Chương
11. Nhật Bản
Lịch sử trước đó
Truyền thống tôn giáo bản xứ của
Nhật Bản là Thần Đạo (Shintō),
“Con đường của các vị Trời”, dựa vào sự thờ cúng một hàng sinh vật thần thánh,
mỗi vị được biết đến như là một nữ thần (Kami).
Vài vị được xem là những sức mạnh tái tạo được nhân cách hóa, vô số sức mạnh
không liên quan đến riêng ai, có mặt nơi các vật tự nhiên đáng chú ý và thú
vật, và các siêu nhân: bất cứ vật gì gây kinh hoàng hoặc thần bí đều được xem
là một Kami. Truyền thống
không có phương diện đạo đức mạnh mẽ, nhưng nó đã phát triển cách đánh giá vẻ
đẹp của thiên nhiên và sự trong sạch về lễ nghi.
Phật giáo đầu tiên đến Nhật Bản
vào năm 538 trước Công nguyên một cách chính thức, khi một vị vua Đại Hàn gửi
đến các sứ giả với một hình ảnh của Đức Phật, các kinh điển, và một nhóm tu sĩ.
Sau đó, Phật giáo đến với Nhật Bản với ít nhiều văn minh Trung Hoa, gồm có
Khổng giáo và Lão giáo, trong thời kỳ đất nước đang trên đà phát triển một chế
độ quân chủ tập trung. Phật giáo trước tiên được chấp nhận qua các lễ nghi và
nghệ thuật, và năng lực của đạo Đức Phật giáo đã khuyến khích sự thống nhất
giữa các phe đối nghịch. Vị quan nhiếp chánh học thức và mộ đạo, hoàng tử
Shōtokun (573-622), đặt Phật giáo làm tôn giáo của cả nước, với trách nhiệm về
sự anh lành của Nhật Bản, và dùng Khổng giáo làm triết lý cho đất nước. Bắt đầu
từ lúc ấy, Phật giáo có những liên hệ với quyền uy của đất nước.
Dưới triều đại Nara (710-84), vị hoàng đế Shōmu mộ đạo ra
lệnh xây dựng các chùa chiền toàn cõi đất nước. Các tu sĩ được nhiệm vụ là chép
kinh, như vậy chính các tu sĩ đã khởi đầu việc viết văn, và giúp đỡ mở rộng hệ
thống đường xá trong nước. Sáu trường Phật giáo Trung Hoa được giới thiệu,
trường có ảnh hưởng lớn là Kegon (Tr.h. Hua-yen). Ở Nara, trung tâm thành phố, Shōmu xây dựng một
thiền viện cất giữ hình ảnh Đức Phật Vairocana cao mười sáu thước: trung tâm
Pháp thân Phật theo trường Kegon. Hình ảnh nầy tượng trưng cho trung tâm của
năng lực tâm linh và năng lực thời gian trong thế giới. Như trường Kegon đã
thấy được thực tại tối hậu như là một thực tại hiện tượng có tính cách thâm
nhập nhau mà không ngăn ngại lẫn nhau, như vậy quyền lực của hoàng đế được xem
là nhập sâu vào trong xã hội Nhật Bản. Khái niệm nầy thích hợp với sự trộn lẫn
giữa chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân trong văn hóa Nhật Bản. Một Kami Nhật Bản cũng được xem là một vị
Bồ Tát và biến họ thành người bảo vệ chánh điện. Phật giáo Nara thường dành cho một số người chọn lọc.
Nó hấp dẫn các tu sĩ có tham vọng chính trị, và ham thích sự giàu sang, họ được
thọ giới là do “công đức” của vị lãnh tụ. Sau đó, Phật giáo Nara trở nên thối nát và lộn xộn về phương
diện chính trị. Thành phố được dời đến Kyoto
vào buổi đầu của triều đại Heian (794-1185). Phật giáo Nhật Bản bấy giờ là đến
tuổi trưởng thành.
