Thiền học
Giáo Trình Thiền Minh Sát Tuệ (Lý Thuyết, Thực Hành, Kết Quả)
Thiền sư Achaan Naeb Tỳ Kheo Thiện Minh (Dịch)
27/09/2554 07:24 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

 

Phần I

LÝ THUYẾT

 

Dù thế nào đi nữa, tất cả loài hữu tình (con người) đã sinh ra, hoặc sẽ sinh ra, đều phải lìa bỏ xác thân và đi đến cái chết. Biết được tất cả chúng sinh đều phải ra đi như thế, bậc trí tuệ nên tu tập và sống cuộc đời đạo hạnh. -- (Udana, Tiểu bộ kinh, 25, iii, 189)

... với tấm lòng mộ đạo, nên vị này nương nhờ vào Tam bảo; gìn giữ giới cấm: không sát sanh... không uống ruợu; thực hiện lòng từ bi; quán tưởng về vô thường, do đó vị này gặt hái được những kết quả thù thắng. -- (Tăng chi bộ kinh, quyển 9)

 

1.1 PHẬT GIÁO

Hơn 2.500 năm trước,VịThái tử Tất Ðạt Ta (Siddhattha) của vương quốc Sakiyan nhỏ bé nằm ở vùng Bắc Ấn Ðộ, vì không chịu được nỗi khổ đau mà ngài phải chứng kiến ở chung quanh mình, nên cuối cùng ngài từ bỏ vợ và đứa con trai vừa mới ra đời [1] và bắt đầu lên đường với một sự tìm kiếm đơn độc để tìm ra một chân lý hầu chấm dứt sự khổ đau. Ði theo các đạo sĩ khổ hạnh Ấn Ðộ giáo thời đó, ngài đã tìm thấy được Amatta - trạng thái Bất Tử. Tu tập cùng với một vị thầy ngài đạt đến tầng thiền thứ bảy (có tám tầng thiền: 4 sắc giới và 4 vô sắc giới). Sau đó với một vị thầy khác ngài đạt đến tầng thiền thứ 8. Nhưng rồi ngài đã sớm nhận định rằng đây chỉ là những trạng thái bất tử nhất thời, chúng hoàn toàn không thể chấm dứt khổ đau. Thế rồi ngài bắt đầu tu ép xác, sự tu tập này liên quan đến việc nhịn ăn để làm trong sạch tinh thần và nhờ đó đạt được sự giải thoát khỏi đau khổ. Ngài tu tập phương pháp này cho đến khi thân xác của ngài gần như hoàn toàn rã rời kiệt lực. Sau đó ngài từ bỏ lối tu nhịn ăn khổ hạnh bằng một bữa ăn với sữa nóng và cơm, do một cô gái vắt sữa, có tên là nàng Sujata, dâng cho ngài. Và rồi ngài đi đến sự kết luận rằng sự dục lạc quá mức và tự hành xác quá mức không phải là con đường giác ngộ: Con đường giác ngộ chính là Con đường Trung Ðạo (Majjhima Patipada). Ðêm hôm ấy, khi nhập thiền, ngài khám phá Tứ Diệu Ðế và đã giác ngộ. Ngài được ca tụng là "Samma-sambuddhassa" -- bậc chánh đẳng chánh giác, tự mình giác ngộ.

Ngày nay, trên khắp thế giới, một số người Nam Nữ không ngừng gia tăng mức sống và sự giàu có, tuy nhiên chẳng bao giờ cảm thấy thỏa mãn, và đang hướng đến những phương pháp điều trị của Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo. Ðức Phật Gotama (Cồ Ðàm) đã giữ vững giáo pháp của mình qua 45 năm mà ngài chỉ dạy một điều duy nhất "khổ và diệt khổ" Ngài không quan tâm đến việc suy đoán như là có phải vũ trụ bất diệt hoặc khổ hoặc những điều bí ẩn tương tự khiến cho những triết gia khó hiểu - mặc dù ngài đã thật sự thừa nhận là vật chất, chứa đựng những sinh vật đó là danh và sắc (nāma và rūpa), hoặc năm uẩn (khandha). Không có một cái ngã hoặc linh hồn nơi thần thánh hoặc con người mà ngài có thể tìm thấy, hoặc phù hợp với hệ thống vật chất của ngài. Thật vậy, người ta có thể định nghĩa sự tu tập của Ðạo Phật bằng định nghĩa đơn giản là sự nhận biết thân và tâm, như là những trạng thái thay đổi liên tục. Do kết quả của sự việc này, hơn hai ngàn năm theo dõi tiến trình thân tâm, người ta đã có được một kho tàng thông tin rộng lớn đã được chấp nhận (ngay cả một số dữ kiện mới được khám phá gần đây trong việc nghiên cứu về giấc mơ ở thế giới Phương Tây, mà người Phật tử đã biết cách đây hàng ngàn năm trước)

1.1.1 Phật giáo là gì?

1- Lời giới thiệu

Ðạo Phật thật sự không phải là chùa chiền, hoặc những tượng Phật, cúng dường hoặc nghi lễ. Trong khi tất cả những điều này đều xứng đáng, nhưng chúng không đáp được câu hỏi. Ðạo Phật theo nghĩa chính xác là gì? Nếu chúng ta nói rằng Ðạo Phật đích thật là sự tu tập Thiền nên sử dụng chánh niệm và sự hiểu biết sâu sắc rõ ràng để nhận ra trí tuệ, và nhờ vậy đoạn trừ tất cả phiền não, và chấm dứt khổ - Chúng ta đang đến gần. Nhưng chúng ta vẫn chưa đến đích.

Nếu chúng ta nói rằng Phật giáo đích thật là danh (nāma) và sắc (rūpa) - như vậy chúng ta đang tiến gần hơn một chút nữa; nhưng ngay cả điều này chưa hoàn toàn thỏa mãn. Từ ngữ danh "Nāma" vẫn có thể mang ý niệm của một cái tâm là cô kết lại, tất cả thành một khối, thực hiện tất cả những chức năng tinh thần khác nhau này để đem lại một bức tranh đúng thật hơn của tâm, danh cần phải được diễn tả như là những trạng thái tâm (citta) [2] mỗi trạng thái sinh khởi riêng rẽ, và nó khác biệt với nhau: trạng thái tâm thấy không giống như trạng thái tâm nghe, trạng thái tâm đang vẩn vơ thì khác với trạng thái tâm đang quan sát thân (rūpa) trong khi tu tập, v.v... "Chúng tôi" sự hiện hữu trọn vẹn của chúng ta, ở bất cứ thời điểm nào được ấn định hoàn toàn là sự phát sinh của một trong những trạng thái tâm này, nó nhanh chóng được thay thế bởi một cái khác.

Nhưng trạng thái tâm (citta) vẫn chưa đủ. Các trạng thái tâm (citta) thật sự tạo nên 52 tâm sở, được gọi là sở hữu tâm (cetasika), ví dụ, xúc, thọ, tưởng v.v... là tâm sở, như vậy định nghĩa đúng nhất của Danh chính là tâm sở-cetasika. Bây giờ chúng ta có thêm Sắc pháp- sắc pháp cho định nghĩa thực tế của Phật giáo, và vì vậy chúng ta có Tâm,sở hữu và sắc pháp. Nhưng tâm, sở hữu tâm và Sắc pháp vẫn chưa phải là "một bức tranh" trọn vẹn. Nếu chúng ta tu tập thành công (nhận ra Danh và Sắc không phải là "chúng ta") là chúng ta đạt đến một trạng thái mà ở đó một khoảnh khắc (sát na) đạo ngắn ngủi phát sinh đoạn trừ tất cả những phiền não. Khoảnh khắc đạo đó là Níp bàn, và Níp bàn này cũng là thành phần vô cùng quan trọng trong Phật giáo .

Như vậy, định nghĩa cuối cùng của chúng ta về thực chất của Phật giáo trở thành thân tâm và giác ngộ - hoặc để phát triển về nó trong ngôn ngữ Pali, ngôn ngữ của Phật giáo: Tâm, sở hữu, sắc pháp và Níp bàn. Trong đạo Phật, bốn yếu tố này là sự thật tuyệt đối(chân đế) . Ðiều này có nghĩa chúng là những điều ở trong vũ trụ là "thật" - nghĩa là chúng không đòi hỏi những khái niệm để hiểu biết. Như vậy, mọi sinh vật ở trong vũ trụ được tạo nên từ ba yếu tố đầu tiên của những yếu tố này - Tâm, sở hữu, sắc pháp và Níp bàn - là đối tượng của khoảnh khắc diệt trừ phiền não một trong bốn tầng giác ngộ - là phần thứ tư của sự thật tuyệt đối: Tâm, sở hữu, sắc pháp và Níp bàn (điều quan trọng để biết rằng Níp bàn chỉ là một đối tượng của tâm ở một giai đoạn trí tuệ nào đó - Nó thật sự xuất hiện như là một khoảnh khắc an lạc và vắng lặng rất ngắn ngủi - và bản chất của nó là không có phiền não).

Mục đích trong đạo Phật về ba yếu tố đầu tiên: Tâm, sở hữu, sắc pháp và Níp bàn (citta, cetasika, rūpa, Nibbāna) là để chứng minh rằng "chúng ta" thật sự được tạo nên bởi nhiều phần tử (những trạng thái thân tâm (danh và sắc) thay đổi rất nhanh và liên tục), và bởi vì không có một thành phần nào trong những thành phần này là "chúng ta", những thành phần này kết hợp lại với nhau cũng không phải là "chúng ta". Khoa tâm lý học trong đạo Phật phân chia thân và tâm thành những thành phần rất nhỏ được gọi là Vi Diệu Pháp (Abhidhamma): khoa tâm lý học này giúp cho mọi người nhận thức rõ ràng hơn "chúng ta" không phải là đàn ông, đàn bà, tất cả đều là vô ngã v.v...

Như vậy, định nghĩa đầu tiên của chúng ta về Phật giáo nghĩa là sự thật tuyệt đối: Tâm, sở hữu, sắc pháp và Níp bàn là Phật giáo - Phật giáo đích thật.

Mọi chúng sanh trong thế giới đều định nghĩa bằng thân tâm này (citta - cetasika - rūpa) Những vật vô tri giác chỉ là vật chất (rūpa). Thậm chí những người không biết định nghĩa này, có thể chưa bao giờ nghe nói đến Ðạo Phật, họ vẫn tồn tại như một trạng thái mà Tâm, sở hữu có thể đạt tới khi tâm có được sự trong sạch hoàn toàn. Bây giờ, sau khi đã hiểu được sự giải thích đơn giản về đạo Phật đích thật này, với niềm hy vọng, chúng ta có thể tiến bộ với một chút tin tưởng hơn với sự thảo luận đầy kỹ thuật hơn của vị thầy chú ý về chủ đề quan trọng này, được mô tả ở những đoạn sau đây.

2- Thảo luận

Phật giáo có thể định nghĩa bằng hai con đường:

1) Trạng thái thật về bản chất của thế gian, và tự nhiên
2) Giáo pháp của đức Phật.

1) Trạng thái thật về bản chất tự nhiên của thế gian

Ðức Phật dạy "Sabbha dhamma anatta" Câu này có nghĩa chính xác là "tất cả các pháp (sự vật) đều vô ngã". Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng 4 thành phần của sự thật tuyệt đối trong thế gian.

Tâm, sở hữu, sắc pháp và Níp bàn, tất cả đều có chung một đặc tính duy nhất: chúng đều vô ngã.

Bốn thành phần này là trạng thái thật về bản chất tự nhiên của thế gian (sabhava dhamma) - nghĩa là, không có ngã, không có đàn ông, đàn bà, không có con chó v.v... vô ngã là yếu tố duy nhất của Tam Tướng (Vô thường, khổ và vô ngã) nó phù hợp với tất cả 4 thành phần của sự thật tuyệt đối. Bởi vì Níp bàn là pháp siêu thế: trường tồn, và hạnh phúc, nhưng vô ngã. Tâm, Sở hữu và Sắc pháp là tục đế: vô thường, khổ và vô ngã.

a) Mọi người đều có ba trong 4 thành phần nêu trên: Tâm, Sở hữu và Sắc pháp. Hoặc bốn thành phần này có thể nói tóm lại là thân và tâm (danh và sắc) . Hoặc chi tiết hơn, người ta có thể chia chỉ thành 5 phần được gọi là ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Ba thành phần này Tâm, sở hữu vàsắc pháp tiếp tục trên bánh xe sinh tử đó là vòng sinh, lão, bệnh và tử. Ba điều này xảy ra bởi nhân và duyên: chúng luôn luôn lệ thuộc vào nhau (ví dụ, thân không thể hành động mà không có tâm, tâm thì vô dụng nên không có thân); và chúng sinh và diệt ngay lập tức, liên tục một cuộc sống. Sự kiện này xảy ra từng khoảnh khắc (sát na), và bởi vì nó xảy ra dù chúng ta có nhận biết về nó hay không, nó được gọi là thế tục. Trạng thái thật của bản chất tự nhiên (sabhava) không xảy ra với Chư Thiên, Phạm thiên hoặc bất cứ sự can thiệp kỳ diệu nào.

Năm uẩn, hoặc thân - tâm là khổ đế (dukkha-sacca) (sacca có nghĩa chân lý, như vậy dukkha-sacca là khổ đế - Ðế thứ nhất của Tứ diệu đế. Năm uẩn là khổ đế (dukkha- sacca) và chúng là quả của nhân. Nhân đó là tham ái, như đã được nêu lên đế thứ hai (Tập đế), chân lý của nhân khổ đế. Người thật sự tạo nên Danh và Sắc là phiền não. Trong tu tập, phiền não là ái dục, hoặc những phiền não là tham, sân và si. Nó chỉ là tứ phiền não mà thân và tâm được tạo nên. Thân và tâm này (ngũ uẩn) là những gì chúng ta thường nghĩ đến là đàn ông, đàn bà, hoặc người này, người kia hoặc quốc gia này, quốc gia nọ. Ðiều này "tạo nên" phiền não và điều đó được tạo nên (Ngũ uẩn) có tam tướng: - vô thường, khổ và vô ngã và chúng là định luật tự nhiên. Sự việc này không có sự ngoại lệ nào cho bất chúng sinh nào.

b) Tuy vậy, Níp bàn là pháp chân đế và nằm ở ngoài Năm Uẩn - có nghĩa là ở ngoài "thế gian" (Ðức Phật dạy rằng, đối với mỗi chúng sinh "thế gian" thật sự là năm Uẩn, bởi vì mọi vật chúng ta cảm nhận từ chúng. Thế gian này có thể gọi là "thế gian - ngũ uẩn hoặc thế gian Danh sắc")

Níp bàn là đối tượng của khoảnh khắc đoạn trừ phiền não, từ đó chấm dứt khổ - điều này xảy ra ở tuệ 14 của 16 tuệ Thiền Minh Sát (yana) - và quả, hoặc, đi theo nó (tuệ thứ 15). Níp bàn được gọi là siêu thế bởi vì nó là pháp dập tắt phiền não và từ đó chấm dứt khổ. Níp bàn là trường tồn và hạnh phúc. Nhưng nó không phải là đàn ông, đàn bà - vô ngã.

Ðây là Phật giáo thật sự, Thái tử Siddhatha đã tự mình khám phá trí tuệ đó là Tứ Diệu Ðế. Chẳng ai dạy ngài. Kể từ đó, ngài được mọi người gọi "Pra Arahant - Sammasambuddha" - "Bậc A-la-hán Chánh đẳng Chánh giác".

2) Giáo pháp của Ðức Phật

Ðây là con đường thứ hai mà người ta có thể định nghĩa về Phật giáo. Giáo pháp của Ðức Phật đem lại lợi ích qua ba hình thức, dựa vào một trong ba hình thức này để thích nghi với cá tính đặc biệt của mình.

a) Lợi ích cho kiếp này
b) Lợi ích cho kiếp sau
c) Lợi ích cho sự tốt đẹp nhất, hoặc Níp bàn để chấm dứt khổ.

Một ví dụ của phần (a) trên là giáo lý về việc không nên nóng giận, Ðức Phật dạy không căm thù "Ðừng làm tổn thương tâm của mình". Giận hờn chỉ làm tổn thương bản thân, chứ người khác thì không.

Một ví dụ của phần (b) ở trên là giáo lý liên quan đến giới luật và sự phát triển tập trung (định) trong lúc hành thiền.

Về phần (c) ở trên đức Phật dạy về con đường để đạt Níp bàn - Một loại hạnh phúc không còn biến thành khổ đau nữa, ở đó hạnh phúc và khổ đau hòa trộn với nhau.

Ở phần thảo luận này chúng ta sẽ chỉ thảo luận về níp bàn để diệt khổ. Sự đau khổ thật sự là Ngũ Uẩn, hoặc thân tâm cuối cùng khi Năm uẩn hoàn toàn bị tâm diệt, hoặc đã đạt được Níp bàn. Một điển hình của điều này là Ðức Phật, và những bậc giác ngộ hoàn toàn (A la hán) vào thời Ðức Phật. Họ sẽ không bao giờ tái sinh nữa để gặp phải khổ đau.

Và Ðức Phật dạy phương pháp nào để diệt khổ? Ngài dạy Giới, Ðịnh và Tuệ trong Bát Chánh Ðạo.

Tại sao phải là Giới, Ðịnh, Tuệ trong Bát Chánh Ðạo? Bởi vì ba yếu tố này khi ở trong bát chánh đạo là (con đường) Trung Ðạo, nó cần thiết để đạt được Tứ Diệu Ðế.

Bát Chánh Ðạo được gọi là Trung Ðạo, và "chỉ có một và con đường duy nhất" để đạt được Tứ Diệu Ðế và diệt khổ.

Trung Ðạo có nghĩa là cực đoạn dục lạc và ép xác mà đức Phật nhận ra ở các đạo sĩ Ấn giáo vào thời của ngài - Những đạo sĩ này cho rằng việc tu ép xác sẽ tiêu diệt ham muốn và sự bê tha dục lạ sẽ tiêu hủy hận thù. Con đường Trung Ðạo cũng có nghĩa tránh sự muốn hoặc không ham muốn.

Lợi ích của sự nhận thức được Tứ Diệu Ðế là gì? Lợi ích đó là sự chấm dứt khổ (diệt khổ). Việc này xảy ra khi khoảnh khắc Ðạo có Níp bàn đối tượng của nó để tận diệt tất cả phiền não còn sót lại và chấm dứt khổ (Ðạo thứ tư). Níp bàn rất hạnh phúc vì không có tái sinh.

Chúng ta hiểu ý nghĩa rất hạnh phúc là gì? Loại hạnh phúc này không còn biến thành khổ đau nữa, giống như hạnh phúc thế tục. Ðức Phật dạy "Níp bàn rất hạnh phúc".

