Phật học cơ bản
Cẩm Nang Tu Học Dành Cho Tầng Lớp Tại Gia Cư Sĩ (Tập I)
Tỳ khưu Giác Hạnh (Hồ Quang Khánh)
09/08/2553 08:42 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

 

Mẩu chuyện này liên quan đến hai Pháp cú trên:

Trong khi trú tại Kỳ Viên tự, Đức Thế Tôn thuyết giảng hai Pháp cú trên, liên quan đến năm vị đệ tử tại gia cư sĩ.

Một ngày nọ, năm vị thiện tín đang trì giới tại Kỳ Viên tự. Hầu như họ chỉ giữ một hoặc hai trong năm giới. Trong số họ có một người xác nhận rằng những giới mà ông ta đang giữ cực kỳ khó và có rất nhiều sự tranh luận giữa họ. Cuối cùng, họ đến gặp Đức Thế Tôn để hỏi về vấn đề này. Đối với họ Đức Thế Tôn đã nói như sau: "Các con không nên xem một giới nào là dễ dàng hày là không quan trọng. Bất cứ giới nào trong những giới cấm phải được tuân giữ một cách nghiêm khắc. Không nên xem nhẹ bất cứ giới nào trong những giới cấm, không có giới cấm nào giữa chúng là dễ dàng để hành trì."

Sau khi Đức Thế Tôn thuyết giảng xong bài pháp này, tất cả năm vị thiện tín đó đều chứng đắc Tu-đà-hoàn Quả.

Như đã nói, đạo Phật là đạo chú trọng đến hạnh phúc, an vui và an lạc của cuộc sống. Những việc làm, lời nói phải được trí tuệ soi sáng. Cho nên, tùy theo trường hợp mà chúng ta nên phương tiện quyền xảo vận dụng trí tuệ của chúng ta trong mọi trường hợp để hầu mong cứu vớt bất cứ chúng sanh nào. Ví dụ: có một ông thợ săn thường vào rừng săn bắn thú vật. Hôm nọ, ông ta rượt con nai tơ và có ý định giết nó để làm bữa tiệc liên hoan cuối năm. Sau mười lăm phút săn đuổi theo con nai tơ ấy với sự thông minh, nhanh nhẹn của con nai ông thợ săn không còn thấy nó nữa. Nhưng trên đường đi tìm nai tơ ông thợ săn gặp một bác tiều phu, bèn hỏi bác ấy rằng: "Hồi nãy giờ bác có thấy con nai tơ nào chạy sang lối này không?" Với trí tuệ thông minh cộng thêm lòng từ bi bao la bác tiều phu không trả lời ngay cho ông thợ săn. Thay vì trả lời bác tiều phu mời vị đó vào nhà uống nước. Sau khi uống nước và nghỉ ngơi xong xuôi ông thợ săn nhắc lại câu hỏi hồi nãy đối với bác tiều phu. lúc này bác tiều phu trả lời rất là trí tuệ nhưng hàm chứa đầy từ tâm. Bác trả lời rằng: "Tôi có thấy con nai tơ đó chạy ngang qua đây trước khi bác vào nhà tôi kia. Chứ lúc mà bác vào nhà tôi uống nước, nghỉ ngơi thì tôi không còn thấy nó nữa." Như vậy, bác tiều phu đã cứu được mạng sống của con nai tơ. Mặc khác, bác tiều phu không phạm giới nói dối như Đức Thế Tôn đã chế định. Như vậy, phương sách trả lời của bác tiều phu vô cùng tuyệt vời, vừa cứu thoát được mạng sống của con nai tơ kia, vừa không phạm giới nói dối cho chính bản thân của mình. Đó mới gọi là phương tiện quyền xảo. Chứ nếu bác tiều phu nói dối với ông thợ săn rằng tôi không thấy con nai tơ nào chạy qua lối này thì bác sẽ phạm giới nói dối. Tuy cũng cứu thoát được con nai kia nhưng đối với bản thân bác tiều phu thì bác sẽ phạm giới. Mỗi khi phạm giới thì cuộc sống tâm linh của bác đó có phần trắc ẩn và áy náy lương tâm. Như thế, không những bất lợi cho bác tiều phu trong hiện tại mà trong tương lai cũng có nhiều điều không tốt đẹp sẽ xảy đến với bác ấy. Bởi vì, bác đã phạm giới nói dối. Vã lại, trong kinh Đức Thế Tôn dạy: "Trước khi hành giả làm bất cứ một công việc gì phải suy xét cho kỹ, việc làm phải có lợi cho cả hai, chứ lợi cho mình và hại cho tha nhân thì cũng không nên làm, hại cho mình và có lợi cho tha nhân thì cũng không nên làm. Những việc gì có lợi cho ngươi lẫn cho tha nhân thì nhứt khoát phải làm ngay." Có như vậy, sở hành mới mang lại lợi ích lớn hơn, tốt đẹp hơn cho số đông. Qua câu chuyện trên chúng ta chứng minh được rằng đó mới là thật sự phương tiện quyền xảo của Phật giáo. Còn ngược lại thì không phải là phương tiện quyền xảo của Phật giáo. Tất cả hành động do thân, khẩu tạo tác, không một hành động nào mà không có sự tham gia của ý thức. Ý là đầu mối cho các hành động thiện ác. Trong Pháp cú kinh Đức Thế Tôn dạy rằng:

"Các pháp do ý dẫn đầu
Ý chủ, ý tạo
bắt cầu đưa duyên
Nói, làm với ý chẳng hiền
Bánh xe, bò kéo
khổ liền theo sau!

Các pháp do ý dẫn đầu
Ý chủ, ý tạo
bắt cầu đưa duyên
Nói, làm với ý tốt hiền
Như hình dọi bóng
vui liền theo sau!."
(Kinh Lời Vàng, câu 1 & 2).

Hai Mẩu chuyện sau đây liên quan đến hai Pháp cú trên:

(Câu chuyện thứ nhất)

Trong khi trú tại Kỳ Viên tự, Đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp cú này, liên quan đến Cakkhupāla, vị Đại đức mù.