Vị tu sĩ Nhật Bản Saichō
(767-822) giới thiệu Trường Tendai (Tr.h.T’ien
T’ai) đến từ Trung Quốc vào năm 805. Tu viện chánh nằm trên ngọn
núi Hiei, gần Kyoto, nơi đó Saichō thiết lập chương trình học tập trong vòng
mười hai năm, học về thiền định và kỷ luật tu viện. Nơi đây trở thành tu viện
quan trọng nhất trong nước, và là nơi trú ngụ của 30.000 tăng sĩ trong thời cực
thịnh. Vị tu sĩ Nhật Bản Kūkai (774-835) mang về trường Mật tông Shingon từ
Trung Quốc vào năm 816, và thiết lập một trung tâm thiền viện trên đỉnh Kōya,
cách thành phố năm mươi dặm.
Ngài Kūkai giúp phát triển chữ
viết của Nhật Bản hiện giờ, có tác động mạnh trứ danh về nghệ thuật, và phổ
biến những lễ cầu an và nghi thức tế lễ. Những nghi lễ đầy màu sắc và rắc rối
của Shingon bắt đầu thay thế ảnh hưởng của Tendai nơi triều đình, và trường
cũng có vài ảnh hưởng đối với trường Tendai. Những người thực tập theo Shingon
nhắm vào việc thiết lập những liên hệ tiếp xúc với các năng lực thánh thiện
khác nhau, và để đạt được tính đồng nhất của họ với Đức Phật Vairocana.
Trong khi trường Tendai và
Shingon hưng thịnh nơi triều đình, sự kính ngưỡng Đức Phật Amitābha và Bồ tát
Avalokiteśvara được truyền bá đến tầng lớp dân chúng. Thần Đạo (Shintō) vẫn mạnh mẽ ở nông thôn, dù nó
bắt đầu được kết hợp với Phật giáo dưới dạng Ryōbu, hoặc “nhận thức đối lập”. Ở
đây, Thần Đạo (Shintō), các
trường Tendai và Shingon dạy rằng những kamis
chánh là những hiện thân của các Đức Phật và các Bồ Tát, vị nữ thần mặt trời
Amaterasu là một dạng của Đức Phật Vairocana. Ở những đền thờ của Thần Đạo (Shintō), các hình ảnh của các vị Thánh
Thiện của Phật giáo được sắp xếp một cách thích hợp, và Thần Đạo vay mượn rất
nhiều ở Phật giáo, cũng như Khổng giáo và Lão giáo, đã vay mượn ở Phật giáo để
hệ thống hóa và củng cố lại tôn giáo của họ.
Sau nầy vào thời Heian, trường
Tendai và Shingon trở nên suy thoái, đồng thời những nổi loạn tôn giáo, chính
trị và xã hội xuất hiện, như trong thời “Mạt Pháp” (mappō) được ghi lại vào năm 1052. Trong thời Kamura
(1192-1333) là thời khủng hoảng, luật lệ nằm trong tay lực lượng binh lính của
các tướng quân (Shōguns), các
quân nhân (samurais), hoặc
giới chiến sĩ. Tuy nhiên, các quân nhân (samurais)
đã giúp truyền bá Phật giáo đến quần chúng, và từ đấy Phật giáo bắt rễ sâu ở
đây. Năm trường học mới bắt đầu, như là một chuyển hướng về những dạng Phật
giáo đơn sơ hơn, thiết thực hơn là con đường Tendai dài và rắc rối, và cởi mở
hơn cho những nghi lễ Thần Đạo (Shintō)
thần bí.
Những trường mới được thành lập
bởi các vị tu sĩ đã từng tu tập ở Tendai trên đỉnh Hiei, nhưng cảm thấy trường
nầy bắt đầu suy đồi. Với những phương cách khác nhau, tất cả đều coi trọng phẩm
chất của niềm tin. Những trường Phật giáo Nhật Bản có những khía cạnh gắt gao
hơn các trường ở những mảnh đất Phật giáo khác, và trở thành những giáo phái
riêng rẽ, với những đệ tử cư sĩ của riêng họ. Và theo thời gian, những giáo
phái nầy cho ra thêm những giáo phái nhỏ nữa (sub-sects).