Hạnh phúc này xảy ra như thế nào? Bởi vì Níp bàn không có 5 uẩn. 5 uẩn là chân đế của khổ (dukkha sacca). Nếu chúng ta không có 5 uẩn, chúng ta không còn chút khổ đau nào - chẳng hạn như lão, bệnh, tử, buồn phiền, than oán v.v... Cho nên Níp bàn là hạnh phúc. Nó không giống thế tục, Níp bàn là nơi hạnh phúc và khổ đau hòa trộn với nhau. Níp bàn là sự tốt lành nhất trong Phật giáo.

Giới, Ðịnh và Tuệ thì bao gồm Bát Chánh Ðạo. Thành phần nào có trước? Chúng ta nên tu tập giới cho đến khi được trong sạch, và nhận thức định và tuệ sau đó?

Giới, Ðịnh, Tuệ trong Bát Chánh Ðạo phải đi cùng một lúc chứ không phải hết phần này đến phần khác. Nó giống như viên thuốc với 3 thành phần: Chúng ta phải uống chúng cùng một lúc. Loại thiền định (samādhi) là an lạc cùng với trạng thái hoan lạc - đặc biệt đối với những ai đạt đến an chỉ định (một trạng thái định rất cao). Nó rất hạnh phúc. Như vậy tại sao chúng ta nói duy nhất Níp bàn là hạnh phúc?

Trong khi thiền định là thiện; trạng thái tốt đẹp và nó đi tận diệt các phiền não của tâm (những trở ngại); nó chỉ an lạc tạm thời, chỉ tồn tại cho đến khi những trở ngại còn bị kiềm chế. Hạnh phúc này tùy thuộc vào mức độ An chỉ định.

Nhưng loại hạnh phúc này vẫn còn trong vòng đau khổ.

Tham thiền đạt đến trạng thái an chỉ định có trước thời Ðức Phật. Ðức Phật tu tập phương pháp thiền chỉ này (samādhi) cho đến khi ngài đạt được trạng thái an chỉ định cao nhất (tầng thứ 8) nhưng ngài nhận ra rằng trạng thái an chỉ định đó không thể tận diệt những phiền não tiềm ẩn. Sau đó ngài tìm ra được Bát Chánh Ðạo, và nhận thức được Tứ Diệu Ðế - và như vậy là Ngài đắc đạo. Rồi ngài tuyên bố,"Ðây là kiếp sống cuối cùng của Như Lai. Và như vậy, ngài giác ngộ (Níp bàn đoạn diệt phiền não và từ đó không còn khổ đau - và chấm dứt vòng sinh tử luân hồi - chúng ta nói chỉ có Níp bàn là hạnh phúc.

Trong tất cả những nền triết học thế giới, trí tuệ để chấm dứt khổ đau chỉ được người ta tìm thấy ở trong Ðạo Phật. Làm cách nào để chúng ta chứng minh được điều này. Theo đúng con đường Bát Chánh Ðạo để tận diệt những phiền não là nhân của khổ. Phiền não chỉ có thể đoạn diệt bằng trí tuệ.

Khi sự tu tập hoàn thiện, trí tuệ phát triển và nhờ trí tuệ này (tuệ giác hoặc tuệ Thiền Minh Sát) diệt trừ phiền não. Chỉ có Phật giáo mới có thể diệt trừ toàn bộ phiền não - nghĩa là đạt Níp bàn. Ðây là sự biểu thị mà sự tu tập Bát Chánh Ðạo phát triển trí tuệ.

Những câu hỏi cuối cùng liên quan với chủ đề quan trọng của Níp bàn.

a) Níp bàn là gì?
b) Níp bàn ở đâu?
c) Chúng ta sẽ nhận thức Níp bàn bằng cách nào?

(Nghĩa là, nếu chúng ta tin tưởng có Níp bàn tồn tại)

Ðây là những câu hỏi tốt đẹp để chất vấn, vì rằng tất cả Phật tử đều muốn chấm dứt khổ. Ðể chấm dứt khổ chúng ta phải đạt Níp bàn. Chúng tôi sẽ trả lời ngắn gọn những câu hỏi này, nhưng khi chúng ta tu tập thành công, chúng ta sẽ hiểu sâu sắc hơn.

a) Níp bàn là gì?

Níp bàn là đối tượng của một khoảnh khắc đạo ngắn ngủi. Níp bàn là thực thể tối cao, hoặc trạng thái thật của bản chất vạn vật. Khoảnh khắc này có Níp bàn là đối tượng, tận diệt phiền não và chấm dứt khổ. Khổ là "chúng ta" (rūpa-nāma). Nếu không có "chúng ta" (nāma-rūpa) không có khổ chẳng hạn như lão, bệnh và tử v.v...¸ - vì không có 5 uẩn trong trạng thái Níp bàn. Năm uẩn là khổ đế (dukkha sacca).

Mỗi người chúng ta được tạo nên bởi ngũ uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Hoặc đơn giản hơn, Năm uẩn này là sắc (rūpa) và danh (nāma). Phần thứ tư của 5 thành phần trên là thức. Năm uẩn là khổ đế, hoặc đế thứ 1 của Tứ Diệu Ðế. Khổ đế hiện hữu nhưng chúng ta thường không trông thấy nó. Nó được tạo nên bởi phiền não (kilesa) và tham ái này tạo nên chúng ta. Phiền não đó tạo nên chúng ta ở với chúng ta lâu dài - trừ phi làm một điều gì để chấm dứt nó.

b) Níp bàn ở đâu?

Níp bàn không phải là một nơi chốn. Nó không ở bất cứ nơi nào. Không một ai, ngay cả không có người nào có thần thông có thể nói Níp bàn ở chỗ nào. Níp bàn không phải là thiên đường; nó giống như gió: chúng ta chỉ biết được nó bằng những tác động của nó. Níp bàn là đối tượng của một khoảnh khắc đạo rất đặc biệt. Nó là một đối tượng tâm của khoảnh khắc đạo này.

Một người bình thường bị chìm đắm trong phiền não, như khi vị này thực hành thiền Thiền Minh Sát và tuệ minh sát xuất hiện, tâm của vị này trở nên trong sạch. Ðiều này được gọi là khoảnh khắc đạo hoặc quả. Hai hình thức này có Níp bàn làm đối tượng (tuệ thứ 14 và 15 của 16 tuệ minh sát.

Níp bàn không phải là tâm. Nó chỉ là đối tượng của tâm. Khi tuệ Thiền Minh Sát rất mạnh mẽ, tâm của người bình thường chuyển sang tâm của Bậc Cao Thượng. Sự thay đổi này được gọi là khoảnh khắc đạo. Nó được đi theo ngay bằng quả đạo. Cả hai đều có Níp bàn là đối tượng của chúng. Khi nhân của khổ bị đoạn diệt, khổ (quả) bị đoạn diệt bởi khoảnh khắc đạo đặc biệt cho đạo đó. Bốn đạo đi đến giác ngộ là nhập lưu, nhất lưu, bất lưu và A la hán. Có mười sự trói buộc (kiết sử) khiến cho chúng ta không đạt được giác ngộ trọn vẹn:

1. Thân kiến
2. Hoài nghi về giáo pháp của Ðức Phật
3. Giới cấm thủ (Ðiều này ý nói đến những người tin vào nghi lễ như nhang đèn hay cúng kiến nhiều để mong cầu đạo quả Níp bàn).

4. Tham dục
5. Sân hận
6. Ái sắc
7. Ái vô sắc.

(Sự hiện hữu của ái sắc là một sự hiện hữu ở đó vẫn có Thân. Sự hiệu hữu vô sắc ở đó chỉ có Danh. Như vậy cả hai sự trói buộc này (6 và 7) đề cập đến những loại hiện hữu thuộc cõi trời)

8. Ngã mạn
9. Trạo cử
10.Vô minh

Như vậy, đối với Ðạo thứ nhất khoảnh khắc đạo Nhập lưu đoạn diệt 3 sự trói buộc đầu tiên; đối với Ðạo Thứ Hai, khoảnh khắc đạo nhất lại làm yếu đi hai sự trói buộc kế tiếp; đối với Ðạo Thứ Ba, khoảnh khắc đạo bất lai đoạn diệt hai sự trói buộc bị yếu đi; và đối với Ðạo Thứ Tư, khoảnh khắc đạo A la hán đoạn diệt 5 sự trói buộc còn lại.

c) Chúng ta sẽ nhận thức Níp bàn bằng cách nào?

Ðể nhận thức được Níp bàn, chúng ta phải tu thập Thiền Tứ Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna) đúng phương pháp. Nếu tu tập đúng Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất dẫn đến giác ngộ. Ðức Phật dạy: "Này chư tỳ khưu con đường này (được trình bày trong bài kinh Ðại Niệm Xứ (Mahasatipathana) là một con đường và con đường duy nhất để thanh lọc tất cả chúng sinh.

Satipaṭṭhāna là đầu tiên, và nền tảng của 37 phẩm trợ đạo đóng góp cho sự giác ngộ. Và 37 phẩm chất dẫn đến sự nhận thức Tứ Diệu Ðế, như đức Phật đã thực hiện. Khi tâm đã thanh lọc phiền não, chúng ta sẽ tự mình chứng ngộ - chúng ta không cần đến bất cứ ai chỉ bảo - bởi vì Níp bàn là bản chất thật (sabhava) và điều này do tự mình chứng ngộ. Trong câu kệ của Chư Tăng, đây là "Paccatan veditabbo vinnuhi" "hãy tự mình nhận thức bản thân).

 

1.2. NHỮNG GIAI ÐOẠN TUỆ GIÁC

Ðức Phật đã trải qua ba giai đoạn này khi ngài nhận thức ra Tứ Diệu Ðế. Ngài đã tự mình chứng ngộ ba giai đoạn tuệ giác, bởi vì không có vị thầy nào chỉ dạy ngài.

1.2.1 Tuệ thật (Cacca-ñāṇa)

Ở giai đoạn trí tuệ đầu tiên, được gọi Tuệ thật- sacca-ñāṇa, ngài nhận thức được:

1. Khổ đế (Dukkha Sacca) có 11 loại: sinh (có 5 uẩn) già (có 5 Khandha) chết (có 5 Khandha), sầu, bi, khổ (thuộc thân) ưu (thuộc tinh thần) não, gần người không thích,xa cách người thương mến, cầu mà không được.

Tất cả đau khổ đều bị dính mắc là bởi vì năm uẩn tạo thành (Khandha).

2. Tập đế (Samudaya Sacca): Kammatanna (ái dục), bhavantaṇhā (ái trong sắc), vibhanvataṇhā (ái trong vô sắc) -- (Xem "Tứ Diệu Ðế" 1.4.5)

3. Diệt đế (Nirodha cacca): diệt đế là Níp bàn, là pháp tận diệt Tập đế (sanmadayya sacca). Khi nhân bị đoạn diệt thì quả cũng vậy.

4. Ðạo Diệt Ðế (Magga Sacca): Bát Chánh Ðạo là con đường Trung Ðạo (Majjhima patipada) và sự tu tập độc nhất có thể đạt đến Diệt Ðế.

1.2.2. Tuệ hành (Kicca-ñāṇa)

Ðây là sự tu tập thực sự dựa vào giai đoạn thứ 1. Khổ đế, phải được nhận thức bằng sự tu tập này; Tập đế, cần phải tận diệt bằng cách tu tập. Diệt đế, cần phải đạt đến bằng cách tu tập. Ðạo đế, cần phải phát huy bằng cách tu tập.

1.2.3. Tuệ quả (Kata-ñāṇa)

Kata-ñāṇa là quả, hoặc sự hiểu biết về điều cần được thực hiện về Tứ Diệu Ðế. Ba tuệ (sacca-ñāṇa, kicca-ñāṇa, kata-ñāṇa) được gọi là "Ba tri kiến và tuệ giác" - Ba khía cạnh sự hiểu biết qua trực giác về Tứ Diệu Ðế.

Ðức Phật đã trải qua ba giai đoạn của Tứ Diệu Ðế vào đêm Ðắc Ðạo (4 x 3 = 12 mà ngài đã trải qua). Sau đó ngài nhận ra ba tuệ (sacca-ñāṇa, kicca-ñāṇa, kata-ñāṇa), mỗi lần với Tứ Diệu Ðế.

Hành giả muốn diệt khổ giống Phật, phải hiểu tuệ thứ nhất (sacca-ñāṇa) sau đó tuân theo sự tu tập và hiểu được sự tu tập (kicca-ñāṇa). Sau đó hai tuệ phải kết hợp với nhau, khi chúng ta đang thực hiện sự tu tập hiện nay.

Nếu quý vị nhận thức tuệ đầu tiên (sacca-ñāṇa), và tu tập tầng tuệ thứ hai (kicca-ñāṇa), sau đó những lần với Tứ Diệu Ðế chúng ta có 4 x 2 = 8 đó là ở nơi mà sự tu tập Thiền quán -Thiền Minh Sát của chúng ta bây giờ. Nếu quý vị nhận ra kết quả (kata-nan), đó là 4 x 3 = 12, Tứ đế x 3 khía cạnh = 12 phương thức, ở điểm mà hành giả đạt đến là lokuttara dhamma (pháp siêu thế).

Trong bài pháp đầu tiên sau khi đắc đạo "Kinh chuyển pháp Luân", Ðức Phật đã mô tả Ba giai đoạn Trí Tuệ như sau:

"Này chư tỳ khưu, cho đến ngày nào mà tri kiến về tứ thánh đế cùng với 3 khía cạnh và 12 phương thức mà Như Lai chưa làm sáng tỏ bản chất thật của chúng thì cho đến lúc ấy Như Lai vẫn chưa xác nhận rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương, Phạm Thiên với các chúng Sa môn, Bà là môn, Trời và Người.

Này chư tỳ khưu, nhưng khi nào tri kiến về tứ thánh đế, cộng với 3 khía cạnh và 12 phương thức đã được Như Lai làm sáng tỏ bản chất thật của chúng thì đến lúc ấy Như Lai mới xác nhận trước thế gian gồm Chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên giữa các chúng Sa môn; Bà La Môn, Trời và Người, rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác".

Vả lại tri kiến phát sanh đến Như lai: "Ðối với Như lai, tâm giải thoát hoàn toàn, đây là đời sống sau cùng, không còn tái sanh nữa"-- Tạng Luật, IV, 16, 21.

 

 1.3. BA MƯƠI BẢY PHÁP BỒ ÐỀ PHẦN

Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Quá khứ đã đoạn tận
Tương lai lại chưa đến
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây
Không động, không rung chuyển
Biết vậy nên tu tập
Hôm nay nhiệt tâm làm
Ai biết chết ngày mai -- Trung Bộ Kinh, III, 187

 

Pháp Bồ đề phần là gì (Bodhipakkhiya dhamma)? Bodhipakkhiyadhamma là 37 phẩm trợ đạo góp phần cho sự giác ngộ. 37 phẩm trợ đạo này dẫn dắt hành giả đến Tứ Diệu Ðế, bắt đầu với Satipaṭṭhāna (Tứ Niệm Xứ) - là 4 thành phần đầu tiên của 37 phẩm trợ đạo và kết thúc với Bát Chánh đao.

1.3.1. Niệm xứ (Satipaṭṭhāna)
(sơ đồ 1-1 & 1-2)

Satipaṭṭhāna, thiền tứ niệm xứ là một phương pháp tu tập được sử dụng ở hầu hết các phương pháp thiền ngày nay và được Ðức Phật mô tả như sau:

Này chư tỳ khưu! chỉ có một con đường và con đường duy nhất dẫn đến sự hoàn thiện của con người, để vượt qua sầu, bi, khổ, ưu não để đạt được chánh đạo, chứng ngộ Níp bàn, đó là Tứ Niệm Xứ -- (Trường Bộ Kinh, Satipaṭṭhāna Sutta)

Bốn đối tượng hoặc 4 nền tảng của chánh niệm được đề cập là: Thân (kāya) thọ (vedanā), tâm (citta) và pháp (dhamma)

1. Ðối tượng: quán sát oai nghi ngồi - trong 1 bản ngã

2. Người quan sát: Tinh cần (atapi), Chánh niệm (sati), Tỉnh giác (sampajanna) đây là Tứ niệm xứ thật sự (Ðây là giới, định, tuệ và Bát Chánh Ðạo)

3. Mục đích: tận diệt ham muốn và không ham muốn (abijjha và domanassa) trong 5 uẩn

4. Lợi ích: tận diệt Si mê, nhận thức Tứ Diệu Ðế và chấm dứt khổ

Ðể tu tập Tứ Niệm Xứ là giống như tu tập Bát Chánh Ðạo. Hoặc ngược lại: nếu quý vị tu tập Bát Chánh Ðạo thì quý vị tu tập Tứ Niệm Xứ - bởi vì Tứ Niệm Xứ và Bát Chánh Ðạo là Trung Ðạo. (Ðức Phật dạy tất cả 37 phẩm trợ đạo là con đường Trung đạo)

Tứ Niệm Xứ là căn bản của cơ cấu 37 phẩm trợ đạo, những thành phần này dẫn đến tuệ quán và giải thoát khỏi đau khổ.

Có 44 đối tượng Niệm xứ. Mỗi đối tượng có thể dẫn đến đạo A La Hán. Ví dụ Ananda trở thành bậc Thánh A la hán ở đề mục niệm thân - Kāya-anupassanā, (tiểu oai nghi) (Vị này trong quá trình đang nằm xuống, khi ấy sự giác ngộ diễn ra.

1- Những vật cần thiết của niệm xứ

a) Phải có thân, thọ, tâm hay pháp là một đối tượng
b) Chúng ta phải quan sát đối tượng ở khoảnh khắc hiện tại, với 3 danh: Nhiệt tâm, chánh niệm và tỉnh giác - Ðây là Niệm xứ thật, chúng phát triển thiện pháp để dẫn đến giác ngộ Níp bàn.
c) (a) và (b) ở trên tiến hành đoạn diệt ham muốn và không ham muốn trên "thế gian" (5 uẩn)

1. Thân (kāya)

"Thân trong thân" (trong niệm xứ): Chỉ nhìn một điều ở trong mỗi đối tượng thiền. Khi quý vị nhìn vào thân, chỉ thấy thân trong niệm xứ, không có tâm biết đến nó. Ðây là sự quán sát danh và sắc cùng một thời điểm, và nó không phải là một sự tu tập tốt. Ví dụ, đừng lẫn lộn thân với thọ, thân với tâm hoặc thân với pháp. Chỉ nhận thấy thân trong thân, thọ trong thọ v.v... Nếu quý vị pha trộn các đối tượng khác nhau (nó giống như đọc một trang sách, cuốn này và sau đó một trang của cuốn sách khác v.v... Làm như thế, quý vị không thể hiểu ý nghĩa của cuốn sách đó. Nó giống như việc tu tập. Quý vị phải tu tập theo kinh Ðại Niệm Xứ . Thật sự rất khó khăn để nhận thức được sabhava (không có ngã trong sắc pháp và danh pháp) bất cứ phương pháp nào khác.

