh tấn kiên trì

Thân người vững chãi lại nhã nhàn -

Con thuyền hiếm quý rất khó tầm -

Giờ ta đắc một không khuyết lỗi,

Tu tập đêm ngày chẳng dời đổi

Vượt biển khổ giải thoát luân hồi

Chẳng riêng ta trọn cả bao người

Lắng nghe, tư duy và thiền lự -



Để thực hành Giáo Pháp chúng ta cần biết về nó.  Để biết về nó, chúng ta cần nghe nó.  Vì đây là thời gian mà chúng ta đạt được thân người, nếu chúng ta nghe (văn) và quán chiếu (tư) Giáo Pháp, chúng ta đi đến hiểu biết nó.  Chúng ta nên thực hành (tu) nếu chúng ta có thể làm như thế, vì nếu chúng ta không cẩn thận bây giờ rằng chúng ta đã đạt được thân người, thì chúng ta có thể làm gì khi chúng ta không ở trong tình trạng con người?  Hiện tại chúng ta đang giảng dạy và lắng nghe Giáo Pháp.  Nhưng nếu chúng ta sinh như những con chó, tình trạng của thân thể chúng ta sẽ cướp đi vận hội tốt để nghe và thực hành Giáo Pháp và sẽ không có cơ hội để hướng tâm tư chúng ta đến Giáo Pháp.  Chúng ta bất lực.

Nhưng chúng ta đã được sinh ra làm người, và không chỉ là trong tất cả những con người, mà chúng ta đã sinh ra nơi Giáo Pháp rộ nở.  Cũng thế, chúng ta có thể thấy với đôi mắt chúng ta và nghe với đôi tai của chúng ta cùng với tâm tư chúng ta biết một ít về những gì đáng lìa bỏ và những gì nên tiếp nhận.  Vì vậy đây là thời điểm mà chúng ta phải thực hành Giáo Pháp bằng lắng nghe, suy nghĩ, và thiền tập.  Bây giờ, một số người mù chữ, thậm chí không thể đọc chữ nghĩa của Giáo Pháp.  Tuy thế, họ đạt đến thân người, và vì thế có thể tiến hành một nổ lực  để học hỏi về Giáo Pháp qua nói chuyện với người khác, và họ có thể biết những điều gì đấy tùy theo khả năng của họ.

Trên việc trở nên già đi, năng lực chúng ta để nhận thức trở nên không rõ ràng, những giác quan chúng ta trở nên mờ tối và chúng ta lầm bầm qua hàm răng chúng ta – tuy nhiên, chúng ta đã đạt được thân người và có thể tiến hành nổ lực nhiều nhất để chúng ta có thể thông hiểu Giáo Pháp.  Thật là quá tốt lành để mang một thân người hơn là thân của một con chó hay con ngựa.  Tối thiểu chúng ta có thể trì tụng ‘án ma ni bát di hồng’.  Vì thế thân người này rất quý giá.

Tuy thế, không có điều gì kỳ diệu trong việc đạt đến thân người một cách đơn thuần.  Có hơn bốn tỉ người trong thế giới này, nhưng nếu chúng ta đếm con số những người được sinh ra ở nơi mà Giáo Pháp nở hoa, con số ấy sẽ rất là ít.  Rồi thì trong số những người ấy, không có nhiều người tin tưởng nơi Giáo Pháp và có một cơ hội để thực tập bằng việc lắng nghe, suy tư, và thiển tập trên việc kết hợp giữa kinh điển hiển giáo và mật điển tantra.  Do vậy chúng ta nên đặt mọi nổ lực trong sự thực hành của mình mà không trở nên chán nản và chúng ta phải cẩn thận để không xử dụng sai lầm sự sinh (ra làm người) tốt đẹp này.  Vì nếu chúng ta lãng phí thời gian của chúng ta và dự đoán để nếm qua lợi lộc trong tương lai, điều đó rất là không thông minh.

Thật rất khó khăn để có được một hoàn cảnh thuận lợi và sự thư thái.  Tại sao thế? 

Bởi vì chúng ta phải có một nguyên nhân hoàn hảo để đạt được những hoàn cảnh như thế và một sự tái sinh làm người  không thể có được nếu nguyên nhân ấy thiếu vắng.  Nguyên nhân để tái sinh làm người là gì?  Đấy là sự tích tập đạo đức của chúng ta.  Tuy thế, thiện nghiệp quá khứ sẽ được nẩy nở và cần được làm mới bởi những hành động đạo hạnh trong hiện tại.  Thí dụ, một người một lần đã có tiền nhưng bây giờ thì không, người ấy không thể đi mua sắm.  Tương tự như thế, mặc dù trước đây chúng ta đã từng tích tập thiện nghiệp, nhưng nó không lợi lạc cho chúng ta nếu chúng ta không có nghiệp lành trong hiện tại.