Một lần nọ, Đại đức Cakkhupāla đến Kỳ Viên tự đảnh lễ Đức Thế Tôn. Đêm hôm ấy, trong khi thiền hành lui tới, Đại đức Cakkhupāla tình cờ giẫm lên những con côn trùng. Sáng hôm sau, có một vài vị Tỳ-Khưu viếng thăm vị Đại đức này đã nhìn thấy xác chết của những con côn trùng. Họ nghĩ không tốt về Đại đức Cakkhupāla và đã trình bày vấn đề này lên Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn hỏi các ngươi có thấy Đại đức Cakkhupāla giết những con côn trùng đó không? Bạch Ngài không. Đức Thế Tôn nói: "Các ngươi đã không thấy Đại đức Cakkhupāla giết, cũng thế ấy Đại đức Cakkhupāla đã không nhìn thấy những con côn trùng kia. Mặc khác, Đại đức Cakkhupāla đã chứng đắc quả vị A-la-hán, Đại đức Cakkhupāla đã không có chủ tâm để giết và như vậy Đại đức Cakkhupāla hoàn toàn vô tội." Có một số Tỳ-Khưu hỏi rằng: "Tại sao Đại đức Cakkhupāla là một vị A-la-hán mà vẫn còn bị mù"? Nhân cơ hội này, Đức Thế Tôn kể câu chuyện như sau:

Trước đây, có một kiếp Đại đức Cakkhupāla là một vị lương y. Chính Đại đức Cakkhupāla có chữa bệnh đau mắt cho một thiếu phụ nghèo. Bà hứa đến lúc khỏi bệnh, bà và con gái của bà sẽ về làm đầy tớ trong nhà ông lương y. Thuốc quả thật công hiệu, nhưng bà không giữ lời hứa, viện lẽ rằng mắt bà còn tệ hơn trước. Vị lương y ác độc liền nảy sanh một ý tưởng tội lỗi. Ðể trả thù, ông cho thiếu phụ nghèo một thứ thuốc khác làm mù luôn cả hai mắt. Do nghiệp ác trong quá khứ, tuy Đại đức Cakkhupāla đã đắc quả A-la-hán, vẫn phải mang tật mù.

Sau khi Đức Thế Tôn thuyết pháp xong, ba mươi nghìn vị Tỳ-Khưu chứng đắc quả vị A-la-hán. (The Dhammapada: Verses & Stories, tr 135 & 136).

(Câu chuyện thứ hai)

Trong khi trú tại Kỳ Viên tự, Đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp cú này, liên quan đến Maṭṭhakuṇḍalī, người Bà-la-môn trẻ tuổi.

Maṭṭhakuṇḍalī là một thanh niên trẻ, tên cha của chàng là Adinnapubbaka, ông ta vô cùng keo kiệt và không bao giờ bố thí cho ai một đồng xu nào. Ngay cả vàng của ông không bao giờ mang tới tiệm để thuê thợ làm, chỉ đưa con trai của ông làm để khỏi phải trả tiền công thợ. Khi đứa con trai ông ngã bệnh, đến một thời gian dài cũng không mời bác sĩ khám bệnh cho con. Khi ông biết rằng người con trai của mình sẽ bị chết, ông khiêng đứa con trai của mình ra ngoài hiên nhà, có như thế mọi người tới thăm sẽ không thể nhìn thấy tài sản trong nhà ông.

Ngay trong buổi sáng hôm đó, sau khi thiền toạ xong, với Thiên nhãn thông Đức Thế Tôn nhìn thấy Maṭṭhakuṇḍalī đang nằm ngoài hiên nhà. Vì vậy, sau khi Ngài và chư Tỳ-Khưu đi vào thành Xá-vệ khất thực, Đức Thế Tôn đứng gần cửa ngỏ của người Bà-la-môn Adinnapubbaka. Đức Thế Tôn phóng luồng hào quang để lôi cuốn sự chú tâm của Maṭṭhakuṇḍalī bởi vì lúc này Maṭṭhakuṇḍalī đang nằm quay mặt vào phía trong nhà. Khi Maṭṭhakuṇḍalī nhìn thấy Đức Thế Tôn thì cơ thể của Maṭṭhakuṇḍalī rất là yếu chỉ bày tỏ sự cung kính của mình qua đức tin trong sạch tuyệ đối. Như thế cũng đủ. Khi Maṭṭhakuṇḍalī qua đời với tâm cung kính Đức Thế Tôn Maṭṭhakuṇḍalī được tái sinh vào cảnh giới Đâu-xuất-đà.

Từ cảnh giới ấy, Maṭṭhakuṇḍalī nhìn thấy cha của mình đang than khóc trong nghĩa địa, Maṭṭhakuṇḍalī giả dạng một lão già và xuất hiện tại nghĩa địa. Maṭṭhakuṇḍalī nói với người cha kiếp trước của mình về vấn đề tái sinh trong cảnh giới Đâu-xuất-đà và khuyên người cha đến mời Đức Thế Tôn để dâng bữa cơm trưa. Tại nhà người Bà-la-môn Adinnapubbaka, ông ta hỏi Đức Thế Tôn rằng: "Bạch Ngài! Trong thế gian này, nếu một người không bao giờ bố thí và giữ giới chỉ có đức tin trong sạch đối với Đức Thế Tôn sau khi chết có thể tái sinh trong cảnh giới Đâu-xuất-đà không"? Vì vậy, Đức Thế Tôn muốn Maṭṭhakuṇḍalī xuất hiện với hình dáng như một con người; vài phút sau Maṭṭhakuṇḍalī xuất hiện với trang phục của chư thiên và kể với họ về chuyện tái sinh ở cảnh giới Đâu-xuất-đà. Chỉ có như vậy mới chinh phục được đức tin của kháng giả rằng người con trai của người Bà-la-môn Adinnapubbaka chỉ đơn thuần bày tỏ đức tin của mình đối với Đức Thế Tôn nhưng sau khi chết đã đạt được sự huy hoàng lớn lao. (The Dhammapada: Verses & Stories, tr 136 & 137).

Tâm ô nhiễm ở đây chính là tâm tham, sân, si. Tâm thanh tịnh là tâm vô tham, vô sân, vô si. Do đó, muốn kiểm soát thân, khẩu, chúng ta cần phải kiểm soát ý, không cho tham, sân, si khởi lên. Trong thế gian vô minh này, tham, sân, si là cội nguồn của tất cả tội lỗi. Kẻ thù độc hại nhất của nhân loại là lòng tham, tức là sự luyến ái, bám víu vào cái được gọi là "ta" hay là "của ta". Tất cả nghiệp dữ xảy ra do lòng tham gây nên. Khi bị trở ngại lòng tham thì tức giận, thù hằn xuất hiện.

Trong Pháp cú kinh Đức Thế Tôn dạy rằng:

"Tham ái sinh bệnh sầu ưu
Lại sinh sợ hãi
lo âu nhiều bề
Người mà tham ái, không mê
u sầu sợ hãi -
đã thề viễn ly!."
(Kinh Lời Vàng, câu 216).