Trường Tịnh Độ
Các khía cạnh thực tập của Tịnh
độ hiện hữu ở sự tổng hợp của trường Tendai, và trong khoảng thời gian vào thế
kỷ thứ mười, nhiều tu sĩ Tendai không chính thống bắt đầu truyền bá sự sùng bái
Đức Phật Amida (Skt. Amitābha)
đến dân chúng. Trường bắt đầu thành công vào thời đại Kamakura, dưới sự lãnh đạo của Hōnen
(1133-1212) và Shiran (1173-1263).
Hōnen là một tu sĩ học thức, vào
lúc ông được bốn mươi ba tuổi, ông nhận thấy con đường của Tendai rất khó khăn
cho việc đạt đến sự tỉnh thức trong thời mạt pháp (mappō). Vì vậy, ông khiêm cung nghiêng về “con đường dễ”,
nương tựa vào Đức Phật Amida và “những lời nguyện” của Ngài là cứu rỗi tất cả. Rời
đỉnh Hiei, Ngài phổ biến sự thực tập niệm Phật (nembutsu) ở Kyoto trong vòng mấy năm, và viết một tác phẩm
nhấn mạnh về lòng tin đơn sơ thành tâm nơi Đức Phật Amida.
Tuy nhiên, ngài bị lột áo tu sĩ
và bị trục xuất khỏi Kyoto,
vì nhà cầm quyền trường Tendai không thích ngài đi ngược lại truyền thống. Tuy
vậy, vị tu sĩ có tuổi Hōnen đã dùng dịp nầy như một cơ hội để truyền bá ở vùng
nông thôn, ngài cảm thấy không lo lắng vì tin rằng những năng lực thiêng liêng
sẽ bảo vệ ngài và trừng trị những kẻ chống đối thông điệp nầy. Ngài không thành
lập một trường (Shū) mới nào,
nhưng các môn đồ theo ngài thì thiết lập một ngôi trường. Những đệ tử của ngài
gồm có nhóm Phật giáo Nhật Bản đầu tiên độc lập, không lệ thuộc vào quyền lực
nhà nước, thống nhất dân chúng từ những giai cấp khác nhau. Sự quấy rối củng cố
sự đoàn kết của họ, vì thế sau nầy những người nầy tách ra khỏi trường Tendai
và trở nên Jōdoshū, hoặc
“Trường Tịnh Độ”.
Shinran rời đỉnh Hiei để đi theo
Hōnen, xa quê hương và du hành cùng với Hōnen để phổ biến rộng rãi niềm kính
ngưỡng Đức Phật Amida đến những người nghèo và các quân nhân (samurais). Shinran cảm thấy mình không
có khả năng để đạt được sự tỉnh thức bằng những cố gắng cá nhân, vì thế phương
sách cuối cùng là niềm tin nơi Đức Phật Amida – dù ông không biết là niệm Phật
(nembutsu) sẽ đưa ông đến cõi
Tịnh độ hay địa ngục.
Ông cảm thấy con người là những
kẻ tội lỗi, không tự lo được, tràn đầy đam mê và xấu xa, si mê không biết đâu
thật sự là tốt hay xấu. Sự giải thích của ông về thông điệp của Hōnen rất là
đơn sơ và quá cực đoan. Con người cần phải loại bỏ những cố gắng vô vọng về “tự
lực” và cần phải coi chừng sự trau dồi về phẩm hạnh và trí tuệ có thể đưa đến
niềm tự hào và thiếu niềm tin nơi Đức Phật Amida. Hōnen dạy rằng, cho dù kể cả
người xấu ác cũng có thể tái sinh ở cõi Cực lạc (sukhāvati), như vậy những người tốt lành dĩ nhiên là sẽ
được tái sinh ở đây; Shinran dạy rằng, người tốt lành có thể tái sinh ở đây,
người “xấu ác” còn có cơ hội tốt hơn nữa: ý tưởng song song với nhận thức của
Thiên Chúa giáo về “sự cứu rỗi các kẻ phạm tội”. Sự cứu rỗi đến từ việc chấp
nhận một cách hoan hỷ là nhờ vào nguyện lực của Đức Phật Amida, không phải do
những việc tốt lành đã thực hiện. Kể cả niềm tin của một người cũng đến từ ơn
huệ, năng lực tràn khắp của Đức Phật Amida, thúc đẩy Phật tánh để khắc phục tội
lỗi và sự kiêu mạn.