Thật khó khăn để biết khả năng của những hành động đạo đức mà chúng ta tích lũy lúc trước có còn duy trì với chúng ta trong hiện tại mà không bị thoái hóa hay không?  Một số những hành vi đạo đức chúng ta đã từng tích tập trong quá khứ sẽ trổi dậy từ những thực hành thuần khiết khởi đầu, sự thực hành thật sự và sự thực hành quyết định, và một số từ những thực hành trong sạch.  Những tư tưởng không đạo hạnh mạnh mẽ như giận dữ, tàn phá những sự thực tập trong sách.  Giận dữ là sự tiêu diệt những hành động đạo đức rất mạnh bạo và được sinh khởi thường xuyên, căn cứ trên những điều kiện to lớn và nhỏ nhoi.

Chúng ta không thể dựa vào những năng lượng thiện nghiệp quá khứ bởi vì chúng ta không chắc nó có một ảnh hưởng tích cực với đời sống hiện tại của chúng ta không.  Do vậy, nếu chúng ta cố gắng để dựa vào nó, tại thời điểm lâm chung chúng ta có thể được đưa đến tái sinh trong thế giới con người cực kỳ khó khăn.  Nhưng nếu chúng ta bồi bổ năng lượng đạo đức mạnh mẽ trong hiện tại chúng ta có thể tin tưởng vào điều ấy.

Khi chúng ta khám phá sự tiếp tục của chúng ta một cách chính xác, chúng ta có thể thấy rằng chúng ta đã có một cơ duyên để thực hành những việc làm đạo đức mà chúng ta có thể tin tưởng; lựa chọn một trong hai, chúng ta có thể đã từng hành động những việc làm như thế trong quá khứ nhưng chúng ta thấy rằng chúng không đủ năng lực để tin tưởng.  Nếu gặp trường hợp này, chúng ta nên hành động với một sự cẩn thật tột bực.  Chúng ta không nên để tâm thức chúng ta giải đãi và dự đoán một tương lai tốt đẹp, bởi vì điều này nghĩa là chúng ta đang lừa dối chính mình và đang tồn tại trong chân không.  Thay vì thế, điều quan trọng cho chúng ta là nên cư xử trong một cung cách tích cực trong đời sống hiện tại với những điều kiện thư thái và tự tại.

Người ta có thể tự hỏi rằng thực hành Giáo Pháp có nghĩa là cần thiết phải từ bỏ đời sống xã hội và nhà cửa cùng cộng đồng của chúng ta không?  Dĩ nhiên, chúng ta nên thực tập một cách xác định trong cách này nếu cần thiết phải làm như thế.  Nhưng cũng có những phương pháp khác mà chúng ta có thể thực tập Giáo Pháp.  Chúng ta có thể cố gắng tột bật để có một trái tim tử tế ân cần và không tham dự vào những hành vi không đứng đắn (hạnh kiểm xấu), chẳng hạn như dối trá và trộm cướp, trong đời sống hằng ngày của chúng ta; thay vì thế, chúng ta nên chân thật và có hạnh kiểm tốt, làm lợi ích cho người khác, kềm chế sự thèm khát của chính mình và mãn nguyện với chính mình.  Những ai không thể thực hành nhiều vẫn có thể thỉnh thoảng trì tụng mật ngôn sáu âm ‘án ma ni bát di hồng’ của Đức bổn tôn từ bi Quán Thế Âm, vì đây cũng là Giáo Pháp.

Cuộc sống hằng ngày của chúng ta sẽ trở nên đầy đủ ý nghĩa khi chúng ta cẩn thận như thế.  Người ta thường cư xử một cách tệ hại – chẳng hạn như ấp ủ sự lười nhát, nói năng thô lổ, bắt nạt kẻ khác, nói dối, mục đích độc ác và chia rẻ giữa những người với nhau, cùng hành động tổn hại đến người khác – phải cố gắng để giảm thiểu sự liên lụy của chúng trong những hành vi loại này từ ngày hôm nay trở đi.  Những ai trong nhiệm vụ nên làm mọi nổ lực để chân thực trong sự đối phó của họ với người khác và tự kiềm chế với dối trá cùng tham lam quá độ.  Đây cũng là Giáo Pháp.

Có những người nói rằng: “tôi là người tội lỗi và vì thế tôi không thể thực hành Giáo Pháp.”  Họ nghĩ rằng Giáo Pháp phải được thực hành trong những vùng xa xôi, hẻo lánh trong những điều kiện cực kỳ khó khăn cho họ.  Nhưng nếu một người nào đó là hiện thân của tội lỗi đi nữa, người ấy vẫn không muốn phải trãi qua khổ đau, chẳng hạn như nạn đói, khát, và lạnh, và người ấy mong ước tìm thấy hạnh phúc, vì thế thật vô nghĩa để dựng nên những chướng ngại này cho việc thực hành.

