Chương
01. Khái lược lịch sử Phật giáo
Lịch sử
Phật giáo có chiều dài khoảng hai ngàn năm trăm năm, do Siddhattha Gotama
(Pali; Sanskrit: Siddhartha Gautama)
sáng lập ở Ấn Độ; phát triển phần lớn ở châu Á và lan dần đến phương Tây vào
thế kỷ hai mươi. Trong lúc gia tài Phật giáo hưng thịnh và suy đồi qua bao thế
hệ, hơn phân nửa dân số trên thế giới đang sống trong những nơi mà Phật giáo
đang, hay đã là một sức mạnh văn hóa quan trọng.
Trong tiếng Anh chữ Phật giáo (Buddhism) nghĩa đúng của nó là một tôn
giáo được mô tả bằng sự hâm mộ “Đức Phật” hay “những Đức Phật” hoặc “trạng thái
giác ngộ.”
“Phật” không phải là một tên
riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác
ngộ.” Về tâm linh, điều nầy ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang
ngủ” – không biết được sự thật của mọi vật. “Phật” là một danh hiệu, và không
nên được dùng như một cái tên, chẳng hạn như “Phật dạy là… ” Trong nhiều văn
cảnh, “Đức Phật” chỉ định cho Đức Phật lịch sử Gotama.
Từ những buổi đầu, truyền thống
Phật giáo đã mặc nhiên công nhận có những vị Phật khác đã từng sống trong những
thời gian trước, hoặc sẽ xuất hiện trong tương lai. Truyền thống sau nầy cũng
hiển nhiên công nhận sự hiện hữu của những vị Phật đang có mặt ở mọi nơi trong
vũ trụ. Tất cả những vị Phật như thế, được gọi là sammā-sambuddhas, hoặc “Bậc hoàn toàn giác ngộ,” được xem
như rất hiếm xuất hiện hay ra đời trong vũ trụ mênh mông nầy. Có những vị
“Phật” trong một ý nghĩa thấp hơn, là những người đã thức tỉnh nhờ thực hành
theo lời dạy của một vị Phật toàn giác là Đức Phật lịch sử Gotama.
Vì “Phật” không chỉ định cho
riêng một người, cho nên Phật giáo ít chú tâm đến người sáng lập như trong
Thiên Chúa giáo. Phật giáo nhấn mạnh đến lời
dạy của Đức Phật (những vị Phật), và lợi ích của những lời nầy nhằm
dẫn dắt con người đến với sự “Tỉnh Thức.”
Tuy nhiên, những Phật tử tỏ thái
độ tôn sùng Đức Phật Gotama như là một vị thầy tối cao và là một người gương
mẫu cho một mục đích tối thượng mà tất cả ai ai cũng đều nỗ lực để đạt đến. Có
lẽ vì thế mà những hình ảnh về Đức Phật hiện hữu nhiều hơn so với những nhân
vật lịch sử khác.
Trong tiến trình lịch sử, Phật
giáo đã và đang dùng sự đa dạng của những lời dạy, những phương tiện để giúp
con người phát triển bản tánh từ bi, thanh tịnh, để được “thức tỉnh,” và xa rời
những ảo tưởng đang giam hãm chúng ta: những ảo tưởng đưa ta đến sự bám víu và
từ đó gây đau khổ cho chính ta và những người chung quanh mình. Con đường đưa
đến sự chuyển hóa là “Pháp”
(S. Dharma), nghĩa là sự thật
vĩnh cữu và luật vận hành của vũ trụ được Đức Phật (những vị Phật) khám phá,
hay những bài giảng, con đường thực tập, và mục đích của Phật giáo là Niết-bàn (P. Nibbāna,S. Nīrvāna). Do đó, Phật giáo bao gồm sự hiểu biết, thực hành
và đắc Pháp (Dhamma). Những
người có trách nhiệm lớn đối với truyền thống Phật giáo thường là giới tăng sĩ,
tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni hợp lại thành Sangha
hay “Tăng đoàn.”
Vào khoảng một trăm năm sau khi
Đức Phật Gotama nhập diệt, vài điều khác lạ xuất hiện trong tăng đoàn (Sangha), dần dần dẫn đến sự
hình thành của nhiều phái tu viện Nikāya,
mỗi tu viện có những điều luật riêng biệt, với những trường phái tư duy khác
nhau Vāda. Mỗi nhánh “Tăng đoàn” (Sangha) được truyền thừa theo tông phái
của thế hệ đi trước; nhưng trong những trường phái tư duy ban đầu, chỉ có hệ
phái Nguyên Thủy (Therāvāda)
là còn được biết đến cho đến ngày nay. Therā
ngụ ý là theo “lời dạy” lúc ban đầu, nghĩa là, lời dạy của Đức Phật. Cho dù
trường phái nầy luôn chuyển biến, nhưng chính nơi đây đã thể hiện được những
lời dạy rất gần với Phật giáo trong buổi ban đầu, và luôn nhấn mạnh về sự giải
thoát dựa trên nỗ lực của từng cá nhân, dùng giáo
pháp (Dhamma) như một cẩm nang dẫn đường.
Vào khoảng đầu kỷ nguyên của
Thiên Chúa giáo, một phong trào khởi đầu dẫn đến một phong cách mới của Phật
giáo được gọi là Đại thừa (Mahāyāna),
hoặc “Xe lớn.” Trường phái nầy công khai đổi mới, vì thế trong bao thế kỷ,
những người phái Đại thừa tiếp tục sáng tác những kinh mới. Đại thừa được mô tả
một mặt bằng sự tôn sùng những vị cứu tinh có tính chất thần thánh ; mặt khác
bằng những triết lý sâu sắc, được trình bày bằng cách rộng mở những ngụ ý trong
kinh. Theo dòng thời gian, ở Ấn Độ và những nơi khác, Đại thừa đã thành lập rất
nhiều trường phái, chẳng hạn phái Thiền (Zen).
Một trong những trường học nầy phát triển vào thế kỷ thứ sáu ở Ấn Độ, và bị xem
là một phái ngoài của Đại thừa, có tên gọi là Mantrāyāna, hoặc là “Mật thừa.”
Trường phái nầy rất giống Đại thừa (Mahāyāna)
về mặt học thuyết, nhưng họ phát triển ra một loại thực tập mới có tác động rất mạnh để đạt đến mục đích như
phái Đại thừa, như chú tâm vào một câu thần chú (mantrā), lặp đi lặp lại những chữ thiêng liêng có năng lực
đặc biệt, và thực tập năng lực hình tượng hóa (visualization) rất ư là phức tạp.
Sự hiểu biết của chúng ta về
những lời dạy của Đức Phật được dựa trên nhiều bộ kinh, được truyền miệng và
được Tăng đoàn (Sangha) chấp
nhận trong buổi đầu hình thành giáo hội. Kinh Pāli của Thượng Tọa Bộ (Theravādin ‘Pali Canon’) được giữ
nguyên văn bằng tiếng Pāli, một ngôn ngữ địa phương rất gần với thứ tiếng mà
Đức Phật dùng là tiếng Maghadhi xưa. Đây là hệ thống kinh đầy đủ nhất chứa đựng
những bài giảng đầu tiên. Hệ thống kinh điển nầy rất phổ biến vì tất cả trường
phái Phật giáo đều sử dụng đến nó. Vài phần trong kinh Pāli được sáng tác sau
khi Đức Phật nhập diệt, và bắt nguồn từ những bài giảng của chính Đức Phật.
Kinh điển nầy có một sự hài hòa toàn diện chứng tỏ tác giả của hệ thống tư
tưởng nầy chỉ là một người. Đức Phật đã thuyết pháp trong vòng bốn mươi lăm năm
và những bài giảng có dấu hiệu của sự phát triển có thể chỉ là sự phản ảnh của
những thay đổi xảy ra trong thời gian nầy. Để đánh dấu thời gian, người ta đã
dựa vào tiêu chuẩn của văn phong; và sự so sánh giữa những kinh điển cũng rất
là quan trọng. Những kinh điển nầy từ từ tách ra vì có những truyền thống
truyền khẩu khác nhau được đưa vào kinh sách, và những bài văn kỳ lạ của từng
trường phái cũng được thêm vào. Giữa các bộ kinh có rất nhiều khác biệt nhỏ
nhưng cũng là thường tình vì những bài giảng truyền khẩu thường tạo ra những
phép hoán vị khác biệt của cùng một bài giảng hay một câu chuyện.
Những bộ kinh đầu có một đoạn về
luật (Vināya), hoặc giới luật
tăng đoàn. Các bài kinh (Suttas),
hoặc “bài giảng” của Đức Phật, và một bản luận (Abhidhamma), hoặc “những bài giảng xúc tiến,” đã hệ thống
hóa những bài giảng trong kinh (Suttas) theo
kiểu phân tách chi tiết kinh nghiệm của con người. Những bài giảng quan trọng
của Phật giáo nằm trong kinh (Suttas),
được chia ra làm năm bộ (Nikāya),
hay “Kết tập” trong kinh tạng Pāli, bốn bộ đầu (có tất cả là mười sáu tập), nói
chung là những kinh điển cổ xưa hơn hết.
Kinh điển Pāli là một trong
những bộ kinh được viết ra đầu tiên ở Tích Lan (Sri Lanka), vào khoảng tám mươi năm trước Thiên Chúa, sau
đó ít lâu một phần mới được thêm vào. Có vài phần của sáu bộ kinh không thuộc
về kinh Thượng Tọa Bộ (non-Theravādin),
được chuyển dịch sang tiếng Trung Hoa và Tây Tạng, vài đoạn của những bộ kinh
Sankrit hiện hữu ở Nepal, và một số bài văn lạ lùng được tìm thấy bằng tiếng
địa phương như ở Ấn Độ, Trung tâm châu Á, Tây Tạng và Nhật Bản.
Trong những tác phẩm không thuộc
về kinh Thượng Tọa Bộ, có thêm quyển thuộc về luận (Abhidhamma), một bảng ghi chép lịch sử, và nhiều tập bình
luận khác. Tập Những Câu Hỏi Của Vua Milinda (Milindapañha) là tập giới thiệu rõ ràng nhất về những điểm
của kinh Phật giáo, nói về những cuộc đối thoại giữa một tăng sĩ Phật giáo [là
tỳ-kheo Na-tiên] và vua Milinda (Menader: 155-130 trước Thiên Chúa), một vị vua
Hy Lạp thời xưa. Quyển Thanh Tịnh Đạo
Luận (Visuddhimagga)do
Ngài Phật Âm (Budhaghosa) viết
(thế kỷ thứ 5 sau TL), là bản trích yếu về Thượng Tọa Bộ (Therāvāda), có ảnh hưởng rất lớn, nói
về những thực tập thiền và giáo nghĩa Phật giáo.
Những tác phẩm Đại thừa (Mahāyāna) được sáng tác vào khoảng đầu
thế kỷ trước Thiên Chúa, không phải được truyền khẩu, mà là được ghi chép lại.
Đúng lúc đó, những tác phẩm được ghi chép lại bằng tiếng Sanskrit, một ngôn ngữ
thượng lưu của Ấn Độ.
Phần lớn các bài giảng do Đức
Phật nói ra, nhưng kiểu cách và nội dung chứng tỏ rằng thông điệp của Đức Phật
đã được thêm thắt và sửa đổi. Chúng ta hiểu về những bản kinh Đại thừa, phần
lớn là nhờ vào những bộ kinh Phật giáo được dịch ra từ tiếng Trung Hoa và Tây
Tạng. Trong lúc phần lớn kinh Pāli đã được dịch ra tiếng Anh và cho dù đã có
nhiều tiến triển, nhưng chỉ có một số bản kinh Đại thừa là được dịch ra các
ngôn ngữ Tây phương. Muốn biết thêm chi tiết về ba bộ kinh chánh của Đại thừa,
xin xem phần phụ chú.