Mẩu chuyện này liên quan đến Pháp cú trên:

Trong khi trú tại Kỳ Viên tự, Đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp cú này, liên quan đến người nông dân Bà-la-môn

Lúc bấy giờ vị Bà-la-môn này sống trong thành Xá-vệ, vốn ông ta không phải là Phật tử. Thế nhưng, với thiên nhãn thông Đức Thế Tôn biết rằng nguờì Bà-la-môn này sẽ chứng đắc Tu-đà-hoàn Quả trong một ngày gần đây. Vì vậy, Đức Thế Tôn đã đi đến thửa ruộng người Bà-la-môn đang cày và nói chuyện với ông. Từ đó, người Bà-la-môn trỏ thành thân thiện với Đức Thế Tôn và cám ơn không ngớt lời đối với Đức Thế Tôn, bởi vì Đức Thế Tôn đã làm cho ông ta hăng hái trong công việc của ông trên thửa ruộng ấy. Ngày nọ, ông ta thưa với Đức Thế Tôn rằng: "Bạch Ngài Gotama! khi con thu hoạch những hạt thóc từ thửa ruộng này, con sẽ cúng dường Ngài trước khi con ăn. Con sẽ không ăn cơm cho đến khi con chưa cúng dường đến Ngài một ít."

Tuy nhiên, Đức Thế Tôn đã biết trước người Bà-la-môn này sẽ không có cơ hội để thu hoạch thóc từ thửa ruộng của ông trong năm đó, nhưng Đức Thế Tôn vẫn giữ yên lặng.

Vậy, vào đêm hôm trước người Bà-la-môn thu hoạch thóc thì có một trận mưa rất lớn, nước chảy như thác và đã cuốn sạch toàn bộ thóc của ông. Cho nên, người Bà-la-môn rất đau buồn, bởi vì không còn gạo để nấu cơm dâng cúng đến bạn của ông, Đức Thế Tôn Gotama. Đức Thế Tôn đến nhà của người Bà-la-môn, nhân cơ hội đó ông đã trình bày với Đức Thế Tôn về thảm hoạ khốc liệt đã xảy đến với ông. Đức Thế Tôn trả lời: "Này người Bà-la-môn, bạn không hiểu nguyên nhân của sự phiền muộn, nhưng ta hiểu. Nếu sự sợ hãi và ưu sầu nảy sinh. Chúng nảy sinh bởi vì tham ái."

Sau khi Đức Thế Tôn thuyết pháp xong vị Bà-la-môn chứng đắc Tu-đà-hoàn Quả (The Dhammapada: Verses & Stories, tr. 346 & 347).

Chúng ta luôn luôn lựa chọn, vui thích và say đắm đối với những gì vừa ý, nhưng từ chối và ghét bỏ đối với những gì mình phật lòng. Vừa ý thì luyến ái, đam mê, chấp chặt, bám víu và nâng niu. Trái lòng thì bất mãn, xua đuổi, sân hận, oán ghét, buôn xả và thậm chí nguyền rủa. v.vv... Lòng tham thường thúc dục chúng ta bám víu dục lạc như ăn uống, ngủ nghỉ, tiền tài, danh vọng, sắc đẹp (năm món ngũ dục Đức Thế Tôn thường đề cập trong Kinh điển)..., và tìm mọi cách để thỏa mãn nhục dục. Bởi vì tâm sân khiến cho ta tức giận, lắm khi đến độ cố gắng tìm mọi cách để tiêu diệt điều không ưa thích. Cho đến khi chúng ta tu đạt được những kết quả khả quan trong Phật giáo thì ta diệt được tự ngã không còn chấp cái "ta" nữa thì ta nhận thức được rằng, tất cả đều là tạm bợ, mông mênh, không thật và tất cả đều bị định luật vô thường chi phối. Lúc ấy, tham, sân, và si tự nhiên tiêu tan, không còn trong tâm trí của chúng ta nữa.

Tham, sân, si được Đức Thế Tôn nêu rõ trong Pháp cú kinh như sau:

"Lửa tham ghê lắm ai ơi!
Hận sân cũng vậy,
đốt người, đốt ta!
Lưới nào bằng lưới si ma?
Sông nào sánh được
ái hà dòng sâu?"
(Kinh Lời Vàng, câu 251).

Mẩu chuyện này liên quan rất mật thiết với Pháp cú trên và được Đức Thế Tôn thuyết giảng trong khi Ngài trú Kỳ Viên tự:

Trong khi Đức Thế Tôn trú tại Kỳ Viên tự, Ngài thuyết giảng Pháp cú này, liên quan đến năm người đệ tử tại gia cư sĩ.

Lúc bấy giờ, hiện diện có mặt của năm người tại gia cư sĩ trong khi Đức Thế Tôn thuyết pháp tại Kỳ Viên tự. Trong số đó có một người ngủ gật trong khi đang ngồi nghe pháp, người thứ hai thì dùng những ngón tay vẻ trên nền nhà. Vị thứ ba lay động thân cây, người thứ tư đang nhìn lên hư không. Chỉ có vị thứ năm trong số họ chăm chú nghe Đức Thế Tôn thuyết giảng vô cùng cung kính. Trong lúc ấy, ngài A-Nan đang hầu và quạt Đức Thế Tôn. Trong khi đang làm thị giả ngài A-Nan nhìn thấy những hành vi khác nhau của năm người đệ tử tại gia cư sĩ và bạch với Đúc Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Trong khi Đức Thế Tôn thuyết pháp giống như những giọt nước mưa lớn rơi từ trên bầu trời xuống, chỉ có một vị trong nhóm năm người kia đã lắng nghe một cách nhiệt tâm tinh cần." Ngài A-Nan đã miêu tả với Đức Thế Tôn những hành vi khác nhau của bốn người kia và hỏi Đức Thế Tôn tại sao họ có những cách cư xử khác nhau như vậy?

Sau đó Đức Thế Tôn giải thích cho Ngài A-Nan nghe: "Này A-Nan, những vị đệ tử tại gia cư sĩ này không thể giải thoát những tập khí của họ trong những kiếp quá khứ. Trong trường hợp này, người thứ nhất đã làm kiếp con rắn; thường thường con rắn hay khoanh mình lại để ngủ, cũng thế ấy, người đàn ông này ngủ trong khi đang lắng nghe giáo pháp. Người đang vẽ trên đất bằng bàn tay của mình trước kia đã làm kiếp con giun đất, người lay động thân cây trước đây làm kiếp con khỉ, còn người nhìn lên bầu trời trước đây là nhà thiên văn học, và người chăm chỉ lắng nghe giáo pháp trước đây là nhà chiêm tinh. Này A-Nan, trong sự chuyển tiếp này, con phải nhớ rằng người chăm chỉ ân cần thì có khả năng hiểu giáo pháp và có rất nhiều người không thể lảnh hội những gì đã được thuyết giảng bởi ta."