Nói một cách tổng quát, thật hiếm hoi tìm ra ai đấy mà không phải là người tội lỗi.  Bằng điều này chúng tôi muốn nói rằng khi chúng ta dùng chữ ‘tội lỗi’ nó không cần thiết phải có nghĩa là ‘giết người’.  Lấy ví dụ của chính chúng tôi, chúng tôi đã mang y Pháp, nhưng những tư tưởng nhận thức bất thiện tiêu cực khác nhau vẫn sinh khởi trong tâm tư, chẳng hạn như ganh tị với những ai ở địa vị cao hơn, cảm giác tranh đua với những sự bình đẳng cùng cảm giác trội hơn và chọc ghẹo quấy rầy những người thấp hơn.  Những tư tưởng phiền não này sẽ biểu hiện trong cung cách nói chuyện và biểu lộ trên gương mặt nếu chúng tôi để chúng dính mắc trong tâm tư và chúng sẽ là nguyên nhân cho những điều tiêu cực hơn, đặc biệt nếu chúng tôi phát sinh những tư tưởng tiêu cực  chẳng hạn như thái độ tự ái.  Bởi vì chúng tôi đã phát nguyện phát tâm giác ngộ (bodhicitta) và chí nguyện giao phó chính mình cho sự thực hành tantric, những hành vi như thế sẽ phát sinh nhiều việc tiêu cực nghiêm trọng.

Do vậy, chúng ta không nên nhút nhát bởi nghĩ chính mình như một kẻ tội lỗi, trái lại nên cố gắng để trở thành những người khá hơn.  Bây giờ chúng tôi khoảng 38 hay 39 tuổi và chúng tôi muốn kiểm soát tâm niệm của mình hằng ngày, nhầm mục tiêu tiến hành một nổ lực chân thành để cải thiện chính mình trong những năm tháng còn lại của mình.  Khi chúng tôi phản chiếu lại về quá khứ, dường như một số tiến bộ đã biểu hiện.  Như được truyển khẩu của những tiến sĩ Phật học (geshe) dòng truyền thừa Kadampa:  “Làm thế nào sự cải thiện có thể xãy ra?  Bởi vì những hiện tượng hợp thành luôn thay đổi tự nhiên, do vậy, chắc chắn rằng một ngày nào đấy  sự cải tiến bộ sẽ xãy ra.”  Thế cho nên, bảo đảm rằng sẽ có sự cải thiện, mặc dù không dễ dàng để đánh thức sự viễn ly sinh tử luân hồi và tâm giác ngộ (bodhicitta).

Có những cách khác nhau để nhìn vào sự thực hành Giáo Pháp.  Nếu chúng ta nhìn vào điều ấy về một mặt là, tâm niệm của những người thế gian và Thánh Pháp là đối lập với nhau, như đã được nói là:  “Tâm tư những thường nhân và Thánh Giáo là cực kỳ xa rời nhau.”  Nhưng từ một quan điểm khác, nếu chúng ta thực hành Giáo Pháp thì Thánh Giáo sẽ rất gần chúng ta.  Chúng ta không cần phải lìa xa nhà cửa và đi đến một nơi thật xa nhưng có thể thực tập trong đời sống hằng ngày, không dùng sai thời gian chúng ta thậm chí trong một ngày.  Đây là một ý nghĩa đầy đủ của sự thực hành.

Thí dụ, chúng ta không nên mang một thái độ trong khi chúng ta đi nhiễu rằng chúng ta  chỉ đi bộ, cũng không nên tham gia vào những buổi lễ cầu nguyện không có ý nghĩa chẳng hạn như đòi hỏi rằng chúng ta không bị làm ưu phiền bởi bệnh tật và rằng sự giàu sang và tuổi thọ chúng ta có thể gia tăng.  Tốt hơn, chúng ta nên nguyện cầu trong một cung cách lành mạnh và chúng ta nên tốt bụng hay từ bi tột bật như mình có thể suốt trong thời gian đi nhiễu một hay hai giờ đồng hồ.  Chúng ta nên tư duy trên đoạn đường  với thông điệp từ “Hướng dẫn Phương pháp của Bồ Tát trong Đời Sống”:  Nguyện cho con luôn luôn là cội nguồn của ần cần tử tế đa dạng trong đời sống cho vô lượng chúng sinh, như trái đất và bầu trời.”  Điều được nói rằng có nhiều lợi lạc từ việc cầu nguyện như thế này trong khi đi nhiễu.  Chúng ta cũng nên đem hình ảnh của Đấng Vĩ Đại và Từ Bi Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn trong tâm niệm; nhớ lại đức tính ân cần của Ngài, chúng ta nên cầu nguyện một cách tinh cần đến Ngài rằng bằng nói rằng: “Nguyện cho con được tiếp theo bước chân của Phật và phát sinh nội lực sung mãn để trở thành như Ngài.”  Cúng dường những lời cầu nguyện thiết tha như thế đem đến lợi lạc bao la.

Chúng ta cần lắng nghe, quán chiếu, và thiền tập theo Giáo Pháp nhầm mục tiêu hành động đối với một tình trạng toàn hảo của tâm như tâm của Đức Phật.  Khi lắng nghe, quán chiếu, và thiền tập trên giáo huấn Đại Thừa một cách tường tận  chúng ta nên có một sự liên tục giống như dòng nước chày, ngày và đêm, không dùng sai thời gian ngay cả trong một khoảnh khắc.