Lúc nầy Phật giáo chỉ là một tôn
giáo thiểu số nằm ven biên giới của Ấn Độ ngày nay, nhưng Phật giáo đã lan dần
xa hơn đất Ấn Độ, nghĩa là Phật giáo thường được tìm thấy ở ba địa phương
chánh. Đó là “Phật giáo Nam tông” nơi mà trường phái Nguyên Thủy (Therāvāda) xuất hiện, và với những
thành tố khác được hình thành từ trường phái Đại thừa (Mahāyāna). Trường phái Đại thừa (Mahāyāna) truyền sang Trung Quốc hình
thành “Phật giáo Đông phương,” và với văn hóa Tây Tạng có “Phật giáo Bắc tông,”
là nguồn thừa kế của Phật giáo Ấn Độ về sau nầy. Nơi đây nổi bật nhất là Mật
tông (Mantrāyāna), một chi
nhánh của trường phái Đại thừa (Mahāyāna).
Phật giáo chú trọng nhiều đến sự
phát triển của tâm linh, nghĩa là Phật giáo có thể hiện hữu song song với những
tôn giáo lớn khác cùng với những truyền thống địa phương, phục vụ cho nhiều nhu
cầu khác nhau của con người với những nghi lễ đa dạng.
Thật là khó kiếm cho ra một xã
hội “hoàn toàn” Phật giáo. Cái hay nhất của Phật giáo là thích ứng dễ dàng với
mọi văn hóa khác biệt trong lúc vẫn uyển chuyển giữ được ranh giới của mình
bằng sự khoan dung đối với những truyền thống khác. Phật giáo mang đến nhiều
cách thực tập tùy theo trình độ tâm linh của những người sẵn sàng quyết tâm
thực hành.
Trong những nước Phật giáo Nam
tông, thông lệ sùng kính những thần thánh trước khi có Phật giáo vẫn còn tiếp
diễn ở miền Đông Nam châu Á, trong khi ở Tích Lan (Sri Lanka), Phật tử vẫn thờ phụng thần thánh theo phong
tục của người bản xứ hoặc của Ấn Độ. Phần đông Phật tử không xem đây là một điều
phản bội Phật giáo, nhưng chỉ là một sự cố gắng để tương tác với những năng lực
thiểu số trong vũ trụ để được chút lợi lộc: như một người nhờ một thành viên
trong Quốc hội giúp đỡ mình.
Phật giáo Bắc tông, có một liên
hệ tương tự, hiện hữu với tôn giáo bản xứ là đạo Bon ở Tây Tạng. Ở Trung Quốc,
Đài Loan, Đại Hàn và Việt Nam, Phật giáo từng song song hiện hữu với Khổng giáo
- một guồng máy triết lý xã hội hơn là một tôn giáo, với đạo Lão, và một số tôn
giáo dân gian khác. Những yếu tố trong các truyền thống nầy đều được dân chúng
sử dụng đồng đều.
Ở Nhật Bản, Phật giáo đã hiện
hữu cùng với tôn giáo bản xứ thiên về Thiên nhiên, là Thần đạo (Shinto) và đạo Khổng gia nhập từ Trung
Quốc. Theo truyền thống thì người dân tổ chức hôn lễ theo nghi thức Thần đạo nhưng
tang lễ thì cử hành theo nghi thức Phật giáo. Cộng Sản Trung Quốc lên án Phật
giáo và đập phá chùa chiền trong thời Cách mạng Văn hóa, nhưng chính phủ hiện
nay có vẻ dễ dãi hơn, đã cho phép Phật giáo Trung Hoa sống lại và một nền văn
hóa Phật giáo đang tiếp tục lớn mạnh. Dân số Phật tử ở châu Á (không tính người
Âu Mỹ và những Phật tử Á Châu sống ở phương nầy) như sau.
Có khoảng 105 triệu Phật tử theo
truyền thống Nam tông (con số nằm trong dấu hoặc là dân số của mỗi nước vào năm
1985): Tích Lan (Sri Lanka)
11 triệu (16 triệu); Miến Điện (Burma)
30 triệu (37 triệu); Thái Lan, 47 triệu (51 triệu); Cam Bốt, 6 triệu (7 triệu);
và Lào, 3 triệu rưỡi, (4 triệu). Dân thiểu số cũng hiện hữu ở: miền Nam Việt
Nam giáp ranh Cam Bốt 0,7 triệu; miền Tây Nam Trung Quốc (Yunnan) giáp giới Lào
và Miến Điện 0,8 triệu; những vùng giáp ranh Miến Điện ở Chittagong, Bangladesh
0,4 triệu và Ấn Độ 0,25 triệu? Bắc Mã Lai 0,5 triệu?, và một số vừa cải đạo ở
Ấn Độ, 4 triệu rưỡi, Nam Dương 1 triệu? và Nepal 0,2 triệu?
Phật giáo Bắc tông có khoảng 25 triệu tín đồ: Tây Tạng 1 triệu 6 (2 triệu); dân
Tây Tạng và Mông Cổ (phần còn lại) Tây Bắc Trung Quốc 14 triệu ? (62 triệu);
Mông Cổ 1 triệu 2 (1 triệu 9); Bhutan
1 triệu tư (1 triệu tư); Nepal
6 triệu (17 triệu), và những vùng thuộc Liên bang Xô Viết như Buryat, Tuva và Kalmyk 0,3 triệu (1 triệu 3). Dân tộc thiểu số cũng hiện
diện ở miền Bắc và Đông Bắc Ấn Độ, 0,35 triệu (1 triệu 3), và Bali,
Nam Dương 0,5 triệu?, và 0,08 triệu. Dân tộc Tây Tạng sống lưu vong ở Ấn Độ và Nepal.
Thật khó mà cho một con số “Phật
tử” của truyền thống Đông phương, (nhất là ở Trung Quốc, vì có rất nhiều truyền
thống tôn giáo, với chế độ Cộng Sản đương thời, thì ta có thể cho một con số
vào khoảng 365 triệu). Tổng số vào khoảng 495 triệu Phật tử ở Á châu.
Đức Phật và Bối Cảnh Ấn
Độ
Văn hóa Ấn Độ không chú trọng
đến việc ghi chép ngày tháng chính xác, như văn hóa Trung Hoa, Hy Lạp, La Mã,
vì thế những ngày tháng ghi chép tìm được thường không chính xác. Tài liệu Phật
giáo nói Đức Phật Gotama mất vào khoảng 218 hoặc 100 năm trước khi vua Asoka
lên ngôi. Theo những tài liệu tuyên cáo của Asoka gửi cho các vị vua Hy Lạp,
ngày sanh của vị vua nầy có lẽ vào khoảng năm 268 trước Thiên Chúa. Nhưng tất
cả các tài liệu đều đồng ý rằng Đức Phật Gotama mất lúc Ngài được tám mươi
tuổi, ngày sanh và tử vào khoảng 566-486 hoặc 448-368 trước Thiên Chúa. Trong
quá khứ, các học giả đều chấp nhận những ngày tháng nầy, nhưng bây giờ sự chấp
thuận nầy được dựa trên bằng chứng rõ ràng. Có thể vào khoảng 480-400 trước
Thiên chúa là có vẻ thích hợp hơn hết.
Bối Cảnh về Đời Sống
của Đức Phật
Đức Phật đã giảng dạy trong vùng
sông Hằng (The Ganges) miền
Đông Bắc Ấn Độ, nơi mà tôn giáo chánh là Bà-la-môn, được hướng dẫn bởi những
thầy tu được gọi là Thầy Bà-la-môn (P. Brahmins,
S. Brahmanas). Sau đó, vào
khoảng 200 năm trước Thiên Chúa, truyền thống nầy bắt đầu phát triển thành một
tôn giáo và bây giờ được biết đến với tên là Ấn Độ giáo (Hinduism). Đạo Bà-la-môn được du nhập
ở miền Tây Bắc hạ Ấn Độ vào năm 1500 trước Thiên Chúa, do một số dân du mục đến
từ địa phương mà bây giờ là miền đông của Thổ Nhị Kỳ, miền Nam của Nga và
miền Bắc của Ba Tư.
Trong vùng nầy, dân chúng nói
tiếng Aryan (S. Arya), phần
cơ bản của một số ngôn ngữ “Ấn-Âu” pha trộn do làn sóng di dân từ Ấn Độ, Ba Tư,
Hy Lạp, Ý và những nước miền Tây châu Âu. Ngôn ngữ được dùng ở Ấn Độ là
Sanskrit (từ ngôn ngữ nầy mà tiếng Pāli được tạo thành), vì vậy có liên hệ với
tiếng Hy Lạp và La Tinh, thậm chí ngay cả ngôn ngữ Âu châu trong đó có Anh ngữ.
Làn sóng di dân của người Arya làm chấm dứt một nền văn minh Thung lũng Indus,
một nền văn hóa đô thị rất văn minh đã từng có mặt trong vùng mà nay là nước Pakistan vào
khoảng năm 2500 trước Thiên Chúa.
Tôn giáo của người Aryan dựa
trên kinh điển Vệ Đà (Vedā),
một hệ thống kinh điển gồm những lời dạy truyền khẩu và các bài thánh ca: quyển
Câu Thi Vệ Đà (Rig Veda Saṃhitā) (khoảng
1500-1200 trước Thiên Chúa), ba quyển Vệ Đà khác (Vedā Saṃhitā), và sau đó là những tập gọi là Phạm Điển (Brāhmaṃa) và Upani.sad. Người Aryan tôn thờ ba mươi ba vị thần (devas), được hình thể hóa theo luật vũ trụ, thiên nhiên và đời
sống con người. Nghi lễ chánh
trong tôn giáo nầy là các thầy tu hát ca ngợi một vị thần (deva) đặc biệt, và dâng cúng những phẩm
vật bằng cách hỏa thiêu. Bù lại, họ hy vọng được những điều lành như được sức
khỏe, có thêm gia súc, và sau khi lìa đời được trở thành bất tử sống cùng với
các thần linh (devas).
Trong quyển Brahmaṃas, ngũ cốc và sữa là những thứ
được dùng để tế lễ, (vào khoảng những năm 1000 – 800 trước Thiên Chúa), sự tế
thần bằng gia súc được thêm vào. Cách phát âm rõ ràng những câu dùng trong việc
tế lễ được gọi là thần chú (mantra)
cũng được xem như là cách điều khiển những năng lực thần thánh gọi là Phạm
Thiên(Brahman) vì vậy nghi lễ
được xem như sự bắt buộc những thần linh tuân hành theo luật của vũ trụ, và ban
cho họ những gì họ cầu xin.
Việc tế lễ là một trách nhiệm
lớn của các tu sĩ Bà-la-môn được phản ảnh ở địa vị cao nhất của họ trong ba
giai cấp còn lại là: giai cấp Ksatriya hoặc
giới lãnh đạo chiến sĩ trong xã hội thời chiến cũng như thời bình, giới Vaiśya hoặc thương gia, và giới Śūdra hoặc đày tớ.
Một người thuộc về một trong bốn
giai cấp (Varna), hoặc “màu da” của nhân
loại được xem là thiên định ngay sau khi sanh ra ; sau nầy Ấn Độ giáo thêm vào
cả ngàn giai cấp khác thấp hơn và được gọi là hệ thống giai cấp (jāti). Những thầy Bà-la-môn học những
phương pháp du-già, ẩn cư, nhịn ăn, độc thân và khổ hạnh ; từ những vị tu khổ
hạnh mà truyền thống bắt nguồn từ nền văn minh Thung lũng Indus. Những phương
pháp nầy được coi là rất lợi ích cho việc sửa soạn tâm linh để thực hành việc
tế lễ. Vài vị thầy Bà-la-môn vào rừng thực hành những phương pháp kể trên và
hình thành việc tế lễ với hình thức tưởng tượng có tính cách nội tâm.
