Tịnh độ
Một Trăm Ngày Niệm Phật & Một Trăm Bài Pháp (Trọn bộ)
Thích Giác Quang
16/11/2554 09:11 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng


56. NGÀY THỨ NĂM MƯƠI SÁU

Pháp ngữ Tịnh độ

Vấn: - Pháp môn niệm Phật là pháp môn tu tối thắng, tối phương tiện là kim chỉ nam cho chúng sanh cõi ta bà tìm cầu nương dựa mà tu học. Chín giới chúng sanh rời pháp môn nầy thì không thể tu thành Phật; mười phương chư Phật rời pháp môn nầy thì không thể độ chúng sanh. Chủ yếu các pháp môn tu là phương tiện, làm cho chúng sanh lìa ái (chi mạt vô minh) dứt vô minh (cội gốc) như pháp môn niệm Phật là phương tiện lớn của chư Phật ba đời, giúp cho chúng sanh trong cõi ta bà dễ tiếp nhận pháp tu, phát nguyện tinh chuyên niệm Phật để chuyển hóa ta bà thành Tịnh độ; xin Sư từ bi hoan hỷ khai thị cho chúng con về pháp môn niệm Phật Tịnh độ tông?
Ðáp: - Ngài Ðại sư U Khê dạy: Tất cả pháp môn tu hành đều là tên thuốc để trị bịnh mà Như lai giả lập ra. Do vì bịnh nhiều nên thuốc cũng lắm. Muốn tìm cầu con đường thẳng tắt nhưng lại chính yếu nhất, thì không gì hơn pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Có thể nói đây là bí quyết để mau thành tựu Phật đạo. Bởi vì muốn thoát ly sanh tử, cần phải nhờ vào ba lực, đó là tự lực, tha lực và công đức lực.

Nếu chỉ cốt mong khai mở được tâm địa, xé thủng lưới vô minh, ra khỏi sông ái dục mà làm Phật làm Tổ thì gọi là tự lực. Ðây là những bậc long tượng của tông môn, đại trượng phu trong Phật pháp. Những người đó, là những bậc đại Bồ-tát, Thanh văn, bậc đại Tổ sư trong thời Phật tại thế hay thời kỳ chánh pháp. Trong thời tượng pháp, mạt pháp, căn khí chúng sanh ngày càng hạ liệt, có người tu nhưng không liễu ngộ, hoặc có liễu ngộ nhưng không sâu xa. Quán chiếu tự tâm tựa hồ giải thoát, nhưng khi đối cảnh lại vẫn hoàn mê. Dẫu có không mê thì cũng chẳng khác nào đồ gốm chưa nung. Bồ-tát còn mê khi cách ấm, Sơ quả còn muội lúc thập thai, thì bác địa phàm phu hèn gì không trôi theo dòng nghiệp. Ðó là tự lực nhưng nào có ích chi, xuất trần nhưng làm gì có xuất. Một sai lầm thì muôn ngàn sai lầm, thật là ớn lạnh!

Thế nên, chư Phật, Bồ-tát mới lập bày phương tiện, thi thiết ra pháp môn nương nhờ tha lực. Ðối với pháp môn này, kinh luận diễn thuyết cũng nhiều, bao phen dặn đi dặn lại, hết lời tán thán ngợi khen. Tổ tổ hoằng dương, người người sùng phụng. Chỉ có một môn niệm Phật cầu sanh Tây phương mới là cứu cánh. Mỗi lời mỗi lời đều xiển dương duy tâm Tịnh độ, từng câu từng câu đều diễn thuyết bổn tánh Di-đà. Kẻ ngộ thì liễu ngộ tâm chúng sanh, tâm Phật hoàn toàn bình đẳng; tâm độ Phật đạo nào có khác đâu. Người tu thì đạt được diệu quán và diệu cảnh khế nhau, tự lực và tha lực cùng có. Huống gì là công đức tự lực vốn có. Tánh cụ từ vô thỉ nhân đây mà rỡ ràng, công đức từ muôn đời nhờ đây mà đốn phát. Cho nên mãn báo ta-bà thì Tịnh độ hiện tiền, hóa sanh trong hoa sen mà không mê trong sanh ấm. Một nhập thì vĩnh viễn nhập, chẳng bao giờ còn thối chuyển. Vì vậy mà những người vãng sanh đều là a-bệ-bạt-trí đông không kể xiết. So với sự nhập đạo ở ta-bà, thì trong cõi này cảnh trần thô thô trược, ác đảo hiểm nạn ở đâu cũng có, nên cố nhiên không nhứ cõi Cực lạc. Thế nhưng, nói không khó, thực hành mới khó. Ðây chính là chỗ người xưa chỉ dạy, người nay nên theo. Dương Thứ Công nói rằng: “Ái không nặng thì không sanh ta bà, niệm không nhất thì không sanh Cực lạc”.
Phàm niệm Phật chính là làm cho cái tâm của mình chuyên nhất. Cần phải khẩn thiết trì danh, chuyên tâm bất loạn. Còn như có chí nguyện mà không thường niệm, niệm nhưng không chuyên nhất, thì chẳng khác nào bị tình ái dẫn đi. Hễ làm cho tâm ái nhẹ đi tức là loại trừ được vọng tưởng, chặt đứt được tình căn, thoát ra khỏi lưới ái. Còn như niệm không nhưng không thể quên, quên nhưng không quên hết, thì chẳng khác nào tâm không được chuyên nhất. ta-bà còn một niệm ái nặng, thì khi lâm chung bị niệm ái này dẫn dắt, huống gì là nhiều tâm ái ư? Cực lạc còn một niệm không chuyên nhất, thì khi lâm chung bị niệm này lưa chuyển, huống gì còn nhiều niệm ư?