Đối với Hōnen, việc niệm Phật (nembutsu) là một hành động chánh trong
tôn giáo, nhưng tôn thờ các vị Phật và các vị Bồ Tát khác vẫn được chấp nhận.
Một người cần phải tìm cách cải tiến bản thân và thực tập sự niệm Phật thường
xuyên để chắc chắn cho việc được cứu rỗi. Chỉ với phương thức nầy một người có
thể gọi là “tự lực”, không phải con số niệm Phật được bao nhiêu.
Tuy vậy, Shiran dạy rằng một
người niệm Phật không cũng chưa đủ; sau đó, sự niệm Phật phải được hướng về Đức
Phật Amida và cảm ơn Đức Phật đã cứu rỗi. Niệm Phật để được cứu rỗi là một dạng
của “tự lực”. Vì như vậy phương cách “tha lực” dễ dàng được ứng dụng, Shinran
cho rằng “tự lực” là một con đường khó khăn, không phải “con đường dễ dàng”
(xem tr.153).
Trong khi sự cứu rỗi bằng ơn huệ
trong sạch không phải là tầm quan trọng của Phật giáo ở buổi ban đầu là dựa vào
bản thân, nhưng nó cũng chia xẻ một lý tưởng là “buông bỏ”. Phật giáo ở buổi
ban đầu truyền bá sự buông bỏ nơi những hiện tượng bị điều kiện hóa, để có thể
làm tiêu hủy sự kiêu mạn về “cái tôi là”, trong khi Shinran truyền bá sự buông
bỏ của “tự lực” để dựa vào quyền lực cứu rỗi của Đức Phật Amida. Cả hai đều
nhắm vào việc khắc phục tự ngã, nhưng Phật giáo buổi đầu thấy rằng điều nầy có
thể thực hiện được bằng cách sử dụng và phát triển những phương cách nội tại
qua việc thực tập Pháp (Dharma) đã
được Đức Phật Gotama chỉ dạy, trong khi Shinran thấy rằng những phương cách đều
đến từ Đức Phật Amida. Trong khi những người tu sĩ theo Hōnen sống độc thân,
Shinran từ bỏ đời sống độc thân khi ông mơ thấy Bồ Tát Avilokiteśvara bảo ông
nên lập gia đình. Ông xem đời sống tu sĩ là không cần thiết cho việc được cứu
rỗi, và hôn nhân là một sự chấp nhận thực tế về yếu điểm của con người. Vì thế,
ông bắt đầu thành lập một loại tu sĩ lập gia đình di truyền và tuyên bố là gia
đình là trung tâm của đời sống tôn giáo. Sanh ra từ một gia đình quý tộc, ông
miêu tả mình một cách khiêm nhường là “người đầu trọc ngu si”, gọi các tín đồ
là “người cùng niềm tin”. Theo thời gian, những tín đồ hợp thành trường
Jōdo-shin hoặc “Trường Tịnh Độ Chân Thật”, cũng được gọi là Trường Shin (Shin-shū).