Ngoài những bài giảng chính
thống của những người sống trong rừng được kết thành các bộ kinh Upanisads, chỉ có hai bộ là chắc chắn
có trước Phật giáo. Trong những bộ kinh nầy, Phạm Thiên (Brahman)được xem như là một bản thể gốc
của tất cả vũ trụ, và giống như Ngã (ātman),
một cái ngã toàn cầu được truyền thống Ấn Độ tìm hiểu sâu xa trong tâm thức.
Khi hiểu rõ được tính cách nầy, thì một người sau khi chết có thể được giải
thoát khỏi luân hồi, và được hòa nhập với Phạm Thiên (Brahman). Ý nghĩa của sự đầu thai được
phát triển theo ý tưởng phóng khoáng tìm thấy trong bộ Brāhmanas, cho rằng năng lực của một
hành động hiến dâng từ một cá nhân đủ để dẫn dắt người đó đến một đời sống bất
tử khác. Các quyển Unipasads có
thể đã chịu ảnh hưởng nào khác chứ không phải ảnh hưởng của Aryan, cho rằng sau khi chết thì sẽ đầu
thai hoặc người hay thú. Ảnh hưởng của phi-Aryan
tinchắc rằng sự phát triển ý tưởng về phẩm chất của một người hoặc
“hành động” chỉ định sự đầu thai vào một hình thể vật chất bấp bênh. Trước đó “nghiệp” (karma) chỉ dùng để chỉ những hành động có tính cách hy
sinh hay các hoạt động tế thần. Dù sao, Bà-la-môn giáo cũng tiếp tục xem nghiệp
(karma) trong một nghĩa rộng
của hành động có tính cách nghi lễ, và những hành động được dựa trên giai cấp (varna) của một người, của một thành phần nào
trong xã hội.
Vào thời Đức Phật phần lớn những
tu sĩ Bà-la-môn (Brahmins) nhắm
mục đích đạt đến là thiên đàng của một vị thượng đế Brahmā bằng cách sống thành thật, học những bài kinh Veda và, hoặc tế lễ hoặc khổ hạnh. Vài
người thì có vẻ hiền thánh, những kẻ khác thì dường như kiêu hãnh hơn và trở
nên giàu sang bằng những buổi tế lễ long trọng, tốn kém và đẩm máu, chi phí được
các vị vua bảo trợ. Lúc mà mức độ của Bà-la-môn giáo đang được ưa chuộng, thì
những thực tập dựa trên bùa chú được thêm vào, và những việc thờ phượng những
thần trước đây dĩ nhiên cũng được tiếp tục.
Những vị Sa-môn (Samanas)
Xã hội trong thời Đức Phật lúc
ấy đang thay đổi ; những truyền thống cộng đồng dựa trên huyết thống vào lúc đó
đang bị hủy hoại và bị nuốt chửng bởi những đất nước lớn đang trên đà mở rộng
bờ cõi, như nước Magadha
và Kosala. Một số những thành phố phát triển và nơi đó có văn phòng lãnh đạo
với những trao đổi buôn bán được hình thành dựa trên nền kinh tế tiền tệ. Những
ý tưởng trong kinh Unipasads
được chọn lọc và làm đề tài tranh luận trong những cộng đồng có học thức, bởi
những thầy Bà-la-môn và những triết gia lãng du được biết đến như là Sa-môn (Samana). Những vị nầy cũng giống như
những triết gia Hy Lạp và những ẩn sĩ. Những vị Sa-môn (Samanas) nầy không chấp nhận truyền
thống Veda và họ rời bỏ gia
đình đi khất thực, để suy nghĩ, điều tra nghiên cứu và tranh luận. Một số đến
từ những vùng đô thị mới, nơi mà những sự thật của ngày xưa đang bị chất vấn;
và bệnh tật đang gia tăng vì dân số quá đông trong một thành phố.
Điều nầy cũng là một vấn đề toàn
cầu, một nỗi khổ cho con người trong thời điểm đó. Vì thế họ đã đi tìm một nền
tảng chân lý và hạnh phúc vĩnh cửu trong một thế giới đầy lo âu và thay đổi.
Khởi nguyên của Phật giáo là một hoạt động của nhóm Sa-môn (Samana). Sự mô tả và đánh giá của những
nhóm Sa-Môn (Samana) khác,
được chứa đựng trong kinh Sa-môn (Sāmaññaphala
Sutta) thuộc về nhóm Jains được nhắc đến trong kinh (Suttas) Phật giáo như Kinh Nigantha.
Vị Vardhamāna Mahavina, hoặc
‘Đại Anh Hùng’ đã khởi đầu thành lập đạo Jain trong thời Phật còn tại thế. Tôn
giáo nầy dạy rằng tất cả mọi thứ, kể cả sỏi đá cũng có sự sống, mỗi thứ chứa
đựng một sự sống (jīva), hoặc
‘nền tảng của sự sống’, sự sống (jīva)
nầy được xem như là những nét riêng biệt của từng người, không giống như cái
ngã (ātman) toàn cầu của kinh
Unipasads; và tự nó rất sáng
suốt, có mặt ở mọi nơi và hoàn toàn hạnh phúc. Mục đích của đạo Jain là giải
thoát sự sống (jīva) khỏi
vòng tròn của sinh tử bằng cách giải phóng sự sống (jīva) khỏi sự kềm hãm của nghiệp, được xem như là một phần
rất khó giải thích.
Phương pháp đầu tiên để loại bỏ
những kết quả của các nghiệp trước là thực hành những việc khổ hạnh như: nhịn
ăn, không tắm, bứt tóc, và để tránh những nghiệp mới, tự kềm chế không sát hại
(Sahimsa) mọi sinh vật, và
chỉ ăn rau quả. Năng lực của sự sống (jīva)
được nhấn mạnh, kể cả những hành động như vô tình giết chết sâu bọ
cũng là một cách gây nghiệp.
Trong khi Đức Phật đồng ý với
những người đạo Jain trên phương diện luân hồi và không nên sát hại, Ngài nhận
thấy lý thuyết về nghiệp của họ quá máy móc và không uyển chuyển, và Đức Phật
không đồng ý với sự khổ hạnh quá khích. Một nhóm Sa-môn (Samanas) trong những thế kỷ đầu là nhóm
lõa hình ngoại đạo (Ājīvaka)
chống đối với Phật tử và với nhóm Jain.
Người sáng lập nhóm nầy là
Makkhali Gosāla, nhưng họ cũng dùng những ý tưởng của Pūrana Kassapa và Pakudha
Kaccāyana (theo truyền thống Pali). Gosāla có giáo điều chánh là niyati, hoặc “định mệnh” không cá thể,
điều khiển tất cả, và con người không có khả năng để chuyển hóa tương lai của
họ: những hành động không được làm một cách tự ý, nhưng được chỉ định bởi niyati (sức mạnh của vũ trụ).
Gosāla tin vào luân hồi, nhưng
không tin là sự đầu thai của một người tùy thuộc vào nghiệp họ đã gieo; những
linh hồn của người sống chỉ được dẫn dắt bằng niyati, theo luật cố định tiến hóa của sự đầu thai, từ một
con vật nhỏ tiến đến một con người văn minh và trở thành một tu sĩ khổ hạnh
Ājīvaka. Những người Ājīvaka thực tập rất miệt mài sự khổ hạnh như nhịn ăn, lõa
thể, và có khi tự hủy hoại thân thể trong bước đầu tuyên thệ để chấm dứt sự đầu
thai, họ tự kết liễu mạng sống bằng cách nhịn đói (như Vardhamāna đã làm).
Vardhamāna lúc đầu cũng đồng ý với Gosāla, và Đức Phật đã phê bình thuyết định
mệnh của Ājīvaka, cho rằng đó là một cách chối bỏ những trách nhiệm cũng như
khả năng bẩm sinh của con người. Có hai nhóm nhỏ Sa-môn (Samanas) gồm những người hoặc thiên về
vật chất hoặc hòai nghi.
Theo truyền thống Pali, trong
lúc Đức Phật còn tại thế, những thuyết gia chánh lúc đó là Ajita Kesa-Kambala
và Sañjaya Beleṭṭhaputta. Những kẻ thiên về vật chất (Materialists) chối bỏ tất cả những gì
không thể nhận thấy được trực tiếp, và cho rằng cái mà gọi là ngã cũng bị tiêu
diệt lúc lìa đời, và như thế họ từ chối luôn quan niệm đầu thai, nghiệp và niyati (sức mạnh của vũ trụ). Mỗi một
hành động được xem như là một phản ứng tự nhiên không liên quan đến nghiệp, và
sự tiến hóa về tâm linh là một điều không thể nào có.
Đức Phật cho rằng lý thuyết của
nhóm thiên về vật chất (Materialists) và
những nhận thức đương thời là quá khích về sự hủy diệt cũng như sự hiện hữu
trường tồn, cho rằng có một linh hồn bất diệt luôn hiện hữu ngay cả sau khi
chết. Mục đích của những kẻ thiên về vật chất (Materialists) là sống an bình, hưởng thụ những thú vui
giản dị và thỏa mãn về nhục dục. Những kẻ hòai nghi (Skeptics) thì để trả lời cho sự hỗn độn về những lý
thuyết đối nghịch của vấn đề tôn giáo và triết lý, đưa đến những cuộc tranh
cãi, họ từ chối không nhận định bất cứ một quan điểm nào là đúng để được yên
thân. Họ chủ trương rằng sự hiểu biết về chân lý là một điều không thể có, vì
thế họ không thể bảo rằng quan điểm của người khác là sai. Đức Phật nhận thấy
thế đứng của họ như “lươn đang dùn vẫy”, dù rằng Ngài cũng đồng ý là nên tránh
xa “khu rừng” đầy dẫy nhận thức, và tránh sự quả quyết về mặt giáo điều chỉ
được xây dựng trên một nền tảng nông cạn, hời hợt. Đức Phật thường nhấn mạnh về
điều nầy vì hai vị đại đệ tử của Đức Phật là Ngài Sāriputta và Ngài Moggallāna
là những người trong phái hòai nghi (Skeptics)
trước khi xuất gia. Đức Phật cũng đồng quan điểm với nhóm thiên về
vật chất (Materialists) về sự
hiểu biết qua kinh nghiệm, và đánh giá khe khắt những niềm tin về đầu thai,
nghiệp và ngã. Đức Phật nhận thấy nhóm thiên về vật chất và nhóm hòai nghi đã
quá khích trong vấn đề chối bỏ tất cả hoặc nghi ngờ về những nguyên lý của
nghiệp và sự đầu thai, mà chính Đức Phật trong khi thiền định đã công nhận là
sự thật (M.I.402) điều nầy
chứng tỏ Phật giáo không phải đã dễ dãi chấp nhận quan niệm về nghiệp và đầu
thai đã có sẵn trong văn hóa Ấn Độ như người ta thường nghĩ. Và đây là những đề
tài đáng được tranh cãi trong thời bấy giờ.
Đời sống của Đức Phật
Chúng ta đều biết là Đức Phật
Gotama đã sanh ra trong một vương quốc dòng dõi Sakka
(S. Śākya), giáp ranh với Nepal hiện giờ
và thủ đô là Kapilavatthu. Từ lúc lọt lòng giữa dòng họ Sakka, Đức Phật Gotama
được biết đến theo truyền thống Mahāyāna là Śākya-muni, “người thông thái của
dòng Śākyan”. Vương quốc của Đức Phật Gotama chưa được Bà-la-môn hóa, và được
cai trị bởi một hội đồng đại diện bởi những người chủ trong gia đình, tùy thuộc
vào tuổi tác và địa vị. Đức Phật Gotama được sinh ra vào một trong những gia
đình kể trên, vì vậy khi Đức Phật nói chuyện với những vị tu sĩ Ba-la-môn, Đức
Phật tự xưng là Ksatriya, và
truyền thống sau nầy xem Đức Phật là con một vị vua.