Trước tiên chúng ta nên học hỏi những phương diện mà chúng không biết gì cả.  Sauk khi có được kiến thức về những điều này chúng ta nên phân tích lại và phân tích lại một lần nữa, nhầm để tìm hiểu chiều sâu và ý nghĩa của chúng.  Một khi chúng ta trở nên tin chắc ý nghĩa của chúng, chúng ta nên cố gắng đạt đến kiến thức dựa trên kinh nghiệm của chúng trong tâm thức chúng ta, căn cứ trên sự phối hợp của thiền tập phân tích và bố trí (quán và chỉ).  Tiêu dùng những ngày và đêm của mình trong cách như thế được biết như là sự thực hành của một vị Bồ Tát.





ĐIỀU THỨ HAI

Từ bỏ hương thôn cũ là sự thực hành của những vị Bồ Tát

Đấy là tình thế khát khao như nước, dao động đối với quyến thuộc;

Giận dữ như lửa, trãi rộng đến những kẻ thù; và si ám, tạo nên một

Tình trạng mây mù trong tâm thức vì thế hành giả quên đi những gì nên tiếp nhận và loại bỏ.



Dịch kệ:



2. Lìa sanh quán

Trụ lâu chốn ấy sanh nhiễm ái,

Thân tình như sóng dập dồn mãi.

Ngọn lửa giận hờn kẻ quấy phiền,

Thiêu công đức cũ bao kiếp hiền.

Bóng tối che mắt nhìn thiển cận,

Khó phân hay dở, dễ nhầm lẫn.

Thôi hãy lìa quê cảnh riêng tây -

Chư Bồ tát trọn hành cách này.



Vướng mắc, thù hận, và si ám gia tăng trong mỗi người, khi chúng ta ở mãi trong quê cha của chúng ta.  Chúng ta hình thành nên sự vướng mắc không chỉ đến quyến thuộc và bạn bè nhưng cũng đến tổ tiên chúng ta.  Những vướng mắc này sinh khởi một cách không thích đáng như hận thù và giận dữ.  Thậm chí nếu chúng ta nguyện ước thực hành và trì tụng một số chân ngôn, thời gian của chúng ta bị chiếm mất vởi chăm lo đến thân quyến và bè bạn cùng chống lại những mục đích của kẻ thù.  Chúng ta biểu lộ một gương mặt tươi tắn và luồn cúi đến những người quyền thế cao hơn, chúng ta bắt nạt những người bị áp bức và lừa dối những ai cùng tình trạng giàu có như chúng ta.  Tất cả những hành động này sinh khởi từ việc ở mãi trong một nơi mà nó có nhiều đối tượng để vướng mắc và giận dữ.

Nếu chúng ta có một ngôi nhà nhỏ chứa đựng một ít sở hữu vật chất, chúng ta không cần sự vướng bận nhiều đến ý tưởng giúp đở quyến thuộc chúng ta, cũng không cảm thấy sợ hải vì kẻ thù của chúng ta.   Nhưng chúng ta có thể vẫn có sự vướng mắc mà nó đến từ sự suy nghĩ, “Đây là ngôi nhà của tôi”.  Tương tự như thế, chúng ta có thể trở nên bận tâm lo lắng với những đối tượng vật chất nhỏ bé, vì nghĩ đến việc chúng làm thế nào lợi ích cho chúng ta khi sở hữu chúng.  Những sự tán loạn này làm nguyên nhân khiến chúng ta xử dụng những ngày tháng của chúng ta một cách lãng phí.

Một tu sĩ thân chỉ có thể có một chiếc hộp và một điện thờ cùng một hay hai khái niệm thánh thiện của thân, miệng và ý trong nhà của người ấy.  Tuy nhiên, nếu tu sĩ ấy trở nên quá liên hệ trong việc bố trí những đối tượng ít ỏi này nhiều lần người ấy sẽ xáo trộn bởi những hành vi như thế, tốt hơn là dùng thời gian  ấy để trì tụng chân ngôn và suy tư về Giáo Pháp.  Do thế, từ bỏ quê cha của một người được biết như sự thực hành của một vị Bồ Tát.

Gốc rễ của vướng mắc, thù hận, và tâm tư đóng kín là si mê ám chướng, và chúng ta có thể nói rằng vướng mắc và thù hận giống như những cận thần của si mê.  Về hai điều này, thù hận giống như một mãnh tướng can trường người chinh phục kẻ thù, trong khi vướng măc là bộ trưởng ngân khố hay kho tàng.  Khi tất cả được diễn đạt và hành động, vướng mắc, thù hận và si mê đưa chúng ta cố chấp vào trong sự bất lực và sự khó khăn của kẻ khác.





ĐIỀU THỨ BA

Lưu trú ở những vùng hẻo lánh xa xôi là sự thực hành của những vị Bồ Tát là nơi

Những phiền não dần dần bị xua tan do việc từ bỏ những địa điểm quấy rầy,

Đấy cũng là những nơi toàn bộ những hành động tăng trưởng một cách tự nhiên bởi không bị làm lãng xao, và

Nơi mà tâm thức trong sáng cho phép sinh khởi nhận thức trong Giáo Pháp.