Lại một lần nữa Ngài A-Nan hỏi Đức Thế Tôn rằng: "Bạch Thế Tôn! Những gì đã làm chướng ngại mọi người không có thể hiểu được giáo pháp? Đức Thế tôn trả lời: "Này A-Nan! Tham, sân, và si là tam độc và chính nó đã ngăn cản mọi người trong khi học hỏi giáo pháp. Tham dục thiêu đốt con người, không có lửa nào giống như tham dục. Thế giới này có thể bị thiêu đốt trong khi bảy mặt trời xuất hiện cùng một lúc, nhưng điều đó rất là hiếm khi xảy ra. Tham dục luôn luôn thiêu đốt mọi người không có một sự dừng nghỉ.

Sau khi Đức Thế Tôn thuyết pháp xong, người lắng nge giáo pháp chăm chỉ liền chứng đắc Tu-đà-hoàn Quả. (The Dhammapada: Verses & Stories, tr. 367 & 368).

Thực sự, chúng ta khổ đau bởi vì chấp "ngã" và "ngã sở." Cho đến khi nào chúng ta không còn chấp ngã và ngã sở thì chúng ta sẽ không còn khổ đau.Vì vậy, trong khi lần bước trên tầng thang tiến hóa về mặt tinh thần, chúng ta dần dần từ bỏ luyến ái từ thô kệch cho đến vi tế, mọi hình thức đeo víu vào những gì liên quan đến "ta" và "của ta." Đến khi ấy hành giả tự nhiên xem thường các dục lạc, dần dần chấm dứt mọi hình thức luyến ái, và một ngày tươi đẹp kia, hoàn toàn dập tắt lửa tham. Và cũng chính vì vậy trong kinh Pháp cú Đức Thế Tôn dạy như sau:

"Do ái sinh bệnh sầu ưu
Lại sinh sợ hãi
lo âu nhiều bề
Ái không đắm, dục không mê
U sầu sợ hãi
ê chề trốn xa!
(Kinh Lời Vàng, câu 212).

Ái luyến sinh bệnh sầu ưu
Lại sinh sợ hãi
lo âu nhiều bề
Người mà ái luyến không mê
U sầu sợ hãi
cận kề được đâu!
(Kinh Lời Vàng, câu 213).

Hỷ ái sinh bệnh sầu ưu
Lại sinh sợ hãi, lo âu
nhiều bề
Người mà hỷ ái không mê
U sầu, sợ hãi -
chúng chê dở mồi!
(Kinh Lời Vàng, câu 214).

Dục ái sinh bệnh sầu ưu
Lại sinh sợ hãi
lo âu nhiều bề
Người mà dục ái không mê
U sầu, sợ hãi
chán chê chẳng gần!
(Kinh Lời Vàng, câu 215).

Tham ái sinh bệnh sầu ưu
Lại sinh sợ hãi
lo âu nhiều bề
Người mà tham ái, không mê
u sầu sợ hãi -
đã thề viễn ly!."
(Kinh Lời Vàng, câu 216).

Mẩu chuyện này liên quan đến vị đại phú có người con trai qua đời:

Trong khi tại Kỳ Viên tự, Đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp cú 212 này, liên quan đến nỗi đau buồn của người gia chủ giàu có bởi vì đứa con trai thân yêu của ông bị chết.

Một lần nọ, có cảm giác rất đau buồn về cái chết của đứa con trai. Ông ta thường đến nấm mồ và khóc lóc thảm thiết không biết bao nhiêu lần ở đó. Vào một buổi sáng sớm, Đức Thế Tôn đã nhìn thấy vị gia chủ giàu có kia qua thiên nhãn thông của mình. Vì thế cho nên, Ngài cùng một vị Tỳ-Khưu đi đến nhà vị gia chủ đó. Ở đó, Đức Thế Tôn hỏi vị gia chủ sao ngươi có cảm giác bất hạnh thế? Lúc đó, vị gia chủ tường trình lại cái chết của người con trai cho Đức Thế Tôn nghe và cũng chính điều đó khiến ông ta đau buồn, ưu sầu thê thảm vậy. Vì thế, Đức Thế Tôn nói với vị gia chủ như sau: "Tất cả chúng sanh được sinh ra trên cõi thế này một ngày nào đó sẽ bị chết, thật sự, cuộc đời chấm dứt bằng cái chết. Con phải luôn luôn nhớ sự thật hiển nhiên rằng cuộc đời chấm dưát bằng cái chết. Không nên nghĩ rằng chỉ có người con thân yêu của con là đối tượng của cái chết. Không nên sầu ưu hoặc tổn thương lắm. Sầu ưu và sợ hãi xuất hiện trong con là do tham ai."

Sau khi Đức Thế Tôn thuyết pháp xong, vị gia chủ giàu có kia đã chứng đắc Tu-đà-hoàn Quả. (The Dhammapada: Verses & Stories, tr. 343 & 344).

Mẩu chuyện này liên quan đến cái chết của người cháu gái tên là Sudattā của bà đại thí chủ Visākha trong thời Đức Thế Tôn còn tại thế:

Trong khi Đức Thế Tôn trú tại Kỳ Viên tự, Đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp cú này, liên quan đến nữ thí chủ Visākha, người thí chủ nỗi tiếng ở tu viện Pubbārāma.

Ngày nọ, người cháu gái của bà tên là Sudattā bị chết, bà Visākha vô cùng bi thương, khổ luỵ về cái chết của người cháu... Vì thế cho nên, bà đi đến tịnh xá để hầu Đức Thế Tôn. Khi Đức Thế Tôn thấy bà, Ngài nói rằng: "Này Visākha, con có nhận thức rằng có rất nhiều người chết mỗi ngày trong thành Xá vệ không? Nếu con nhìn họ như nhìn đứa cháu của con thì con sẽ không còn khóc lóc và ưu buồn nữa. Đừng để cái chết của đứa bé gái kia làm ảnh hưởng con quá nhiều. Ưu sầu và sợ hãi nảy sinh bởi tham ái." (The Dhammapada: Verses & Stories, tr. 344 & 345).

Mẩu chuyện những chàng hoàng tử Licchavī:

Trong lúc trú tại Kūṭāgāra tịnh xá trong thành Tỳ-Xá-Ly, Đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp cú này, liên quan đến những chàng hoàng tử Licchavī.