Trong những bài văn của Phật
giáo lúc ban đầu, đời sống của Đức Phật không có sự liên tục, vì những bài văn
nầy chỉ tập trung vào giáo pháp của Đức Phật. Chỉ về sau nầy, giữa năm 200
trước Công Nguyên và năm 200 sau Công Nguyên, sự quan tâm về nhân vật Đức Phật
bắt đầu gia tăng và nhiều trường học khác nhau sản xuất một số “tiểu sử” được
tiếp nối từ những chuyện kể trong kinh (Sutta)
và bộ Vinaya,
cùng những gì thâu thập được từ những truyền thống được kể lại.
Những “tiểu sử” nầy, gồm có Lalitavistara của phái Hữu Bộ (Sarvāstivādin), Nidānakathā của Thượng Tọa Bộ (Theravādin), và thơ Buddhacarita của Aśvaghosa. Những chi
tiết của các bài nầy đều giống nhau, cho dù những bài nầy được dựa trên những
dự kiện lịch sử rất rõ ràng, chúng cũng chứa đựng ít nhiều những truyền thuyết
thần thoại được tô điểm thêm và không dễ gì phân biệt được đâu là lịch sử và
đâu là truyền thuyết.
Tiểu sử theo truyền thống dựa
trên nền tảng lịch sử thì không dễ gì biết được, như hiện nay tiểu sử của Đức
Phật giúp cho chúng ta biết được ý nghĩa đời sống của Đức Phật đối với người
Phật tử: trong bài tiểu sử chứa đựng những bài học nào.
Tiểu sử truyền thống không bắt
đầu với sự ra đời của Đức Phật Gotama, nhưng với những gì xảy ra trước đó.
Truyện kể rằng, cách đó “một trăm ngàn kiếp về trước”, trong một tiền kiếp, Đức
Phật Gotama là một vị tu sĩ khổ hạnh tên là Sumedha gặp được Đức Phật Dīpankara
và cảm thấy hứng khởi bởi vị Phật nầy, nên sau đó, vị tu sĩ Sumedha nhất quyết
tranh đấu để được quả vị Phật, bằng cách trở thành một vị Bồ-tát (Bodhisatta), một người (P. satta)
quyết chí để đạt giác ngộ (bodhi)
(Bvms. ch. 2). Vị tu sĩ Sumedha biết rằng mình có thể trở thành một
đệ tử giác ngộ của Đức Phật Dīpankara, và con đường mình đã chọn sẽ phải qua
nhiều kiếp sống mới thành tựu. Nhưng con đường nầy kết cuộc sẽ đưa Ngài đến quả
vị Phật, để trở nên một vị Phật toàn giác, đem đến lợi lạc cho muôn người bằng
cách khám phá và dạy về sự thật bất diệt của Pháp (Dhamma) trong lúc không còn ai biết đến điều nầy nữa.
Đức Phật đã trải qua bao kiếp
sống, kiếp người, kiếp thú, hoặc làm thần, làm Trời, luôn tạo dựng những hoàn
hảo về đạo đức, cũng như tâm linh rất cần thiết cho quả vị Phật. Những kiếp
sống nầy được trình bày trong những truyện Tiền thân Đức Phật (Jātaka). Qua bao thế hệ, Đức Phật cũng
đã gặp qua những vị Phật quá khứ trong đó có sáu vị Phật mà tên được nhắc đến
trong Trường Bộ Kinh (Dīgha Nikāya) (D.II.2-9),
và hai mươi ba vị trong Phật Chủng Tính (Buddhavaṃsa). Trong kiếp sống gần chót, Đức Phật
sanh ra nơi cung trời Đâu Suất (Tusita),
cõi của các vị thần, vị trời “sung sướng”. Nơi đây là thế giới mà Bồ-tát Di Lặc
(Bodhisatta Metteyya-S. Maitreya)
đang sống, sửa soạn cho một thời kỳ tương lai trong lịch sử nhân loại khi mà
Phật giáo không còn hiện hữu, và Ngài Di Lặc (Maitreya) lúc ấy sẽ trở thành vị Phật kế tiếp (D.II.76).
Kinh Phương Quảng Đại Trang
Nghiêm (Lalitavistara) kể
rằng Đức Phật Gotama chọn thời gian trong lịch sử nhân loại để đầu thai lần chót,
trong khi Khế Kinh (Suttas)
nói rằng Đức Phật “hoàn toàn sáng suốt” khi từ giã cõi trời Đâu Suất (Tusita) và đến trong bào thai của mẹ
Ngài (M.I I I.119). Những bài
văn trước đó cho thấy rằng sự thụ thai và những sự kiện chánh trong đời sống
của Đức Phật Gotama, như sự ra đời, sự thành đạo, bài giảng đầu tiên và sự nhập
diệt như những dự kiện quan trọng có liên hệ đến vũ trụ quan. Tất cả mọi bài
đều nói đến ánh sáng trải dài toàn cầu và quả đất rúng động. Kinh Nidānakathā kể rằng lúc thụ thai Ngài,
Mahāmāyā, mẹ của Ngài nằm mơ thấy mình đến dãy núi Hy-mã-lạp (Himālayas),
nơi đó có một sinh vật hình thể trắng bước vào hông phải của bà. Khi kể lại
giấc mơ nầy cho chồng của bà là Suddhodana, ông liền cho mời sáu mươi bốn vị
thầy Bà-la-môn để đoán mộng. Họ cho rằng vợ ông đã thụ thai một con trai và
tương lai của người con rất là vĩ đại. Người con nầy nếu sống trong gia đình
thì có thể trở thành Chuyển Luân Vương (Cakkavatti),
một vị vua của hoàn cầu - và như Khế Kinh (Suttas)
nói Đức Phật đã từng làm vua như vậy tất cả là sáu lần trong những kiếp sống
trước - hoặc người con nầy sẽ trở thành một tu sĩ khổ hạnh, và trở nên một vị
thầy tôn giáo nổi tiếng, một vị Phật. Sự so sánh một vị Chuyển Luân Vương (Cakkavatti) với một vị Phật được kể
lại trong kinh, cho thấy rằng một vị Phật là một người có chủ quyền rất lớn về
tâm linh - nghĩa là có ảnh hưởng - trên nhân loại và thần thánh.
Kinh cũng nói rằng Đức Phật
Gotama từ chối quyền lãnh đạo một đất nước để trở thành một vị Phật. Ngài thật
sự không có những ý tưởng chánh trị như Muhammad, và nhà cầm quyền thời đó đã
không coi Ngài là một đe dọa chính trị như Jesus. Ngược lại Đức Phật còn dạy
cho các vua chúa làm cách nào để điều hành tốt một đất nước.
Kinh Nidānakathā kể rằng trong lúc gần ngày sanh, bà Mahāmāya
đi từ thành Kapilavatthu để về nhà thân quyến mà sanh con vì đây là phong tục
thời đó. Trên đường bà và đoàn tùy tùng đi ngang Lumbini, một rừng cây rất là
đẹp và bà Mahāmāya ngừng lại để ngắm hoa và nghe chim hót. Tại đây bà lâm bồn
và cho ra đời một hài nhi lúc đang đứng vịn cành cây Sāl. Sự chào đời của Đức
Phật Gotama dưới cội cây đều ăn khớp với những diễn biến quan trọng trong đời
Đức Phật: thành đạo dưới một cội cây khác, bài pháp đầu tiên của Đức Phật được
giảng ở vườn thú, và Đức Phật nhập Niết Bàn giữa hai cội cây. Điều nầy cho thấy
rằng Đức Phật rất thích thiên nhiên nơi mà Đức Phật có thể hòa hợp với tất cả
mọi loài sinh linh. Kinh Sutta kể
rằng lúc hài nhi chào đời thì được bốn vị trời nâng đặt xuống đất, và một dòng
nước ấm và mát xuất hiện từ trời cao như là “nước thánh” (water-libation) chào mừng người mẹ và
đứa con. Sau đó, hài nhi liền đứng dậy bước đi bảy bước, nhìn khắp hướng, và
nói với giọng cao sang rằng Ngài là người quan trọng bậc nhất trong hoàn cầu,
và đây là đời sống cuối cùng của Ngài (M.III.123).
Sau khi sanh ra Đức Phật được
một tuần thì mẹ của Đức Phật qua đời (M.III.122).
Đức Phật Gotama được người vợ kế của cha nuôi nấng, người dì ruột của Đức Phật.
Những bài viết nói rất ít về thời thơ ấu của Đức Phật, ngoài việc Đức Phật được
sống trong nhung lụa, giàu sang với những nữ tỳ ca múa và phục vụ người trong
ba cung điện khác nhau (A.I.145).
Phần sau tiểu sử mô tả Đức Phật là một thanh niên trẻ, hăng hái, thông minh và
đầy lòng bi mẫn. Sách kể rằng cha của Đức Phật mong muốn Ngài ở lại nhà để trở
thành một vị vua, và để củng cố việc nầy, vua cha cung phụng đầy đủ mọi thứ cho
Ngài để Ngài không rời được hoàng cung. Vào năm mười sáu tuổi, Ngài lập gia
đình với nàng Yasodharā, và năm hai mươi chín tuổi hai người có với nhau một
đứa con trai tên là Rāhula.
Sự từ bỏ và tìm kiếm
chân lý
Khi bắt đầu từ bỏ những khóai
lạc thế gian để tìm kiếm con đường chân lý, Đức Phật Gotama đã sống một cuộc
sống giàu sang và sung sướng. Sự chuyển hướng quan trọng nầy được diễn tả nhiều
cách khác nhau trong những bài văn xưa và sau nầy. Kinh Suttas diễn tả đây là kết quả của một
sự suy nghĩ lâu dài. Kể cả lúc còn đang hưởng sự giàu sang, Đức Phật đã thấu
hiểu về già, bệnh và chết. Khi biết được chính mình cũng không tránh khỏi những
điều nầy, sự ham muốn tuổi trẻ, sức khỏe và cuộc sống cũng không còn trong lòng
Ngài (A.I.145-6).
Vì thế Đức Phật bắt đầu cuộc tìm
kiếm về cái không sanh, không già, không hư hoại, không chết, không đau khổ,
không nhơ nhớp, nơi an toàn nhất không bị ràng buộc - Niết Bàn (Nibbāna) (M.I.163). Đức Phật nhận thấy
rằng: “ Cuộc sống gia đình thì chật chội và tù túng; tiến bước xa hơn [bước vào
cuộc sống du hành của các Sa-môn(Samana)]
trên con đường đang rộng mở. Khi đang sống đời sống gia đình thật là không dễ
để sống một cuộc sống hoàn hảo như vỏ ốc được đánh bóng. Phải chi ta cạo tóc và
râu, mặc áo màu vàng và từ bỏ gia đình để sống đời sống không nhà?” (M.I.240).