2. Thọ (vedanā)

Ðừng quán sát thọ trong sắc pháp. Chỉ quán sát trong thọ. Ví dụ, khi sắc pháp có sự đau đớn, đừng quán sát danh pháp để biết sự đau đớn. Ðiều này có thể dẫn đến những điều rắc rối. Thọ là một đối tượng của niệm xứ, có thể gặp khó khăn bởi vì có 9 loại cảm thọ-kể cả trung tính, thật khó để nhận biết

3. Tâm (citta)

Có 16 loại niệm tâm: Tâm có tham, tâm không tham; tâm có sân, tâm không sân; tâm có si, tâm không si; tâm có tham dục (raga) v.v...

4. Pháp (dhamma)

Có 5 loại niệm pháp:

1. Năm chướng ngại (ngũ triền cái)
2. Năm uẩn
3. Mười hai xứ (ayatana)
4. Thất giác chi
5. Tứ diệu đế

2- Niệm thân (Kāyanupassanā)

Có 14 loại niệm thân, nhưng sự tu tập này chỉ sử dụng có hai loại: oai nghi thân chủ yếu và thứ yếu. Bắt đầu hành giả chỉ nên sử dụng oai nghi thân - trong những oai nghi chủ yếu và thứ yếu - bởi vì thân thì dễ dàng hay biết danh pháp hơn . Sau đó, khi sắc pháp được nhận thức rõ ràng không có chút phiền não, và tuệ minh sát (Thiền Minh Sát) xuất hiện, quý vị cũng sẽ thấy danh pháp (nó giống như lau chùi một tấm gương soi cho tới khi nó thật sạch; như vậy quý vị có thể nhận thấy dễ dàng).

Hơn nữa, niệm thân thích hợp tính khí (carita) của người thời nay (xem các Ðối Tượng Thiền dành cho Những Mẫu Người Khác Nhau) ở các oai nghi chủ yếu và thứ yếu, người ta dễ dàng nhận thấy khổ đau bị che giấu hơn ở những loại niệm thân khác (Ðức Phật dạy chúng ta quên đi sự nhận biết về uy nghi thân mà nó che giấu khổ đau).

Về 14 loại niệm thân, chỉ có 3 là Minh sát thật: Các oai nghi chủ yếu và thứ yếu và các thành phần của thân

3- Tác ý và thực hành (Yosino và Sikkhati)

Ngoài các loại trên, có hai phần hỗ trợ quan trọng cho sự tu tập: tác ý manasikara (có liên hệ với sự biết được lý do cho việc thực hiện các hành động, và ngăn ngừa (phiền não - kilesa) và sikkhati (dùng để quán sát có phải sự tu tập đúng hay sai). Sự tu tập đúng đắn với hai phần này sẽ tạo nên sự nâng cao cho người hành giả-Yogāvacara (nhiệt tâm, chánh niệm và tỉnh giác) và cuối cùng dẫn đến giác ngộ Níp bàn, sẽ chấm dứt khổ.

4- Các đối tượng thiền

Các đối tượng của sự tu tập này là các oai nghi chủ yếu và thứ yếu (thứ yếu là sắc pháp, giúp đỡ oai nghi chủ yếu để chuyển động v.v.. thay đổi các oai nghi) . Niệm xứ thật sự là 3 Danh pháp: Nhiệt tâm, chánh niệm và tỉnh giác. Như lý tác ý và thực hành.

Bổn phận chính của niệm xứ là tận diệt tham muốn và không ham muốn (xem chi tiết, ở phần Ī, thực hành).

Các đề mục thiền đối với những mẫu người khác nhau:

Chúng ta có:

Nên sử dụng đề mục:

1. Ái dục
(với trí tuệ yếu kém)

Thân

2. Tham ái
(Với trí tuệ mạnh mẽ)

Thọ

 3. Tà kiến (tâm là thường còn)
(Với trí tuệ yếu)

Tâm 

4. Tà kiến (thân và tâm là ngã)
(với trí tuệ mạnh mẽ)

 Pháp

Lưu ý:

1. Ái dục dùng thân bởi vì thân dễ dàng hiểu rõ. Lại nữa, nó dơ bẩn, ghê sợ, và giúp để thay đổi tà kiến (Vipallāsa) [3] cho là thân là xinh đẹp v.v...
2. Thay đổi tà kiến cho rằng sắc pháp và danh pháp là hạnh phúc
3. Thay đổi tà kiến cho rằng sắc pháp và danh pháp là thường còn
4. Thay đổi tà kiến cho rằng sắc pháp và danh pháp là ngã (anatta)

5- Thực hành để đoạn tận phiền não

1. Một nơi lợi ích- để tu tập là một nơi yên tĩnh; lại nữa, không thuộc sở hữu của bất cứ ai, như vậy không có phiền não về sự chấp thủ.

2. Pháp thì phải thích hợp với tính khí của hành giả: như người tham ái và trí tuệ yếu kém nên tu tập đề mục niệm thân v.v...

3. Thiền sư thích hợp: Thầy dạy phương pháp phải trực tiếp đến diệt khổ, và nên bắt đầu với lý thuyết theo sau niệm xứ; như vậy hành giả tự biết phương pháp tu tập thiền quán thật. Sự tu tập đích thật dẫn đến trạng thái thật của Bản chất tự nhiên (tuệ thứ nhất: tuệ thấy Danh sắc- Nāma - rūpa - parichadañāṇa). Vị thầy phải mở rộng các câu hỏi, để xóa bỏ bất cứ những hoài nghi nào mà hành giả mắc phải.

4. Thức ăn thích hợp: thực phẩm đó không quá béo, không quá bổ dưỡng. Cũng cần chuẩn bị có những sự kiêng ăn cần thiết cho hành giả.

Ðức Phật dạy nếu nơi hành thiền tốt, thực phẩm tốt, nhưng hành giả không thấy được giáo pháp hành giả nên rời bỏ nơi đó; nhưng nếu nơi ấy không được thuận lợi, thực phẩm không được tốt, nhưng hành giả thấy được giáo pháp, thì hành giả nên ở lại. Mặc dù người ta muốn xua đuổi hành giả đi nơi khác, vị này nên ở lại nếu có những điều kiện tốt để nhận thức được giáo pháp.

5. Khí hậu không quá nóng mà không quá lạnh.

6- Tu học chơn chánh (Satipaṭṭhāna)

Theo đức Phật, tu học chơn chánh:

1. Dẫn đến sự xua tan ảo tưởng về sắc pháp và danh pháp
2. Dẫn đến sự từ bỏ
3. Tận diệt phiền não
4. Ðoạn trừ toàn bộ ham muốn
5. Sẽ đạt được tri kiến
6. Dẫn đến sự hiểu biết Tứ Diệu Ðế
7. Dẫn đến Níp bàn.

Về đề mục 6 khi đạo sĩ Bà la môn, Pattakapada, hỏi Ðức Phật tại sao ngài từ chối trả lời, có phải thế giới là vô tận, nhưng thay vào đó lại nói về Tứ Diệu Ðế, ngài dạy:

Bởi vì câu hỏi đó (Tứ Diệu Ðế), Pattakapada, được tính toán là lợi lộc, là liên quan với Chân lý (dhamma), góp phần cho sự khởi đầu phẩm hạnh tốt đẹp, đoạn trừ tham ái, đi đến sự thanh thản, đi đến sự vắng lặng của trái tim, đến tri kiến thật sự, đến tuệ giác của những tầng Thánh cao hơn, và đến Níp bàn. Do đó, này đạo hữu Pattkapada, Như Lai đã không trả lời". -- (Trường bộ kinh, Sīlakhandharagga)

1.3.2. Tứ Chánh Cần (Sammapadhana) (sơ đồ 1.1)

(Sự nhiệt tâm để đoạn trừ phiền não và không phát huy thêm nữa)

1. Nỗ lực để dứt bỏ các trạng thái akusala (bất thiện)

2. Nỗ lực để ngăn chặn các trạng thái bất thiện (Hai hình thức nỗ lực này đề cập đến những phiền não của tâm được gọi là Níp bàn (5 chướng ngại - Phần 1.8)

3. Nỗ lực để phát huy các trạng thái thiện pháp (Ðiều này có nghĩa đạt đến trí tuệ)

4. Nỗ lực để duy trì các trạng thái thiện pháp. Ðiều này có nghĩa duy trì trí tuệ đó. (Tất cả 4 yếu tố này tùy thuộc vào việc duy trì sát na hiện tại).

Ðiều (3) đủ cho việc thực hành Tứ Niệm Xứ. Với (3), hai yếu tố đầu tiên là tự động. Sau đó, (4) được dùng để duy trì khoảnh khắc hiện tại.

Tứ Chánh Cần hợp sức với nhau để phát huy Giới Ðịnh Tuệ trong Bát Chánh Ðạo. Chúng kết hợp với nhau để quan sát một đối tượng trong niệm xứ, để ngăn chặn bất thiện pháp và phát huy thiện pháp.

1.3.3. Tứ Thần Túc (Idhipaddha)

1. Nguyện tu tập để diệt khổ (Chanda)
2. Nỗ lực để diệt khổ (Viriya)
3. Ðịnh tâm để diệt khổ (Tâm)
4. Ðạt trí tuệ để diệt khổ (Vīmaṃsa).

1.3.4. Kiểm soát Ngũ căn (Indriya) (Như đã áp dụng với niệm xứ)

1. Kiểm soát Tín căn (Saddha-Indriya): Trong trạng thái này, tâm trở nên mạnh mẽ, không có sự chán nản. Hành giả tin tưởng rằng niệm xứ là con đường đích thật để diệt khổ.

2. Kiểm soát Tấn căn (Viriya-Indriya) Nỗ lực kiểm soát tâm; loại trừ sự lười biếng trong tu tập.

3. Kiểm soát niệm căn (Sati-Indriya): Chánh Niệm trở nên rất mạnh mẽ. Không quên oai nghi ngồi

4. Kiểm soát Ðịnh căn và biết oai nghi ngồi (Sanmadhi - Indriya): Tâm ở trong sát ma hiện tại ở niệm xứ.

5. Kiểm soát Tuệ căn (panna-Indriya): Tận diệt si mê. Kiểm soát tâm, như vậy biết toàn bộ oai nghi ngồi của sắc pháp.

1.3.5. Ngũ Lực làm bớt Não (Bala)

(Năm lực có cùng những nhiệm vụ như ngũ căn, nhưng mạnh mẽ hơn)

1. Tín lực (Saddha Bala): Phát triển đức tin trong tu tập, và tin chắc sự tu tập là đúng

2. Tấn lực (Virriya bala): Tâm tấn lực là mạnh mẽ hơn và có thể đoạn trừ phiền não (như với "nhận thấy danh pháp", biết nó không phải là "hành giả" đang thấy, v.v... tấn lực có thể ngăn chặn tâm vẩn vơ (phóng dật) và 5 chướng ngại)

3. Niệm lực(Sati Bala): Tâm duy trì ở sát na hiện tại

4. Ðịnh lực (Samadhi Bala): Tâm nhận thấy oai nghi ngồi rất rõ ràng.

5. Tuệ lực (Panna Bala): Trí tuệ trở nên rất mạnh mẽ, và có thay đổi tà kiến là "hành giả ngồi" Tuệ lực có thể tiêu diệt phiền não, bởi vì trí tuệ trở nên mạnh hơn phiền não.

Thông thường những người mới bắt đầu tu tập,vô minh và tham ái rất mạnh mẽ. Nhưng bằng giai đoạn sức mạnh, vô minh và ái dục bị đẩy sang một bên. Sau đạt được tầng trí tuệ đều tiên là tuệ thấy Danh sắc (Nāma-rūpa parachedañāṇa), Ðịnh và Tuệ tương đương nhau. Trước thời điểm này, Ðịnh sẽ luôn luôn mạnh mẽ hơn.

1.3.6. Thất giác chi (Bojjhanga)

Giác chi là một trí tuệ rất mạnh mẽ dẫn đến sự mở đầu của Bát Chánh Ðạo và sau đó dẫn đến giải thoát. Ðạo bắt đầu với niệm xứ.

1. Niệm giác chi (Sati-Sambojjhanga)

Niệm trở nên rất mạnh mẽ: ở mức độ này hành giả chắc chắn sẽ đạt được Tứ Diệu Ðế; và trở thành Ariya-puggala (Bậc Cao Thượng). Bởi vì niệm hoàn hảo, hành giả phải:

a) Có niệm tỉnh giác trong niệm xứ
b) Không có mối liên hệ với những người không tu tập
c) Luôn luôn sống với hiện tại bằng tất cả 4 oai nghi, và với danh pháp và sắc pháp.

2. Trạch pháp (dhammaVicaya-Sanbojjhanga)

Truy xét hoặc thẩm định giáo pháp: Ðây là trí tuệ nhận ra được danh và sắc là vô thường, khổ và vô ngã. Trí tuệ này phải hoàn hảo. Ví dụ:

a) Sự tu tập phải được quân bình. Nếu có quá nhiều đức tin, tham ái có thể thâm nhập; nếu có quá nhiều trí tuệ, hoài nghi sẽ mạnh lên.

Tấn và định cũng phải được quân bình. Nếu có quá nhiều tinh tấn, trạo cử sẽ phát triển. Nếu có quá nhiều định, tấn sẽ bị thấp đi. Hành giả có thể trở nên quá mãn nguyện, và có thể bị kẹt lại ở tuệ thứ 12, và phải bắt đầu trở lại.

b) Xúc chỉ có những người đã nhận thức được trạng thái Thật của Bản chất tự nhiên (sabhava)

3. Tinh tấn giác chi (Viriya-Sambojjhanga)

Tấn trở nên mạnh mẽ. Mười một pháp phải hoàn thiện. Ví dụ:

a) Có nhiều nghị lực hơn để duy trì sự tu tập, bởi vì ở mức độ này, có một cảm giác cho rằng thật đau khổ để đi tái sinh ở những đường ác đạo

b) Hành giả cũng cần có thêm nhiều nỗ lực, bởi vì vị này chắc chắn rằng niệm xứ là con đường duy nhất để diệt khổ.

4. Hỷ giác chi (Pati-Sambojjhanga)

Sự thỏa thích hỉ lạc này xuất hiện từ tuệ minh sát và nó không phải loại hạnh phúc thế tục do phiền não tạo nên. Mười một pháp phải được hoàn thiện. Ví dụ:

Hành giả suy niệm về những phẩm hạnh tốt đẹp của Phật, Pháp, Tăng, giới và Níp bàn.

5. Khinh an giác chi (Passadhi- Sambojjhanga)

Trí tuệ này có ba đặc tính của danh và sắc (vô thường, khổ não và vô ngã) là đối tượng của chúng. Bảy pháp phải được hoàn thiện, ví dụ:

a) Hành giả phải luôn luôn có chánh niệm tỉnh giác nghĩa là có sự nhận biết ở từng sát na hiện tại.
b) Phải có mối liên hệ chỉ những người đã có tâm an lạc và hiểu được Bản chất thật của vạn vật.
c) Chỉ ăn uống vật thực để duy trì thân xác, để tu tập và diệt khổ.

6. Ðịnh giác chi (Samadhi-Sambojjanga)

Mười một pháp phải được hoàn thiện. Một số của những pháp này là:

a) Ðức tin và trí tuệ phải quân bình
b) Tinh tấn, trí tuệ và hỉ lạc phải hết sức mạnh mẽ để đưa hành giả đến thánh đạo tám ngành.
c) Chánh niệm tỉnh giác ở từng khoảnh khắc trong từng tư thế.

7. Xã giác chi (Upekkhā-Sambojjhanga)

Năm pháp phải được hoàn thiện. Ví dụ:

a) Hành giả phải nhận thức rằng danh và sắc pháp là trạng thái thật của vạn vật (không có đàn ông, đàn bà) và danh và sắc là kết quả của nghiệp - không có điều gì có thể tác động đến chúng .

b) Phải có chánh niệm, tỉnh giác từng sát na ở mọi tư thế.

Lưu ý:

1. Mỗi mỗi yếu tố bồ đề phải có tam tướng: vô thường, khổ và vô ngã làm đối tượng của chúng.

2. Mỗi giác chi phải xuất phát từ niệm xứ, sau đó nó trở nên mạnh mẽ hơn và trở thành trí tuệ. Khi hành giả (3 danh) tu tập niệm xứ cho đến khi có giác chi hoàn hảo, sự tiến lên thánh đạo đã đạt được. - dẫn đến sự giác ngộ.

1.3.7 Bát Chánh Ðạo

Ðây là tám yếu tố cuối cùng của 37 phẩm trợ đạo. Bát Chánh Ðạo vừa là siêu thế vừa là tục đế (lokuttara và lokiya). Khi giác chi trở nên hoàn thiện, nó trở thành siêu thế (Ariya Magga). Ở điểm này Níp bàn trở thành đối tượng.

Ðiều quan trọng rằng người ta nhận thức được Bát Chánh Ðạo, chứ không phải theo nó. Ví dụ, sau khi 7 giác chi hoàn thiện, 8 chánh đạo cũng hoàn thiện. Tứ diệu đế do hành giả nhận thức được và Níp bàn thì đạt được. Chính sự tu tập niệm xứ đưa đến sự nhận thức Tứ Ðế. Vì thế niệm xứ đến trước 37 đạo bồ đề - niệm xứ là nhân - và nó là thế tục khi 8 Thánh Ðạo trở nên hoàn thiện, nó trở thành siêu thế khi hành giả nhận thức được Tứ Diệu Ðế. Ðức Phật dạy trong kinh Tương Ưng (Samyuta Nikāya) "Giáo lý của Như Lai về Tứ Diệu Ðế thật thâm diệu và rất khó. Nó là siêu thế và nó là tánh không và trống rỗng(suññatā). Trong tương lai các nhà sư sẽ không lắng nghe giáo lý này bởi vì đối với họ giáo pháp này rất khó hiểu". Miễn là nó là vàng thật - ở đó là chân lý, vàng giả sẽ biến mất. Nhưng khi nào thật không có ở đó, vàng giả sẽ xuất hiện. Ðây là lý do tại sao Phật Giáo sẽ bị suy tàn (Phần bổ sung Bát thánh đạo, xem 1.1.1, 1.4.7).


[1] Họ đã đoàn tụ với nhau vào mấy năm sau đó khi ngài trở về cùng một đoàn tùy tùng gồm các chư tăng và tín đồ, với tư cách là Một Bậc Giác Ngộ.