Ái có nhẹ, có nặng, có mỏng, có dày, có chánh báo, có y báo. Ðơn cử trước mắt như: Cha mẹ,vợ con, anh em bè bạn, công danh phú quý, văn chương thi phú, đạo thuật nghề nghiệp, ăn uống, áo quần, nhà cửa vường ruộng, suối rừng hoa cỏ, của cải bạc vàng, nhiều không kể xiết. Hễ còn nhớ nghĩ một vật tức là còn tâm ái tức niệm không chuyên nhất. Hễ còn một niệm không chuyên nhất thì không được vãng sanh.Ôi! Hai câu “Ái không nặng thì không sanh ta-bà, niệm không nhất thì không sanh Cực lạc” thật là kim vàng chữa bịnh mờ mắt, là Thánh dược trị bịnh nan y. Nhưng người có chí nguyện cầu sanh Cực lạc, nên viết trên vách, khắc trong xương, ngày ngày cung kính đọc tụng, niệm niệm cần phải khắc ghi. Ái của ta-bà ngày càng nhẹ, niệm của Cực lạc ngày một chuyên, thì đó lại đã nhẹ lại càng nhẹ hơn để đạt đến vô niệm; đã chuyên nhât lại càng chuyên nhất để đạt dân đến chỗ cùng tột. Dù chưa ra khỏi uế độ nhưng không phải là khách ở mãi trong ta-bà, tuy chưa sanh trong bảo sở nhưng đã là tân khách ở Cực lạc. Lâm chung chánh niệm hiện tiền thì chắc chắn vãng sanh Cực lạc.

Có người hỏi rằng: phải chăng là làm cho ái được nhẹ?

* Làm cho ái được nhẹ đâu bằng làm cho niệm chuyên nhất.

* Vậy thì làm cho niệm chuyên nhất là đúng ư?

* Làm cho niệm chuyên nhất đâu bằng làm cho ái được nhẹ.

Có người mỉa mai rằng: Sư nói kiểu chuột có hai đầu, người học không biết phải theo đầu nào mới đúng đây.

Sư đáp: Ðó không phải là hai đầu, mà muốn nói đến nhất niệm. Bởi vì, sở dĩ niệm không chuyên nhất là do tán tâm chạy theo duyên mà ra. Tán tâm chạy theo duyên là do loạn tưởng chạy theo cảnh mà có. Ta-bà có một cảnh thì chúng sanh có một tâm, chúng sanh có một tâm thì ta-bà có một cảnh. Muôn duyên náo động bên trong nên rong ruổi tìm cầu ở bên ngoài. Tâm và cảnh theo nhau, thì ái giống như trần sa. Cho nên muốn làm nhẹ tâm ái đó thì gì bằng đoạn cái tâm duyên theo cảnh đó. Muôn cảnh đều định, vạn duyên đều tịnh thì nhất niệm tự thành. Nhất niệm mà thành thì ái duyên đều đứt. Cho nên nói: “Muốn làm chuyên nhất cái niệm của mình thì không gì hơn làm nhẹ cái tâm ái của mình. Muốn làm nhẹ tâm ái của mình thì không gì hơn làm chuyên nhất cái niệm. Cái thế của ái và niệm không cùng tồn tại, giống như tướng sáng và tối đối nghịch nhau”.