Những bài văn sau nầy tả sự
chuyển hướng xảy ra vào năm Đức Phật được hai mươi chín tuổi, ngay sau khi đứa
con trai ra đời, diễn tả sự chuyển hướng nầy xảy ra đột ngột hơn là một sự suy
nghĩ lâu dài. Nơi đây, bài văn theo cách kể truyện của Kinh Sutta về một vị Phật quá khứ (D.II.22-9), cho thấy rằng cuộc sống của
tất cả các vị Phật đều theo một khuôn mẫu. Kinh Nidānakathā kể là trong vòng ba ngày liên tiếp, Đức Phật
Gotama đi thăm công viên của mình bằng xe ngựa. Cha của Ngài bèn cho dọn dẹp
đường xá và những gì được xem là không đẹp mắt đều được dọn sạch, nhưng những
vị trời đã làm cho Ngài thấy được một người già tóc bạc, thân thể suy yếu, một
người bệnh và một xác chết. Ngạc nhiên trước những sự kiện nầy, người đánh xe
bèn giải thích cho Ngài biết đây là già, bệnh và chết đều xảy đến cho tất cả
mọi người, làm cho Ngài rất là bối rối về đời sống của con người. Như vậy,
những bài văn diễn tả một thí dụ về sự đối diện với bệnh hoạn và chết, mặc dầu
những điều nầy ai ai cũng biết. Sự nhận thức rõ ràng và chấp nhận việc nầy
thường xảy ra trong sách như một hình ảnh làm rối loạn. Lần thứ tư khi đi viếng
công viên, Đức Phật Gotama thấy một Sa-môn (Samana)
áo vải và đầu cạo tóc với một dáng dấp điềm đạm, ung dung, và khi nhìn thấy vị
tu sĩ nầy thì Ngài liền cảm hứng được sống như vậy. Tối đó, Ngài rời hoàng
cung, nhìn con và vợ lần cuối vì biết rằng Ngài sẽ không thể rời cung điện một
khi vợ Ngài thức dậy. Trong truyền thống Phật giáo, việc Ngài rời gia đình được
xem như là một hành động cao cả vì lợi ích chung của toàn thể chúng sanh; hơn
nữa, sau khi Ngài thành Phật, Ngài đã trở lại quê nhà và giảng dạy pháp cho cả
gia đình, và con trai của Ngài được trở thành tu sĩ dưới sự hướng dẫn của Ngài.
Sự từ bỏ gia đình của Đức Phật là một biểu tượng cho đời sống tu sĩ, được tiếp
nối sau nầy từ nơi tăng ni Phật giáo.
Kinh Suttas nói rằng Đức Phật Gotama tìm thầy để học đạo, và
đầu tiên hết đến gặp Ālāra Kālāma (M.I.163
ff.). Không bao lâu, Ngài đã hiểu rõ và nắm vững hết các cách thức thiền và đạt
đến trạng thái “Vô sở hữu xứ”(sphere of
nothingness), một trạng thái thiền định đạt được với sự tập trung,
lúc mà tư tưởng không còn đối tượng hiện diện và trống không. Đức Phật Gotama
mau mắn đã đạt được trạng thái nầy, Ālāra liền ngỏ ý muốn cho Đức Phật Gotama
lãnh đạo học trò của mình, nhưng Đức Phật Gotama từ chối vì Ngài cảm nhận rằng
mặc dầu đây là trạng thái tỉnh lặng thanh thoát nhưng chưa phải là chân lý tối
thượng để chấm dứt đau khổ. Vì vậy, Ngài bèn đến học đạo với một vị thầy du-già
khác, Uddaka là con của Rāma, và cũng như lần trước, Đức Phật Gotama thâu thập
hết những giáo lý và đạt đến trạng thái “Phi tưởng phi phi tưởng xứ”(sphere of neither-cognition-nor-non-cognition).
Trạng thái nầy cao hơn trạng thái trước, nơi đây tư tưởng trở nên mỏng manh tựa
như là nó không còn hiện hữu. Uddaka công nhận Ngài là bực thầy của mình vì chỉ
có người cha đã qua đời là đạt được trạng thái nầy. Lần nữa Đức Phật Gotama lại
từ chối sự lãnh đạo vì Ngài chưa tìm thấy mục đích chính của mình. Dầu vậy sau
đó Ngài đã đem hai cách thực tập “huyền bí” nầy vào phương pháp thiền định của
chính Ngài. Đây coi như là cách thực hành để được an lạc và thanh tịnh tư
tưởng, để sửa soạn cho một sự phát triển sâu sắc về giải thoát. Đức Phật đã dạy
một số phương cách thiền định, trong đó có một số truyền thống thiền theo phái
du-già thời đó, trong số những người thực tập thiền giỏi ở Ấn Độ, Đức Phật được
xem là người xuất sắc nhất.
Sau khi đạt được kinh nghiệm
thiền với một trong những phương pháp hiện hữu thời đó, Đức Phật Gotama liền
quay sang tập tu khổ hạnh, như là con đường có khả năng đưa Ngài đến mục đích
đã chọn. Kinh Suttas nói rằng
Đức Phật ở trong khu rừng gần Uruvelā và dùng hết khả năng để loại bỏ sự bám
víu về những thú vui ngũ dục; Đức Phật dùng ý chí của mình để đè nén những ham
muốn nầy (M.I.240 ff.). Đức
Phật thực tập nín thở, dù cách nầy đưa đến những cơn đau đầu rất mạnh, làm đau
bao tử, và làm sốt cả thân thể Ngài. Đức Phật nhịn ăn và chỉ dùng có vài giọt
canh đậu mỗi ngày, Ngài trở nên ốm yếu đứng không vững, và lông tóc đều rụng
hết. Đến lúc nầy, Ngài nhận thấy rằng một người không thể nào tiếp tục tiến
bước trên con đường đạo nếu thực hành khổ hạnh như thế nầy. Dù rằng Đức Phật đã
phát triển được sự sáng suốt của tư tưởng và khí lực, nhưng thân và tâm Ngài
thì đau đớn và bất an, vì thế Ngài không thể tiếp tục việc tìm kiếm chân lý.
Sau đó, Ngài từ bỏ sự khổ hạnh sau sáu năm thực tập.
Vào lúc nầy, Ngài định bỏ cuộc,
nhưng Ngài nghĩ “có thể có một cách khác để đi đến giác ngộ?” (M.I.246). Ngài sực nhớ đến một trạng
thái Thiền mà Ngài đã vào được trong lúc chăm chú nhìn đất bị cày bừa. Ngài nhớ
lại trạng thái nầy, được gọi là “nhất thiền”(first
jhāna), trạng thái nầy không có những thích thú của cảm thọ, nhưng
có một sự yên tịnh sâu sắc, một niềm vui hoàn toàn với sự sung sướng, an lạc,
mà để đạt đến trạng thái nầy, Đức Phật đã phải dùng sự khổ hạnh đau đớn. Đức
Phật còn nhớ lúc đó Ngài đã tự hỏi không biết có phải đây là con đường đưa đến
sự tỉnh thức không, và bây giờ thì Đức Phật chắc chắn đây là con đường nên Ngài
quyết tâm dùng cách nầy. Và để sửa soạn cho việc thực tập nầy, Đức Phật bắt đầu
ăn uống lại bình thường, năm người bạn cùng tu khổ hạnh với Ngài thấy vậy liền
bỏ Ngài mà đi vì cho rằng Ngài đã từ bỏ sự tu hành.
Một bài kinh Sutta (Sn.4225-49) dẫn ra một chuỗi thử thách mà các sách vở sau
đó đã nhắc đến giai đoạn nầy. Bài kinh nhắc đến một hình ảnh như Satan - được
gọi là Māra, một vị thần đã từng tu tập có công đức, nhưng lại dùng quyền lực
để dụ dỗ con người vào vòng tham đắm nhục dục, để con người luôn bị kềm chế và
phải sống dưới ảnh hưởng của thế giới do Māra làm ra. Đây là vòng tròn của sanh
tử, vì Māra tượng trưng cho sự ham muốn và cái chết. Māra đã đến với người tu
sĩ gầy yếu bằng những lời đường mật. Māra xúi biểu vị tu sĩ hãy từ bỏ sự tìm
kiếm chân lý hãy tập làm tốt để có những nghiệp lành vậy cũng hay rồi. Đức Phật
trả lời rằng Ngài không cần thọ hưởng nữa những nghiệp lành, và Ngài quở quân lính
của Māra: ham muốn ngũ dục, ghen ghét, đói khát, tham đắm, lười biếng và ngu
si, hèn nhát, sợ dấn thân, xem thường người khác, không nhạy cảm, và tự kiêu.
Māra thua trận liền rút lui.
Đoạn nầy diễn tả một cách rõ
ràng sự tranh đấu nội tâm cuối cùng của Đức Phật Gotama, và những chi tiết sống
động khác được thêm vào trong những bài văn sau nầy, lúc mà binh lính của Māra
làm chứng cho các hạnh từ bi của Đức Phật đã từng làm trong các kiếp trước.
Thách thức Đức Phật Gotama là không có ai làm chứng cho những hạnh lành của
Ngài, Māra dùng quyền lực phước báu hiện có của mình để đẩy Đức Phật Gotama ra
khỏi chỗ ngồi của Ngài. Đức Phật Gotama không nhúc nhích, Ngài thiền định nơi
sự hoàn hảo tâm linh mà Ngài đã phát triển trong những kiếp đã qua, biết chắc
rằng Ngài có quyền ngồi chỗ đang ngồi. Lúc nầy, Ngài dùng tay chạm mặt đất và
xin đất làm chứng cho hạnh nguyện của Ngài. Mặt đất rúng động và nữ thần mặt
đất hiện ra, nàng vắt mái tóc và từ mái tóc một dòng nước tuôn ra. Dòng nước
nầy được thu nhặt từ những hạnh lành của Đức Phật Gotama trong quá khứ được thể
hiện bằng nghi lễ đổ nước. Lúc mà mặt đất chuyển động và có lụt, Māra và binh
lính của nó chạy trốn. “Cuộc chiến thắng Māra” được kỷ niệm như chiến thắng cái
ác, được mô tả bằng nhiều hình tượng và tranh vẽ. Trong hình I, Đức Phật Gotama
ngồi xếp bằng trong trạng thái thiền định với tay phải chạm đất: cử chỉ “đất
làm chứng”.
Sự giác ngộ và sau đó
Được giải thoát khỏi những
chướng ngại tâm linh, Đức Phật Gotama bèn phát huy sự thiền định sâu sắc như
bước đầu để đạt đến sự tỉnh thức, ngồi dưới một gốc cây (cây Assattha hoặc Pipala) sau nầy được biết đến như là cây
Bồ đề (Bodhi) hoặc cây “Giác
ngộ” (Enlightenment tree).
Kinh (Suttas) (M.I.247-9)
kể lại sự việc Đức Phật đạt đến “nhất thiền”(first
jhāna), và rồi sau đó tiếp tục trong trạng thái tỉnh lặng của thiền
định, Đức Phật đạt đến “tứ thiền”(fourth
jhāna), một trạng thái rất an lạc, với sự trong sạch và sáng suốt
của tinh thần. Dựa vào trạng thái nầy, Đức Phật tiếp tục phát huy khả năng
thiền định và khoảng vào canh ba dưới ánh trăng đêm, Đức Phật đạt được “Tam
minh” (threefold knowledge):
nhớ lại những kiếp đã qua của mình, thấy được sự tái sinh của mọi người dựa vào
nghiệp của từng cá nhân, và tiêu hủy được những phiền trược tinh thần đã ung
độc tư tưởng và kềm hãm chúng ta khỏi sự tỉnh thức.
Sự hiểu biết thứ ba được thành
hình vào lúc rạng đông, đem đến sự tỉnh thức hoàn toàn mà Đức Phật tìm kiếm, và
bây giờ vào lúc Ngài được ba mươi lăm tuổi, Ngài trở thành Phật. Kinh (Dhammapada) trong câu 153-4 đã nói lên
sự vui mừng của Đức Phật khi những ham muốn, si mê được dẹp bỏ và Niết-bàn hiện
hữu, xa lìa hẳn già, bệnh, chết.
