63. NGÀY THỨ SÁU MƯƠI BA:
Thân tướng Quan âm bồ tát
Vấn: - Xin Sư từ bi hoan hỷ giảng
gải về 32 thân Ðức bồ Tát Quan âm?
Ðáp: - Nói là 32 thân, nhưng thật
ra Ðức Bồ tát thị hiện trong đời độ sanh, theo sách Phật tượng Ðồ vựng thì Ðức
Bồ tát có 33 thân (Phật học từ điển, HT Minh Cảnh chủ biên, NXB tổng hợp Tp.Hồ
Chí Minh ấn hành)
Ba mươi ba thân là:
1/ Ðường chỉ Quan Aâm: Ðức Quan Aâm
thị hiện hóa thân ngồi trên núi, tay phải cầm nhành dương liễu cứu độ chúng
sanh.
2/ Long đầu Quan Aâm: Ðức Quan Aâm
thị hiện hóa thân cởi rồng trên mây để cứu độ chúng sanh.
3/ Trì thinh Quan Aâm: Ðức Quan Aâm thị hiện hóa thân ngồi trên núi, cầm quyển
kinh tụng để cứu khổ chúng sanh.
4/ Viên quang Quan Aâm: Ðức Quan
Aâm thị hiện hóa thân phóng ánh sáng, cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh thoát khỏi
cảnh khói lữa binh đao
5/ Di hí Quan Aâm: Ðức Quan Aâm thị
hiện hóa thân ngồi trên mây, xủ mài cứu khổ chúng sanh.
6/ Bạch y Quan Aâm: Ðức Bồ tát Quan Aâm thị hiện hóa thân trải cỏ để ngồi trên
sườn núi để cứu khổ chúng sanh.
7/ Liên ngọa Quan Aâm: Ðức Bồ tát Quan
Aâm thị hiện hóa thân chắp tay hướng về bên trái, ngồi trên hoa sen, thị hiện
làm vua mà đỡ đầng mọi người, cứu khổ chúng sanh.
8/ Lũng kiến Quan Aâm: Ðức Bồ tát
Quan Aâm thị hiện hóa thân dựa lựng vào vách núi, mắt nhìn về bên phải, cứu khổ
chúng sanh ra khỏi hầm lữa.
9/ Thi dược Quan Aâm: Ðức Bồ tát
Quan Aâm thị hiện hóa thân ngồi bên cạnh ao sen, cứu người bị xô xuống núi.
10/ Ngư lam Quan Aâm: Ðức Bồ tát
Quan Aâm thị hiện ngời trên cá lớn, cứu người và chúng sanh không bị nạn rồng.
11/ Ðức vương Quan Aâm: Ðức Bồ tát
Quan Aâm thị hiện hóa thân ngồi kiết già, thị hiện thân Phạm vương Ðế thích có
oai thế để cứu khổ chúng sanh.
12/ Thủy nguyệt Quan Aâm: Ðức Bồ
tát Quan Aâm thị hiện hóa thân đứng trong cánh sen nổi trên mặt nước, thị hiện
thân Bích Chi Phật (gặp lúc Phật có ra đời hay Phật không ra đời mà vẫn tu hành
đắc đạo) để cứu độ chúng sanh.
13/ Nhất diệp Quan Aâm: Ðức Bồ tát
Quan Aâm thị hiện hóa thân ngồi trên cánh sen, thị hiện thân làm quan có thế
lực để cứu độ chúng sanh.
14/ Thanh cảnh Quan Âm: Ðức Bồ tát
Quan Âm thị hiện hóa thân ngồi dựa sườn núi, thị hiện thân Phật cứu chúng sanh.
15/ Oai đức Quan Âm: Ðức Bồ tát
Quan Âm thị hiện hóa thân ngồi cầm hoa sen, thị hiện thân thiên đại tướng quân
cứu chúng sanh.
16/ Diên mạng Quan Âm: Ðức Bồ tát
Quan Âm thị hiện hóa thân ngồi dựa sườn núi, trên mặt nước, giải độc dược chú
trớ cho chúng sanh.
17/ Chúng bảo Quan Âm: Ðức Bồ tát
thị hiện hóa thân ngồi bình thản nhìn về trái, hiện thân trưởng giả cứu độ
chúng sanh.