Có người hỏi: Bít lấp muôn cảnh có đúng chăng?

Ta nói bít lấp muôn cảnh là không phải ngăn trừ vạn hữu, cũng không phải là nhắm mắt không nhìn, mà chính là gặp cảnh thì phải liễu tri rằng nó rỗng không, gặp gốc thì phải thấu triệt được ngọn.

Vạn pháp vốn chẳng tự có, sở dĩ có là do tình chấp. Cho nên tình có thì vật có, tình không thì vật không. Một khi vạn pháp rỗng không thì bản tánh hiện tiền. Bản tánh hiện tiền thì tình niệm liền dứt. Nó vốn tự nhiên như vậy chứ không hề miễn cưỡng. Kinh Lăng nghiêm gọi đó là cái thấy và cảnh bị thất đều là tướng vọng tưởng, như hoa đốm giữa hư không, vốn không thật có. Cái thấy và cảnh bị thấy này nguyên là thể giác ngộ nhiệm mầu thanh tịnh sáng suốt. Như vậy thì tại sao trong đó lại có phải có quấy? Do đó, muốn bít lấp cảnh này thì không gì hơn liễu đạt được vật vốn rỗng không thì tình chấp tự dứt. Tình chấp mà dứt thì ái chấp không sanh, mà đó chỉ là do tâm hiện, và niệm chuyên nhất được thành tựu.

Trong Kinh Viên Giác chép: “Biết huyễn liền lìa, chẳng bày phương tiện, lìa huyễn tức giác, vốn chẳng thứ lớp. Cái này mất đi, cái kia tồn tại, không thể suy lường, hiệu nghiệm mau chóng, giống như đánh trống”. Vì vậy người học cần nên dốc tâm nghiên cứu.

Lại hỏi: Làm nhẹ tâm Ái và làm cho niệm chuyên nhất giống nhau hay khác nhau?

* Có thể làm nhẹ tâm ái cõi ta-bà nhưng chưa chắc đã có thể làm chuyên nhất niệm ở Cực lạc. Có thể làm chuyên nhất niệm ở Cực lạc tất có thể làm nhẹ tâm ái ở ta-bà. Ðây là đứng giữa có chí nguyện và không chí nguyện mà nói nhu vậy. Chứ thật ra tâm ái nếu không phải nhất niệm thì không thể quên. Niệm nếu chẳng phải quên ái thì không chuyên nhất. Vì vậy phương pháp hành trì hỗ tương cho nhau khong hề gián đoạn.

Lại hỏi: Như làm nhẹ tâm ái thì được rồi, còn làm cho niệm chuyên nhất thì sao?

* Phương pháp làm cho niệm chuyên nhất có ba, đó là Tín, Hạnh và Nguyện. Không nghi ngờ gọi là Tín. Nếu còn một nghi ngờ thì tâm không thể nào chuyên nhất được. Do đó khi cầu sanh Tịnh độ, thì tâm thuần tín đứng đầu. Thế nên hành giả cần phải tụng khắp Kinh điển Ðại thừa, học rộng giáo môn chư Tổ. Hễ gặp những kinh sách luận về Tịnh độ, đều phải nghiên cứu kỹ lưỡng. Liễu đạt được Cực lạc nguyên là Tịnh độ duy tâm của chính mình chứ không phải ở cõi khác. Thấu triệt được Di-đà nguyên là chân thân Phật của chính bản tánh chúng ta chứ không phải Ðức Phật nào khác. Tóm lại có hai ý, một là liễu ngộ được diệu hữu châu biến cùng khắp để làm cội gốc cho việc ưa thích cõi Tịnh; hai là liễu ngộ được chơn không lìa xa tất cả để làm nền tảng cho việc xả bỏ cõi Uế.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

57. NGÀY THỨ NĂM MƯƠI BẢY

Pháp chánh hạnh và trợ hạnh

Sư sẽ giảng tiếp về hạnh môn, trong đó có chánh hạnh và trợ hạnh để trợ duyên cho các liên hữu.
Tu hành đến khi tâm tánh thuần thục thì gọi là thuần tính, thuần tính giống như con mắt để nhìn, tu hành giống như dôi chân để đi. Tín mà không hạnh, cũng như có mắt mà không có chân. Hạnh mà không có Tín, cũng như có chân mà không có mắt. Cho nên khi có Tín giải đầy đủ, cần phải niệm Phật tu hành, giống như có đủ mắt và chân thì mới có thể đến được Cực lạc. Hạnh môn có hai, đó là Chánh hạnh và Trợ hạnh.