Kinh (Cannonical)(Vin.I.I ff., M. I. 167 ff.) nói rằng vị Phật mới đã
ở dưới cội cây khoảng bốn tuần hơn, nơi mà bây giờ gọi là Bodh-Gayā. Sau khi
suy ngẫm về sự tỉnh thức của chính mình, Đức Phật nghĩ đến cơ hội có thể dạy
những người khác, nhưng lại nghĩ rằng Pháp(Dhamma)
mà Ngài kinh nghiệm qua rất là sâu sắc, tế nhị, và “xa vời hẳn những hiểu biết
thông thường”, và những người có sự bám víu quá nặng sẽ không thể nào hiểu được
pháp nầy. Ngay lúc nầy, một vị trời từ bi Brahmā Sahampati thấy vậy và nghĩ
rằng, một người tỉnh thức đang xuất hiện ở thế giới nhưng có thể sẽ không chia
xẻ sự hiểu biết hiếm có nầy cho người khác. Vì thế vị trời bèn hiện ra trước
Đức Phật và cung kính xin Đức Phật hãy chỉ dạy, vì “có những người chỉ có chút
bụi ở mắt họ, không nghe được Pháp(Dhamma),
đang suy tàn...”. Đức Phật bèn dùng huyền lực đọc tư tưởng để quan sát thế giới
và quả quyết rằng có những người tâm linh rất trưởng thành có thể hiểu được
thông điệp của Đức Phật. Khi quyết định thuyết pháp, Đức Phật tuyên bố rằng:
“cánh cửa bất tử sẽ mở ra cho những ai muốn được giải thoát”. Sự yêu cầu khẩn
thiết của vị Brahmā từ bi được Phật tử xem như là một tác nhân kích thích (stimulus) để Đức Phật ban trải lòng từ
của Ngài, một bổ sung cho sự hiểu biết tỉnh thức trong vai trò của một vị Phật
toàn giác, một “vị thầy của trời và người”.
Đầu tiên Đức Phật Gotama mong
muốn giảng dạy cho hai vị thầy du-già của mình ngày xưa, nhưng những vị thần
báo cho Đức Phật biết là hai vị thầy nầy đã chết, điều nầy được Đức Phật công
nhận qua sự kiểm chứng bằng thiền định của chính mình. Vì vậy Đức Phật quyết
định dạy cho những người bạn đồng tu khổ hạnh với mình lúc trước. Biết rằng các
vị nầy đang ở vườn thú tại Isipatama (giờ gọi là Sārnath) gần Benares, Đức Phật
bèn đi bộ đến đó, một hành trình khoảng một trăm dặm.
Bài giảng đầu tiên và
sự lan rộng của giáo pháp
Kinh (Cannon) kể rằng (Vin.
I. 8 ff.) lúc đến vườn thú, năm người bạn đồng tu ngày trước thấy
Đức Phật từ đàng xa, và định bụng không tiếp đón Đức Phật vì cho rằng Đức Phật
đã bỏ cuộc. Nhưng khi Đức Phật đến gần, họ nhận ra một thay đổi lớn nơi Đức
Phật và họ đồng đứng lên tiếp đón một cách kính trọng và rửa chân cho Đức Phật.
Lúc ban đầu, họ xưng hô với Đức Phật như bạn, nhưng Đức Phật bảo rằng hãy gọi
Đức Phật là Như Lai (Tathāgata)
hay “người giác ngộ sự thật”, đã tìm thấy sự bất tử và có thể làm thầy của họ.
Sau đó để họ khỏi phân vân, Đức Phật lặp lại hai lần và các vị nầy biết rằng
Đức Phật đã tìm được một nơi nương tựa mới và sẵn sàng truyền dạy điều nầy cho
họ. Đức Phật Gotama thường được gọi là “Thế Tôn” (Lord-Blessed) hoặc “Đức Thế Tôn”(Bhagavat) và như vậy Đức Phật đã giảng
bài pháp đầu tiên cho năm người bạn đồng tu ngày trước. Bắt đầu với ý nghĩ rằng
có một con đường gọi “Trung đạo”(Middle
Way) cho những người xuất gia, một con đường tránh cả hai thái cực
thụ hưởng và khổ hạnh. Đức Phật đã kinh nghiệm được cả hai mặt và cho rằng hai
thái cực nầy là những ngõ cụt.
Con đường Trung Đạo mà Đức Phật
đã tìm thấy đưa đến sự tỉnh thức gọi là Ariya hay “thánh thiện”, với Bát Chánh
Đạo (Eightfold Path-Magga),và tiếp tục với cốt tủy của
thông điệp là Tứ Diệu Đế.
Tóm lại, Tứ Diệu Đế nói rằng đời
là khổ, sự đau khổ với những đời sống lặp đi lặp lại bởi vì ham muốn, ham muốn
và đau khổ có thể bị tiêu diệt và Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến giải
thoát. Và Đức Phật nhấn mạnh đến tác động của sự giải thoát nơi Ngài và sự thấu
hiểu sâu sắc về chân lý và bây giờ với sự tỉnh thức Ngài thành Phật.
Kết quả của bài pháp là một
trong những khán thính giả của Đức Phật Gotama, ngài Koṇḍañña liền đạt được
kinh nghiệm sâu sắc về những chân lý vừa học, và Đức Phật Gotama vui mừng công
nhận sự hiểu biết của Koṇḍañña. Sự thấu hiểu sâu sắc nầy được diễn tả bằng sự
đạt được “pháp nhãn” (Dhamma-eye),
không cấu bợn, với nhãn thức nầy Koṇḍañña “thấy”, “đạt” và “trầm mình” trong
Pháp(Dhamma), xa lìa mọi nghi
ngờ về giáo pháp của Đức Phật.
Kinh nghiệm nầy được gọi là
“nhập lưu”(stream-entry), một
thay đổi tâm linh thiết yếu với cái nhìn thoáng qua về Niết-bàn(Nibbāna). Việc Koṇḍañña đạt được “pháp
nhãn ”(Dhamma-eye) được nhận
diện rõ ràng vào thời điểm quan trọng nhất của bài giảng đầu tiên. Lúc ấy thông
điệp vui mừng được nhanh chóng truyền đi khắp các từng trời về việc “đức Thế
Tôn”(Lord) đang chuyển “Bánh
xe pháp cao nhất” (the Supreme
Dhamma-wheel), và điều nầy không thể bị đình trệ bởi một quyền lực
nào khác.
Sự “chuyển động bánh xe pháp” (Dhamma-cakka-pavattana) sau đó trở
thành tựa đề của kinh Sutta
bài giảng đầu tiên(S.V.420-4).
Hình ảnh bánh xe di động tượng trưng cho sự khai giảng một kỷ nguyên với ảnh
hưởng của Pháp (Dhamma) về
mặt tâm linh. Sau khi Koṇḍañña được thụ phong, và trở thành hội viên đầu tiên
trong Tăng đoàn (Sangha). Đức
Phật giải thích đầy đủ về giáo pháp của Ngài cho bốn vị khổ hạnh và lần lượt họ
đều đạt được “pháp nhãn”(Dhamma-eye)
và trở thành đệ tử. Sau đó, Đức Phật giảng bài pháp thứ “hai” (xem tr.51), và
lúc nầy tất cả các đệ tử của Phật đều chiêm nghiệm và đạt được Niết-bàn(Nibbāna) - cũng như Phật đã trải qua
lúc Phật đạt giác ngộ - và tất cả đều trở thành các vị “A-la-hán”(Arahat), cấp bực cao nhất trong các bậc
thánh của Phật giáo.
Những đệ tử khác, tu sĩ hay cư
sĩ theo tu học và chẳng bao lâu đã có sáu mươi mốt vị “A-la-hán”(Arahats), trong đó có Đức Phật. Có được
một nhóm đệ tử tu sĩ giác ngộ rồi, Đức Phật gửi họ đi truyền bá giáo Pháp (Dhamma): “Hãy đi, nầy các tu sĩ, vì
lợi ích của chúng sanh, vì hạnh phúc của bao người, vì lòng từ bi đối với thế
giới, vì lợi ích, vì an vui, vì hạnh phúc của trời và người” (Vin.I.21). Khi lời dạy được rao truyền,
Đức Phật Gotama trong thời gian nầy được hai vị đệ tử lớn, Sāriputta, nổi tiếng
với trí tuệ và khả năng giảng dạy của mình, và Moggallāna, nổi tiếng với những
thần thông đạt được nhờ vào thiền định. Năm năm sau khi làm lễ thọ giới cho
những vị tu sĩ đầu tiên, Đức Phật Gotama làm lễ thọ giới cho những vị nữ tu sĩ,
sau nhiều lần khẩn cầu của người mẹ nuôi là bà Mahāpajāpati, và lời khuyên của
người thị giả trung thành là tăng sĩ Ānanda.
Quyển Canon chỉ nhắc đến những
sự kiện xảy ra trong thời gian gửi sáu mươi vị A-la-hán (Arahat) đi thuyết pháp và năm cuối của
cuộc đời Đức Phật. Một hình ảnh chung cho thấy là Đức Phật đem giáo pháp của
Ngài đi giảng dạy mọi nơi bằng đường bộ, với một ít sở hữu, dọc theo những vùng
gần sông Hằng (Ganges). Dù
rằng với bản chất trầm lặng, yêu mến thiên nhiên, thích độc cư, Đức Phật luôn
có các vị đệ tử đi cùng và có một thời gian dài sống gần những tỉnh hoặc thành
phố mới, đặc biệt là ở Sāvatthi, Rājagaha và Vesālī. Nơi đây, có bao người với
bản chất nhiều nghi ngờ đang tìm kiếm một đổi mới về tâm linh. Lời bình luận về
Trưởng lão tăng kệ (Thera-gāthā) và
Trưởng lão ni kệ (Theri-gāthā) nói
rằng có tất cả là 328 vị tu sĩ nam và nữ và chỉ có khoảng hai phần ba là đến từ
những vùng ngoại ô. Về giai cấp xã hội có 41 phần trăm là giai cấp Bà-la-môn,
23 phần trăm giai cấp chiến sĩ (Kṣatriya),
30 phần trăm giai cấp thương gia (Vaiśya),
3 phần trăm giai cấp nô bộc (Sūdra), và
3 phần trăm giai cấp ‘bị ruồng bỏ’ (thấp hơn giới Sūdra trong hệ thống giai cấp của Bà-la-môn giáo).
Những người giai cấp Bà-la-môn
nói trên là những người ở thành thị, có thể là công chức chính phủ, nhưng không
một người nào trong những giai cấp kể trên có một chân đứng vững chắc trong hệ
thống varṇa (dù rằng giới
thương gia sau nầy được liệt kê trong giai cấp Vaiśyas). Thông điệp của Đức Phật đặc biệt hấp dẫn những
thành phần nầy, vì thông điệp nầy xem con người như một cá thể có đủ khả năng
làm chủ định mệnh dựa vào giá trị đạo đức cũng như tâm linh của từng cá nhân,
không như hệ thống varṇa và
những thành viên trong hệ thống đó.
Sự kính trọng thừa hưởng được phải dựa trên giá trị đạo đức và tâm linh hơn là
nguồn gốc gia tộc (Sn.136). Quả thật, trong xã hội thị thành,
thành công của một người dựa trên nổ lực cá nhân, hơn là giai cấp xã hội được
gán cho theo truyền thống. Người Phật tử nhấn mạnh về kết quả của nghiệp dựa
trên luật vũ trụ, không phải vì sự trói buộc của giai cấp (varṇa), hoặc vì những chuẩn định về đạo
đức do bẩm sinh. Đức Phật dạy tất cả mọi người tìm đến với Ngài, không phân
biệt: đàn ông, đàn bà, thương gia, nô bộc, Bà-la-môn, thợ thủ công, tu sĩ khổ
hạnh, vua, kỹ nữ, và nhấn mạnh rằng lai lịch của mỗi người không có liên quan
gì đến những cá nhân trong Tăng đoàn (Sangha)
(A.IV.202).