Dịch kệ:



3. Tránh sao nhãng

Xa rời hẳn mọi điều khích động,

Hồn chao đảo sẽ dần tĩnh lặng.

Tịnh hóa niệm tán loạn buông lung,

Tâm quy đức hạnh sẽ dần tăng.

Tuệ sáng tỏ, cảnh vào tiêu điểm,

Niềm tin nơi Pháp vững vàng thêm.

Sống một mình ẩn dật nơi đây -

Chư Bồ tát trọn hành cách này



Như điều này nói, chỉ đơn giản từ bỏ quê cha hay xứ sở của chúng ta không là một câu trả lời.  Thí dụ, chúng tôi là những người tị nạn và bị đẩy đến phải từ bỏ xứ sở chúng tôi, nhưng nếu chúng ta duy trì sự bận tâm với những hành vi thế gian chúng ta không học từ kinh nghiệm ấy.  Mục tiêu chính của việc từ bỏ quê cha của chúng ta là có ít cơ hội cho việc sinh khởi của vướng mắc, thù hận, và si mê.  Trong đoạn  kệ này những phẩm chất tĩnh lặng được làm sáng tỏ.  Không có đối tượng làm xao lãng trong một nơi tĩnh mịch như cưu mang nhà cửa, liên hệ gia đình và sự tích lũy cùng tiêu dùng những vật chất tạo được.  Giống như thế, không có ai ở chung quanh chúng ta nói chuyện về những thứ tham đắm và thù hận.  Chúng ta có thể ngơi nghĩ trong một nơi nước nôi trong lành, không khí tinh khiết, chúng ta có áo quần đơn giản và không có căng thẳng trong tâm hồn từ việc lo lắng đến những vật dụng của chúng ta.  Từ lúc thức dậy vào buổi sáng không có điều gì làm xao lãng chúng ta trong việc thực hành Giáo Pháp, do vậy chúng ta nên tập trung vào Giáo Pháp trong một nơi xếp đặt như thế.

Nhiều bậc thánh nhân tôn quý đã đạt đến sự chứng ngộ cao độ trên con đường tu tập bằng việc nương tựa vào những nơi tĩnh mịch.  Do thế, nếu chúng ta có được cơ hội cư ngụ trong một am thất trước khi lìa đời, như một con vật sống trong thiên nhiên, thì đấy là một cơ hội diệu kỳ.

Đặc biệt vì là những tu sĩ chúng ta không phải bận bịu đến trách nhiệm gia đình, chúng ta cố  ngẩng lên và nối gót tấm gương của Đức Phật và những đệ tử của Ngài, giảm thiếu những sự vướng bận của chúng ta về thực phẩm, áo quần, tiếng tăm và thách thức những phiền não.  Chúng ta không đạt đến bất cứ điều gì kỳ diệu chỉ bằng thay đổi áo quần bên ngoài và đeo mang những biểu tượng.  Biểu hiệu của một tu sĩ là khi người ấy đột nhiên đứng lên từ chỗ ngồi của vị ấy, không có gì vị ấy cần để thu thập từ nơi đó.  Nếu một vài người phải phụ giúp vị ấy khuân mang vật dụng của mình khi vị ấy lìa khỏi một nơi để đến một nơi khác, thế thì chúng tôi không nghĩ rằng vị ấy đại diện tốt lành cho đời sống tu sĩ.





ĐIỀU THỨ TƯ



Từ bỏ đời sống này là sự thực hành của những vị Bồ Tát vì,

Thân quyến và bè bạn trong một thời gian dài phải chia ly, sự giàu sang và của cải vật chất

Tích lũy với nổ lực vô cùng phải bỏ lại sau lưng và thân thể,

Như một nhà khách, phải bị bỏ rơi bởi vị khách tâm thức.



Dịch kệ:



4. Bận bịu với đời

Chung sống lâu rồi đến lúc thôi,

Bạn thân quyến thuộc cũng chia phôi.

Của tiền lao lách công gom nhặt,

Xa tít sau khi đời lịm tắt.

Tâm, là khách trọ của thân, nhà,

Ngày kia phải dọn bỏ đi xa.

Xả niệm đừng lo đời hiện tại -

Chư Bồ tát trọn hành cách ấy

Chúng ta là những người thực hành Giáo Pháp chân thực nếu chúng ta tìm một nơi tĩnh mịch và có thể xa lánh cuộc sống thế gian này.  Nhầm để xa lánh đời sống thế gian này, chúng ta nên nhìn trên đời sông này như không quan trọng, những lý do thiết yếu cho một quan điểm như thế hiện hữu  là vô thường và sự chết.  Tất cả chúng ta phải chết đi không sớm thì muộn.  Nếu chúng ta có thực hành Giáo Pháp và phát triển một lòng từ bi hay tốt bụng, thế thì khi thời điểm của cái chết đến trong những hoàn cảnh của tương lai trông triển vọng lắm.   Trái lại, thậm chí nếu tất cả những người trên thế giới là bạn bè và thân nhân của chúng ta cũng không có lợi ích gì ở tại những thời điểm như thế, bởi vì chúng ta phải ra đi đơn độc một mình, bỏ tất cả họ lại sau lưng.  Thí dụ, một người rất là giàu có, chủ nhân của một lô hảng xưởng phải lìa tất cả những nhà máy lại phía sau khi người ấy chết đi.