Chánh hạnh lại có hai:

1. Xưng danh: Như trong Kinh A Di-đà nói đến thất nhật trì danh, Nhất tâm bất loạn, có cả Sự nhất tâm và Lý nhất tâm. Nếu miệng xưng niệm danh hiệu Phật, buộc tâm phải bất loạn, giả sử tâm duyên theo ngoại cảnh, thì phải nhiếp tâm về lại với câu niệm Phật. Chỗ này cần phát sinh tâm quyết định mới thành. Dứt trừ niệm vọng đời sau, vứt bỏ hết việc đời, buông bỏ các tâm duyên, khiến cho tâm niệm dần dần tăng trưởng. Từ dần dần cho đến lâu ngày, từ ít mà trở thành nhiều, từ một ngày hai ngày cho đến bảy ngày, đến khi nào Nhất tâm bất loạn mới thôi. Ðây chính là sự nhất tâm.

Nếu được như vậy rồi, tức là Tịnh nhân của Cực Lạc đã thành tựu. Lúc sắp mạng chung nhất định có chánh niệm, thân không có bịnh khổ, không bị ác nghiệp trói buộc, biết trước giờ chết, thân tâm hoan hỷ, an nhiên mà đi, ngồi thẳng mà mất. Lại đích thân thấy Phật A Di-đà phóng quang tiếp dẫn, tất sanh về Tịnh độ. Lý nhất tâm cũng chẳng có gì khác cả, chỉ có điều trong Sự nhất tâm, niệm niệm đều liễu đạt được Tâm năng niệm, Phật sở niệm, ba đời đều bình đẳng, mười phương đều tương đồng, chẳng phải không, chẳng phải có, chẳng phải tự, chẳng phải tha, không đến không đi, không sanh không diệt. Tâm của một niệm hiện tiền chính là Tịnh độ của vị lai. Niệm mà chẳng niệm, chẳng là niệm mà niệm. Vô sanh nhưng mà sanh, sanh nhưng mà vô sanh. Ngay trong chỗ không thể niệm đó nhưng dũng mãnh cầu sanh. Ðó là trong Sự nhất tâm lại hiển bày Lý nhất tâm.

2. Quán tưởng: Như trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật có nói rất đầy đủ mười sáu cảnh Sở quán. Quan trọng nhất trong pháp quán Phật đó chính là quán Phật Di-đà thân cao một trượng sáu, toàn thân có màu Tử mà kim bao phủ, đứng trên hoa sen duỗi tay để tiếp dẫn. Thân ngài có ba mươi hai tướng của đại nhân, mỗi tướng có tám mươi vẻ đẹp tùy hình. Quán tượng như vậy cũng có tợng và có Lý. Sự quán thì buộc tâm theo Phật. Trước tiên quán dưới chân Phật bằng phẳng như đáy chậu, kế đến quán tướng ngàn hoa dưới lòng bàn chân. Như vậy mà lần lượt quán ngược lên đến tướng nhục kế trên đỉnh đầu. Lại từ tướng nhục kế mà quán xuống đến tướng bằng phảng dưới lòng bàn chân. Trong lúc quán phải phân minh rõ ràng không được tán tâm.

Còn như Lý quán, trong kinh chép: Chư Phật Như Lai là pháp giới thân, thể nhập trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Cho nên lúc tâm tưởng đến Phật, thì tâm tức là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Khi tâm tác quán Phật thì tâm ấy là Phật. Nghĩa lý này có nói rõ trong “Vi Diệu Tam Quán”. Như trong Quán Kinh Sớ Diệu Tông Sao nói rằng: Hai thứ chánh hạnh này phải ngay trên tướng mà tiến tu. Trong lúc đi đứng nằm ngồi phải nhất tâm xưng niệm danh hiệu. Trong lúc ngồi kiết già phải tâm tâm tác quán. Ði mệt thì ngồi kiết già mà quán Phật, ngồi xong lại đi kinh hành mà xưng niệm. Nếu trong bốn oai nghi tu hành không gián đoạn, thì nhất định được vãng sanh.

Trợ hạnh cũng có hai:

Hạnh của thế gian: Như hiếu thuận với cha mẹ, làm những viêc nhân từ, tâm từ không sát hại, giữ gìn các giới cấm, tất cả các việc làm lợi ích đó, nếu đem hồi hướng về Tây phương Tịnh Ðộ, thì đó đều là nhân hạnh trợ giúp cho đạo quả.