Những Trường Thiền (Zen)
Sự thực tập thiền (zen) được bao gồm trong trường Tendai,
và các vị Thầy Ch’an đã từng thăm viếng Trung Quốc, nhưng Zen không bao giờ là
một trường riêng biệt cho đến triều đại Kamakura. Vị tu sĩ Eisai (1141-1215)
giới thiệu về thiền đầu tiên đến từ Trung Quốc, trong dạng Rinzai (Tr.h. Lin-Chi). Eisai trải qua sự chống đối
của các tu sĩ trường Tendai khi ông nói thiền (Zen) là cách thực tập hay nhất, nhưng khả năng thích ứng
của ông đã cho Zen bắt rễ, vì ông cũng giảng về Tendai, Shingon và Ritsu (Tr.h.Lu). Khi nói rằng Zen cốt ý có ảnh
hưởng đến mọi người, ông tranh luận rằng Zen giúp cho con người mạnh thêm và để
bảo vệ đất nước. Thật vậy, kỷ luật về đạo đức, và thực tập Zen cũng như việc
không sợ chết lôi cuốn các quân nhân (samurais),
vì nhờ vậy mà họ đã chống được quân Mông Cổ xâm lăng vào năm 1274 và 1281.
Eisai được sự bảo vệ của một tướng quân (shōgun)
ở thành phố Kamakura,
và thiết lập một liên minh lâu dài giữa Rinzai và các quân nhân (samurais). Đây có thể được xem là một
thí dụ của “phương tiện thiện xảo”, Phật giáo trong dạng thích nghi đối với
cách sống của một nhóm người đặc biệt.
Trong khi Zen, Rinzai thành công
phần lớn với các quân nhân (samurais),
Sōtō (Tr.h.Ts’ao-Tung) rất
phổ biến và được biết dưới tên “Zen của nông dân”. Thiền Sōtō được ngài Dōgen
(1200-1253) giới thiệu, có lẽ ông là nhân vật vĩ đại nhất của Phật giáo Nhật
Bản. Vị tu sĩ xuất chúng nầy được tất cả người Nhật ngưỡng mộ, đã cho ra một
dạng Thiền Nhật Bản, một đặc tính hoàn toàn riêng biệt so với Tendai. Là một tu
sĩ Tendai, vấn đề làm ông phiền muộn là: nếu tất cả mọi người đều có Phật tánh,
vì sao họ phải cần năng nỗ thực tập để đạt quả vị Phật? Sự tìm kiếm đưa ông đến
tu viện Rinzai, và rồi Trung Quốc. Nơi đây, ông gặp một vị thầy khai ngộ cho
ông. Năm 1227, ông trở lại Nhật Bản, và dù ông không muốn thành lập ra một
trường mới, một trường mới cũng được thành lập vì ông chỉ chuyên tâm truyền bá
thiền. Ông thu hút rất nhiều học trò, tu sĩ và cư sĩ, nam cũng như nữ, và rất
nhiều lần phải dời đến một tu viện lớn hơn để thích ứng với đại chúng của ông. Ông
nhấn mạnh một đời sống giản dị và nghiêm khắc và kỷ luật tăng đoàn cũng như
việc tọa thiền (zazen), hay
“ngồi thiền”; và thích có ít học trò giỏi hơn là một tu viện lớn giàu có với
những học trò giả hiệu.
Dōgen để lại vô số sáng tác, như
Eisai và Chinul, ông khó tính đối với thiền (Tr.h.Ch’an) sau nầy vì sao lãng kinh điển (Sūtras), ông xem kinh điển hòa hợp với
việc tâm truyền tâm chân thật. Ông đọc rất nhiều kinh Thanh Văn Thừa (Śrāvakayāna) và Đại thừa (Mahāyāna), và cảm nhận rằng sự học tập
kinh điển là cần thiết để ủng hộ sự thực tập: “Chỉ có con người mới lạc trong
kinh điển (Sūtras), không
phải kinh điển (Sūtras) làm
cho con người lạc đường.”