Đức Phật thôi thúc các đệ tử
giảng dạy bằng ngôn ngữ địa phương hoặc ngôn ngữ của những người đến nghe pháp
(Vin.II.139). Ngược lại, các
thầy Bà-la-môn giảng dạy bằng tiếng Sanskrit, mà bây giờ không còn bao người
hiểu được nếu không có học thức, và như vậy những lời dạy trong kinh Veda chỉ
dành riêng cho phái nam trong ba giai cấp cao nhất của hệ thống varṇa.
Sức lôi cuốn quần chúng
và năng lực của Đức Phật
Những bài văn xưa miêu tả Đức
Phật là một người thầy nhân đạo, có sức lôi cuốn đã truyền cảm hứng cho bao
người. Đức Phật còn thu phục được cả thú vật; kinh kể lại rằng có một con voi
thường đem nước đến cho Đức Phật khi Đức Phật ở một mình trong rừng (Vin. I.352). Nhưng một người hay ganh
ghét Đức Phật là người em họ Devadatta, một trong các tăng sĩ. Ganh tỵ với ảnh
hưởng của Đức Phật, Devadatta một lần đã lên tiếng bảo Đức Phật lúc ấy đã lớn
tuổi hãy nhường chỗ cho ông ta lãnh đạo tăng đoàn (Sangha) và còn âm mưu để giết Phật khi mà lời đề nghị của
ông bị từ chối (Vin. II.191-5).
Một lần, Devadatta nhờ một người bạn của mình là hoàng tử Ajātasattu, gửi lính
đến để vây bắt và ám sát Đức Phật. Mười sáu người lính lần lượt ra đi làm việc
nầy, nhưng tất cả đều không dám ra tay và sau đó họ đều trở thành đệ tử của Đức
Phật. Một lần khác, một con voi dữ nổi tiếng giết người Nalagiri được thả lỏng
trên đường mà Đức Phật đang đi. Khi voi xông tới, Đức Phật từ tốn đứng lại và
thuần phục voi với năng lực từ bi của mình, và voi liền dừng lại và cúi xuống
để cho Đức Phật vỗ vào đầu.
Đức Phật không phải chỉ luôn
luôn dùng sức thu hút, sự nổi tiếng hay năng lực khuyên lơn để có nhiều người
đến nghe thông điệp của mình. Đôi lúc, Đức Phật cũng dùng thần thông, dù rằng
Đức Phật khuyên các đệ tử không nên phô trương thần thông (Vin.II.112). Kết quả của những năng lực
nầy không được xem là phép lạ mà là những năng lực thiên nhiên có được nhờ vào
sự thiền định sâu xa. Một đoạn trong kinh Canon (Pati.I.125) thuật lại về thần thông phi thường của Đức
Phật, và sau nầy những tài liệu huyền thoại đều tin việc nầy xảy ra lúc Đức
Phật ở Sāvatthī (Dhp. A. III.
204-16). Chuyện kể rằng có một vụ thử thách trước công chúng mà Đức Phật buộc
phải thi triển thần thông dù không muốn - nếu không thì công chúng sẽ cho rằng
Đức Phật không có thần thông. Vì thế, Đức Phật chấp nhận sự thử thách nầy vào
một ngày sau đó, Đức Phật hiện giữa hư không và khắp cơ thể phát ra lửa và
nước. Cũng có lúc Đức Phật dùng thần thông của mình để trị bệnh cho một người
Phật tử và chấm dứt sự đau đớn lâu dài của một sản phụ (Ud. 15-16), hoặc làm lành vết thương mà
không để lại một vết thẹo nào (Vin. I.216-18).
Đức Phật luôn xem thần thông là nguy hiểm, bởi vì, thần thông có thể khuyến
khích sự bám víu vào niềm tự hào, tự ca tụng. Một cám dỗ lạ lùng tương đương
với sự cám dỗ của Chúa Jesus ở sa mạc, chuyện kể là Đức Phật từ chối Māra khi
Māra muốn Đức Phật biến núi Hy-mã-lạp sơn (Himālayas)
thành vàng (S.I.116). Một lần
khác, khi gặp một tu sĩ khổ hạnh đã thiền định lâu năm để có thể đi trên mặt
nước (đây là một trong những thần thông mà Đức Phật có), Đức Phật nói ta chỉ
cần bỏ vài xu là có thể lên thuyền sang bên kia sông.
Sự nhập diệt của Đức
Phật
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahā-parinibbāna Sutta) (D.II.72-167) nói về năm cuối cuộc đời
của Đức Phật. Trong khoảng thời gian nầy, Đức Phật bị bệnh, và Ngài Ānanda đã
hỏi về số mệnh của Tăng đoàn (Sangha)
sau khi Đức Phật nhập diệt, vì không biết ai sẽ là người lãnh đạo Tăng đoàn(Sangha). Để trả lời, Đức Phật đáp rằng
Ngài đã dạy Pháp (Dhamma)
không chút giấu diếm, và Tăng đoàn (Sangha)
nên dựa vào Pháp (Dhamma) mà
không nên dựa vào người lãnh đạo, dù người đó là Đức Phật. Những hội viên trong
Tăng đoàn (Sangha) nên tinh tấn
với sự thực tập của chính mình, và nên xem Pháp (Dhamma) như là cẩm nang dẫn đường: tự mình hãy là một ‘hòn
đảo’ và nên ‘trú’ trong Pháp (Dhamma)
(D.III.100). Sau đó, Đức Phật
chỉ định rằng sau khi Đức Phật nhập diệt, Tăng đoàn (Sangha) nên nương tựa vào Pháp(Dhamma) và giới luật (Vinaya) như là một ‘người thầy’ (D.II.154).
Trong ba tháng cuối của cuộc đời
mình, dù không được khỏe Đức Phật cũng tiếp tục đi bộ. Cuối cùng, khi Đức Phật
chỉ có thể tiếp tục đi và thắng được cái đau nhức bằng vào năng lực của thiền
định. Cuộc hành trình của Đức Phật chấm dứt ở một làng nhỏ của tỉnh Kusinārā,
nơi đây Đức Phật nằm giữa hai cây đang nở hoa trái mùa. Sách kể rằng các vị
Trời từ mười phương của vũ trụ họp lại làm chứng cho sự nhập Niết Bàn (Nibbāna) của Đức Phật, sự diệt độ (parinibbāna) (D.II.138-9).
Đại chúng hỏi sau khi Phật nhập
diệt, họ phải làm gì với ‘thân tứ đại của Đức Phật’.
Đức Phật bảo là đó là việc của
người cư sĩ, không phải của Tăng đoàn (Sangha),
nhưng nghi lễ an táng phải là tang lễ của một vị Chuyển Luân Thánh Vương (Cakkavatti). Vải quấn thân thể, để
trong quan tài và hỏa thiêu. Tro cốt còn lại thì để trong tháp (Stūpa- P. Thūpa) hoặc an táng trên đồi
(Burial mound), chỗ ngã tư
đường. Kế đó Đức Phật nói, “ai đem hoa và nước thơm để lên đó, và thật lòng hâm
mộ thì sẽ được an vui hạnh phúc (D.II.142).
Sau lễ hỏa táng, xá lợi của Đức Phật được để trong tám cái tháp (Stūpa), với chén đựng xá lợi và tro
trong hai tháp khác. Những tháp (Stūpa) chứa
đựng xá lợi của các vị A-la-hán (Arahats)
sau đó trở thành trọng điểm của việc tôn thờ.
Ngay cả lúc gần nhập diệt, Đức
Phật vẫn tiếp tục chỉ dạy. Một du sĩ hỏi rằng những vị Sa-môn (Samanas) lãnh đạo khác có đạt đến chân
lý hay chưa. Thay vì trả lời rằng hệ thống tôn giáo của họ là sai và của mình
là đúng, Đức Phật chỉ nói con đường đưa đến chân lý chỉ có Bát Chánh Đạo (Holy Eightfold Path): con đường nầy đưa
đến quả vị A-la-hán (Arahatship).
Và Đức Phật nhận thấy trong các giáo pháp mà Đức Phật đã biết qua đã thiếu sót
con đường nầy.
Sau đó Đức Phật hỏi tăng chúng
nếu có câu hỏi sau cùng nào thì hãy hỏi trước khi Đức Phật nhập diệt. Khi mọi
người im lặng, Đức Phật liền nói, nếu vì kính trọng Đức Phật mà không dám hỏi
thì hãy nhờ bạn mình hỏi dùm. Họ vẫn lặng thinh. Khi thấy mọi người đã hiểu rõ
giáo pháp mình dạy, Đức Phật liền nói những lời sau cùng: “Mọi vật do duyên hợp
đều phải tan rã. Hãy tinh tấn để được giác ngộ!” (D.II.156). Sau đó, Đức Phật rời khỏi thế giới trong trạng
thái thiền định, không sợ hãi, thanh thản và hoàn toàn tự chủ. Đức Phật vào
‘nhất thiền’(first jhāna) và
theo thứ tự qua đến ‘tứ thiền’, bốn trạng thái ‘không hình thể’ và rồi đến ‘sự
chấm dứt nhận biết và cảm giác’ (cessation
of cognition and feeling- xem tr. 250 ff.). Sau đó, Đức Phật từ từ
xuống lại ‘nhất thiền’, di chuyển đến ‘tứ thiền’ và đến Vô dư Niết Bàn (parinibbāna) (D.II.156). Các Phật tử không thấy dự
kiện nầy như ‘cái chết’ mà là một ngõ để vào Niết Bàn (Nibbāna) bất tử.
Vai trò và bản tính của
Đức Phật
Trong khi người phái Nguyên Thủy
(Theravādins) đôi lúc nói
rằng Đức Phật ‘chỉ là một con người’, những lời bình phẩm như thế nầy thường
được lấy ra từ trong sách. Thường thì những lời bình nầy cốt ý so sánh sự khác
biệt giữa Đức Phật và chúa Jesus được xem như là ‘Con của Thượng đế’, và Kinh
Đại thừa (Mahāyāna) thì xem
Đức Phật như là một siêu nhân. Những lời bình phẩm nầy cũng có thể là để làm
giảm tính chất thần bí khi kể về Đức Phật.
Trong Bộ kinh Pali (Pali Canon), Đức Phật Gotama được sanh
ra như một con người, cho dù có những khả năng phi thường nhờ vào những hạnh Bố
Tát (Bodhisatta). Một khi Đức
Phật đạt giác ngộ, thì Đức Phật không thể bị xem là ‘con người’ vì Ngài đã hoàn
hảo và chuyển hóa hết tất cả những gì nhân tính nhất của con người - ý nầy được
phản ảnh nơi một đoạn kinh (Sutta)
khi Đức Phật được hỏi Đức Phật là một vị Trời (deva) hay là một con người (A.II.37-9). Đức Phật đã trả lời rằng Đức Phật đã vượt xa
hơn cái vô thức để làm Trời hoặc người, và vì như vậy Ngài được xem là một vị
Phật (Buddha), một sinh vật
sống và lớn lên trong thế giới nầy nhưng bây giờ đã vượt xa hơn thế giới đó,
như hoa sen mọc từ nước nhưng nở hoa trên mặt nước không bợn nhơ. Bản chất tự
nhiên thần bí của Đức Phật được diễn tả khi Đức Phật quở một vị tăng vì quá
trung thành và quá tin tưởng nơi Đức Phật, nên vị nầy luôn luôn đi theo sau Đức
Phật: “Nầy Vakkali! ai thấy Pháp (Dhamma)
là thấy ta; ai mà thấy ta là thấy Pháp (Dhamma) (S.III.120). Sự liên kết gần gũi giữa Đức Phật và
Pháp (Dhamma) được củng cố
thêm bởi một đoạn kinh (Sutta ) khác,
nói rằng một vị Như Lai (Tathāgata) có
‘Pháp (Dhamma) là thân’ (Pháp
thân-Dhamma-kāyā) và ‘trở
thành Pháp’(Dhamma-become),
(Dhamma-bhūta) (D.III.84). Những từ nầy chứng tỏ rằng Đức Phật là
một thí dụ đầy đủ nhất về Pháp (Dhamma),
và theo ý nghĩa của đạo Đức Phật và Pháp (Dhamma)
không khác. Hơn nữa, Đức Phật đã thấy rõ Pháp (Dhamma) cùng ý nghĩa cao siêu của nó khi Đức Phật đạt
Niết Bàn (Nibbāna), tương
đương với Pháp (Dhamma) cao
tột (A.I.156 và 158). Với
những chi tiết nầy, một vị A-la-hán (Arahat)
không khác chi hết, bởi vì vị nầy được xem là người ‘trở thành cao
siêu’(‘become the supreme’) (brahma-bhūta) (S.III.83), một từ được
dùng tương đương với ‘trở thành Pháp’ (‘Dhamma-become’
) của đoạn văn trên.