Từ lúc chúng ta được sinh ra khỏi bụng mẹ cho đến bây giờ chúng ta đã yêu mến thân thể này vì thể rất là tận tình bằng việc nói rằng ‘thân thể của tôi’, nhưng thân thể này không lợi ích gì cho chúng ta vào lúc cuối bởi vì chúng ta phải lìa bỏ thân thể này lại đằng sau.  Thậm chí cho đến được xem như là Đạt Lai Lạt Ma, khi ngày chết của  Đạt Lai Lạt Ma đến thì dĩ nhiên vị ấy cũng phải lìa thân thể của Tenzin Gyatso.  Không có cách nào để thân thể và tâm thức này đi chung với nhau.  Một cách thông thường thì, nếu tước đi chiếc y vàng ‘cho gos nam jar’ (2) của ông, Tenzin Gyatso sẽ trãi qua một sự suy sụp (tinh thần), nhưng tại thời điểm của cái chết vị ấy phải lìa chiếc y giải thoát thánh thiện này lại phía sau mà không có sự sa sút nào cả.

Thời khắc sự chết của chúng ta thì không biết chắc được.  Hình thành những dự tính sẽ xứng đáng để bỏ công nếu chúng ta có thể tin tưởng trong sự sửa đổi tuổi thọ, nhưng chúng ta không thể tin tưởng giới hạn của đời sống chúng ta bởi vì chúng ta không biết khi nào chúng ta sẽ chết.  Tất cả chúng ta cùng ở đây trong buổi thuyết giảng ngày hôm nay, nhưng một số người trong chúng ta có thể chết tối nay.  Chúng ta không thể chắc chắn rằng tất cả chúng ta sẽ gặp nhau lại trong chương trình ngày mai.  Thí dụ, chúng tôi không thể bảo đảm 100% rằng chúng tôi không chết tối nay.

Do vậy, nếu chúng ta tiếp tục bám víu vào cuộc đời này ngay cả một ngày mà chúng ta dùng sai lầm thời gian của chúng ta, và cuối cùng trong cách này chúng ta có thể lãng phí hàng tháng, hàng năm.  Bởi vì chúng ta không biết khi nào đời sống của chúng ta sẽ kết thúc, thế cho nên chúng ta phải sống trong tỉnh thức và chuẩn bị tốt.  Rồi thì, thậm chí chúng ta chết tối nay, chúng ta sẽ làm như thế mà không hối tiếc.  Nếu chúng ta chết tối nay, mục tiêu chuẩn bị tốt lành kiết tường được sinh ra; nếu chúng ta không chết tối nay thì chẳng có tổn hại gì trong việc chuẩn bị tốt, bởi vì điều ấy vẫn lợi ích cho chúng ta.

Những hành vi của thân thể trong kiếp sống này có thể được thấy và thấu hiểu cùng những sự vật có một phương thức vận hành để biểu hiện trong một thời điểm nào đấy.   Thí dụ, chúng tôi có kinh nghiệm với một sự đối phó nghiêm trọng về một trạng thái lo lắng và thất vọng vào lúc đầu khi đào thoát khỏi Tây Tạng và đến Ấn Độ, tự hỏi rằng chúng tôi làm thế nào để tồn tại.  Trong tiến trình này của cảm nhận từ một quốc gia nhân loại này đến của một quốc gia nhân loại khác, chúng tôi thấy rằng mọi thứ dần dần tiến triển một cách tốt đẹp.

Nhưng khi chúng ta lìa thế giới nhân loại, chúng ta cũng làm như thế mà không có một người bảo vệ hay hổ trợ và tất cả trách nhiệm hoàn toàn đổ vào chính chúng ta.  Chúng ta chỉ có chính sự thông tuệ của chính mình để nương tựa vào lúc ấy, thế cho nên chúng ta phải mở rộng nổ lực của chính mình nhầm để bảo vệ chính chúng ta.  Như Đức Phật đã nói, “Ta đã chỉ cho các ngươi  con đường đến giải thoát; hãy biết rằng sự giải thoát ấy tùy thuộc trên các ngươi.”  Chúng ta phải tích cực nổ lực trong sự đạt đến tự tại của sự chuyển tiếp từ thế giới thấp hơn đến sự giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, từ sự tự tại trong hiện hữu thế tục đế đến cứu kính tịch tĩnh.