Vào một ngày lễ hội, Đức Thế Tôn cùng với nhóm Tỳ-Khưu đi vào thành phố Tỳ-Xá-Ly, Trên đường đi, Ngài và chư vị Tỳ-Khưu gặp những chàng hoàng tử Licchavī, trang phục của họ rất là thanh lịch. Trong khi nhìn thấy họ mặc trang phục của nhà vua Ngài nói với chư vị Tỳ-Khưu: "Này chư Tỳ-khưu, những ai chưa đến cảnh giới Đâu xuất đà thì nên ngắm những chàng hoàng tử Licchavī này." Những chàng hoàng tử đang trên con đường đi đến vườn dục lạc kia. Ở đó, chúng cãi lộn với cô gái điếm và họ sẽ đi đến sự đánh nhau rất sớm. Như hậu quả, một vài người trong nhóm họ sẽ bị loã máu và mang về nhà. Đức Thế Tôn và chư vị Tỳ-Khưu sau khi ngọ trai trong thành phố Tỳ-Xá-Ly xong trở về tịnh xá, Ngài và chư Tỳ-Khưu nhìn thấy những chàng hoàng tử bị thương tích và được mang về nhà.

Liên quan đến biến cố ở trên chư Tỷ-kheo nhận xét rằng: "Những chàng hoàng tử này bị hư hỏng chỉ bởi vì một người đàn bà." Đối với họ Đức Thế Tôn trả lời, " chư Tỳ-Khưu, sầu ưu và sợ hãi nảy sinh là do tham ái hưởng thụ và dục lạc" (The Dhammapada: Verses & Stories, tr. 345).

Mẩu chuyện nói về chàng thanh niên Anitthigandha.

Trong lúc trú tại Kỳ Viên tự, Đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp cú này, liên quan đến một chàng thanh niên trẻ tên là Anitthigandha.

Chàng thanh niên Anitthigandha sống trong thành phố Xá vệ. Anh ta cưới một cô gái sắc nước hương trời trong thành phố Sāgala, thuộc nước Maddas. Trong khi cô dâu đang đi từ nhà đến thành phố Xá vệ, đột nhiên cô lâm bệnh và bị chết trên đường. Khi chú rể nghe cái chết thảm thương của người vợ anh ta bị vỡ tim.

Tại điểm gặp nhau này, Đức Thế Tôn biết rằng đó là thời gian chín muồi để chàng thanh niên trẻ này chứng đắcTu-đà-hoàn Quả trên con đường đi về nhà của anh. Cha mẹ của anh thanh niên này cúng dường Đức Thế Tôn bữa cơm trưa. Sau khi ngọ trai xong, Đức Thế Tôn nói với cha mẹ của anh ta khiêng anh ra trước mặt Đức Thế Tôn. Khi anh ta đến, Đức Thế Tôn hỏi anh ta tại sao con đau buồn và bi thảm vậy? Từ đó anh ta tường thuật lại đâù đuôi về cái chết bi thảm của người vợ hiền. Sau đó, Đức Thế Tôn nói với anh ta rằng: "Này Anitthigandha! Tham ái sinh sầu ưu; bởi vì tham đắm dục lạc và vật chất mà sợ hãi và sầu ưu nãy sinh."

Sau khi Đức Thế Tôn thuyết pháp xong, chàng thanh niên Anitthigandha chứng đắc Tu-đà-hoàn Quả. (The Dhammapada: Verses & Stories, tr. 345 & 346).

Mẩu chuyện này liên quan đến Pháp cú trên:

Trong khi trú tại Kỳ Viên tự, Đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp cú này, liên quan đến người nông dân Bà-la-môn

Lúc bấy giờ vị Bà-la-môn này sống trong thành Xá-vệ, vốn ông ta không phải là Phật tử. Thế nhưng, với thiên nhãn thông Đức Thế Tôn biết rằng ngừơì Bà-la-môn này sẽ chứng đắc Tu-đà-hoàn Quả trong một ngày gần đây. Vì vậy, Đức Thế Tôn đã đi đến thửa ruộng người Bà-la-môn đang cày và nói chuyện với ông ta. Từ đó, người Bà-la-môn trở thành thân thiện với Đức Thế Tôn và cám ơn không ngớt lời đối với Đức Thế Tôn, bởi vì Đức Thế Tôn đã làm cho ông ta hăng hái trong công việc của ông trên thửa ruộng ấy. Ngày nọ, ông ta thưa với Đức Thế Tôn rằng: "Ngài Gotama, khi con thu hoạch những hạt thóc từ thửa ruộng này, con sẽ cúng dường Ngài trước khi con ăn. Con sẽ không ăn cơm cho đến khi nào con cúng dường đến Ngài một ít."

Tuy nhiên, Đức Thế Tôn đã biết trước vị Bà-la-môn này sẽ không có cơ hội để thu hoạch thóc từ thửa ruộng của ông trong năm đó, nhưng Đức Thế Tôn vẫn giữ yên lặng.

Vậy, vào đêm hôm trước người Bà-la-môn thu hoạch thóc của ông thì có một trận mưa rất lớn, nước chảy như thác đổ và đã cuốn sạch toàn bộ thóc của ông ta. Cho nên, vị Bà-la-môn rất đau buồn, bởi vì không còn lúa gạo để nấu cơm dâng cúng đến bạn của ông, Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đến nhà của vị Bà-la-môn, nhân cơ hội đó ông trình bày với Đức Thế Tôn về thảm hoạ khốc liệt đã xảy đến với ông. Đức Thế Tôn trả lời: "Này Bà-la-môn, bạn không hiểu nguyên nhân của sự phiền muộn, nhưng ta hiểu. Nếu sự sợ hãi và ưu sầu nảy sinh. Chúng nảy sinh bởi vì tham ái."

Sau khi Đức Thế Tôn thuyết pháp xong vị Bà-la-môn chứng đắc Tu-đà-hoàn Quả (The Dhammapada: Verses & Stories, tr. 346 & 347).