[2] Giải thích đầy đủ hơn về những thuật ngữ Pāli, hãy xem phía sau sách

[3] Tà kiến:

a) thân thì xinh đẹp
b) Thân và tâm thì hạnh phúc
c) Thân và tâm thì thường hằng
d) Thân và tâm là ngã

 

1.4. TỨ DIỆU ÐẾ (ARIYA SACCA)

Ở phần trước (1.3), chúng ta đã nhận ra rằng mục tiêu của 37 phẩm Bồ đề là Tứ Diệu Ðế (hình 1-1). Tứ Diệu Ðế gồm có:

1) Khổ đế (Dukkha Sacca):5 uẩn, danh và sắc là khổ
2) Tập đế (Samudaya Sacca):nguyên nhân của khổ là lòng Tham ái
3) Diệt đế (Nirodha Sacca) ; diệt đế là Níp bàn
4) Ðạo đế (Magga Sacca): chính là thánh đạo tám ngành.

1.4.1. Những nét đặc trưng của Tứ Diệu Ðế

1- Khổ đế:

Mang nét đặc trưng của sự bất an, không có khả năng giữ bản chất giống nhau. Cả thân lẫn tâm đều bất an. Thân bất an là do khổ thọ, và tâm liên tục tìm một đối tượng dục lạc mới - để được hạnh phúc, nhưng thực tế khi ấy họ đang chịu sự khổ đau. Người diệt khổ, luôn luôn không tìm kiếm và bó buộc vào những đối tượng dục lạc khác nhưng luôn khi được an vui và thoải mái.

2- Tập đế:

Nguyên nhân của lòng Ái dục. Sắc và danh pháp chẳng bao giờ ngừng hoạt động; thấy, nghe, xúc, thọ, xem xét (tầm) và quyết định, v.v...

3- Diệt đế:

Mang nét đặc trưng của sự thoát khỏi bất an, bởi vì nó không còn tham ái (taṇhā), đạt được sự an lạc của Níp bàn.

4- Ðạo đế:

Mang nét đặc trưng bởi có những phẩm chất thích hợp cần thiết để nhận ra Tứ Diệu Ðế và đạt Níp bàn.

1.4.2. Áp dụng Tứ Diệu Ðế

1. Nhận thức được sự khổ (khổ là 5 uẩn: sắc pháp và danh pháp). Ðây không phải là cái khổ bình thường (đau nhức) nhưng là sự khổ cố hữu (dukkha - sacca).
2. Tập đế là nguyên của đau khổ
3. Diệt đế là con đường không còn đau khổ
4. Tiếp theo là Bát Chánh Ðạo dẫn đến sự nhận chân Tứ Diệu Ðế.

1.4.3. Sự tu tập như thế nào để phù hợp Tứ Diệu Ðế

1. Nó cho thấy chân lý của sự khổ (khổ đế): Và như vậy chúng ta tu tập để nhận ra khổ. Khổ là danh sắc.

2. Nó cho thấy những phiền não dẫn đến đau khổ. Như vậy chúng ta phải tu tập để đoạn trừ ái dục. Chúng ta càng ý thức được khổ, thì tham ái (taṇhā) bị tận diệt. - vì tham ái có tri kiến cho rằng sắc pháp và danh pháp là "chúng ta = ngã" và do đó "chúng ta" khổ.

3. Sự giảm bớt phiền não dẫn đến sự đoạn diệt (nirodha) bởi vì tham ái càng bị đoạn diệt, hành giả càng tiến gần níp bàn.

4. Càng tiến đến đoạn diệt, càng phát triển 8 chánh đạo

Nếu trí tuệ nhận thức được khổ đế, sau đó nhận thức được toàn bộ Tứ Diệu Ðế, và sự tu tập được hoàn thiện.

1.4.4. Khổ đế

Chúng ta (danh sắc) luôn luôn đau khổ trong kiếp sống này. Ðây là khổ đế và không thể điều trị được. Danh và sắc luôn luôn khổ ở mỗi tư thế, và mọi thời điểm.

Có hai loại khổ cơ bản:

a) Khổ vì phiền não hay khổ tâm
b) Khổ vì quả hay khổ thân.

Loại thứ nhất có thể loại trừ ngay kiếp sống này, ngay tại thế gian này, bằng cách tu tập Minh sát tuệ cho tới khi đạt được quả A la hán. Loại thứ hai, quả không thể đoạn trừ trong kiếp sống này. Nếu một vị A la hán còn sống, vị này vẫn còn khổ vì quả. Vipāka có nghĩa là "quả", và ở trường hợp này đề cập đến khổ là kết quả tự nhiên của việc tái sinh, có danh sắc (nguyên nhân của khổ tập).

Danh pháp và sắc pháp chính là kết quả sự tái sinh, được tạo nên bởi vô minh và ái dục. Ðiều này chỉ có thể đoạn diệt bằng cách không tái sinh (đạt đến Níp bàn trọn vẹn) và như vậy loại trừ ngũ uẩn.

1- Bốn loại khổ

1. Khổ thọ (dukkha vedanā) (thường đau đớn trong thân - và danh pháp biết được nó - đau khổ tinh thần do đau khổ thân xác tạo nên. Ngoại trừ với một vị A la hán, chỉ cảm thấy đau đớn thân xác.)

2. Hành khổ (sankhana dukkha) (trong tu tập, sự đau đớn được thay đổi hoặc được điều trị bằng cách thay đổi tư thế. Ðiều này khó nhận thấy hơn khổ thọ)

3. Hoại khổ (dukkha lakkhana) (tri kiến cho thấy rằng khổ được nhận thấy ở sắc pháp và danh pháp có 3 đặc tính (tam tướng). Ðiều này được nhận thấy ở Tuệ thứ 4 trong 16 tuệ - Tuệ sanh diệt (udayabbhaya-ñāṇa)

4. Khổ đế là chân lý đau khổ hiện có, và chúng ta không thể thay đổi được điều gì - và đây là chân lý thật sự. Và chúng ta không thể thay đổi già, bệnh, và chết. Khổ với phiền não có thể bị đoạn trừ bằng cách đạt được quả vị A la hán; nhưng đây là khổ với quả và chỉ có thể thay đổi được bằng cách không còn tái sinh nữa.

Khổ thọ giống như một bệnh nhân trong bệnh viện. Hành khổ giống như một y tá cảm thấy không được thoải mái khi phải săn sóc bệnh nhân.

Những hành giả mới bắt đầu tu tập phải nhận ra khổ thọ trước tiên, bởi vì nó dễ dàng nhận thấy hơn. Sau đó, tiếp theo là hành khổ, nó khó nhận thấy hơn khổ thọ.

Hoại khổ đòi hỏi trí tuệ minh sát.

Khi khổ đế được hành giả nhận ra bằng trí tuệ, sau đó hành giả sẽ thấy chỉ có khổ trong thế gian, và không có hạnh phúc. Khi hành giả thấy được khổ đế, lập tức sẽ nhận thức tất cả Tứ Diệu Ðế

2- Mười một loại Khổ đế mà Ðức Phật khám phá:

Quả:

1) Sanh (của 5 uẩn)

2) Già (của 5 uẩn)

3) Chết (của 5 uẩn)

Khổ với phiền não:

4) Sầu

5) Bi

6) Khổ

7) Ưu

8) Não

9) Gần người không thích

10) Xa cách người thương mến

11) Mong cầu mà không được

Tất cả đều khổ đau, là đang bám víu vào chúng - được tạo nên bởi 5 uẩn.

Bất cứ ai thỏa thích với thân xác
Ở sự thấy, nghe, tưởng, hành và thức
Vị này thỏa thích trong đau khổ, và bất cứ ai
Thỏa thích trong khổ đau sẽ không thoát khỏi khổ đau.
-- (Tương Ưng Bộ Kinh, XXII 2a)

Những lời trích dẫn trên đề cập đến sự tương phản của khổ, đó là lạc . Bởi vì lạc là vô thường và không thể vững bền, đó là khổ thọ và vì nó không kiểm soát được, nó là vô ngã (anatta).

Ðể chấm dứt khổ, chúng ta phải nhận thức khổ qua sự tu tập. Thấy khổ bằng trí tuệ sẽ dẫn dắt hành giả vượt khỏi sự tái sinh (vata). Bởi vì phiền não rất mạnh mẽ và dai dẳng, nó cần thiết phải dùng trí tuệ để nhận thức khổ và đoạn diệt nó.

Khi quán sát khổ, người ta phải dùng sắc pháp và danh pháp trong khoảnh khắc hiện tại làm đối tượng, bởi vì sắc pháp và danh pháp là khổ đế. Chúng ta càng nhận thức khổ bằng trí tuệ, thì càng đạt nhiều lợi ích từ sự tu tập. Lợi ích này là sự diệt bỏ tham ái. Càng nhận thấy nhiều hạnh phúc, thì đau khổ càng không được nhận ra và không đạt được lợi ích từ sự tu tập. Một số hành giả thay vì nhận thấy khổ, lại thỏa thích trong hạnh phúc, thay vì định (samadhi), và họ càng yêu thích nó. Những gì họ yêu thích, thực sự là Năm Uẩn. Năm Uẩn có khổ thọ, lạc thọ và xã thọ - như vậy đặc biệt họ thích lạc thọ trong 5 uẩn. Cảm nhận điều này, hành giả tưởng nó là Níp bàn. Cảm giác này (lạc thọ) không thể loại trừ phiền não, và mang lại kinh tởm với sắc pháp và danh pháp, như là Níp bàn thật sự (Níp bàn là vượt khỏi Ngũ Uẩn).

3- Khổ trong lục căn

Sự sinh ra của 5 uẩn (danh và sắc) là khổ đế. Khổ đế xuất hiện bởi sáu căn môn (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thức, thân). Ví dụ, khi mắt gặp đối tượng là sắc uẩn. Nhưng thấy (hoặc nghe v.v...) là thức uẩn. Thức uẩn là bao gồm 3 sở hữu: thọ, tưởng và hành uẩn. Như vậy tất cả, nó tạo nên 5 uẩn, và khi 5 uẩn xuất hiện, nó là khổ đế. Sự việc giống như vậy đi qua các căn môn khác, nhãn, nhĩ, thiệt v.v... Trong Phật giáo, chúng ta nói "thế giới", chúng ta muốn nói đến thế giới Uẩn (Khandha) hoặc thế giới căn xứ (ayatana).

Vishira Theri, tỳ khưu ni, và là một vị A la hán vào thời đức Phật, đã nói "Chỉ có khổ xuất hiện. Chỉ có khổ hiện hữu. Chỉ có khổ là tồn tại. Không có khổ không có bất cứ điều gì".

1.4.5. Tập đế (samudaya)

Tập đế là nguyên nhân của đau khổ - đó là tham ái . Có ba loại tham ái:

1. Tham dục (Kama-taṇhā) của ngũ căn (Sắc, thinh, hương, vị, xúc) đối với Kammacunda - dục lạc hoặc các đối tượng hoặc các đối tượng dục lạc. Nếu không có dục lạc trong các đối tượng dục lạc, thì không có tham dục. Ví dụ, nếu hành giả có thu thúc lục căn (indriyacamvara-sīla) với tất cả 5 căn, hành giả sẽ không có tham dục ở thời điểm đó. Tham dục hoàn toàn bị đoạn trừ ở bậc thánh A Na Hàm (Anagami)

2. Tham muốn tái sinh ở sắc giới (Bhavataṇhā)

"Bhava" có nghĩa đen là "hữu" đề cập đến kiếp sống liên tục tái diễn từ sự tái sinh. Có 31 cõi (bhava), hoặc những trạng thái hiện hữu, có phạm vi từ sanh ra ở những trạng thái khổ sở cho đến những trạng thái cao nhất siêu phàm. Tham ái sắc giới gây cho con người đau đớn đến chết hoặc thương tích trầm trọng hoặc tàn tật bám víu vào đời sống và sự chết. Tham ái sắc giới bị phá hủy hoàn toàn ở bậc thánh A la hán.

3. Ham muốn tái sinh ở cõi vô sắc (Vibhavatanna)

Ðây là quan điểm "hủy diệt" cho rằng chỉ có một đời sống và chết là hết. Như vậy, bởi vì chỉ có một đời sống duy nhất, người theo thuyết hủy diệt muốn đạt được nhiều lạc thú càng thích trong khi còn sống. Sát na đạo Nhập Lưu đoạn trừ được thân kiến (vibhavataṇhā).

4. Mọi người đều có tham dục, nhưng với tham dục có nghĩa là chúng ta vừa có tham dục, vừa ái sắc giới, chúng ta ham muốn sống cả sắc giới và vô sắc giới.

Tất cả 4 loại ái dục ở trên dẫn đến tái sinh một kiếp sống mới.

1.4.6. Diệt đế (Nirodha-sacca)

Diệt đế là sự đoạn diệt khổ. Diệt đế và Níp bàn thì giống nhau. Níp bàn là pháp diệt trừ phiền não.

Sự việc này được thực hiện bằng cách đoạn diệt nhân của khổ, tập hoặc ba thành phần của tham ái. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi của Níp bàn không có khổ, vì 5 uẩn đã đoạn diệt, sự kiện này xảy ra hết sức ngắn ngủi trong một sát na ý tưởng được gọi là tâm đạo (xem 1.1.1) khi hành giả nhận thức được khổ bằng trí tuệ, sau đó vị này biết rằng tham ái là nhân và vì thế vị này biết rằng phải từ bỏ tham ái. Khi nhân này bị đoạn diệt thì quả cũng thế.

Nếu tham ái hoàn toàn bị tận diệt, và rồi hành giả sẽ đạt được Níp bàn và đạo quả A la hán. Nếu hành giả không nhận ra được tham ái là nguy hại, vị này không thể đạt được Níp bàn - và như vậy đoạn diệt khổ. Níp bàn là:

Sự dập tắt lửa tham, lửa sân và lửa si, không duyên; mục đích tối cao của Phật giáo, sự giải thoát cuối cùng, sự dập tắt tất cả phiền não và đau khổ [1] .

Ðặc tính của Níp bàn là an lạc, vắng lặng và đoạn diệt phiền não. Người nhận thức Níp bàn là tốt lành và ham muốn đạt tới cũng là người nhận ra được "khổ" trong thế gian (5 uẩn). Nếu ai đó cho rằng thế gian là hạnh phúc, Níp bàn là vô nghĩa đối với họ.

Không có sanh tử trong Níp bàn. Không còn sắc pháp và danh pháp nữa, hoặc Năm Uẩn; sắc pháp và danh pháp không còn là đối tượng của thiền. Níp bàn không phải là một nơi chốn, nhưng nó vẫn tồn tại. Nó giống như ngọn gió; hành giả chỉ nhận biết ra nó bằng sự tác động của nó. Níp bàn là đối tượng của tâm tuyệt đối hay đặc biệt, nó là tâm đạo. Một người bình thường bị đắm chìm trong tham ái và tâm đạo không thể sinh khởi trong tám vị này- trừ khi vị này tu tập thiền minh sát. Như vậy khi vị này tu tập thiền minh sát, tâm của vị tu tập này trở nên trong sạch và điều này được gọi là tâm đạo, có Níp bàn làm đối tượng. Níp bàn không phải là tâm, Níp bàn là đối tượng của tâm, đó là tâm đạo.

Người đạt Níp bàn tự mình chứng ngộ - vị này không cần vị thầy chỉ dạy. Không ai có thể đạt Níp bàn mà vị này không tu tập minh sát tuệ, để thành tựu tâm đạo.

Níp bàn là sự diệt khổ, nhưng hành giả không thể đạt níp bàn trừ phi hành giả theo Bát Chánh Ðạo. Có hai loại Níp bàn.

1. Hữu dư Níp bàn (Saupadisesa-nibbāna). Ðiều này có nghĩa là diệt trừ phiền, nhưng 5 uẩn vẫn còn hiện hữu.

2. Vô dư Níp bàn (Anupadisesa-nibbāna) . Ðây là sự chết của thân và tâm của một vị không còn phiền não, và được gọi là đại Níp bàn.

1.4.7. Ðạo đế (magga- sacca)

Ðạo đế là Bát Chánh Ðạo, con đường dẫn đến thoát khổ. "Magga" có nghĩa là đạo, hay đường, nó dẫn đến Níp bàn, đó là pháp diệt khổ. Chỉ có một con đường duy nhất đó là Bát Chánh Ðạo và con đường (đạo) đó được tu tập bằng Tứ niệm xứ, là con đường đầu tiên của 37 pháp bồ đề phần, và dẫn đến sự trong sạch, hoặc đoạn trừ phiền não. Bát Chánh Ðạo gồm có Giới Ðịnh và Tuệ là con đường duy nhất để diệt khổ.

Bát Chánh Ðạo

Trí tuệ (paññā):

1. Chánh kiến (Samma Diṭṭhi)

Nhận thức Tứ Diệu Ðế, là nhận thức (sabhava dhamma) của bản chất thật của các chân lý. Nếu nó là thế tục, danh-sắc làm đối tượng. Nếu nó là siêu thế, níp bàn làm đối tượng.

2. Chánh tư duy (Samma sankapa)

Nekkhamma: sự tu thân (xuất gia), Abyāpada: không sân, và ahiṃsā: vô hại, không sân. Chức năng của chánh tư duy rất quan trọng. Nó được dùng để giúp: nhiệt tâm, chánh niệm, tỉnh giác tiến triển đúng trong niệm xứ.

Giới (Sīla):

3. Chánh ngữ (Samma vacca)

Không nói dối, trụy lạc, nói lời vô ích, hoặc nói lời vô hại đến kẻ khác. (Cội rễ của 4 hành động bất thiện là tham,sân, si. Nếu có chánh ngữ chúng không thể xảy ra.

4. Chánh nghiệp (Samma Kammanta)

Các giới luật - ví dụ; không làm hại các sinh vật (Chánh tư duy đảm bảo chánh nghiệp).

5. Chánh mạng (Samma ajiva)

Không có nghề nghiệp gây hại, như mua bán vũ khí v.v... (Ngay cả ăn để điều trị đau khổ là một hình thức chánh mạng)

Ðịnh (Samadhi):

6. Chánh tinh tấn (Samma vayama)

Tứ chánh cần để loại bỏ phiền não. Tứ chánh cần (xem 1.3.2.) giúp cho định (samadhi) và tuệ (trí tuệ) xuất hiện

7. Chánh Niệm (Samma Sati)

Ðề cập đến chánh niệm ở tứ niệm xứ. Chánh niệm dựa vào Chánh tinh tấn để phát huy.

8. Chánh Ðịnh (Samma Samādhi)

Nhất tâm, trong khoảnh khắc hiện tại, trong niệm xứ. Ðể hoàn thiện, Chánh định cần có sự hỗ trợ từ Chánh Tinh Tấn và Chánh Niệm.

Ðể có Chánh Ðịnh đúng đắn, đối tượng của nó phải xuất phát từ Tứ Niệm Xứ.

Chúng ta định nghĩa "Ðạo" là gì? Chỉ có một con đường (Ðạo) duy nhất, con đường dẫn đến giác ngộ. Nhưng "Ðạo" có 8 yếu tố. Như vậy Bát Chánh Ðạo giống như một loại thuốc có 8 thành phần, nhưng cần thiết chỉ dùng 1 viên duy nhất.