Thật khó khăn để cho hàng chư thiên bảo vệ chúng ta khi chúng ta chuyển đến đời sống kế tiếp, vì thế chúng ta nên cẩn trọng và cũng chuẩn bị tốt nhất ngay bây giờ như chúng ta có thể.  Chúng ta nên đặt trọng tâm vào những đời sống tương lai hơn là chỉ bám víu vào đời sống này, vì thế, chúng ta có thể hy sinh và từ bỏ đời sống này.  Điều này được bắt đầu nhầm để thiết lập sự không quan yếu của đời sống này.

Thân thể được so sánh như một nhà khách, trong ấy nó chỉ là một nơi để ở lại một thời gian ngắn và không thường xuyên.  Như đã trình bày vị khách tâm thức đang lưu trú trong nhà khách thân thể, như mướn một nơi để ở.  Khi ngày giờ đến cho tâm thức lìa xa, rồi thì nhà khách thân thể phải bị bỏ lại sau lưng.  Hiện hữu không dính mắc vào thân thể, bè bạn, sự giảu sang và sở hữu là điều thực hành của những vị Bồ Tát.



ĐIỀU THỨ NĂM



Xa lánh những bè bạn không đạo đức là sự thực hành của những vị Bồ Tát

Những người khi giao du với họ sẽ là nguyên nhân gia tăng ba điều nhiễm ô,

Những hành vi về lắng nghe, quán chiếu và thiền tập đi đến giảm thiểu,

Và yêu thương cùng từ bi trở nên không còn hiện hữu.



Dịch kệ:



5. Lánh ác hữu

Gặp phải bạn xấu đưa lối lầm,

Sân hận, tham lam, ngu dại thêm.

Thời giờ tu tập còn đôi chút,

Quên lãng Pháp; hành thiền sơ xuất.

Tâm từ bi cho mọi chúng sanh

Bị chi phối, lạc lõng, lãng quên.

Hãy cắt tiếp giao cùng bạn ác -

Chư Bồ tát trọn hành chẳng khác.



Có một sự khác biệt lớn lao giữa những phẩm chất mà chúng ta tìm kiếm trong một vị đạo sư đức hạnh và người bạn thân, và những thứ mà chúng ta tìm thấy trong một vị thầy không tâm linh và người bạn xấu.  Có sự lui tới với những vị đạo sư đức hạnh và người bạn thân rất lợi lạc, trái lại chẳng có lợi lạc gì để giữ mối quan hệ với vị thầy không tâm linh và bạn xấu.  Vì ngay cả nếu chúng ta ao ước trở nên tốt lành, bằng việc dần dần tiếp nhận vào tâm tư chúng ta những cung cách bất hảo của những người bạn xấu chúng ta có thể mang lấy những thói  quen phi đạo đức của họ.  Điểm này được nói là cực kỳ quan trọng.

Những người bạn thuộc loại xấu hay không phải bạn tâm linh mà chúng ta phải từ bỏ là những người mà trong quan hệ với họ có một sự gia tăng tự động trong ba loại phiền não về  vướng mắc, thù hận, và si mê.  Một cách tự nhiên, chúng ta không thể thực hành Giáo Pháp qua lắng nghe, tư duy, và thiền tập khi nối kết với những người bạn như thế.

Trong khi tham gia vào trong sự thực hành Đại Thừa, những liên hệ như vậy sẽ làm giảm giá trị của tâm giác ngộ (bodhicitta), mà đấy là yêu thương và từ bi.  Chúng ta phải xa lánh họ như chúng ta tránh xa bệnh dịch.



ĐIỂU THỨ SÁU



Theo đuổi ưu tú là sự thực hành của những vị Bồ Tát

Những người bạn tâm linh thậm chí thân thiết hơn thân thể của chính họ,

Khi chúng ta nương tựa với những người bạn tâm linh ưu tú, lỗi lầm sẽ giảm thiểu và

Những phẩm chất tốt đẹp tăng trưởng như sự tô điểm (đánh bóng) mặt trăng.



Dịch kệ:



6. Trọng Đạo sư

Khi phó thác trong tay Đạo sư,

Chân thật mong cầu hướng dẫn từ

Bậc thông kinh điển rành tập huấn,

Trưởng dưỡng như trăng khuyết tròn dần.

Giải mọi nguy khó, xóa ảo hư,

Nếu trọn lòng tin bậc chân sư,

Phải tôn quý hơn bản thân nữa -

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Đây là một cách nói rằng chúng ta nên nương tựa vị đạo sư của chúng ta như người bạn tâm linh, điều mà Geshe Potawa cũng tuyên bố rằng: “Không có gì tốt hơn để đến một vị đạo sư nhầm tìm kiếm sự giải thoát hoàn toàn.  Phẩm chất trong đời sống này có thể được học hỏi bằng việc quán chiếu.  Tuy nhiên, ngay cả có thể rằng không thể cần đến một vị thầy.  Làm thề nào chúng ta xoay sở mà không có một vị đạo sư khi chúng ta bất chợt chuyển tiếp từ một thế giới thấp hơn đến một nơi mà chúng ta chưa bao giờ đến trước đây.”