Sân hận là một thứ tánh bẩm sinh của con người từ vô thỉ kiếp cho nên nó cũng khó chữa trị trong một sớm một chiều. Pāli gọi là vyāpāda hay manopadosa, bao hàm ý nghĩa tức giận, ác ý, bất thỏa mãn, hận thù. Tâm sân hận không chỉ quấy rầy tâm khảm của những người có tâm ấy mà nó còn ảnh hưởng không tốt đến những người đang sống xung quanh. Mỗi khi chúng ta nỗi sân, tâm của chúng ta nóng như lửa đang thiêu đốt núi rừng, tuần hoàn máu của chúng ta làm việc cực nhanh khiến mắt của chúng ta đỏ kè, nét mặt xấu đi một cách không tưởng tượng so với nhưng lúc sống bình thường, sân hận làm cho chúng ta giảm bớt tuổi thọ, và còn khiến thân bằng quyến thuộc, bạn bè có thể xa lánh chúng ta. v..vv... Tâm sân này chỉ triệt tiêu trong tâm hồn của chúng ta trong khi ta tu tập và chứng đạt tầng thánh thứ ba (A-na-hàm) mà thôi. Ngay cả khi chúng ta chứng đạt tầng thánh thứ hai (Tư-đà-hàm) tâm sân nó vẫn còn hiện hữu trong chúng ta, nhưng nó chỉ yếu và vi tế.

Si là một trạng thái không có trí tuệ. Nó luôn luôn hiện hữu trong chúng ta. Si luôn đi đôi với tham hoặc với sân. Si là một trạng thái tâm rất là vi tế. Nó chỉ bị diệt tiêu hoàn toàn trong tâm khảm của chúng ta khi chúng ta tu tập và chứng đạt tầng thánh thứ tư (A-la-hán). Tuy nhiên, nếu chúng ta nỗ lực tu tập một cách tinh tấn thì bất cứ tầng thánh nào trong tứ thánh quả, ngay cả địa vị của Bậc Toàn giác chúng ta cũng có thể đạt được. Bởi vì Đức Thế Tôn của chúng ta thường dạy rằng: "Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành."

Tham, sân, si trong Phật giáo gọi chúng là tam độc. Tai sao chúng ta cho chúng nó một danh hiệu rất là cay độc và không mấy thiện cảm như vậy? Đúng, bởi vì chúng phá hoại tất cả những thiện căn của chúng ta và cũng chính vì nó mà chúng ta cứ luân lưu trôi dạt trong sanh tử luân hồi triền miên bất tận. Cũng do lòng tham, sân, si mà thế giới cứ bùng nổ chiến tranh, quốc gia tham nhũng, phân chia giai cấp, gia đình bất hòa, bạn bè thân thiết nhưng nhiều lúc cũng phải lừa đảo và chém giết lẫn nhau. Muốn trở thành một người tốt, một người có đạo đức thanh cao, chúng ta phải tự thắng tham, sân, si chính trong bản thân mình bằng cách tu học và thực hành giáo lý của Đức Từ Phụ Thích Ca. Chúng ta phải tự mình thắp đuốc lên mà đi chứ không một ai có đủ khả năng để đi thế cho ta. Chúng ta tự làm hòn đảo nương tựa cho chúng ta. Ngay cả Đức Thế Tôn là người có đủ năng lực thần thông biến hoá, thế nhưng Ngài cũng không có khả năng đi hay là thực hành thay thế cho chúng ta. Ngài chỉ là một vị hướng dẫn sư cho chúng ta. Đi hay không đi hết thảy đều phụ thuộc vào khả năng và quyết định của mỗi người trong chúng ta.

Liên quan đến những vấn đề trên trong Pháp cú trên Đức Thế Tôn dạy như sau:

"Trăm câu đọc tụng ích gì
Máy móc, nhái lại
khác chi vẹt, nhồng!
Một lời Phật pháp chánh tông
Nghe xong tịnh lạc
trú dòng bất lai!"
(Kinh Lời Vàng, câu 102).

"Vẻ vang tự thắng chính mình
Khó hơn ngàn vạn
chiến binh sa trường!
Chư thiên, phạm đế, ma vương
Làm sao thắng kẻ
"tự thường thắng y?"
(Kinh Lời Vàng, câu 103, 104 & 105).

Tự ta nương tựa cho ta
Có ai "y chỉ"
gần xa mà cầu!
Tự mình điều phục làm đầu
"Y chỉ" khó được,
tu lâu, được rồi!"
(Kinh Lời Vàng, câu 160).

Mẩu chuyện về Tỳ-khưu-ni Kuṇḍalakesī.

Trong lúc trú tại Kỳ Viên tự, Đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp cú này, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Kuṇḍalakesī.

Kuṇḍalakesī vốn là ngưởi con gái của một phú gia từ thành Vương xá. Cô đã trở thành Tỳ-khưu-ni với thời gian khá dài; nhưng một ngày kia, tình cờ cô gặp một kẻ cướp sắp bị dân làng giết và ngay khi ấy cô tỏ lòng thương yêu kẻ cướp kia vô cùng say đắm. Vì vậy, cha mẹ của cô đã tha chết cho kẻ cướp và họ cưới nhau. Mặc dù, cô yêu chồng tha thiết, chồng của cô vốn là một kẻ cướp lừng danh cho nên chỉ thích của cải và châu báu của cô. Ngày nọ, anh ta dỗ ngọt cô đeo tất cả nữ trang và cùng anh đi lên một ngọn núi để làm lễ cúng dường vị thần. Bởi vì, vị thần đó đã cứu anh ta thoát chết trong khi dân làng chuẩn bị giết anh. Nghe có vẻ hợp lý, Kuṇḍalakesī bèn đi theo chồng, thế nhưng khi họ đến đỉnh núi, kẻ cướp đã có ý định giết cô và lấy tất cả nữ trang. Cô cũng hài lòng, nhưng van xin kẻ cướp tha thứ mạng sống của cô, thế nhưng điều đó là vô nghĩa. Cô nhận thức rằng, nếu không thoát khỏi tay người chồng thì không có phương cách nào để tẩu thoát. Cô đã có cảm giác rất cẩn thận và xảo quyệt. Vì vậy, cô nói với người chồng rằng chúng ta có thể sống với nhau vài giây phút nữa, vì cô muốn hầu hạ ông ta trong giây phút cuối cùng. Cô vừa đi xung quanh ông ta vừa nói một cách cung kính, lợi dụng thời cơ cô đã xô ông ta lộn nhào xuống sườn núi và ông ta bị bất tỉnh.

Sau đó, cô không muốn trở về nhà. Cô lột hết thảy nữ trang của mình treo lên trên cành cây rồi tiếp tục ra đi, thế nhưng không biết đi về đâu. Đột nhiên, cô đến một trú xứ của Paribbājikās (những vị nữ ẩn sĩ lang thang) và ở đây cô trở thành một trong những thành viên của họ. Paribbājikās đã dạy cô hàng nghìn cách ngụy biện; vốn bản chất thông minh chỉ trong một thời gian ngắn cô đã lảnh hội tất cả những gì họ truyền đạt. Sau đó, thầy của cô biểu cô chu du khắp thế giới đó đây và nếu cô có thể tìm ra một vài người trả lời những câu hỏi của cô thì cô nên làm học trò của những vị ấy. Thế rồi, Kuṇḍalakesī đi vòng quanh đảo Jambudīpa (vùng có nhiều cây và quả táo hồng, ở Ấn Độ) để tranh luận với bất cứ những ai muốn tranh luận với cô. Vì vậy, cô được mang một danh hiệu mới "Jambukaparibbājikā."