Ðức Phật khám phá 8 chánh đạo, và trước thời của ngài không có.

Bát Thánh Ðạo là con đường Trung đạo. Trung đạo là tận diệt si mê. Khi si mê bị tiêu diệt hoàn toàn, người ta nhận ra Tứ Diệu Ðế.

Thực tế Bát Chánh Ðạo là 8 sở hữu tâm. Nó không có ngã hoặc linh hồn, không phải đàn ông, đàn bà. Nó là sabhava [2] . Như vậy thì không có ai nhận ra khổ (dukkha sacca), không có ai đoạn tận Samudaya (tập đế), không có ai đạt diệt đế (nirodha sacca) hoặc Níp bàn, không có ai phát huy đạo đế (magga sacca) [3].

1.4.8. Trí tuệ thực chứng Tứ Diệu Ðế

1. Trí tuệ nhận thức được khổ cũng dập tắt Vipallāsa (ảo tưởng) - nghĩa là thân - tâm là thường còn v.v...

2. Trí tuệ nhận ra samdaya (tập đế) thay đổi được tà kiến cho rằng chúng ta được tạo nên bởi một sức mạnh cao hơn, thay vì là quả của nhân.

3. Trí tuệ nhận ra diệt đế sửa đổi tà kiến về Níp bàn giả tạo, được tạo ra bởi định tâm

4. Trí tuệ nhận ra đạo đế đoạn trừ bất cứ sự bám víu vào sự tu tập sai lạc và chỉ cho thấy con đường đích thật (đạo) để diệt khổ.

Bởi vì tham ái bị đoạn trừ (nhân), thế gian của 5 uẩn (Khandha) bị tiêu diệt, và như vậy khổ bị tiêu diệt. Trí tuệ nhận thức được Tứ Diệu Ðế chỉ có trong Phật giáo.

1.4.9. Kết luận

Như trong Thanh Tịnh đạo có nói, Khổ đế giống như một vật nặng nề. Tập đế thì giống như người đang mang một vật nặng. Diệt đế là đang đặt vật nặng xuống, như vậy chúng ta cảm thấy khỏe hơn. Ðạo đế là phương cách để đặt vật nặng xuống -- (Samyutta-Nikāya, iii 26).


[1] Tự điển Phật giáo; đại học Phật giáo Rashavoramuni Mahachula, BangKok

[2] Sabhava là trạng thái thật của Bản chất vạn vật. xem phần 1.6.1. với các chi tiết

[3] Chỉ có khổ hiện hữu, không có người khổ được tìm thấy
Hành động, chứ không có người của hành động
Níp bàn, chứ không có người nhập níp bàn
Con đường, chứ không có người du lịch trên con đường
-- (bài kệ xưa, trích dẫn trong Visuddhi-magga, XVI)

 

1.5. THIỀN MINH SÁT

Tuệ Minh Sát [1]  là phương pháp tu tập độc nhất có thể dẫn dắt hành giả đi đến diệt khổ. Ðây là mục đích cao cả nhất của Phật giáo, và như vậy hành giả nên hiểu biết Thiền Minh Sát là gì?

1. Thiền Minh Sát là một hình thức trí tuệ (pañña) biết danh sắc là vô thường, khổ và vô ngã (không có đàn ông, đàn bà). Những loại trí tuệ khác là không phải là Tuệ minh sát (vipassanā-ñañā); chỉ có trí tuệ này mới biết điều này. Thanh tịnh đạo (Visuddhi Magga) nói rằng đây là một loại "trí tuệ kỳ diệu" đặc biệt.

2. Ðối tượng của Thiền Minh Sát là danh và sắc trong sát na hiện tại. Nếu hành giả nhận biết một điều gì, ngoài sắc và danh của bản thân mình, hành giả không thể nhận ra Trạng Thái Thật của Bản chất Vạn Vật (sabhava).

3. Nhiệm vụ của Thiền Minh Sát là đoạn trừ phiền não khi nó xảy ra bất cứ nơi nào ở sáu căn môn. Do đó chúng ta phải tu tập quan sát từng sát na hiện tại ở sáu căn môn, bởi vì phiền não xuất hiện ở nơi đó.

4. Lợi ích của Thiền Minh Sát là đoạn tận Vipallāsa (ảo tưởng) cho rằng sắc pháp là xinh đẹp, danh và sắc là trường tồn, hạnh phúc, danh và sắc là của ta.

Khi tuệ minh sát mạnh mẽ, nó sẽ dẫn đến sự chấm dứt khổ (Nirodha) và kể từ đó là Níp Bàn.

5. Sự tu tập Minh Sát Tuệ sử dụng Thiền Tứ Niệm Xứ (Satiptthana) như được vạch ra trong bộ kinh Ðại Niệm Xứ.

Những pháp này (dhamma) rất hữu ích:

a) Sáu nền tảng của Minh sát tuệ- Thiền Minh Sát (bhumi) [2]
b) 16 tuệ
c) Thất tịnh.

Các nền tảng Minh sát là những đối tượng mà chúng ta cần phải quan sát khi tu tập minh sát tuệ, để có được tuệ minh sát phát sanh, có sáu loại:

- Năm uẩn (Khandha)
- 12 xứ (Ayatan)
- 18 giới (yếu tố) 6 căn + 6 trần + 6 thức
- 22 căn
- Tứ Diệu đế
- 12 nhân duyên- Paticcasamuppada.

Tất cả điều này được tóm gọn lại chỉ là danh sắc, bởi vì một người đến với sự tu tập thiền thiền quán là quán sát danh sắc, và nó sẽ mang chân lý đến Tuệ minh sát (Thiền Minh Sát trí tuệ). Chân lý là sự biết rằng danh sắc là vô thường, khổ và vô ngã, trí tuệ (pañña) đó được gọi là Tuệ Minh sát, và có thể đoạn tận phiền não.

Nền tảng Minh sát là pariyatti (pháp học) và nó là sabhava thì hết sức sâu rộng. Hành giả phải tu học "bhumi" cho đến khi hiểu rốt ráo chúng. Khi vị này đến với sự tu tập phải biết cách nào để quan sát chúng (rup nàma). Ví dụ, vị này phải biết về dục giới (coi thuộc nhận thức của giác quan - xứ - Hình 2.1), hoặc Tứ uy nghi (đi, đứng, ngồi, nằm). Nếu vị này thiếu pháp học và không biết cách quán sát danh sắc), vị này không thể tu tập Minh sát đúng cách và pháp học không thể là paccaya (nhân) cho quả bởi vì pariyatti (pháp học), patipatti (pháp hành), và pativedha (pháp thành) dựa vào nhau, và không thể tiến hành riêng rẻ.

Tuệ minh sát phải nhận thức định luật Tự nhiên cho rằng tất cả sự sống (sự hiện hữu) đều có ba đặc tính (tam tướng): vô thường, (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta). Nếu một người không biết được Ðịnh Luật Tự Nhiên, được gọi là vô minh (avijjā). Không biết được Ðịnh Luật Tự Nhiên, người ấy vẫn chịu trong vòng sinh tử luân hồi (samsara-vatta), và không thể dứt khổ. Kinh điển định nghĩa vô minh (Avijjā) là không biết được Tứ Diệu Ðế. Nếu một người không biết Ðịnh Luật Tự Nhiên, người ấy không đạt được Tứ Diệu Ðế, và như vậy là vô minh .

1.5.1.  Ba loại Trí Tuệ Tu Tập (khác biệt với trí tuệ phàm tục):

1. Trí văn (sutta pañña) [3] là sự biết được pháp học hoặc nghe thuyết pháp trước khi tu tập.

2. Trí tư (cinta pañña) là sự biết được bằng cách tu tập, như chúng ta đang thực hiện bây giờ.

3. Trí tu (vipassanā pañña) là sự biết được bằng tuệ minh sát, đó là chỉ có danh và sắc và chúng thì vô thường, khổ và vô ngã.

(Pháp học đúng sẽ dẫn đến sự tu tập đúng và pháp hành đúng sẽ dẫn đến tuệ giác).

Tu tập thiền quán thì khác với Tu tập thiền chỉ. Nếu hành giả không biết điều này, có thể lẫn lộn hai loại với nhau và tu tập thiền không tiến triển, và không diệt khổ . Tu tập thiền chỉ là thiện pháp, tuy nó dẫn đến vắng lặng nhưng vẫn còn trong vòng luân hồi. (Xem sự khác biệt giữa Thiền chỉ, Thiền định và thiền quán, thiền minh sát ở Phần 1.9).

1.5.2. Ðịnh (samādhi)

Ðịnh có nghĩa là tập trung, hoặc kết quả của sự tập trung. Trong nghĩa sau, một số vị thầy thích định nghĩa mở rộng hơn. "sự gom lại". Ðịnh rất ích lợi trong thiền quán nhưng chỉ đến mức độ tập trung tạm thời.

Có ba loại định (tập trung) cơ bản:

1. Khaṇika Samādhi: Sát na định
2. Upacāra Samādhi - Cận định (sự tập trung cao)
3. Appana Samādhi - Nhập định, duy trì tâm vững chắc trên một đối tượng trong một thời gian dài.

Như được lưu ý ở trên, chỉ sát na định là cần thiết đối với sự tu tập Minh sát tuệ.

Sát na định - Khaṇika samādhi

Lý do chúng ta phải dùng sát na định cho minh sát tuệ đó là sát na định vẫn còn nằm trong 6 căn. Ví dụ, khi thay đổi các đối tượng, từ oai nghi ngồi cho đến danh nghe (căn ý và căn thinh) cận định có thể theo sự thay đổi. Cận định là công cụ cơ bản để khiến cho Minh sát tuệ tiến triển. Chính sự thay đổi của các đối tượng này giúp cho hành giả thấy được sự sinh và diệt của các tâm thức.

Khi thấy được sự vô thường trong tâm, sự vô thường này có nghĩa là tâm không kiểm soát được và do đó khổ và vô ngã. Ðịnh nâng cao đơn thuần chỉ là nhất tâm và nó không thể dùng để nhận thấy sự sanh và diệt của tâm.

Khi người nhận ra được sự vô thường trong tâm. Nó phải được nhận thức bằng Trí Tuệ và không phải định tâm.

 

1.6. SÁT NA HIỆN TẠI & THỰC TƯỚNG PHÁP (Sabhava dhamma)

Sát na hiện tại (arompaccacpan) có thể định nghĩa như sau:

1. Danh và sắc xuất hiện độc lập ở thời gian đã được ấn định theo sự mong muốn của chúng ta.

2. Danh và sắc được nhận thấy với 3 danh: Nhiệt tâm tinh cần, chánh niệm và tỉnh giác (atapi, sati, sampajanna).

Nếu hành giả nhận thức được sát na hiện tại,

a) Ðối tượng của 3 danh phải là chân lý tuyệt đối (paramattha = không phải đàn ông, đàn bà, vô ngã v.v...); đó là danh và sắc.

b) Ðối tượng phải làTứ Niệm Xứ. Những đối tượng khác (Tứ niệm xứ) không được lẫn lộn. Ví dụ, khi quán sát oai nghi ngồi, nếu oai nghi ngồi có sự đau đớn, đừng quán sát tâm biết được oai nghi ngồi có sự đau đớn. Chỉ biết rằng oai nghi ngồi là những sự khổ. Chỉ quán sát "thân trong thân".

c) Ðối tượng cần phải được quán sát bằng 3 danh (Yovacara = nhiệt tâm tinh cần, chánh niệm và tỉnh giác.

d) Danh và sắc được nhận thấy ở sát na hiện tại, phải xuất hiện độc lập về sự ham muốn của chúng ta. Chúng ta không thể tạo nên sát na hiện tại. Những ví dụ của phần sau cũng sẽ là sự đi chậm rãi cho mục đích tạo nên tuệ giác, hoặc sự cử động cánh tay chậm rãi để nhận thấy các nhóm (Kalapa) phân tử sinh và diệt. Ðây không phải là khoảnh khắc (sát na) hiện tại.

e) Một ví dụ về sát na hiện tại là chánh niệm tỉnh giác (satisanipajana) quán sát oai nghi ngồi, nhưng vẫn có một chút phiền não, có lẽ là một sự ham muốn tiềm ẩn để thấy được oai nghi ngồi. Rồi sau đó một tiếng sét nổ. Sự nhận biết để lại oai nghi ngồi và nghe tiếng sấm nổ. Tự động có tâm nhãn thức. Ðây là sát na thật hiện tại (Thiền Minh Sát) ở khoảnh khắc đó không có phiền não.

Có hai loại sát na hiện tại: Sát na hiện tại nghe và sát na hiện tại tuệ giác. Sát na nghe được người ta nhận thức trong sự tu tập siêng năng bình thường. Sát na nghe đi trước và dẫn đến Tuệ giác, trong tính cách mà hai nẹp cây khô cọ xát mạnh với nhau tạo ra lửa.

Nếu sự tu tập được thực hiện đúng với arompacan, nó sẽ diệt trừ Abhijjhā (ham muốn) và không ham muốn) trong năm uẩn (Khandha). Sau đó tuệ giác sẽ xuất hiện.

Sát na tuệ giác thì rất khó nắm bắt, giống như cố gắng bắt một con cá trong hồ bằng hai tay. Sát na tuệ giác nhận thấy rằng một người ngồi là oai nghi ngồi chứ không phải "hành giả". Thậm chí không phải là hành giả biết oai nghi ngồi - nó là 3 danh (hành giả) [4] Và trong thực tế, ngay cả không có oai nghi ngồi, chỉ là bản chất thật tự nhiên.

Sabhava đó mà chúng ta gọi oai nghi ngồi không biết bất cứ điều gì. Danh pháp biết được đối tượng (oai nghi ngồi) cũng là bản chất thật tự nhiên.

Chỉ có 2 bản chất thật tự nhiên trong thế gian: Loại không biết điều gì và loại biết được.

Sát na tuệ giác hiện tại là khó nắm bắt, bởi vì sự tồn tại của phiền não. Nó cũng cần phải tu tập. Nắm bắt được sát na tuệ giác hiện tại thì giống như việc cố sức đọc trước khi học mẫu tự. Trừ phi hành giả biết được mặt chữ, nếu không thì không thể nhận ra từ ngữ.

Ngay cả khi thay đổi từ tư thế ngồi sang đứng, người ta vẫn duy trì sát na hiện tại, ngược lại thì phiền não để tấn công vào. Khi sát na hiện tại được duy trì liên tục, phiền não bị loại ra ngoài và sát na tuệ giác hiện tại sẽ phát sinh và đoạn diệt vô minh.

Hỏi: Làm cách nào hành giả biết mình ở trong sát na hiện tại?

Ðáp: Vị này sẽ luôn có chánh niệm và tỉnh giác. Hành giả phải liên tục có chánh niệm ở từng sát na hiện tại. Nếu sự việc như vậy, chân lý sẽ xuất hiện; chân lý đó là khổ, danh và sắc.

(chánh niệm và tỉnh giác thực tế xảy ra cùng nhau trong sát na hiện tại của danh và sắc, chúng đoạn diệt ham muốn và không ham muốn trong "thế giới" của 5 uẩn).

Sự tu tập này dẫn hành giả đạt được bản chất thực tự nhiên - như vậy sự thay đổi tà kiến đó về danh và sắc là "hành giả".

1.6.1. Thực Tướng Pháp (Sabhava dhamma).

Thực tướng pháp là trạng thái thật của Bản chất tự nhiên của vạn vật trong vũ trụ. Nó là thực thể - nhưng không phải là đàn ông, đàn bà, người nào đó hoặc tâm hồn. Ví dụ, oai nghi ngồi là thực tướng của tư thế ngồi. (Thực tế, khi trạng thái thật của bản chất vạn vật được người ta nhận ra thậm chí không phải là oai nghi ngồi, nó chỉ là thực tướng).

Vũ trụ không phải là một thực thể trống rỗng, như một số hình thức Phật giáo, nó "chỉ là vô ngã không có linh hồn". Bản chất thật của các pháp bao gồm danh và sắc với danh được chia thành 3 phần dưới đây:

                                (Ðối với thực tướng pháp chi tiết hơn, xin xem Sơ đồ 2-2)

Lưu ý: (sơ đồ 1-3)

a) Tất cả bốn phần của pháp chân đế là pháp duyên khởi, trạng thái thật của bản chất sự vật, ngoại trừ là chúng ta ít nhận chân được chúng.

b) Ba thành phần đầu là danh và sắc, chúng là pháp Hiệp thế. Sắc pháp trong sự tu tập chỉ biết cảnh -nó không biết bất cứ điều gì; Danh cũng biết cảnh: nhưng danh cũng biết cảnh (nhãn thức và nhĩ thức). Ðây là cõi Hiệp thế (Lokiya) - và vẫn nằm ở trong vòng sinh tử luân hồi (samsara - cakka).

Ở siêu thế (lokuttara), Níp bàn trở thành đối tượng tâm đạo (magga - tâm) và tâm quả (phala - tâm) bây giờ biết được níp bàn là đối tượng. Chính tâm đạo xác trừ phiền não. Trong cõi Hiệp thế, chánh niệm tỉnh giác là tuệ minh sát. Trong siêu thế, chánh niệm, tỉnh giác trở thành tâm đạo. (Tâm đạo theo nghĩa đen là "tâm thức đạo" thực ra đề cập đến tuệ đạo, đó là tuệ thứ 14). Níp bàn là pháp siêu thế (lokuttura dhamma), ngoài 5 uẩn.

Có 2 loại hiện tại (paccupan):

1. Pháp hiện tại(paccupana dhamma): Sắc pháp và danh pháp sinh và diệt rất nhanh. Nhưng chúng ta không thấy nó bởi vì phiền não che giấu. Nhưng chỉ có oai nghi ngồi hoặc oai nghi đứng v.v...

Chúng ta nghĩ rằng "chúng ta ngồi", "chúng ta đứng" "chúng ta uống" v.v... Ðây là pháp hiện tại, và nó hiện hữu dù chúng ta thấy nó hoặc không-ngay cả lúc ở nhà, khi không tu tập.

2. Sát na hiện tại (paccupanarom): Danh pháp và sắc pháp xuất hiện ở một thời gian ấn định riêng biệt trong sự ham muốn của chúng ta - "oai nghi ngồi; oai nghi đứng v.v... khi chúng ta đang tu tập, chúng ta dùng pháp hiện tại và nó phát triển thành sát na hiện tại. Ba danh pháp cùng làm việc với nhau và "chúng ta ngồi" trở thành oai nghi ngồi - như vậy đó là sát na hiện tại.