Dōgen rất cảm phục Đức Phật lịch
sử khi ngài đọc kinh điển, ngài nhận thấy Đức Phật sống đời sống một ẩn sĩ giản
dị, và luôn làm lợi ích cho những người khác. Đối với thiền, Đức Phật Śakyamuni
không còn là một vị trời huy hoàng, mà trở nên một con người, một người thầy và
là một gương sáng. Song song với việc nầy, Ch’an và Zen rất mến mộ các vị
A-la-hán, những đệ tử của Đức Phật. Đối với Dōgen, đọc kinh điển (Sūtras) là một cách hướng niềm tin về
Đức Phật và thực tại tối hậu. Niềm tin như thế được khơi dậy bởi kinh nghiệm về
sự vô thường và đau khổ- Cha mẹ của Dōgen mất khi ngài còn nhỏ - và như vậy
Pháp (Dharma) là một nơi
nương tựa để tiến xa hơn. Niềm tin phải đưa đến sự kính trọng cho bất cứ vật gì
hay sự thực tập có tính cách Phật giáo, và phải đưa đến sự tin tưởng nơi người
thầy dạy thiền của mình.
Dōgen truyền bá zazen, hoặc “tọa thiền”, như là sự trở
lại Phật giáo chân chính của Đức Phật, một phương cách dễ dàng tự nhiên, rộng
mở cho tất cả và bao gồm tất cả các sự thực tập khác. Ngài Dōgen phê bình
trường Rinzai quá nghiêng về công án (kōan)
của phần tinh thần một cách chênh lệch, và nhấn mạnh sự quan trọng về luyện tập
thân thể bằng cách ngồi thiền theo kiểu kiết già “hoa sen”. Tọa thiền (Zazen) không phải là “phương cách” để
“đạt đến” sự tỉnh thức, nhưng mà chính nó là sự tỉnh thức. đây là một cách làm
cho Phật tính biểu lộ. Như vậy đây là giải pháp của Dōgen cho vấn đề tìm kiếm
tâm linh. Một người cần phải thực tập việc tọa thiền (Zazen) với sự nhận biết không thay đổi,
và với niềm tinh là chính mình đã là một vị Phật. Quá trình là quên đi bản ngã
thì Phật tính sẽ từ từ biểu lộ tiềm năng vô hạn trong tiến trình của cuộc sống.
Để giúp cho tiến trình được trôi chảy, một người học trò cần phải có học thức,
đạo đức, khỏe mạnh từ thể chất đến tinh thần, và đây là một khuôn mẫu thích hợp
cho một cuộc sống vị tha.
Trường Nichiren
Trường Nichiren được đặt tên
theo một vị tu sĩ Nichiren (1222-82). Vị tu sĩ nầy nguyên là con của một người
đánh cá, ông muốn canh tân trường Tendai bằng việc truyền bá sự chuyên tâm, với
bài kinh chánh, Kinh Pháp Hoa (Lotus
Sūtra), mà ông cho là thể hiện tinh hoa của Phật giáo. Ông tự xem
mình là người nối nghiệp trường T’ien T’ai, và là hiện thân của Bồ Tát mà trong
kinh Liên Hoa đã nói đến, để bảo vệ những bài giảng trong thời mạt pháp (mappō). Có lẽ ông bị một dạng thiền
của trường Tendai ảnh hưởng, một loại thiền chuyên kính ngưỡng, trì tụng Kinh
Pháp Hoa, và việc nhiễu vòng quanh bản sao của kinh nầy.
Vào năm 1253, ông bắt đầu cuộc
vận động để cải đạo Nhật Bản thành niềm tin Kinh Pháp Hoa. Ông xem một số thiên
tai xảy ra là kết quả của quốc gia suy đồi, và tiên đoán sự xâm lăng của Mông
Cổ vào năm 1274. Ông là một người yêu nước có nhiệm vụ cứu vớt Nhật Bản, ông
nói rằng đất nước sẽ giàu mạnh khi người dân biết tôn kính Phật giáo chân
chánh, và từ nơi đây sẽ bắt nguồn cho việc truyền bá đến khắp thế giới, đem lại
một thời đại hoàng kim. Ông truyền bá sự “tự lực” dễ dàng cho mọi người cùng
thực tập. Đó là tụng niệm câu “Nam
mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” (Na-mu myō-hō
ren-ge-kyō), “Kính lễ Kinh Pháp Hoa của Pháp chân thật”, và chiêm
nghiệm câu thần chú nầy được ghi lại trên cuộn giấy hay thẻ cây. Việc nầy sẽ
hoạt hóa Phật tính, dẫn đến việc thăng hoa cá nhân và xã hội, cuối cùng là đưa
đến quả vị Phật. Trường Nichiren khiển trách tất cả các trường khác là những
người xấu ác làm hư hoại đất nước, và nói rằng chính phủ cần dẹp sạch những
trường nầy.