Một hôm nọ, cô ta đi đến thành Xá vệ. Trước khi vào thành phố để khất thực cô vun một mô đất cát và cắm cành cây vối lên trên, cô thường viết lên mô đất ấy với những dòng chữ có nội dung là mời mọc mọi người ai muốn tranh luận với cô ta thì xin mời. Ngài Sāriputta tranh luận với cô. Kuṇḍalakesī đã đặt hàng nghìn câu hỏi và Ngài Sāriputta đã trả lời thông suốt hết thảy những gì cô hỏi. Sau đó, Ngài sāriputta hỏi cô ta một câu rất đơn giản: "Gì là một? (ekaṃ nāma kiṃ)." Cô ta không thể trả lời, vì vậy, cô thỉnh cầu Ngài Sāriputta dạy cô cách trả lời. Ngài Sāriputta trả lời rằng, trước tiên cô phải trở thành Tỳ-khưu-ni; cô xuất gia làm Tỷ khưu ni với pháp danh Kuṇḍalakesī. Chỉ trong vài hôm sau, cô chứng đắc quả vị A-la-hán.

Sau đó, chư Tỷ-khưu ni hỏi Đức Thế Tôn: "Bạch Đức Thế Tôn! Tỷ-khưu-ni Kuṇḍalakesī có thể đắc quả vị A-la-hán chỉ sau khi lắng nghe một câu pháp ngắn gọn không"? Họ cũng đề cập thêm tiểu sử cua cô Kuṇḍalakesī đã đánh thắng người chồng kẻ cướp trước khi trở thành vị ẩn sĩ lang thang (Paribbājikā). (The Dhammapada: Verses & Stories, tr. 239 & 240).

Mẩu chuyện về người Bà-la-môn Anatthapucchaka:

Trong lúc trú tại Kỳ Viên tự, Đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp cú này, liên quan đến người Bà-la-môn Anatthapucchaka.

Một ngày kia, người Bà-la-môn Anatthapucchaka đi đến Đức Thế Tôn và thưa với Ngài rằng: "Bạch Ngài! Con nghĩ rằng Ngài chỉ biết làm sao thực hành để có lợi ích chứ Ngài không biết làm sao thực tập để mang lại không ích lợi." Đức Thế Tôn trả lời, ta cũng biết những gì không lợi ích và tai hại. Sau đó, Đức Thế Tôn liệt kê sáu cách thực hành để phung phí tài sản; đó là: (1) ngủ cho đến khi mặt trời mọc, (2) tính lười biếng, (3) hành động tàn ác, (4) nghiện ngập rượu và những chất say, (5) đi thơ thẩn trên đường vào những thời gian không thích hợp, và (6) tà dâm.

Sau đó, Đức Thế Tôn hỏi người Bà-la-môn rằng: "Ngươi làm sao để kiếm kế sinh nhai?" Người Bà-la-môn trả lời rằng: "Con kiếm sống bằng trò chơi may rủi, ví dụ: như đánh bài." Tiếp theo, Đức Thế Tôn hỏi ông rằng: "Con thắng hay là thua?" Người Bà-la-môn trả lời rằng: "Nhiều lúc con thua và cũng có nhiều khi con thắng." Đức Thế Tôn nói rằng: "Đánh thắng bài bạc không có gì đáng giá để so sánh với sự chiến thắng những bất tịnh tâm." (The Dhammapada: Verses & Stories, tr. 241 & 240).

Mẩu chuyện nói về người mẹ của Kumārakassapa:

Trong lúc trú tại Kỳ Viên tự, Đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp cú này, liên quan đến người mẹ của Kumārakassapa.

Một lần nọ, người phụ nữ xin phép chồng của mình để xuất gia. Bởi vì vô minh, cô ta đã đi đến gia nhập với nhóm Tỳ-khưu-ni đệ tử của Đề-bà-đạt-đa. Người phụ nữ này đã mang thai trước lúc gia nhập chúng Tỷ-khưu-ni, nhưng thực sự cô ta không biết. Trong trường hợp này, thai nhi càng ngày càng lớn và những vị đồng tu đã dẫn cô đến thầy Đề-bà-đạt-đa. Thầy Đề-bà-đạt-đa bèn ra lệnh cô hoàn tục. Cô nói với những vị Tỷ-khưu-ni khác rằng: "Tôi không có ý định xuất gia dưới sự hướng dẫn của thầy các ngươi, tôi đến đây là một sự sai lầm lớn. Cho tôi sang Kỳ Viên tự để gặp Đức Thế Tôn." Như vậy, cô đi đến gặp Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn biết rằng cô đã mang thai trước khi xuất gia và như thế là vô tội; nhưng Ngài không bàn về trường hợp đó. Đức Thế Tôn đã gửi cô đến Đức vua Bình-sa ở thành Kosala, ông Cấp-cô-độc, một người nổi tiếng giàu có và bà Visākha, đại thí chủ của tu viện Pubbārāma, và rất nhiều người. Sau đó, Đức Thế Tôn dạy Ngài Ưu-pā-li giải quyết vấn đề này giữa quần chúng.

Bà Visākha dẫn cô vào sau bức màn; khám cô ta và tường thuật lại với Ngài Ưu-pā-li rằng cô này thật sự đã mang thai trước khi xuất gia. Ngài Ưu-pā-li công bố giữa kháng giả rằng cô này hoàn toàn vô tội và vì thế cô ta hoàn toàn không bị phạm giới. Sau đó, cô ta sinh được một đứa con trai và đặt tên Kumārakassapa. Khi cậu ta lên bảy, biết mẹ của cậu trước đây vốn là một Tỳ-khưu-ni, cho nên cậu bé cũng xin xuất gia Sa-di dưới sự giáo dục của Đức Thế Tôn. Đến tuổi 20 vị Sa-di này được Đức Thế Tôn chấp nhận cho thọ Đại giới, như thế vị Sa-di này đã trở thành một Tỳ-khưu. Sau đó, Đại đức học đề tài thiền từ Đức Thế Tôn và đi vào rừng sâu. Ở đó, Đại đức đã tu thiền một cách kiên trì và tinh tấn trong một thời gian ngắn Đại đức này chứng đắc A-la-hán. Thế nhưng, Đại đức cũng tiếp tục sống trong rừng thêm 12 năm nữa.