Là sát na hiện tại chánh niệm và tỉnh giác phải có sắc pháp và danh pháp trong sát na hiện tại. Ba đối tượng đầu tiên ở trên (sơ đồ 1-3) được người ta nhận ra không có phiền não. Danh pháp và sắc pháp là các đối tượng cho tới khi tuệ minh sát thứ 12 (anulomañāṇa), sau đó bị đoạn trừ. Ở điểm này, Níp bàn trở thành đối tượng của tâm đạo, tâm quả và tâm siêu thế hoặc đạt được trạng thái siêu thế.

Khoảnh khắc / sát na hiện tại là danh pháp và sắc pháp đang được quán chiếu. Chúng có thể là thiện pháp, bất thiện pháp, hoặc trung tính (obyakata) - nhưng chúng phải là một trong 4 thành phần của Tứ niệm xứ (Satipaṭṭhāna).

Minh sát tuệ chỉ có thể tiến hành khi phiền não tồn tại [5] . Nó cũng làm việc, hoặc được ứng dụng khi có phiền não. Ví dụ khi nghe được một âm thanh, phiền não sẽ nghĩ rằng "chúng ta nghe" và như vậy thiền minh sát nhắc nhở chúng ta rằng "nhĩ thức", và đoạn diệt phiền não.

Hỏi: 3 Danh quan sát và 3 Danh nắm được sát na hiện tại - có phải chúng giống nhau?

Ðáp: Tên "sát na hiện tại" là giống, nhưng 3 danh quan sát (trí tư) và 3 danh nắm được sát na hiện tại (trí tu) thì khác biệt. Hành giả nên tu tập nắm bắt sát na hiện tại, giống như việc hành giả sẽ phải học mẫu tự để đọc. Trí tư như việc học tập ABC và trí tu, tiếp theo, giống như biết đọc.

Hỏi: Làm cách nào hành giả có thể nâng cao cơ hội của mình để nắm bắt sát na hiện tại?

Ðáp: Nếu hành giả có sự nhận biết (tỉnh giác) vị này sẽ không nghe quá nhiều những gì đang xảy ra quanh mình - hoặc vị này sẽ không nghe nó quá chát chúa. Sát na hiện tại của oai nghi ngồi sẽ loại bỏ hoặc làm cho âm thanh nhỏ lại. Như vậy, để gia tăng những cơ hội nắm bắt khoảnh khắc hiện tại, hành giả chắc hẳn phải gia tăng sự tỉnh giác.

Hỏi: Có phải chúng ta muốn để dùng một tư thế đã ấn định để nhận thấy sắc của tư thế đó?

Ðáp: Hành giả đừng bao giờ ngồi để nhận thấy oai nghi ngồi, hoặc đi để nhận thấy oai nghi đi. Tất cả các tư thế cần được sử dụng để chữa trị sự khổ đau từ một tư thế trước đó. Sau đó chúng ta có thể thấy oai nghi ngồi hoặc oai nghi đi một cách tự nhiên, khi nó phát sinh.

Hỏi: Khi hành giả ở trong sát na hiện tại, vị này tự động có giới, định và tuệ. Tại sao?

Ðáp: Khi hành giả nhận thức được oai nghi ngồi bằng trí tu, " quan sát phiền não rõ ràng " (loại ở trong giới) bị đè nén. Sự việc này chứng tỏ giới hiện hữu. Những phiền não của tâm (Nivāraṇas) được loại bỏ tạm thời. Ðiều này chứng tỏ định thì hiện hữu. Cuối cùng, phiền não được che giấu tà kiến được loại bỏ tạm thời. Ðiều này chứng tỏ tuệ hiện hữu, bởi vì trí tu dẫn đến chánh kiến (sammaDiṭṭhi) đó không phải là "hành giả" đang ngồi.

 

1.7 NHIỆT TÂM TINH CẦN - CHÁNH NIỆM - TỈNH GIÁC, KHÉO TÁC Ý VÀ HỌC TẬP
(Atapi - sati - sampajanna - manasikara - sikkhati)

Ðịnh nghĩa:

A) Atapi có nghĩa là "nhiệt tâm tinh cần" (Tiếng Thái - Kwarun pean).

B) Sati có nghĩa là "chánh niệm". Có 2 loại chánh niệm (tất cả sati đều là thiện pháp và đừng nên lầm lẫn với sự "chú ý" hằng ngày. Ðây là Saññā - tưởng).

1. Bình thường, hoặc tục đế, chánh niệm thường thực hiện bất cứ hành động nào của thiện pháp với sự tỉnh giác - chẳng hạn như cúng dường thực phẩm cho các vị sư, v.v...

2. Chánh niệm để tu tập Tứ Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna) là chánh niệm vào danh và sắc, trong khoảnh khắc hiện tại.

C) Sampajanna có nghĩa là "tỉnh giác". Nó luôn luôn được sử dụng với chánh niệm. Ví dụ, để nhận biết tư thế nào là "chánh niệm", để biết đó là oai nghi ngồi nên gọi tỉnh giác. Khi chánh niệm tỉnh giác đến với nhau, được gọi là sự tỉnh giác (tiếng Thái - rusathua). Chánh niệm và tỉnh giác được mô tả ở trong các kinh điển như là "những giới đức của sự hỗ trợ tuyệt vời" trong sự đạt đến chánh kiến và nhận thức Bát Chánh Ðạo. A, B, C ở trên được gọi là ba danh (Yogāvacara).

Có 4 giới đức hỗ trợ chánh niệm và tỉnh giác:

1. Sống trong một vùng hoặc một môi trường thích hợp (được sinh ra trong một quốc gia, ở đó có giáo pháp của Ðức Phật được truyền dạy).

2. Thân cận với người tốt lành (người hiểu biết sự tu tập thiền Minh sát để thoát khổ.

3. Ðặt mình ở một đường hướng đúng đắn (có một khát khao mạnh mẽ muốn diệt khổ)

4. Ðã được thực hiện (ở những kiếp quá khứ) những hành động công đức (pubbekata - puññata)

D) Tác ý (manasikara), hoặc "tác ý có nghĩa" chú tâm vào một điều gì với sự hiểu biết chính xác đây là nhân". Nó cũng đề cập đến sự hiểu biết về trạng thái thật của vạn vật (sabhava) của một điều gì (dành cho một sự thảo luận đầy đủ về thực tướng, xem 1.6.1)

E) Sikkhati (quan sát) cho chúng ta biết, nếu chúng ta từ bỏ sát na (khoảnh khắc) hiện tại.

Thảo luận:

A) Apati là sự nhiệt tâm để loại trừ "phiền não" (abhjjha và donanassa) để giúp chúng ta mang đến chánh niệm và tỉnh giác.

B, C) Chánh niệm - Sati là sự nhận biết (tỉnh giác) chỉ dành cho tư thế ngồi. Như vậy sau đó tỉnh giác - sampajanna có thể nhận biết (tỉnh giác) đó là oai nghi ngồi.

Thực tế nó là nhiệt tâm tinh cần, chánh niệm, tỉnh giác vào sắc pháp trong sát na hiện tại. Chúng ta cần hiểu biết điều này, bởi vì nhiều hành giả nghĩ rằng "họ" tu tập, nhưng chỉ có 3 danh này thôi, hoặc hành giả đang tu tập.

Chánh niệm và tỉnh giác đoạn trừ lòng ham muốn và không ham muốn - như vậy tuệ Minh sát xuất hiện và tiêu diệt si mê.

Khéo tác ý, chánh niệm và tỉnh giác là trí tư. Khi chánh niệm,tỉnh giác hoạt động tốt, chúng trở thành trí tu nhưng khéo tác ý vẫn là trí tư.

Khi nó trở thành Tuệ minh sát, thậm chí chúng ta sẽ nhận thấy rằng chánh niệm và tỉnh giác không phải là "chúng tôi". Chánh niệm và tỉnh giác là những trạng thái tâm: vô thường, khổ não và vô ngã.

D) "Khéo tác ý" là pháp cần thiết để hỗ trợ hành giả để thực hành đúng để ngăn chặn phiền não (lòng ham muốn và không ham muốn) sanh khởi.

Khi chúng ta khéo tác ý nhận thấy rằng thay đổi oai nghi có thể điều trị được căn bịnh đau nhức, nó ngăn chặn lòng ham muốn và không ham muốn phát sanh. Tương tự, khéo tác ý và ba ý thức được oai nghi là oai nghi ngồi, như vậy khi cảm thấy bị đau, sẽ không có sự khó chịu về sự đau đớn, bởi vì oai nghi ngồi đó đau khổ chứ không phải là hành giả. Khi oai nghi ngồi được đổi sang một tư thế khác, khéo tác ý cho hành giả biết, điều này cần thiết để điều trị sự khổ. Sự kiện này ngăn ngừa sự yêu thích tư thế mới xuất hiện.

Khéo tác ý là trí tư: nó đi trước chánh niệm và tỉnh giác. Khéo tác ý giống như việc đưa ai đến một ruộng lúa. Một khi chúng ở đó, chánh niệm nắm lấy bó lúa và đưa cái liềm cắt nó. Trong khi ngồi, khéo tác ý mang lại 3 danh, và 3 ý thức đây là oai nghi ngồi. Khéo tác ý hành động như là một yếu tố khởi đầu. Khéo tác ý nhận biết bằng trí văn, đầu tiên đó là tư thế ngồi nên gọi là oai nghi ngồi, và sau đó 3 ý thức được điều này.

Chúng ta cần sử dụng khéo tác ý ở phần đầu tiên từ buổi sáng cho đến giờ đi ngủ. Ngược lại, chánh niệm và tỉnh giác có thể không thực hiện đúng chức năng. Khi hành giả biết được tư thế ngồi là oai nghi ngồi trước tiên bằng trí văn, đó là khéo tác ý.

Khéo tác ý hỗ trợ công việc cho chánh niệm và tỉnh giác.

E) Quan sát (Sikkhati) cho chúng ta biết rằng, nếu chúng ta có quá nhiều chánh niệm, và không đủ sự tỉnh giác. Chánh niệm và tỉnh giác phải tương đồng ở trong sát na hiện tại.

 

1.8 NHỮNG CỘI NGUỒN BẤT THIỆN: NHỮNG CỘI NGUỒN CỦA HÀNH ÐỘNG XẤU (Kisela)

Có ba nhân bất thiện:Tham (lobha); sân (dosa), và si (moha). Lòng ham muốn là một hình thức của tâm tham và lòng không ham muốn là hình thức tâm sân.

Lòng ham muốn và không ham muốn không thể xảy ra cùng 1 lúc. Tâm tham, tâm sân và tâm si mê được biết một cách quen thuộc là phiền não (Phiền não), nhưng theo thực tế là những nhân bất thiện. Dưới những nhân bất thiện này là 10 phiền não - ba thuộc tâm tham, ba thuộc tâm sân, và bốn thuộc tâm si. Phiền não thứ nhất ở trong mỗi nhân bất thiện cũng là nhân bất thiện - như vậy tham,sân và si cũng là những thứ phiền não.

Có ba loại phiền não:

Loại I: là phiền não rõ ràng: những hành động, chẳng hạn như xảy ra trong thân và khẩu.

Loại II là phiền não trong tâm: những chướng ngại (Nivāraṇa), chẳng hạn như là tâm phóng túng.

Loại III là phiền não ẩn náu: Phiền não đi qua cảm thọ. "Hành giả" đang ngồi và "hành giả" cảm thấy rằng chính là "hành giả" ngồi - không phải là sắc. Ðây là phiền não ẩn náo. Nhiệm vụ của tuệ minh sát (Thiền Minh Sát) là đoạn trừ phiền não, bất cứ nó xảy ra ở nơi đâu.

Bạn của phiền não là hạnh phúc. Kẻ thù của nó là khổ đau. Hạnh phúc khiến cho trí tuệ quên đi khổ đế. Phiền não giống như một tên cướp. Ðể hiểu rõ nó, hành giả phải biết địa chỉ của nó. Sau đó hành giả phải biết hình dáng nó thế nào. (Nếu hành giả không biết những nét đặc trưng và hình dáng nó như thế nào, như vậy làm cách nào hành giả có thể loại bỏ phiền não?) Hành giả cũng phải biết mấy giờ sẽ ở nhà. Phiền não có 6 địa chỉ: Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân và ý.

Dù phiền não hay trí tuệ đều có thể ra lệnh cho danh pháp bảo sắc pháp làm điều gì. Phiền não nói, "Tại sao chúng ta không đi dạo?" nghĩa là tìm khoái lạc. Trí tuệ, biết rằng tư thế ngồi là khổ, ra lệnh cho sắc pháp để "thay đổi tư thế và đi để điều trị khổ". Ðây là trí tuệ đang là việc thích đáng - bởi vì khổ buộc sắc pháp thay đổi tư thế.

Loại I: Rõ ràng: Ðây là loại được bao bọc bởi các giới luật, chẳng hạn như sát sanh, trộm cắp v.v... giới luật đoạn diệt loại này.

Loại II: Những chướng ngại(triền cái): Ðây là sự suy nghĩ về một người, người này ganh ghét, hoặc cái tâm phóng túng; hoặc sân hận, chẳng hạn như nghĩ về một ai được nuôi dưỡng với tứ niệm xứ v.v... chánh định dập tắt được điều này. Nếu những chướng ngại trở nên mạnh mẽ, chúng có thể biến hành động - phiền não rõ ràng. Cũng như phiền não được che giấu có thể trở thành sự suy nghĩ - triền cái.

Có 5 loại phiền não trong tâm:

1. Dục lạc trong quá khứ, hoặc tương lai
2. Sân hận hoặc bực bội trong quá khứ hoặc tương lai
3. Ði những nơi khác - tâm vẩn vơ hay phóng dật (xôn xao hoặc lo lắng, v.v...)
4. Uể oải, lười biếng, hoặc lo lắng về sự tu tập
5. Hoài nghi: nghi ngờ về Ðức Phật, giáo pháp và tăng già. Nghi ngờ về sự tu tập - Có phải nó là con đường đúng đắn để diệt khổ không v.v...

Loại III: Lậu hoặc (Āsava): Ðây là loại phiền não vi tế, như là si mê (tà kiến). Chỉ có trí tu mới đoạn trừ được loại này. Nếu loại ĪI bị đoạn trừ thì loại Ī và I cũng vậy.

Phiền não cần được đoạn trừ nơi nó sinh khởi. Ví dụ, chúng ta tưởng lầm rằng sự đau đớn là "chúng ta" - nhưng nó là "sắc pháp". Vì vậy chúng ta diệt trừ tà kiến này ở thân, bằng cách nhận thấy rằng sắc là khổ. Nhưng sự nghe và sự thấy được xem như là "danh pháp", bởi vì chúng ta có khả năng nghĩ "chúng ta" thấy và nghe. Như vậy chúng ta đoạn trừ phiền não này (tà kiến) ở trong tâm. "nhãn thức", "nhĩ thức" là sabhava - nhận thấy vạn vật theo bản chất thật của nó - sự thực tối cao (chân đế).

Bằng sự tu tập này, bổn phận của hành giả (yogi) là tận diệt sự chấp thủ và sân hận (Abhijjhā và domanassa) một số hình thức tu tập "ngồi quá" sự đau đớn, cho đến khi nó biến mất. Sự kiện này có sự chấp thủ. Nó cũng mang lại ấn tượng sai lầm rằng chúng ta là "atta" (ngã), hoặc là "số một, và chúng ta có thể ngồi xuyên suốt sự đau đớn và khiến cho nó biến mất.

Cùng một cách với cái tâm vẩn vơ. Nếu hành giả cố gắng kiểm soát tâm phóng dật, vị này ao ước có sự tập trung (định) hoặc vắng lặng, đó là tâm tham. Nếu hành giả không kiểm soát được tâm phóng dật dẫn đến tâm tham. Tâm vẩn vơ chỉ dạy không có sự kiểm soát - như vậy vô ngã. Tâm phóng dật (vẩn vơ) là danh pháp - nó không phải là "chúng ta" vẩn vơ, là những danh pháp

Nimittas: Ấn chứng xuất hiện khi hành thiền, những tia chớp, những ảo giác cũng là phiền não. Chúng đưa hành giả thoát khỏi khoảnh khắc hiện tại. Chúng không phải là minh sát tuệ, và chứng tỏ định quá mức. Người ta khuyên hành giả nên đi hoặc tập thể dục để giảm bớt định tâm.

Nếu hành giả đang thực hành thiền chỉ, vị này sẽ không có thể nhận ra những đặc tính của phiền não, vì thiền chỉ có khuynh hướng dập tắt "tham" và "sân".

Tu tập không đúng lý lẽ có thể là một điều phiền não. Nếu một người tu tập để diệt khổ và diệt tái sinh, đây là một động cơ đúng đắn. Nhưng nếu một người tu tập cho một lý lẽ nào đó khác nữa, như là đỗ đạt được đạo quả, nó là phiền não. Nếu một người duy trì trong thiền - mặc dù nó là thiện pháp - vị này không thể diệt khổ.

Thiện, Bất thiện và Vô ký

Kusala được định nghĩa là trạng thái tâm "thiện" hoặc một trạng thái tâm "khéo léo".

Akusala là bất thiện hoặc không khéo léo

Abyākata là không thiện cũng không bất thiện: ở giữa hoặc vô ký (sắc pháp, níp bàn và tâm quả là những điển hình của tâm vô ký). Sắc pháp là tâm vô ký, bởi vì nó không biết bất cứ điều gì.

Tâm quả(Vipāka citta) là tâm vô ký bởi vì nó liên hệ đến sự không đánh giá - không có thiện hoặc bất thiện. Một ví dụ của tâm quả là "nhĩ thức", ở minh sát tuệ không có sự liên hệ hoặc đánh giá được âm thanh thật sự.

Tâm tố (Kiriya citta) cũng là tâm vô ký. Tâm tố là trạng thái của bậc thánh A La Hán.

Níp bàn là tâm vô ký, bởi vì Níp bàn là đối tượng của tâm đạo và tâm quả, và tất cả những điều này đều nằm trong pháp Siêu thế (Lokuttara dhamma)- không phải thiện pháp mà cũng không bất thiện pháp.

Hai loại tâm thiện:

a) Vòng tái sinh
b) Không còn trong vòng tái sinh (không danh pháp và sắc pháp)

a) Tâm thiện đi tái sinh

- Giới (Sīla)
- Ðịnh (samādhi) tu tập thiền chỉ
- Tuệ (trí tuệ) trí tuệ trong pháp tục đế

b) Tâm thiện không đi tái sanh

- Giới - bát chánh đạo
- Ðịnh - bát chánh đạo
- Tuệ - bát chánh đạo

Giới, Ðịnh và Tuệ đưa chúng ta đến chỗ nhận thức Tứ Diệu Ðế. (Xem các giai đoạn tuệ, 1.2; cũng như thiền chỉ / thiền quán 1.9).


[1] Thật sự Minh Sát Tuệ là kết quả của Tứ Niệm xứ- nghĩa là 16 tuệ Minh Sát- nhưng ngày nay được biết là Thiền quán.