Hạnh xuất thế gian: Như lục độ vạn hạnh,vô số các công đức khác, đọc tụng kinh Ðại thừa, tu tập các sám pháp, cũng cần phải dùng tâm hồi hướng để trợ tu, thì đó đều là nhân hạnh của Tịnh độ.

Lại có một thứ trợ hạnh vi diệu nữa, đó là: Ngay trong lúc phan duyên theo ngoại cảnh, ở bất cứ nới nào cũng phải dụng tâm. Như gặp quyến thuộc, phải tác quán đó là pháp quyến của Tây phương, dùng pháp môn Tịnh độ mà khai hóa, dẫn dắt họ, khiến cho tâm Ái nhẹ đi, niệm được chuyên nhất. Họ mãi mãi là quyến thuộc Vô sanh trong tương lai

Nếu lúc khởi tâm ân ái, thì phải nhớ nghĩ rằng quyến thuộc của Tịnh độ không có tình ái, đâu phải đến lúc vãng sanh Tịnh độ mới xa lìa ân ái này?

Nếu lúc khởi tâm sân hận, thì phải nhớ nghĩ rằng quyến thuộc của Tịnh độ không có chỗ nào, đâu phải đến lúc vãng sanh Tịnh độ mới lìa tâm sân hận này?

Nếu lúc chịu khổ, phải nhớ nghĩ rằng Tịnh độ không có các thứ khổ, chỉ có an vui; khi được an vui phải nhớ nghĩ rằng sự an ủi trong cõi Tịnh độ không thể tính kể, không có đối đãi.

Lúc phan duyên theo ngoại cảnh đều dùng những tâm niệm tương tợ như vậy tùy cảnh mà tác quán, thì bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu cũng đều là trợ hạnh của Tịnh độ.

Thứ ba là Nguyện. Con thuyền Tịnh độ cần phải dùng Tín làm bánh lái, Hạnh làm cột buồm mái chèo, Nguyện làm cánh buồm đón gió. Nếu không có bánh lái thì không thể điều khiển con thuyền đi đúng hướng. Nếu không có cột buồm mái chèo, thì thuyền không thể chuyển động. Nếu không có cánh buồm đón gió thì thuyền không thể cỡi sóng lướt tới. Cho nên sau Hạnh phải nói đên Nguyện.

Nguyện có chung, riêng, rộng, hẹp, có cùng khắp, có hạn cuộc. Chung, chẳng hạn như Cổ đức lập ra lời văn nguyện riêng. Rộng, như bốn hoằng thệ nguyện, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Hẹp, như mỗi người tự lượng sức mình mà quyết chí vãng sanh. Hạn cuộc, như tụng theo thời khóa, theo chúng mà phát nguyện. Cùng khắp, thì lúc nào cũng phát nguyện, ở đâu cũng phát tâm, nhưng cần phải tường ứng với bốn hoằng thệ nguyện, không được tự ý tự chuyên mà vọng lặp ra. Nhìn chung các nguyện được phát ra, thì riêng thù thắng hớn chung. Bởi vì phát nguyện của người khác. Còn phát nguyện riêng thì tự mình phát tâm. Thế nhưng còn tùy theo lời văn phát nguyện chung đó mà sanh quyết chí, thì tuy chung nhưng lại mà riêng. Nếu trong lời văn phát nguyện riêng mà được nhiều người phát nguyện giống như vậy thì riêng đã trở thành chung. Lại nữa, phát nguyện rộng thì thù thắng hơn phát nguyện hẹp. Rộng từ phát tâm từ lớn được quả cao, hẹp thì phát Bi nguyên cạn cho nên được quả thấp. Lại phát nguyện cùng khắp thì thù thắng hơn phát nguyện hạn cuộc. Vì hạn cuộc thì thường bị gián đoạn, cùng khắp thì niệm niệm đều viên thành.

Ba cách phát nguyện như vậy, đủ để kỳ vọng sanh Tịnh độ, mau được thấy Phật A Di đà. Tất cả pháp môn Tịnh độ đều không ngoài mà ở tại nơi đây.