18/ Nham hộ Quan Âm: Ðức Bồ tát thị
hiện hóa thân ngồi ngay thẳng, hiện thân cứu chúng sanh không bị rắn độc bò cạp
làm nhiễm độc.
19/ Năng tĩnh Quan Âm: Ðức Bồ tát
Quan Âm thị hiện ngồi giữa vách núi, hiện thân cứu chúng sanh thoát khỏi nạn la
sát.
20/ A nậu Quan Âm: Ðức Bồ tát thị
hiện hóa thân ngồi trên núi nhìn ra biển, hiện thân cứu chúng sanh không bị
chết chìm
21/ A nậu đề Quan Âm: Ðức Bồ tát
thị hiện hóa thân ngồi trên núi, hiện thân Tỳ sa môn thiên vương cứu chúng
sanh.
22/ Diệp y Quan Âm: Ðức Bồ tát thị
hiện hóa thân trải cỏ ngồi trên sườn núi, hiện thân Ðế thích cứu chúng sanh.
23/ Lưu ly Quan Âm: Ðức Bồ tát thị
hiện hóa thân đứng trên cánh sen nổi trên mặt nước, hiện thân trời đại tự tại
cứu chúng sanh.
24/ Ða la tôn Quan Âm: Ðức Bồ tát
thị hiện hóa thân đứng trên mây, hiện thân cứu người bị đánh đập.
25/ Cáp lợi Quan Âm: Ðức Bồ tát thị
hiện hóa thân con sò để dùng nhiều phương tiện cứu độ chúng sanh.
26/ Lục thời Quan Âm: Ðức Bồ tát
thị hiện hóa thân đứng tay cầm kinh, hiện thân cư sĩ giúp đỡ chúng sanh.
27/ Phổ bi Quan Âm: Ðức Bồ tát thị
hiện hóa thân đứng, hiện thân trời đại tự tại cứu chúng sanh.
28/ Mã lang phụ Quan Âm: Ðức Bồ tát thị hiện hóa thân phụ nữ giúp đỡ chúng
sanh.
29/ Hiệp chưởng Quan Âm: Ðức Bồ tát
thị hiện hóa thân Bà la môn, đứng chắp tay giúp đỡ chúng sanh.
30/ Nhất như Quan Âm: Ðức Bồ tát
thị hiện hóa thân bay đi trong mây, cứu chúng sanh khỏi bị mưa giông sấm sét.
31/ Bất nhị Quan Âm: Ðức Bồ tát thị
hiện hóa thân hai tay tréo nhau, hiện thân thần kim cang cứu chúng sanh.
32/ Trì liên Quan Âm: Ðức Bồ tát
thị hiện hóa thân tay cầm cành sen, hiện thân đồng nam đồng nữ giúp chúng sanh.
33/ Sái thủy Quan Âm: Ðức Bồ tát
thị hiện hóa thân đứng, một tay cầm bát, một tay cầm nhành dương liễu cứu chúng
sanh bị trôi giạt.
Trong 33 thân trên, ngòai thân Bạch
y, thanh cảnh, Ða la tôn, Diệp y và A Nậu đề, còn lại 28 thân đều là hình tượng
Quan Âm được lưu truyền, phụng thờ trong dân gian, trong các chùa ở Trung quốc,
Triều tiên, Nhật bản, Việt nam từ đời Ðường Lý thái Vân về sau.
Trong 33 thân trên còn có 13 thân
được Phật dạy trong phẩm Phổ môn, thuộc kinh Pháp hoa; còn lại trich trong sách
Phật tượng Ðồ vựng
Dù thân nào đi nữa, thì cũng là
thân Bồ tát Quan Âm thị hiện cứu chúng sanh, cứu đời. Nhìn hình ảnh Quan Âm,
chúng ta được biết thâm ý của chư Phật, của Phật Thích Ca có đủ lòng từ bi chí
cả như thế nào. Giáo pháp của Phật là vô biên; sự hiện thân đó nói lên giáo
pháp Phật phù hợp với từng thời đại, thời điểm nào làm Phật sự gì, thị hiện
thân nào để độ sanh cho thích hợp.
Ðạo Phật tồn tại và phát triển
trong đời sống con người là tất yếu.