Như vậy, bà mẹ của Đại đức Kumārakassapa không gặp con trai của mình suốt 12 năm trời và rất ước mong để gặp lại người con của mình. Một ngày kia, nhìn thấy con mình, bà đuổi theo sau vừa khóc vừa gọi lớn tên của người con. Khi nhìn thấy mẹ của mình, Đại đức Kumārakassapa nghĩ rằng nếu Đại đức nói chuyện với mẹ một cách thâm tình thì bà ta sẽ tham đắm, chấp thủ đối với Đại đức và tương lai tâm của bà sẽ bị ô nhiễm. Vì mục đích tương lai của bà mẹ (Giác Ngộ Niết bàn) Đại đức đã cố tình nghiêm khắc và nói những lời chua cay đến bà mẹ: "Sao thế, bà là một thành viên của Ni-chúng, tại sao không có thể cắt đứt sự luyến ái đối với đứa con trai của mình?" Nghe xong, bà mẹ nghĩ rằng đứa con trai của mình rất tàn nhẫn. Đại đức Kumārakassapa lặp lại những lời nói trước. Trong khi nghe những lời nói chua chát của người con, bà mẹ tức khắc quán chiếu: "À đúng, tôi đã khóc suốt 12 năm trường bởi vì người con trai của tôi. Nhưng, giờ đây con trai của tôi đã cho tôi những lời cay độc. Cần gì tôi phải luyến ái đối với người con trai của tôi?" Từ đó sự luyến ái của bà đã được giảm dần, sau đó bà quyết định cắt đứt sự luyến ái đối với người con của bà. Do nhờ đoạn tận sợi dây luyến ái, bà chứng đắc quả vị A-la-hán Quả ngay trong ngày hôm ấy.

Một ngày nọ, tại buổi họp mặt của chư Tỳ-khưu-ni, có một vài vị Tỳ-khưu-ni hỏi Đức Thế Tôn: "Bạch Ngài! nếu bà mẹ của Đại đức Kumārakassapa đã lắng nghe lời dạy của Đề-bà-đạt-đa, bà và người con trai đã không thể trở thành những vị A-la-hán. Tất nhiên, Đề-bà-đạt-đa đã cố gắng truyền đạt cho họ những điều vô cùng sai lầm; nhưng Ngài là chổ nương tựa của họ!" Đối với họ Đức Thế Tôn dạy rằng: "Này chư Tỳ-Khưu! Trong sự cố gắng để đạt đến cảnh giới chư thiên hoặc quả vị A-la-hán, các con không thể nào phụ thuộc vào những người khác mà các con phải nỗ lực thực hành với chính bản thân của mình." (The Dhammapada: Verses & Stories, tr. 299 & 300).

Kết luận:

Thực sự, biển pháp của Đức Thế Tôn thì bao la bất tận, với trí tuệ bình thường như chúng ta khó có thể lãnh hội hết thảy trong một kiếp. Ngay cả quý Ngài đệ tử của Đức Thế Tôn ngày xưa rất là xuất sắc thế nhưng không bao nhiêu vị lãnh hội được tất cả những gì Đức Thế Tôn trao truyền. Trường hợp Ngài A-Nan cũng chỉ ghi nhớ được những gì Đức Thế Tôn đã thuyết giảng, bởi vì Ngài đã trải qua vô lượng kiếp học hỏi. Đức Thế Tôn đã từng ca ngợi đặc tính của Ngài A-Nan giữa Đại chúng rằng: "Giáo pháp của ta vào tai A-Nan là như nước rót vào bình vậy." Do đó, điều quan trong ở đây là chúng ta phải nguyện cố gắng tinh tấn, kiên nhẫn học và hành không chỉ trong một kiếp mà trong nhiều kiếp nếu chúng ta còn tái sinh làm người. Qua cuốn sách bé nhỏ này, tác giả hy vọng rằng nó sẽ mang lại nhiều điều bổ ích cho những độc giả có khuynh hướng tu hành và cũng từ cuốn sách này, nếu quý vị thực hành đúng và nghiêm túc như lời Phật dạy thì quý vị sẽ sớm thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, giải thoát giác ngộ. Tối thiểu quý vị cũng sẽ có một cuộc sống hạnh phúc về tâm linh trong hiện kiếp.

Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh trong cõi Ta bà này chóng thoát khỏi sinh tử luân hồi và sớm Giác Ngộ Niết-Bàn.

"Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti
sabbarasaṃ dhammaraso jināti
sabbaratiṃ dhammarati jināti
taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti."

(Pháp thí, thắng mọi thí!
Pháp vị, thắng mọi vị!
Pháp hỷ, thắng mọi hỷ!
Ái diệt, thắng mọi khổ!)
--
(Dhammapada, verse 183).

---*---

Tài Liệu Trích Dẫn:

- The Dhammapada: Verses & Stories, translated by Daw Mya Tin, edited by the Editorial Committee; Myanmar Pitaka Association, Yangon, Myanmar: 1990.

- The Teachings of the Buddha (Basic Level), Ministry of Religious Affairs; Kaba Aye, Yangon, Myanmar: 1998.

- Bản dịch Anh ngữ của Tỳ kheo Khantipalo, và bản dịch Việt ngữ; Hòa thượng Thích Minh Châu; Sài Gòn, Việt Nam, 1996.

- Bài giảng về Kinh Pháp Cú. Hòa thượng Thích Minh Châu, giảng nhân dịp lễ Phật Ðản 2521, tại Thiền Viện Vạn Hạnh, Sài Gòn, ngày 2-6-1977.

- Kinh Lời Vàng: Thi hoá Dhammapada Sutta, Tỳ kheo Giới Đức; Huyền Không, Huế: 1995.

- Kinh Pháp Cú - Hòa thượng Narada dịch sang Anh ngữ và chú giải; Phạm Kim Khánh dịch sang Việt ngữ,1971, và Kỳ Viên Tự tái bản, 2003.

-Tích truyện Pháp Cú (Buddhist Legends, E. W. Burlingame). Thiền viện Viên Chiếu dịch. Gồm 299 câu chuyện có liên quan đến các câu kệ trong kinh Pháp Cú, trích từ tập Chú Giải Pháp Cú của ngài Phật Âm (Buddhaghosa).

-Nghiên cứu so sánh văn bản kinh Pháp Cú chữ Hán và chữ Pàli, Thích nữ Nguyệt Chiếu.

-ooOoo-