Những năm tu ở non núi Ðức tôn sư thường dạy chư Tăng Ni, Phật tử phát nguyện: nguyện tu cho đến ngày thành đạo, nguyện sống cũng ở non, chết cũng ở non tu hành cho đến công viên quả mãn. Nếu phải duyên trần thế đón đưa thì các ông các bà cũng phải phát nguyện một long không xa rời chánh pháp mà độ sanh. Mang Phật pháp đi vào đời phải có hạnh lành như “dầu với nước” dầu và nước tuy ở chung nhưng dầu thì lúc nào cũng nổi trên mặt nước một cách bình lặng an nhiên tự tại. Ðược như vật các ông các bà mới hóa độ tha nhân. Tâm mình có rảnh rang mới có cơ hội độ đời, tâm không rãnh rang thì độ mình không xong làm gì có chuyện độ sanh.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

58. NGÀY THỨ NĂM MƯƠI TÁM

Ðức Phật & Pháp môn niệm Phật

Vấn: - Chúng con nhận thấy Ðức Thích Ca Mâu Ni sau khi nhập diệt, giáo pháp được truyển đăng đến ngày Ca diếp là Sơ Tổ Thiền tông bên Tây thiên; Hôm nay chúng con được Ðức Thầy và Sư giáo hóa tu tập pháp môn niệm Phật, không phải tu thiền theo Phật Tổ, như vậy có sai lạc lời huyền ký của Phật hay không, xin Sư từ bi chỉ giáo về Ðức Phật Thích Ca với pháp môn niệm Phật Tịnh độ tông?

Ðáp: - Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni từ nơi pháp thân mà thị hiện tám tướng thành đạo ở cõi Ta bà, thuyết pháp trong bốn mươi chín năm chỉ nhằm mục đích muốn cho hết thảy chúng sanh lìa khổ được vui, viên thành Phật đạo.

Ðúng như trong kinh đã nói: “Ðức Như Lai dùng tâm vô tận đại bi thương xót chúng sanh trong ba cõi mà xuất hiện nơi đời, xiển dương giáo pháp vì muốn cứu vớt quần mê, đem lại lợi ích chân thật cho chúng sanh”. Lợi ích chân thật cứu kính mà đức Thế Tôn đem lại cho chúng sanh là dứt trừ cội gốc sanh tử luân hồi từ vô lượng kiếp, đưa chúng sanh đến Niết Bàn rốt ráo, nhanh chóng thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nhưng chúng sanh ở cõi Ta bà cấu nhiễm sâu nặng mê thất bản tâm, tham đắm vui chơi ở trong nhà lửa mà ngăn chướng thánh đạo. Ðức Thế Tôn sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, trong khoảng hai mươi mốt ngày vì bốn mươi mốt vị pháp thân Ðại sĩ và hàng thiên long bát bộ có thiện căn thuần thục mà tuyên thuyết kinh Hoa Nghiêm, các bậc đại Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền v.v… đều lãnh hội mà được lợi ích giải thoát, còn các hàng Thanh văn và Bồ tát sơ phát tâm thì không nghe, không thấy.

Khi ấy đức Thế Tôn suy nghĩ rằng: “Giáo pháp của ta thậm thâm vi diệu khó hiểu khó biết, hết thảy chúng sanh bị trói buộc ở pháp thế gian, tham đắm năm dục cho nên không sao hiểu nổi, chẳng bằng cứ an nhiên nhập Niết Bàn là hơn cả”. Phạm Vương và Ðế Thích cung kính thỉnh đức Thế Tôn trụ thế, vì chúng sanh cõi Ta bà mà chuyển bánh xe pháp. Sau ba lần cầu thỉnh, đức Phật im lặng hứa khả. Ngài liền nhập định để quán xét căn cơ của chúng sanh xem ai có thể tiếp thụ được giáo pháp thì sẽ độ cho. Ngài liền đến vườn Lộc Uyển xứ Ba La Nại, vì năm anh em ông Kiều Trần Như mà chuyển đại Pháp luân, thuyết giảng giáo pháp Tứ đế.

Ðức Thế Tôn giảng kinh thuyết pháp là tùy theo căn tính cao thấp khác nhau của chúng sanh, tùy bệnh mà cho thuốc, phương tiện lập ra năm thừa để mà tiếp dẫn. Thời A hàm, trước vì chúng sanh căn tánh thấp kém mà giảng pháp Tứ đế, Mười hai nhân duyên, Lục độ v.v… đó là quyền giáo Tam thừa. Ðến thời kỳ Phương đẳng, thời Bát nhã thì loại bỏ chấp ngã (ngã pháp đều không) trải hơn bốn mươi năm đến hội Pháp Hoa mới khai quyền hiển thực, hội quy Tam thừa về Nhất Phật thừa. Một đời giáo hóa của đức Phật được chia thành năm thời tám giáo, nên nói: "tùy theo tâm của chúng sanh mà đáp ứng những sự hiểu biết cần thiết, thích hợp.