[2] Từ "bhumi" có nghĩa là nơi chốn, một cõi (xem 1.4.5) ở đây nó được dùng là một nơi có nhiều loại tuệ (khác nhau)

[3] Theo từ ngữ chuyên môn, trí văn có nghĩa tuệ giác ngộ đạt được qua pháp học. Trí tư (cinta) nghĩa là tự mình biết, không thầy chỉ dạy. Chỉ có đức Phật mới có trí tư. Tuy nhiên, trong thực hành, chúng ta sử dụng pháp học để hiểu lý thuyết và và thực hành để áp dụng đúng lý thuyết trong sự tu tập.

[4] Xem ghi chú, phần 2.1.2. Cũng như bản giải thích, "Yogāvacara"

[5] Vị A la hán không có phiền não (Kisela), không cần tu tập Thiền Minh Sát

 

1.9. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA THIỀN CHỈ VÀ THIỀN QUÁN

Có hai loại tu tập, Chỉ và Quán:

Tu Thiền chỉ (Samatha bhavana)

Tu tập Thiền quán (Vipassanā bhavana)

1. Bản chất thật là định tâm để tạo cho tâm an lạc.

1. Bản chất thật là trí tuệ.

2. Ðối tượng của thiền chỉ là chế định, chẳng hạn như đề mục Kasiṇa.

2. Ðối tượng thiền quán là pháp chân đế -paramattha (pháp chân đế hay còn gọi là danh pháp và sắc pháp) tu tập Tứ niệm xứ thành tựu tuệ Minh sát.

3. Ðặc tính của thiền chỉ là an định.

3. Ðặc tính của thiền quán là trí tuệ, cho thấy rõ trạng thái thật của vạn vật.

4. Nhiệm vụ của thiền chỉ là loại trừ 5 triền cái(Nivāraṇa) tham dục, sân hận, trạo hối, hôn trầm và nghi.

4. Nhiệm vụ của thiền quán là đoạn trừ vô minh.

5. Kết quả của thiền chỉ là nhất tâm.

5. Kết quả của thiền quán là có chánh kiến, (bản chất thật của danh pháp và sắc pháp).

6. Hiệu quả của thiền chỉ là tâm không ham muốn dục lạc.

6. Hiệu quả của thiền quán là định tâm trong một đề mục Tứniệm xứ (Khaṇika samādhi), như vậy tuệ Minh sát có thể phát sanh.

7. Lợi ích của thiền chỉ là trong đời sống này (samapatti - tám giai đoạn của thiền) là có thể chứng đắc. Tâm tham muốn và không ham muốn thì rất an lạc. Trong kiếp vị lai có thể hóa sanh (Brahmaloka) cõi Phạm thiên.

7. Lợi ích của thiền quán là đoạn trừ những phiền não (Āsavakkha-yanna). Không còn phiền não, không sinh tử sẽ xuất hiện (vivatta), là Nip bàn. Bởi vì Níp bàn không có tái sinh và đây là hạnh phúc tuyệt đối.

8. Trong thiền chỉ, chỉ có 1 đối tượng và 2 căn được dùng cùng 1 lúc, chẳng hạn như mắt và tâm (trong trường hợp đề mục Kasiṇa hoặc một đối tượng nhìn thấy) hoặc xúc chạm và tâm thức, trong trường hợp về niệm hơi thở (Ānāpānasati).

8. Trong thiền thiền quán, chúng ta sử dụng 6 căn và không cần đến các đối tượng đặc biệt. Ðơn thuần chỉ quán sát danh pháp và sắc pháp là vô thường, khổ và vô ngã (Bản chất thật của vạn vật). Ngay cả những chướng ngại (Nivāraṇa) được dùng như một đề mục để suy niệm về các đối tượng tâm (dhamma-anupassanā).

9. Theo kinh điển, hành giả quyết định tu tập thiền chỉ, nên xác định cho mình một trong những đặc tính này (carita) làm nổi bật:

1) Bản chất tham (Raga carita)
2) Bản chất sân (Raga carita)
3) Bản chất si (Moha carita)
4) Bản chất Ðức Tin (Saddha Carita)
5) Bản chất thông minh (Buddhi carita)
6) Bản chất suy tưởng (Vitakkha Carita).

Như vậy hành giả nên tham khảo trong Thanh Tịnh Ðạo - Visudhimagga về loại thiền chỉ thích hợp với bản chất đặc biệt của hành giả. Ví dụ, đối với người có bản chất tham, nên áp dụng đề mục thiền về tử thi (asubha).

9. Ðức Phật dạy một người sẽ tu tập thiền quán nên xác định bốn đặc tính này giống như của mình. Một vị trí niệm xứ được đề nghị cho một trong 4 loại này (1a, 1b, v.v...) (Ví dụ, nếu đặc tính là tham ái với trí tuệ mạnh mẽ (1a) đặc tính được đề nghị là niệm thọ:

1) Bản chất tham ái (Taṇhā carita): a- Trí tuệ mạnh mẽ; b- Trí tuệ yếu kém
2) Bản chất tà kiến (Diṭṭhi Carita): a) Trí tuệ mạnh mẽ; b) Trí tuệ yếu kém

Tuy vậy, vào thời điểm này, người ta đã xác định mọi người có tâm tham ái với trí tuệ yếu ớt, và như vậy trong sự tu tập, niệm thân được sử dụng lúc ban đầu. Theo đức Phật, đạo A la hán vào thời điểm này sẽ đạt nhờ niệm thân.

Tu tập thiền chỉ là thiện pháp và vẫn còn sinh tử luân hồi. Nó có trước thời Ðức Phật. Tu tập thiền quán là thiện pháp nhưng nó vượt khỏi Luân hồi sanh tử do đức Phật khám phá.

Cảm giác khi thiền định đạt được là người ta đạt đến một hạnh phúc thường còn với bản ngã (si mê vẫn còn). Cảm giác khi Tuệ minh sát đạt được, đó là vô thường, khổ và vô ngã.

 

1.10. DANH PHÁP VÀ SẮC PHÁP

Vạn vật trong vũ trụ đều là danh pháp và sắc pháp, hoặc 5 uẩn (Khandha). Danh pháp và sắc pháp là pháp chân đế. Sắc pháp thường được định nghĩa là vật chất, trong khi đó danh pháp được định nghĩa là tâm (tâm) và tâm sở (cetasika), và Níp bàn. Sắc pháp cũng có thể được định nghĩa là bất cứ điều gì khác hơn danh pháp, nó thay đổi bởi vì lạnh hoặc nóng.

Sắc pháp là điều mà người ta được biết, danh pháp biết được (mặc dù cũng có thể biết danh pháp - nghĩa là danh pháp có thể là một đối tượng, hoặc được biết, như là "nhĩ thức" và "nhãn thức"). Trong sự tu tập, sắc pháp có thể được xem như một diễn viên, danh pháp là người xem. Trong thuật ngữ hiện đại, sắc pháp thì giống như một phần máy móc của một người máy và danh pháp thì giống máy vi tính: danh pháp ra lệnh hoặc bảo cho sắc pháp thực hiện điều gì.

Danh pháp và sắc pháp là các đối tượng của sự tu tập thiền quán. Có nhiều danh pháp và sắc pháp, nhưng hành giả chỉ dùng những danh pháp và sắc pháp đó là các đối tượng của thiền quán trong khoảnh khắc hiện tại.

Ba loại danh pháp có thể được sử dụng như các đối tượng thiền là thọ, tâm và pháp. Những ví dụ điển hình của thọ là thọ lạc hay thọ bất lạc; Tâm: tâm với tham, tâm với sân, tâm với si v.v...; Pháp: nhĩ thức, nhãn thức, tâm phóng túng v.v...

Các loại sắc pháp dành cho thiền ở điểm chủ yếu này là: Oai nghi thân chính yếu (đi, đứng, ngồi và nằm) và các tư thế tạm thời. Các oai nghi tạm thời là các tư thế thứ yếu giúp cho việc duy trì các tư thế chính, chẳng hạn như ăn, uống v.v... (xem phần vấn đáp ở trang cuối, phụ lục A, đối với các tư thế phụ hoàn thiện).

Nhân của danh pháp và sắc pháp là gì? Nhân của danh pháp và sắc pháp là phiền não - đặc biệt là vô minh (Avijjā) và tham ái (Taṇhā), là những nhân chính của tất cả khổ đau. Vô minh tồn tại bởi chúng ta không nhận thức được 5 uẩn là khổ; chúng ta nghĩ chúng là hạnh phúc (sukha). Ðây là ý niệm sai lầm(Vipallāsa).

 

1.11 NHỮNG ÐIỀU KIỆN LÀM LU MỜ TAM TƯỚNG

Ba đặc tính luôn luôn được đề cập đến là vô thường, khổ đau và vô ngã trong danh pháp và sắc pháp. Nhưng chúng ta không dễ dàng nhận thức rõ ràng tam tướng trong thân và tâm. Tại sao? Vì chúng bị những điều kiện nào đó làm lu mờ.

1. Vô thường: Ðiều kiện làm cho người ta không thấy được chân lý vô thường (anicca) trong thân-tâm là sự liên tục (santati). Sự liên tục sanh diệt của danh và sắc tạo ra sự kiện liên tục nằm ở trong chân lý, sự hình thành của một khoảnh khắc sát na.

2. Khổ: Những gì che đậy khổ đế trong thân là không nhận biết tư thế trong thân là gì.

3. Vô ngã: Những gì che đậy chân lý vô ngã (anatta) trong thân tâm là ý niệm vững chắc- ghanasana.

Làm thế nào chúng ta có thể "thấy rõ bản chất" của tam tướng này trong khi tu tập?

1) Sự liên tục (santati). Sự sinh và diệt của danh và sắc thật nhanh, người ta khó lòng nhận ra, và như vậy nó tạo ra hậu quả của một sự liên tục nhưng thực tế được cấu thành của nhiều bức tranh riêng rẽ bất động. Như vậy, danh sắc dường như là vững chắc và thường còn bởi vì chúng ta không thể thấy được chân lý của sinh và diệt [1] . Chúng ta không thể loại trừ sự hoại diệt nhanh chóng này (nó là chân lý), nhưng hành giả phải tu tập nhiệt tâm và tỉnh giác cho đến khi Tuệ minh sát xuất hiện, nó sẽ cho thấy sự riêng rẻ giữa khoảnh khắc sinh và diệt. Trí tuệ này sẽ đoạn trừ sự liên tục đã che giấu sự vô thường của danh sắc.

Người ta có thấy sự vô thường trong sắc bằng trí tư, trong khi đó danh lại càng vi tế hơn, và khó nhận biết. Ví dụ, khi thay đổi từ oai nghi ngồi sang oai nghi đứng, chúng ta có thể thấy rằng oai nghi ngồi là vô thường. Cho nên hành giả với trí tuệ yếu kém nên tu tập đề mục niệm thân (Kāyamupassana Satipaṭṭhāna).

2) Không tỉnh giác với oai nghi: không tỉnh giác oai nghi thân, từ đó chúng ta không nhận biết đó là khổ (dukkha). Khổ có nghiã không có khả năng để duy trì cùng một điều kiện. (Ðây là sabhava): trạng thái thật của vạn vật. Nó là chân lý). Khi một vị trí được thay đổi có khổ thọ, ở vị trí cũ nhưng thiếu đi " khéo tác ý" trong vị trí cũ cản trở hành giả tiến triển và nhận thấy khổ thọ.

Nhưng khi ba danh đang quan sát oai nghi liên tục, khéo tác ý (sự hiểu biết đúng đắn) sẽ tiến hành ngăn chặn phiền não, và ham muốn cũng như không ham muốn sẽ không xảy ra, và như vậy hành giả sẽ thấy được khổ thọ ở mọi tư thế cũ, và, kể từ đó, tư thế mới sẽ không thể còn che giấu khổ đế nữa. Ví dụ:

Trong oai nghi ngồi, khi sự đau đớn xuất hiện, nếu không có "khéo tác ý", chúng ta sẽ suy nghĩ "chúng ta" khổ và không thích sẽ xuất hiện, và sau đó ba danh pháp không thể tiến hành tu tập, và điều này tạo nên không thích - domanassa: không thích tư thế cũ. Hành giả đứng dậy bởi vì vị này muốn đứng, và ham muốn xảy ra với tư thế mới. Bây giờ người ta không thể nhận ra được khổ thọ trong tư thế cũ, bởi tư thế mới che đi khổ trong tư thế cũ (đây là một ví dụ tốt về sự việc không nhận biết tư thế nào che đi sự khổ).

Khổ thọ ở tư thế cũ thường rất dễ nhận ra khi hành giả đang tu tập; nhưng hành khổ - Sankhāra khổ (sự đau được mang vài tư thế mới) rất khó nhận ra - bởi vì tư thế mới thường xuất hiện là một tư thế hạnh phúc. Nếu hành giả nhận ra khổ trong tư thế mới, vị này phải có "khéo tác ý", bởi vì ái dục hoặc ham muốn thường xảy ra trong tư thế mới - và không ham muốn - domanasa xảy ra ở tư thế cũ.

Ái dục thích hạnh phúc và không thích khổ; như vậy để loại trừ ái dục chỉ có 1 cách: Tuệ minh sát nhận ra khổ. Do đó, đức Phật mô tả các giai đoạn trí tuệ (tầng thánh) sẽ đoạn trừ ái dục bằng cách nhận ra khổ đế.

Trong khi tu tập người ta phải nhận ra khổ đế theo 4 cách:

1) Thấy được thọ khổ ở tư thế cũ;
2) Thấy hành khổ khi thay đổi sang tư thế mới;
3) Thấy tướng khổ (đó là danh sắc: vô thường, khổ và vô ngã cho đến sự tách rời của tính liên tục - santati được nhận thức trong tuệ thứ 4 - Udayabbuyañāṇa. Sau đó:

4) nhận ra khổ đế trong tuệ thứ 11 là tuệ Hành xã- Sankharupekkhāna - Cách sau cùng này chính là trí tuệ mạnh mẽ, và dẫn đến tuệ thứ 12 -tuệ nhận thức Tứ Diệu Ðế (Anulomañāṇa).

Nếu sự tu tập không nhận thức được khổ bằng tuệ giác, đó không phải là sự tu tập đúng đắn, không phải là "Con Ðường Trung Ðạo" (nghĩa là Bát Chánh Ðạo). Chỉ có sự nhận thức được khổ mới thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi - bởi vì sự nhận thức khổ dẫn đến việc nhàm chán (Nibbidā) trong 5 uẩn và dẫn đến sự diệt khổ.

Nếu chúng ta không nhận thức được tuệ thứ 8 - Nibbidā-ñaṇa, và không thể diệt khổ. Khi có sự nhận thức bằng trí tuệ danh sắc là vô thường, khổ và vô ngã, hành giả sẽ cảm thấy nhàm chán sự khổ của danh sắc. Ðó là con đường thanh tịnh.

Do đó, hành giả phải có "khéo tác ý" đúng đắn để nhận thức khổ trong tư thế mới. Vị này phải biết lý do mỗi lần thay đổi tư thế, những lợi ích nào đạt được từ sự thay đổi có "khéo tác ý" (như vậy tuệ minh sát có thể phát sinh), và hình phạt nào sẽ đến, nếu sự thay không được thực hiện (phiền não sẽ xâm nhập). Thông thường, người mới tu tập không hiểu được lý do đối với sự thay đổi tư thế. Vị này nghĩ rằng mình muốn thay đổi, nhưng thực tế khi khổ ép buộc sự thay đổi. Khi người ta hiểu được lý do đúng đắn, điều này được lặp lại liên tục, vị này sẽ thấy khổ và nhận ra rằng tư thế mới thì không tốt đẹp hơn tư thế cũ. Như vậy lòng ham muốn (abhijjhā) sẽ không xuất hiện với tư thế mới và lòng không ham thích (domanassa) sẽ không xảy ra với tư thế cũ. Và điều này sẽ dẫn đến trí tuệ cho rằng tất cả danh sắc đều không kiểm soát được, vô ngã, không có đàn ông, đàn bà - và đây là sabhava: bản chất tự nhiên của vạn vật hoặc pháp chân đế.

Khi hành giả nhận thức được sabhava, và một ý tưởng ngay trong hiện tại (Saṃvega) sẽ xuất hiện, phiền não sẽ bị yếu kém đi. Sẽ có nhiều sự kiên trì hơn. Như vậy hành giả sẽ đạt trí tuệ niệm xứ và sẽ đoạn trừ lòng ham muốn và lòng không ham thích trong Ngũ Uẩn.

3) Ý niệm về thật (Ghanasaññā): Sự thật của danh và sắc là pháp chân đế paramattha-dhamma. Nhưng mặc dù nó là thật, nhưng lại dẫn chúng ta đến tà kiến cho rằng chúng ta là đàn ông, đàn bà hoặc có bản ngã. Như vậy, chúng ta nghĩ rằng danh và sắc là thường còn là hạnh phúc. Như vậy một sự thật che giấu chân lý tuyệt đối của vạn vật về danh và sắc - đó là bản ngã.

Như thế hành giả phải có "khéo tác ý" để tách rời danh và sắc, như vậy chúng không có vẻ đang thực hiện chức năng là một đơn vị duy nhất. Không có "khéo tác ý" chúng ta sẽ không biết cái nào là sắc pháp và cái nào danh pháp. Cũng như các sắc đều khác biệt nhau: oai nghi ngồi khác với oai nghi đứng, đứng khác với oai nghi đi v.v... Sáu điểm minh sát rất ích lợi cho việc nhận thấy sự riêng rẽ của danh và sắc. Chúng là

1) 5 uẩn (Khandha)
2) 12 xứ
3) 18 giới
4) 22 quyền
5) Tứ diệu đế
6) 12 nhân duyên.

Ví dụ, 5 uẩn, chúng ta có thể thấy rằng sắc uẩn là oai nghi ngồi, nhưng chính thức uẩn biết được (3 sở hữu - thọ, tưởng, hành) [2] rằng sắc uẩn là đang ngồi. Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ ràng sự riêng rẽ của danh và sắc (viññāṇa).

Sự tu tập để nhận thức rõ ràng sự thật-Ghanasaññā thì giống như việc quán sát danh và sắc (người ta không có một nỗ lực đặc biệt để tách rời ra làm hai). Tuy thế, hành giả nên biết rằng danh pháp biết được "oai nghi ngồi" và ý thức được "oai nghi đứng" thì không cùng chung một danh pháp. Và thậm chí oai nghi ngồi đó thì cũng không giống oai nghi đứng. Như sự tu tập được thực hiện theo tính cách thông thường cho đến khi tà kiến được tạo ra bởi sự thật- Ghanasaññā bị tiêu diệt. Khi sự nhận thấy rõ sự liên tục đến vô thường và nhận thấy rõ các tư thế đó che giấu đi sự khổ, sự tu tập để thấy rõ sự thật - Ghanasaññā thì giống nhau; không có điều nào hơn là sự quán sát danh sắc và rõ từng phần. Sự loại bỏ ý tưởng sai lạc cho rằng sự thật - Ghanasaññā tạo nên sẽ dẫn đến tuệ thứ 1 (nāma-rūpa- parichedañāṇa) hoặc sự xác định thân tâm (đó là diṭṭhi visuddhi - tuệ giác và sự hiểu biết trong sạch). Nếu tuệ thứ nhất không đạt được, như vậy sự tiến đến các tuệ tiếp theo cũng không thể thực hiện được.