Vì những trường nầy đã quên Đức
Phật Śakyamuni của Kinh Pháp Hoa bằng cách nầy hay cách khác. Những trường Tịnh
độ tôn sùng Đức Phật Amida tưởng tượng, những trường Zen thì ngưỡng mộ Đức Phật
Śakyamuni trần tục, không phải Đức Phật Śakyamuni siêu phàm, và trường Shingon
tôn thờ Đức Phật Vairocana. Nếu Shinran hỏi rằng niệm Phật (nembutsu) có đưa đến địa ngục không,
thì Nichiren chắc chắn rằng có! Sự vạch mặt có hại như vậy thật là không có
tính chất Phật giáo chút nào, và Nichiren là hình ảnh một nhà tiên tri của Kinh
Cựu Ước hơn là một hiền triết của Phật giáo truyền thống. Lời tuyên bố chính
thức của ông làm cho ông gần bị xử tử, và hai lần bị trục xuất. Ông nhận lãnh
những khổ đau nầy trong tinh thần của một liệt sĩ, coi như đây là những kết quả
nghiệp của ông và giúp ông thanh lọc bản thân mình. Hơn nữa, sự rao truyền giáo
lý mạnh mẽ với kiểu cách lôi cuốn của ông, cũng như sự can đảm cá nhân đã thu
hút rất nhiều người và họ đã thiết lập ra trường Nichiren.
Lịch sử sau nầy
Triều đại Ashikaga (1333-1573)
là thời kỳ hỗn loạn với luật lệ của hai vị hoàng đế, và luật của các tướng quân
(Shōguns) đối nghịch. Trong
thời điểm nầy, trường Rinzai Zen có ảnh hưởng rất lớn. Các tu viện Zen là nơi
trú ngụ của hòa bình, văn hóa, giáo dục và nghệ thuật, với trường Rinzai đỡ đầu
cho những phát triển về hội hoạ, thuật viết chữ đẹp, điêu khắc, ấn bản, làm
vườn, kiến trúc, văn chương, kịch nghệ và y học.
Ryōyo (1341-1420), ở trường Tịnh
độ (Jōdo-shū), phát triển ý
tưởng rằng, Tịnh độ thật ra ở khắp mọi nơi, và ta chỉ có thể vào Tịnh độ bằng
cách thay đổi quan điểm tinh thần ngay trong cuộc sống hơn là đợi đến lúc chết.
Người sáng lập thứ hai của trường Tịnh độ chân tông (Jōdo-shin-shū), là Rennyo (1415-99), ông chống lại quan
niệm hạnh kiểm đạo đức không liên quan gì đến những người có niềm tin nơi Đức
Phật Amida. Ông nhấn mạnh rằng niềm tin chân thành với tâm trong sạch, và một
đời sống đạo đức thể hiện sự biết ơn đối với Đức Phật Amida. Ông dạy rằng không
nên chỉ trích các trường khác, nhưng chỉ Đức Phật Amida mới được tôn kính như
là “Đức Phật đầu tiên” bao gồm tất cả các vị Phật khác. Nghĩa là Đức Phật Amida
là biểu hiện của Pháp thân (Dharma body).