Chuyển hóa sự khiếm khuyết này của tâm thức thành một trạng thái tinh khiết sẽ không thể xãy ra mà không có tiến hành nhiều nổ lực, và để thực hiện một nổ lực như thế chúng ta phải biết làm thể nào để hướng dẫn nó trực tiếp và kỷ năng nào để xử dụng.  Nếu chúng ta không biết và không được hướng dẫn bởi một người kinh nghiệm, nổ lực sẽ không có kết quả như mong muốn.

Ai là người kinh nghiệm ấy?  Một vị đạo sư đạo hạnh, người qua kinh nghiệm của chính mình có thể chỉ cho học trò con đường và hướng dẫn phương pháp để khử trừ chướng ngại.  Giống như một bệnh nhân tìm kiếm sự giúp đở của một y sư để được chửa trị khỏi bệnh truyền nhiễm, do thế, chúng ta nên tìm kiếm sự giúp đở của một vị đạo sư để giải thoát chúng ta khỏi ba nghiệp chướng.  Đạo sư là người mà đệ tử nương tựa từ trong chiều sâu của trái tim.

Đạo sư hay vị thầy chân chính không phải là bất cứ người nào.  Như được nói bởi Dharmaraja Sakya Pandita: “Trước khi bắt đầu một dịch vụ nhỏ để mua bán nữ trang và ngựa, người ta phải khảo sát một cách sâu sắc và hỏi ý kiến giúp đở từ những người khác.  Tương tự như thế, sẽ sai lầm nếu đi tìm sự giáo huấn ở bất cứ người nào mà không phân tích kiểm nghiệm vị thầy tâm linh trước, bởi vì Giáo Pháp chỉ là những phương thức cho việc đạt đến mục tiêu cuối cùng.”  Chúng ta phải khảo sát một cách hết lòng trong cách này để thấy vị đạo sư ấy là tương xứng hay chưa.  Chúng ta phải kiểm nghiệm những đặc điểm này của vị đạo sư một cách cẩn thận:  sự liên hệ của vị ấy với Luật tạng và Kinh tạng cùng sự sở hữu những phẩm chất của một đạo sư Kim Cương, như được giải thích trong mật điển tantra.

Một khi đã được thuyết phục rằng đấy là một vị đạo sư thích ứng, chúng ta nên nương tựa trên vị ấy trong một cung cách đúng đắn, xem kiến thức của vị ấy như đồng với  Phật và từ tâm của vị ấy thậm chí hơn những vị Phật.  Chúng ta phải có sự tin tưởng trong những phẩm chất của vị ấy và tôn trọng vị ấy bằng việc nhớ lại từ tâm ân cần của vị ấy.  Giữ gìn sự tôn kính này và lòng từ bi ân cần của vị ấy trong tâm chúng ta, chúng ta nên thực hành những hướng dẫn liên hệ đến sự tín cẩn đối với vị đạo sư.  Chúng ta nên đặt sự nổ lực chân thành và cúng dường đến đạo sư của chúng ta bằng việc thực hành Giáo  Pháp.

Sự cúng dường cao thượng nhất mà chúng ta có thể dâng đến đạo sư của chúng ta đấy là sự thực hành.  Nếu đấy là một vị đạo sư tương xứng, chân thực vị ấy sẽ vui lòng hơn bao giờ hết với sự cúng dường bằng cách thực hành hơn là với những phẩm vật cúng dường mà chúng ta có thể đem đến cho vị ấy.  Marpa Lotsawa đã đòi hỏi Milarepa sự ráng sức chịu đựng những thực hành khổ hạnh trước khi cuối cùng cho phép Milarepa nhận lễ truyển pháp quán đảnh.  Vào lúc ấy, Milarepa không có bất cứ phẩm vật gì đáng giá để cúng dường.  Một người đệ tử khác của Marpa là Ngok Lotsawa, người có những phẩm vật phong phú và Ngok Lotsawa đã dâng cúng tất cả  cho thầy của mình, ngay cả không chừa lại một con dê què chân.  Marpa đã hát một bài ca bày tỏ kết quả rằng ngài không phân biệt giữa người không có gì để cúng dường và người cúng dường tất cả những gì mình có.  Điều này biểu lộ rằng ngài là một đạo sư phẩm hạnh trọn vẹn.

Những ai tìm kiếm lợi lạc vật chất không phải là những vị thầy Đại Thừa xứng đáng, như Sharawa tuyên bố, trích từ Con Đường Tiệm Tiến Lamrim của Tổ Sư Tông Khách Ba.  Nương tựa với một vị đạo sư trong một cung cách thích đáng được diễn tả ở đây là sự thực hành của những vị Bồ Tát.



--

Chú thích:

(1) thân, khẩu, ý.

(2) ‘cho gos’ là chiếc y vàng phía trên, của tất cả tăng ni cũng được biết là ‘la gos’, ‘nam char’ là chiếc y vàng phía trên chỉ dùng cho tăng thọ cụ túc giới, ‘thang gos’ là chiếc y phía dưới được dùng cho tăng ni.




31-10-2009