Bất cứ người nào được giác ngộ đều trở nên ‘sâu sắc, không thể đo lường, và khó
hiểu như một đại dương’ (M.I.487).
Một khi trở thành một với Pháp (Dhamma-become), bản chất tỉnh thức của người giác
ngộ chỉ có thể hiểu được bởi một người ‘đã thấy’ Pháp (Dhamma) với ‘Pháp nhãn’(Dhamma-eye) của người nhập lưu (steam entry). Trong khi Thiên Chúa giáo
xem Jesus như vị Trời trở thành người, thì người Phật tử xem Đức Phật (và các
vị A-la-hán) là người trở thành Pháp(Dhamma).
Trong những bài văn Phật giáo
lúc đầu, Đức Phật được xem như là một vị A-la-hán (Arahat) với tất cả những đặc điểm như các vị A-la-hán (Arahats) khác. Bất cứ một kinh nghiệm
nào về Niết Bàn (Nibbāna) của
vị A-la-hán (Arahats) nào
cũng đều giống nhau. Thí dụ, Đức Phật có thể nhớ lại bất kỳ tiền kiếp nào của
mình, trong khi các vị A-la-hán (Arahats)
thì có giới hạn, hoặc không được phát triển về mặt nầy. Một vị Phật
toàn giác nếu muốn có thể biết được về quá khứ, hiện tại và có thể tiên đoán
tương lai, chẳng hạn khi thấy được hành động của một người liền biết được người
đó sẽ tái sinh như thế nào. Những gì Đức Phật chỉ dạy chỉ là một phần nhỏ của những
gì Đức Phật biết (S.V.438),
bởi vì Đức Phật chỉ dạy những gì cần thiết và chân thật cho vấn đề tâm linh (M.I.395).
Điểm then chốt khác biệt thứ hai
giữa Đức Phật và một A-la-hán (Arahats)
là Đức Phật tự cố gắng với nỗ lực của chính mình đi tìm lại được Con Đường đã
bị đánh mất bởi xã hội loài người. Khi tự mình đã tìm được Con Đường, Đức Phật
đã dùng những phương tiện khéo léo để giúp những người khác thực hành và để họ
trở thành những bậc A-la-hán (Arahats)
(M.III.8). Đức Phật là người
phát hiện lại Con Đường, và là một người thầy của sự thật vĩnh hằng (A.I.286-7). Là người thành lập Tăng
đoàn (Sangha), và là người
thành lập về giới luật của Tăng đoàn (Sangha),
một vị Phật hoàn thành luôn vai trò của một người ‘lập ra giáo
pháp’.
Phong cách và bản chất
về giáo pháp của Đức Phật
Phong cách của Đức Phật thường
là áp dụng một cách khéo léo những lo âu cũng như trạng thái tâm linh của người
nghe pháp thoại, và để trả lời cho những câu hỏi được đặt ra hoặc những câu hỏi
chưa được nói ra nhưng đã nhen nhúm trong tư tưởng các khán thính giả và dựa
theo những tín hiệu xảy ra trong mọi hoàn cảnh. Bằng cách chuyện trò với những
người chất vấn, Đức Phật từ tốn đưa họ đến sự hiểu biết về chân lý mà Đức Phật
đã tìm thấy. Khi những thầy Bà-la-môn hỏi Đức Phật làm thế nào để kết hợp với
Thượng đế (Brahmā) sau khi
chết, Đức Phật không trả lời là không thể được, mà chỉ nói rằng có thể làm được
bằng cách phát triển về thiền định với lòng tử tế và từ bi, chứ không phải bằng
những cuộc tế lễ đầy sắc máu theo kiểu Vệ đà (Vedic). Đức Phật thường cho những từ ngữ cũ những ý nghĩa
mới, chẳng hạn gọi A-la-hán (Arahats)
là ‘thầy Bà-la-môn chân chính’ (true
Brahmins) và dùng từ Ariya – tương đương với từ Sanskrit về ý nghĩa
của người Aryan là ‘cao sang’(noble)
trong một ý nghĩa cao sang và thánh thiện về mặt tâm linh.
Đức Phật xem xét những câu hỏi
một cách kỹ lưỡng với sự phân tách cẩn thận. Có những câu hỏi được Đức Phật trả
lời liền, những câu khác Đức Phật trả lời sau khi đã phân tách chúng kỹ lưỡng
để chắc chắn là câu hỏi đó rõ nghĩa và không mơ hồ. Có vài câu hỏi được Đức
Phật trả lời bằng một câu hỏi ngược lại để phơi bày những ý nghĩ, sự phỏng đoán
được bao che trong câu hỏi; với những câu hỏi chỉ để có hỏi và những câu hỏi
với một nhận thức sai lầm đều bị Đức Phật gạt sang một bên (A.II.46). Đức Phật không ngại những kẻ
khác không đồng ý với mình, nhưng Đức Phật chỉ trích những lời giải thích sai
lầm về những gì Đức Phật giảng dạy. Đức Phật rất điềm đạm, và bình thản khi
thâu nhận học trò. Một vị tướng là Sīha, một người hỗ trợ đắc lực của nhóm tu
sĩ Jain, một lần đã quyết định trở thành cư sĩ, nhưng Đức Phật khuyên ông nên
suy nghĩ cho kỹ vì với địa vị của ông không dễ gì đổi đạo (Vin.I.236). Đã bị chinh phục bởi những
bài giảng của Đức Phật, Sīha lại càng thêm kính phục khi biết rằng Đức Phật
không chụp lấy cơ hội để mà thu nhận đệ tử có sức ảnh hưởng lớn như ông. Và khi
biết được Sīha không thay đổi ý định trở thành đệ tử của Phật, Đức Phật khuyên
ông không nên bỏ rơi nhóm tu sĩ Jain mà ông từng giúp đỡ, mà nên giúp đỡ các vị
ấy cũng như đang trợ giúp các tăng sĩ của Đức Phật.
Đức Phật nhấn mạnh về sự nỗ lực và kinh nghiệm cá nhân về việc thử qua các giáo
pháp khác, kể cả giáo pháp của chính Đức Phật. Đức Phật biết rất rõ về những
giáo lý phản nghịch nhau trong thời đó, một thời lên men của trí thức. Gạt bỏ
những lời dạy có tính chất giáo điều, hoặc chỉ là sự phỏng đoán dựa trên lý
trí, Đức Phật nhấn mạnh về việc phân tách và kiểm tra về kinh nghiệm chứng
thực.
Kinh Sutta có đoạn nói về việc nầy khi Đức Phật nói chuyện với
dân Kālāma. Dân Kālāma có một chuỗi thầy đến viếng và vị nào cũng khen giáo
pháp của mình và chê bai các giáo pháp khác (A.I.189).
Để trả lời cho sự bối rối nầy đúng hay là sai, Đức Phật bảo họ phân vân là
phải.
Họ không nên chấp nhận bất cứ
điều gì được rao truyền lại qua truyền thống hoặc lịch sử, hay vì đó là sản
phẩm của lý trí, hoặc về một phương diện nào đó mà điều nầy là đúng, hoặc vì
điều đó hợp với ý của mình, hay vì đó là những bằng chứng được góp nhặt một
cách hời hợt, hoặc vì đó là luật lệ hay vì nể nang vị thầy của mình. Họ nên xem
lại những giáo pháp theo kinh nghiệm của họ, rồi ghi nhận những ý kiến của
những người thông thái, nên bác bỏ những giáo điều không hay chỉ mang lại sự có
hại và đau khổ, chỉ nên chấp nhận những điều gì mang lại lợi ích và hạnh phúc.
Đôi khi Đức Phật cũng phải dùng đến quyền uy của mình, thí dụ như trước bài
pháp đầu tiên, đây không phải là ép buộc người ta đồng ý với mình, nhưng để làm
cho họ lắng nghe và như vậy họ mới có thể hiểu được. Đức Phật khuyên các vị đệ
tử của mình đừng nên phản ứng theo cảm tính khi nghe người ta khen ngợi hay chê
bai Đức Phật, nhưng phải giữ bình thản để biết được đâu là những gì đúng và đâu
là những gì sai (D.I.3).
Đức Phật nhấn mạnh giáo pháp của
Đức Phật có một mục đích thực tế, và chúng ta không nên bám vào đấy một cách mù
quáng. Đức Phật ví giáo Pháp (Dhamma)
giống như một chiếc bè đưa con người sang bên kia sông để tránh nguy hiểm nguy,
tượng trưng cho thế giới nhân duyên nầy, và bờ bên kia an lạc tượng trưng cho
Niết Bàn (Nibbāna) (M.I.34-5). Sau đó, Đức Phật hỏi có
người nào sau khi sang bờ bên kia rồi lại giở chiếc bè lên và khiêng nó đi theo
không. Kế đó, Đức Phật nói “Pháp (Dhamma)
là để sang bên kia bờ, không phải để cất giữ”.
Nghĩa là, một người đệ tử không
nên nắm giữ những ý tưởng, những sự thực tập của Phật giáo, nhưng dùng nó để
đạt đến mục đích, xong rồi thì phải bỏ nó đi. Có nhiều người Phật tử tầm
thường, hay bám vào những gì gọi là Phật giáo. Trong khi Đức Phật hay phê bình
sự tin tưởng mù quáng, Đức Phật không phủ nhận cái gọi là niềm tin chân chính
hoặc “tin một cách trung thành” (Saddhā);
vì phải thử qua những lời dạy của Đức Phật thì một người mới có được một niềm
tin nơi những lời dạy nầy. Những bài văn trước đó nhắm vào diễn tiến của sự
lắng nghe, để đánh thức lòng tin (Saddhā),
đưa đến việc thực hành, và rồi một phần tin tưởng về giáo pháp, kế đó lòng tin
(Saddhā) thêm sâu sắc và tinh
tấn thực hành cho đến khi chứng nghiệm được giáo pháp qua tiến trình tu tập của
cá nhân. Một người lúc đó trở thành một vị A-la-hán (Arahats), một người thay thế niềm tin của mình bằng sự
hiểu biết sâu sắc. Kể cả trong Phật giáo Nguyên Thủy (Theravāda Buddhism), thường hay dựa
trên lý luận, không xúc cảm, một sự tin tưởng tuyệt đối nơi Đức Phật, Pháp (Dhamma) và Tăng đoàn (Sangha) là việc thông thường. Theo lý
tưởng, đây là dựa trên một số tài liệu mà vài điều trong Con Đường mà Đức Phật
đã vạch ra được xem là gây hứng khởi và là nâng cao sự tin tưởng cho số còn
lại.
Nhiều người, mặc dầu chỉ được
một niềm tin an lạc và hân hoan (joyful
faith ) (pasāda)
cũng đã là một thí dụ gây cảm hứng cho những người đang trên bước đường đạo.