Jōdo-shin-shū trở nên những
trung tâm tu viện vững chắc, với những tín đồ có vũ khí sẵn sàng hành động để
bảo vệ niềm tin. Vào cuối thế kỷ của triều đại Ashikaga, trường phái nầy sắp
xếp và dẫn đầu một số nông dân nổi loạn, và dành lấy quyền lực trong một vùng ở
Nhật Bản.
Trường Tendai và Shingon cũng có
binh lính, vài người là tăng sĩ, và vào thế kỷ thứ mười sáu, Phật tử Nichiren
tấn công cơ sở trung ương của trường Shin và Tendai. Hành động phi Phật tử như
thế nầy có thể được xem là sản phẩm của thời kỳ bạo động, nơi mà quyền lực
chính trị có đủ cho mọi người và tham vọng xuất hiện bằng hành động.
Hai vị tướng quân (Shōguns) quyền uy đã chấm dứt việc các
tu viện có binh lính, và dẫn đến kỷ nguyên của Tokugawa (1603-1867), khi đất
nước được thống nhất dưới sự lãnh đạo độc tài của quân đội. Vào lúc nầy, Nhật
Bản đóng cửa thông thương với thế giới bên ngoài, trừ vài người thương buôn. Vào
thế kỷ thứ mười sáu, dân Bồ Đào Nha đã đem Thiên Chúa giáo đến Nhật Bản. Vài
lãnh tụ ưa chuộng Thiên Chúa giáo như là vật ngăn trở đối với quyền hành của
các tu viện Phật giáo, và đã truyền bá Thiên Chúa giáo bằng bạo lực. Bấy giờ,
Thiên Chúa giáo bị ngược đãi một cách tàn nhẫn, bị xem là phương tiện của ảnh
hưởng ngoại lai, và Thiên Chúa giáo trở nên một tôn giáo bí mật chỉ dành cho
một số ít người.
Vào năm 1614, Phật giáo trở
thành nhà thờ được chính thức hóa và là sức mạnh của chính quyền, với tất cả
mọi người được ghi danh và theo thời khóa biểu để tham dự lễ ở tu viện gần
nhất. Phật giáo không thiếu sự ủng hộ tài chánh, nhưng đã trở nên quá tiện nghi
và lỗi thời. Ảnh hưởng luật lệ của đẳng cấp quân nhân (samurai) chứa đựng những yếu tố phi
Phật giáo, chẳng hạn như bắt buộc phải trả thù và không quý trọng mạng sống.
Chủ nghĩa thế tục gia tăng khi người ta dọn đến những thành phố đang phát
triển. Tuy nhiên, sự uyên bác của Phật giáo vẫn tiếp tục, các trường Nguyên
Thủyvẫn hoạt động, và vị thầy của trường Rinzai, Hakuin (1685-1768) đã làm sống
lại việc sử dụng công án (kōan)
và đã giảng vô số bài phổ biến. Vị cư sĩ Zen, Bashō (1644-94) cũng phổ biến hóa
thơ Bài cú (Haiku) mười bảy
âm tiết như là một hình thức nghệ thuật tôn giáo.
Lịch sử sau nầy và sự truyền bá
Phật giáo
Ảnh hưởng của Khổng giáo canh
tân gia tăng và được xem là lý tưởng chung cho cả đất nước, tuy vậy, từ thế kỷ
thứ mười tám, một dạng mới của Thần Đạo (Shintō)
bắt đầu phát triển như là “tôn giáo chân chánh” của người Nhật, một biểu hiện
của sự tự nhiên và trong sạch của tín ngưỡng không giống “tính chất giả tạo”
của ngoại đạo như Phật giáo và Khổng giáo. Sự phát triển Thần đạo lên đến cực
điểm và một cuộc đảo chính đã làm chấm dứt triều đại Tokugawa Shōgunate đã ủng
hộ những truyền thống ngoại đạo. Quyền hành trở lại trong tay của hoàng đế,
được xem là một Kami đến từ vị nữ thần mặt trời. Sau đó không lâu, Nhật Bản mở
cửa cho ảnh hưởng Tây phương.