Sự tu tập để nhìn thấy rõ các điều kiện (duyên) che khuất Tam Tướng; không cần phải thành công với tất cả 3 tướng. Người ta chỉ cần nhận thấy rõ 1 tướng. Ví dụ nếu hành giả thấy rõ điều gì che giấu vô thường, hành giả sẽ nhận ra khổ đau và vô ngã.

 

1.12. MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN (Paticcasamuppada)

12 nhân duyên là một loạt nhân và quả, tạo thành một chuỗi liên kết 12 nhân duyên xoay tròn (nidāna) minh họa những điều kiện tạo nên sự tái sinh. Nó là quy luật tự nhiên (sabhava - dhamma), chi phối toàn bộ nhân quả của tất cả những hiện tượng, với 1 mối liên kết tạo cho cái tiếp khác xảy ra. Nó tạo nên vòng sinh tử luân hồi (samsāra - vata) và người ta không thể dừng lại được. Ðơn thuần chỉ là nhân quả, và không có một bản ngã hoặc một lực nào bên ngoài - ở thế giới này và thế giới khác.

Không có một người hoặc một sức mạnh bên ngoài có thể khiến cho điều này xảy ra: sự kiện này được gọi là 12 nhân duyên, và nó là nhân và duyên trợ (paccaya). Ví dụ vô minh là nhân (1) dẫn đến (2) hành (Xem các mối liên kết, ở dưới).

Sự thảo luận về nhân duyên sẽ bao hàm cái hiện hữu trong thế gian này,là con người. 12 nhân duyên diễn tiến như sau.

1. Duyên vô minh, sanh hành [3]
2. Duyên hành, sanh thức
3. Duyên thức, sanh danh sắc
4. Duyên danh sắc, sanh lục nhập
5. Duyên lục nhập, sanh xúc
6. Duyên xúc, sanh thọ
7. Duyên thọ, sanh ái
8. Duyên ái, sanh thủ
9. Duyên thủ, sanh hữu
10. Duyên hữu, sanh tái sanh
11. Duyên táisanh, sanh, già và chết
12. Già chết dẫn đến sầu, bi, khổ, ưu, não v.v...

a) Từ Vô Minh dẫn đến già, chết chấm dứt Duyên khởi thật sự. "Buồn rầu, than khóc", v.v... là những gì tiếp theo sau, cho thấy rằng mỗi lần sinh dẫn đến khổ - Ðế thứ nhất (khổ đế). Thập nhị nhân duyên được gọi là Bhava - cakka - "bánh xe luân hồi". Lúc nào con người còn ở trong vòng luân hồi, bánh xe chẳng bao giờ được ngừng lại".

b) Thuật ngữ

1. Vô minh có nghĩa là không nhận ra được Tứ Diệu Ðế.

2. Hành không phải hành của Ngũ uẩn. Hành ở đây là nghiệp được kết tập từ quá khứ dẫn đến tái sinh. Có ba loại hành: công đức (puñña), phi công đức (apuñña) và thiền vô sắc cao nhất (āneñja).

3. Thức là thức tái sanh - patisandhi-viññāṇa.

4. Danh sắc là ba sở hữu: thọ, tưởng, hành cộng với sắc nghiệp (thân do nghiệp tạo thành).

5. Lục căn (Sarayatana) là nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý.

6. Xúc (Phassa) đề cập đến cetasika (tâm sở) Hướng dẫn tâm (citta) đến đối tượng của Lục căn.

7. Thọ (Vedanā) là sở hữu thọ mà biết được nếu thọ là lạc, khổ v.v...

8. Tham ái (Taṇhā) là sở hữu tham, cảm thấy ham muốn khi sáu căn hoạt động.

9. Chấp thủ (Upādāna) là sở hữu phát sanh ngoàisở hữu tham, nhưng mạnh mẽ hơn.

10. Hữu (Bhava) là kamma - bhava hoặc sự hiện hữu từ đó nghiệp xấu hay tốt được hình thành

11. Sinh (Jāti - đề cập đến 5 uẩn hoặc danh sắc).

12. Khi sanh xuất hiện, như vậy có già và chết.

Ðức Thế Tôn đã trình bày thập nhị nhân duyên (để chúng ta có thể nhận ra chân lý của thực tướng Pháp, và thấy rõ rằng nó xảy ra với nhân và trợ duyên của nó. Mục đích của sự kiện này là giúp để nhận ra thức, danh sắc là vô thường, khổ não và vô ngã. (sabhava dhamma).

Vô minh là chuỗi thập nhị nhân duyên, nó đứng đầu tiên, nhưng thực tế nó giống như một bánh xe hoặc một vòng tròn, không có bắt đầu hoặc kết thúc. Tuy vậy, vô minh là phần cốt yếu của sự liên kết trong dây chuyền; bởi vì vô minh là nhân chính của những điều phiền não, sự đoạn trừ vô minh bằng trí tuệ là phương pháp độc nhất để phá vỡ xiềng xích. Vô minh đến từ lậu hoặc: Lậu hoặc của tham ái; của hữu, của những quan điểm, của vô minh - nhưng tất cả bốn điều trên đều xuất phát từ vô minh: đó là sự không biết được Tứ Diệu Ðế.

Một lần nọ, Ananda bạch với Ðức Phật, Thập nhị Nhân Duyên tuyệt vời và dễ hiểu biết bao. Ðức Phật đáp. "Không phải như vậy đâu". Thập nhị nhân duyên thật sâu sắc và thật khó lãnh hội. Nếu một người nào muốn nghiên cứu học hỏi Thập Nhị Nhân Duyên, tốt hơn nên có một cuốn sách đặc biệt về trí tuệ siêu phàm của Ðức Phật. Lợi ích của giáo pháp này sẽ ngăn chặn được tà kiến về bản ngã, bằng cách cho thấy rằng mọi việc xảy ra bởi vì nhân, và không có một bản ngã, một linh hồn, hoặc một thượng đế v.v... để tạo ra bất cứ điều gì.

1.12.1 Làm thế nào 12 nhân duyên và 11 duyên phá hủy tà kiến?

Việc nhận thức được chân lý Duyên Khởi (Paticcasamuppada) sẽ tiêu diệt ý niệm về sự cố chấp- Vipallāsa Pháp bằng sức mạnh của trí tuệ:

1. Vô minh (avijjha): Khi người ta nhận ra vô minh là paccaya (duyên trợ) của hành nghiệp, nó tiêu diệt tà kiến cho rằng có một quyền lực cao cả hơn tạo nên vạn vật.

2. Hành (Kamma): Bởi vì người ta nhận thức rằng hành tạo nên thức tái sinh (patisandhiviññāṇa), nó đoạn trừ ảo tưởng về ngã (sakka-diṭṭhi) - bởi vì nó không phải "hành giả" được tái sinh, mà chỉ là thức tái sinh.

3. Danh và sắc (nāma-rūpa): Bởi vì thức là paccaya (duyên trợ) cho Danh và sắc (đó là tâm sở và sắc pháp), điều này thay đổi tà kiến cho rằng danh và sắc là bền vững và thường còn.

4. Lục căn: Bởi vì danh sắc là duyên trợ cho lục căn, tà kiến bị thay đổi khi chúng ta nghe và thấy.

5. Xúc: Bởi vì lục căn là duyên với xúc (phassa) và xúc được tạo nên bởi căn, trần và tâm để nhận biết (viññāṇa) là bản ngã, tà kiến bị đoạn diệt vì căn, trần và tâm.

6. Thọ: Bởi vì xúc là duyên trợ với thọ, chẳng hạn như lạc thọ v.v... tà kiến bị thay đổi bởi việc cho là "chúng ta" có hạnh phúc hoặc khổ đau.

7. Tham ái: Bởi vì thọ là duyên trợ dẫn đến kết quả tham ái- Taṇhā (được diễn tả bằng thuật ngữ của tâm sở, là sở hữu tham) tà kiến cho rằng những dục lạc ở trong bất cứ hữu- bhava nào dẫn đến hạnh phúc đều bị đoạn trừ.

8. Chấp thủ: Bởi vì ái là duyên trợ cho sự chấp thủ (upādāna) nó bao gồm sở hữu tham và sở hữu tà kiến, tà kiến cho rằng một cái gì đó hấp dẫn, xinh đẹp, mùi vị dễ chịu v.v... bị thay đổi, và như vậy không còn bị bám víu.

9. Hữu: Bởi vì upādāna (thủ) là duyên trợ cho Hữu, nó tiêu diệt tà kiến cho rằng khi người ta chết thì không còn tái sinh. (Thực tế thủ tạo nên Hữu - đó là tác ý tâm sở . Tác ý là ý muốn hoặc hành động tạo nên quả (Vipāka) - đó là Tái sinh hoặc Hữu).

10. Sinh: Bởi vì hữu (bhava) là duyên trợ cho sinh (Jāti) [4], nó tận diệt tà kiến cho rằng 5 uẩn là hạnh phúc.

11. Hoại và chết: Bởi vì sinh là duyên trợ cho hoại, tà kiến cho rằng 5 uẩn là xinh đẹp, thường còn và là của mình.

1.12.2. Những khía cạnh của duyên khởi

Có bảy cách nhìn về định luật Thập Nhị Nhân Duyên: về các mối liên kết và sự liên hệ, thời gian và chu kỳ, v.v... Ở đây, chúng ta sẽ chỉ thảo luận một vài điều.

1. Phương thức hoặc tính cách (Xem sơ đồ 1-4)

a) Có 20 yếu tố trong sự phân tích này. Năm nhân từ kiếp quá khứ: Vô minh (Avijjha), Hành (Sankhāra) Tham ái (Taṇhā); Chấp thủ (Upādāna). Hữu (Bhava).

b) Năm quả trong hiện tại: Tâm thức (Viññāṇa), Danh sắc (Nāma - rūpa), Lục căn (Salayatana), Xúc (Phassa) Thọ (Vedanā)

c) Năm nhân ở hiện tại: Ái, Thủ, Hữu, Vô minh và hành.

d) Năm quả ở tương lai: Thức, Danh sắc, Lục căn, Xúc và Thọ (Ðề cập đến tái sinh, già và chết. Sơ đồ 1- 4

Lưu ý: (Xem sơ đồ 1-4)

a) Trong quá khứ, có 5 nhân xác định sự hiện hữu của chúng ta (bhava). Vô minh Avijjha(1) nhân chính, tạo quả, vì chúng ta không nhận thức được pháp siêu thế (lokuttura). Do vô minh này, sống trong Hiệp thế (kokiya), chúng ta tạo nghiệp - kamma; xấu lẫn tốt, được gọi là hành (Sankhāra) (2). Ví dụ; nếu chúng ta tu tập thiền chỉ- Thiền định để đạt thiền, chúng ta ở trong hiệp thế tạo nên hành (mặc dù nó tốt), và điều này dẫn đến tham ái (8).

Khi ái dục mạnh mẽ hơn, nó thay đổi đến thủ- uppadana (9): Khi chúng ta ham muốn một điều gì đó là tham ái, nhưng khi chúng ta đạt được, nó trở thành điều chấp thủ. Sự chấp thủ này dẫn đến hữu (bhava) (10). Có 2 loại hữu: nghiệp hữu - Kamma-bhava, tiến trình tích cực của hữu (kiếp quá khứ), và uppati - bhava, tiến trình tái sinh. Kamma-bhava nghiệp hiện tại là thiện hoặc bất thiện, và xác định cho tương lai. Uppati-bhava là tiến trình đem lại định mệnh của sự hữu mới (sự thành hình mới) được quyết định bởi nghiệp hữu.


Mỗi trong 5 mối liên kết (Nidāna) từ quá khứ là duyên (paccaya) cho phần kế tiếp, và rồi quả trở thành duyên cho phần kế tiếp.

Hữu bao hàm sự tạo nghiệp (Kamma), bởi vì ở bất cứ hữu (bhava) chúng ta đang sống trong vòng luân hồi. Ðịnh luật của thực tướng pháp- sabhava-dhamma đó là thập nhị nhân duyên, nghĩa là khi hành giả tạo nên bất cứ nghiệp nào thì lãnh nghiệp đó - và không ai có thể tránh khỏi điều này, hoặc thay đổi kết quả. Ðây là định luật tự nhiên mang lại sự công bằng.

b) Năm quả này từ kiếp trước trong hiện tại tiêu biểu những phẩm chất khi chúng sinh ra được làm người.

c) Năm nhân trong hiện tại. Nhân thứ năm trong hiện tại (thọ) dẫn đến nhân thứ nhất trong hiện tại (tham ái) rồi dẫn đến (chấp thủ), bhava (hữu), và sau đó đến vô minh và hành nghiệp (8, 9, 10, 12). Bhava ở đây là upatti - bhava (tiến trình tái sinh), xác định một kiếp sống mới. Hữu này dẫn đến vô minh, bởi vì chúng sanh không nhận ra được Tứ Diệu Ðế. Sự kiện này tạo nên nghiệp (xấu và tốt) trở lại, rồi trở thành hành động.

Trong nhóm này, hành là khi hành giả đang thực hiện những hành động Kusala (thiện) hoặc akusala (bất thiện).

Bhava (hữu), trong nhóm này, có nghĩa là (nghiệp) Kamma đã được chấm dứt.

d) Năm quả trong tương lai.

Hành là duyên cho thức tái sinh (patisandhi - viññāṇa) Bốn phần kế tiếp là danh sắc trong kiếp hiện tại. Năm phần này tạo nên một tổng hợp của 20 phương thức. Hai mươi phương thức này giống như một bánh xe, nó không có sự khởi đầu hoặc kết thúc. Nhưng đức Phật biết rằng nhân chính là avijjha (vô minh).

Sơ đồ 1-5

 Bánh Xe Luân Hồi (Bhava-cakka)

2. Ba sự liên kết (Xem sơ đồ 1-6)

Ở khía cạnh này, chúng ta nhìn vào Nidāna (mối liên kết) bằng thuật ngữ của ba sự liên kết:

a) Vòng phiền não (Kilesa)
b) Vòng nghiệp (Kamma)
c) Vòng quả (Vipāka)

 a) Vòng Phiền não đề cập đến:

Vô minh (Avijjha) (1)
Tham ái (Taṇhā) (8)
Chấp thủ (Uppadana) (9)

b) Vòng Nghiệp đề cập đến:

Hữu (Bhava) (10)
Hành (Sankhāra) (2)

c) Vòng Quả đề cập đến:

Thức (Viññāṇa) (3)
Danh Sắc (Nāma-rūpa) (4)
Lục nhập (Salayatana) (5)
Xúc (Phassa) (6)
Thọ (Vedanā) (7)

Sơ đồ 1-6
Ba Vòng

3. Hai nhân của hành động (Sơ đồ 1-4, 1-5)

Ðể hiểu được thập nhị nhân duyên, điều quan trọng nhất là người ta phải biết rằng có hai nhân đưa đến hành động, vô minh và tham ái. Vô minh (avijjha) là nhân chính dẫn đến Taṇhā (tham ái), và tham ái là nhân chính cho vô minh. Vô minh là quá khứ và tham ái là hiện tại, nhưng cuối cùng chúng là các nhân với nhau - và vòng tròn có thể đi bằng 2 cách.(vẽ hình)

Sơ đồ 1-7

Nhân đầu tiên (mối liên kết) dẫn đến thọ, mối liên kết thứ 7. Sau đó nó dẫn đến tham ái (mối liên kết thứ 8 -), sau đó đến (9) thủ đến (10) hữu, đến (11) sanh và sau đó (12) già chết. Người tà kiến cho rằng không có nhân và quả; không có công đức (punna), không có xấu xa (papa) và không có tái sinh. Cho nên đức Phật cho rằng vô minh là nhân chính, để cho thấy có nhân (avijjha) và quả. Quả hiện tại là (3) thức tái sanh dẫn đến (4) danh sắc (5) lục nhập (6) xúc (7) thọ. Những mối liên kết này (3 - 7) trong hiện tại được tạo nên bởi vô minh (nhân) trong quá khứ và hành (1 & 2). Cho đến khi một người vẫn còn vô minh, sẽ có một quả.

Tham ái (8) được tạo ra bởi duyên của nó, thọ (7) dẫn đến thủ(9) và hữu (10). Rồi sau đó vòng tròn này quay trở lại vô minh (1) và hành (2). Năm phần này (8, 9, 10, 1, 2) là những nhân hiện tại và quả của (1) vô minh. Quả của vô minh (1) và hành(2) là để lập lại 3 - 7 (kiếp hiện tại) nữa.

Khi (8) tham ái được đạt đến 8, 9, 10, 1, 2 trở thành nhân trở lại trong hiện tại. Và như vậy bánh xe quay vòng tròn. Mỗi khi một người được tái sinh (11) 3 - 7 bắt đầu và sự kiện này dẫn đến (12) già và chết.

Nhìn thấy quả của tham ái, người có tà kiến cho rằng vạn vật thì thường còn, không có già hoặc đổi thay, hoặc một người với (raga-carita) tham sống mạnh mẽ có thể thấy rằng danh sắc dẫn đến già và chết. Trong vòng sinh và tử, chúng ta liên tục tái sinh trong ba cõi (loka) (kama - loka (dục giới); rūpa loka (sắc giới) và arūpa loka (vô sắc giới) - hoặc 31 cõi). Ðể thoát khỏi điều này, chúng ta phải tu tập Tứ niệm xứ, theo những nguyên tắc được đặt ra trong kinh Maha-Satipaṭṭhāna (Ðại niệm xứ), là yếu tố đầu tiên của 37 pháp trợ Bồ đề - Bodhipakkiyadhamma - và dẫn đến sự nhận thức được Tứ Diệu Ðế.

 


[1] Lẽ dĩ nhiên, sự sanh và diệt của danh và sắc thì nhanh hơn một cảnh trong một phim - gấp hàng ngàn lần.

[2] Ở đây, thọ, tưởng, hành (thông thường 5 uẩn) đang thực hiện chức năng sở hữu, nó đi đến việc tạo nên thức uẩn.

[3] Có 3 loại nghiệp hành có thể xác định phạm vi của chúng ta: công đức hành, phi công đức hành, an tịnh hành (4 thiền vô sắc)

[4] Có bốn hình thức yoni (tái sanh): 1) thai sanh, 2) noãn sanh, 3) thấp sanh, 4) hóa sanh.