Ðức Thế Tôn trong quá trình giáo hóa, điều phục những chúng sanh có duyên với Phật pháp, Ngài quán sát thấy căn tính của chúng sanh đã thuần thục, có thể gánh vác được đại pháp xuất thế, Ngài liền tuyên dương bản hoài đó là giảng thuyết pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Kinh A Di đà là pháp vô vấn tự thuyết, chỉ thẳng Tây phương Tịnh độ, được hướng tới bậc trí tuệ đệ nhất Xá Lợi Phất để giới thiệu, điều này ngầm chỉ đương cơ của pháp môn Tịnh độ phải là bậc thượng căn lợi trí, người có trí tuệ nông cạn khó có thể đảm đương, tin sâu mà không nghi ngờ.

Vậy pháp môn Tịnh độ chiếm vị trí nào trong giáo pháp của đức Phật? Như mọi người đều biết kinh Hoa nghiêm và kinh Pháp hoa là Nhất thừa viên giáo. Kinh Hoa nghiêm được công nhận là vua của các kinh, song điều cốt lõi của thâu tóm toàn bộ kinh Hoa nghiêm là sản phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện; điều cốt lõi của phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện là ở chỗ Bồ tát Phổ Hiền dùng mười đại nguyện dẫn quy về thế giới Tây phương Cực lạc.

Có thể nhận thấy Hoa nghiêm và Tịnh độ là hết sức vi diệu. Trong kinh Pháp hoa, Phật dạy: chỉ cần xưng một câu Nam mô Phật đều tạo nhân duyên thành Phật đạo. Tịnh độ là chỉ cho phương pháp chuyên trì danh niệm Phật vãng sanh Cực Lạc ắt sẽ thành Phật. Ðại Sư Ngẫu Ích tán thán rằng: “Hoa Nghiêm áo tạng, Pháp Hoa bí tủy, hết thảy tâm yếu của chư Phật, kim chỉ nam của Bồ tát vạn hạnh, đều xuất phát từ đó”.

Hoa nghiêm là toàn viên, Pháp hoa là thuần viên, áo tạng và bí tủy của nó đều không ra ngoài pháp môn Tịnh độ, điều đó chứng tỏ Tịnh độ tông là pháp môn viên đốn. Vả lại Hoa nghiêm và Pháp hoa tuy viên đốn lại phương tiện, chỉ cần trì danh niệm Phật, liền có thể viên thành đạo nghiệp. Như ngài Liên Trì Ðại sư nói: "Việt tam kỳ vu nhất niệm, tề chư Thánh vu phiến ngôn”, nghĩa là một niệm tịnh tín thể nhập vào bể đại nguyện của Phật Di đà có thể siêu việt công hạnh tu tập trong ba A Tăng kỳ kiếp; chấp trì sáu chữ hồng danh Nam Mô A Di Ðà Phật liền có thể công đức trí tuệ ngang bằng với chư đại Bồ tát Quán âm, Thế chí, Văn thù, Phổ hiền...

Như vậy, pháp môn Tịnh độ vừa phương tiện vừa cứu cánh, có thể nói là pháp liễu nghĩa bậc nhất trong các pháp liễu nghĩa, là pháp cực kỳ viên đốn trong các pháp viên đốn.

Tịnh độ tông thu nhiếp và siêu việt một cách viên mãn hết thảy các pháp môn. Một câu A Di Ðà Phật gồm đủ cả 4 câu tông chỉ:

1. Lấy duy tâm làm Tông (toàn tâm tức Phật)

2. Lấy duy vật làm Tông (toàn Phật tức tâm).

3. Lấy tuyệt đãi viên dung làm Tông (ngoài tâm không có cảnh là tuyệt đãi, dứt bặt đối đãi tâm chúng sanh và tâm Phật dung nhiếp lẫn nhau là viên dung).

4. Siêu tình ly kiến làm Tông (vượt bỏ phàm tình, lìa bỏ kiến chấp).

Phật pháp có vô lượng pháp môn, nhưng chúng quy không ngoài bốn môn đó là: Hữu môn, Không môn, Diệc hữu diệc không môn và Phi hữu phi không môn. Ðiều này chứng tỏ Tịnh độ tông thu nhiếp hết thảy các pháp môn một cách viên mãn. Lại thấy Tông duy tâm viên siêu hữu môn; Tông duy Phật viên siêu không môn; Tông tuyệt đãi viên siêu diệc hữu diệc không môn; Tông siêu tình ly kiến viên siêu phi hữu phi không môn. Ðiều đó chứng tỏ Tông tịnh độ siêu việt một cách viên mãn. Một câu A Di đà Phật thu nhiếp, siêu việt hết thảy các pháp môn một cách viên mãn, là pháp môn đại tổng trì của mười hai bộ kinh, cao sâu khó tin chẳng thể nghĩ bàn.

Ðại sư Thiện Ðạo với đầy đủ tuệ nhãn đã từng chỉ dạy: "Ðức Như Lai sở dĩ xuất hiện nơi đời chỉ vì thuyết minh bổn nguyện rộng sâu của đức Phật A Di Ðà". Câu nói ấy khai thông cho kẻ điếc, mở mắt cho kẻ mù lòa, phát khởi; những điều chưa từng được phát khởi, tất cả nhằm chỉ rõ: Ðức Thích ca Như lai (cho đến mười phương ba đời hết thảy chư Phật) thị hiện ở thế gian chỉ nhằm một mục đích duy nhất là tuyên thuyết pháp môn niệm Phật.

Câu nói đó không phải người tầm thường có thể chỉ ra được. Trong Tây Phương lược truyện tôn xưng ngài Thiện Ðạo là hoá thân của Phật Di Ðà, Ðại sư Liên Trì thì nhận định: "Ðại sư Thiện Ðạo được mọi người tôn xưng là hóa thân của Phật Di Ðà, nếu chẳng phải là hóa thân của Phật Di Ðà thì cũng là hóa thân của các Ðại Bồ tát như Quán âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền v.v…”

Ðại sư Ngẫu Ích cũng từng nói: "Một câu A Di Ðà Phật chính là pháp Vô thượng Chính đẳng Chính giác mà đức Thích ca chứng đắc ở nơi đời năm ác trược này, nay lấy quả giác ấy trao lại toàn thể chúng sanh đời ác trước. Còn như cảnh giới của chư Phật, chỉ có Phật với Phật mới có thể hiểu thấu cùng tận, chẳng phải sức của chúng sanh trong chín cõi có thể hiểu được”. Trong lời khai thị của Ðại sư Ngẫu Ích với lời minh thị của Ðại sư Thiện Ðạo là không hai không khác, cái thấy biết của bậc thánh nhân tuy ở thời khác nhau nhưng cũng rất trùng hợp, thật đáng để chúng ta cung kính đảnh lễ.

Thường thì chúng ta chỉ nghiêm cứu và tu hành Pháp môn niệm Phật theo các kinh sách Bắc truyền, ít ai để ý đến kinh sách Nguyên thủy, hay quan tâm đến việc các nhà truyền giáo Phật giáo Nam truyền nói về Pháp môn niệm Phật, tuy nhiên trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, cho chúng ta thấy pháp môn niệm Phật đã được Ðức Thế tôn chỉ dạy lúc ngài còn tại thế, là một trong các pháp Tam niệm, Lục niệm, Thập niệm. Bấy giờ Phật đang ở trong vườn Cấp Cô Ðộc, rừng cây Kỳ Ðà, nước Xá Vệ, nói với các Thầy Tỳ Kheo:"Hãy tu hành một pháp, hãy quảng bá một pháp. đã tu hành một pháp rồi, liền có danh dự,thành tựu quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chổ vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa môn, tự đến Niết bàn. một pháp ấy là gì? Ðó là niệm Phật…" (Ðại chính 2, tr 532).

Ðức Phật dạy tiếp:"…nếu có Tỳ kheo nào chánh thân, chánh ý, ngồi bắt tréo chân, tinh chuyên niệm Phật, không có niệm tưởng nào khác. quán hình của Như Lai, mắt không hề rời. trong khi mắt không rời, niệm tưởng công đức Như Lai (Ðại chính 2, tr 554).

Trong kinh tạng Pali, kinh Tăng Chi Bộ, phẩm Một Pháp, thứ 16, bản HT Minh Châu dịch cũng có ghi lại lời dạy của đức Phật nói về pháp môn niệm Phật như sau:"Có một pháp, nầy các Tỳ kheo, được tu tập, được làm sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật. Chính là một pháp nầy, này các Tỳ kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn…"

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.