Xin giới thiệu 33 thân Ðức Bồ tát
Quan Âm trong phẩm Phổ môn, kinh Pháp hoa và các kinh khác là:
1/ Thân Phật
2/ Thân Bích chi
3/ Thân Thinh văn.
4/ Thân Phạm vương
5/ Thân Ðế thích
6/ Thân Trời Tự tại
7/ Thân Trời Ðại Tự tại
8/ Thân Trời Ðại tu7o1ng quân
9/ Thân Trời Tỳ sa môn
10/ Thân Tiểu vương
11/ Thân Trưởng giả
12/ Thân Cư sĩ
13/ Thân Tể quan
14/ Thân Bà la môn
15/ Thân Tỳ kheo
16/ Thân Tỳ kheo ni
17/ Thân Ưu bà tắc
18/ Thân Ưu bà di
19/ Thân vợ của Trưởng giả
20/ Thân vợ của Cư sĩ
21/ Thân vợ của Tể quan
22/ Thân vợ của Bà la môn
23/ Thân đồng nam
24/ Thân đồng nữ
25/ Th6n trời
26/ Thân rồng
27/ Thân dạ xoa
28/ Thân vàn thát bà
29/ Thân a tu la
30/ Thân ca lầu la
31/ Thân khẩn na la
32/ Thân ma hầu la già
33/ Thân chấp kim cương
Trong kinh Pháp hoa tiếng Phạn và
tiếng Tây tạng có 16 thân, phẩm Diệu Âm trong kinh Pháp Hoa nói Bồ Tát Diệu Âm
có 36 ứng thân, bản tiếng Phạn và tiếng Tây tạng chỉ nói 33 thân.
Theo hành trạng về đức Quán Thế Âm của Thích Phước Sơn, thì trong kinh Pháp hoa
nói Quán Thế Âm có 33 thân, kinh Lăng Nghiêm nói có 32 thân.
Dù 33 hay 32 cũng đều là ứng thân
đức Bồ tát cứu khổ chúng sanh. Thân thì thấy có nhiều nhưng chỉ là một; một mà
là tất cả. Phật tùy căn cơ trình độ chúng sanh mà thị hiện ứng thân có khác,
tùy phương hướng xứ sở mà mang thân chúng sanh nhiều hình hảo, tùy theo tâm
niệm của chúng sanh mà ứng hiện, tùy theo nghiệp lực của chúng sanh mà giáo hóa
dưới mọi hình thức thân tướng Quán Thế Âm Bồ tát.
Trong sách “Trọn một niềm tin”,
nói:” Tín ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát, Quán Âm Bồ Tát hay Quan Âm Bồ Tát cũng là
danh hiệu của đại sĩ, một công hạnh vĩ đại của bậc Bồ tát đẳng giác. Là pháp
thân đại sĩ, hình bóng của Ðức Thế Tôn trải qua nhiều công hạnh độ đời lợi tha.
Bồ tát Quan Âm thị hiện nhiều thân, như trong kinh Pháp hoa, phẫm Phổ môn Bồ
Tát tùy theo nghiệp lực cơ cảm của chúng sanh mà phân thân ứng hiện.
Ðức Phật có ba thân: Pháp thân, Báo
thân và Ứng hóa thân, trong đó thường thì thân tướng của Ðức Bồ Tát Quan Âm
được hiểu theo nghĩa Ứng hóa thân nhiều hơn…Ứng hóa thân nói đủ là ứng hóa sanh
thân, thân ứng hóa là thân có thể tùy cơ cảm của chúng sanh mà thị hiện. Như
Ðức Phật muốn độ chúng hữu tình thì Ngài thị hiện vào thế giới chúng hữu tình,
độ loài vô tình không hình bóng thì thị hiện vào loài vô tình không hình bóng
để độ tha. Nơi đây Ngài thị hiện độ loài người; do đó Ngài thị hiện làm người
có tình thương vô biên để tế khổ độ mê, đến đi tự tại vô ngại, có trí thức
tuyệt vời, thức tĩnh con người quay về nẽo giác ngộ chấm dứt luân hồi.
Thị hiện trong cuộc đời, Ðức Bồ Tát mang rất nhiều thân, không phải chỉ có thân
tướng “Ðức Bồ Tát Quan Âm” như trong các kinh đại thừa thường nói đến, nơi đây
không có nói đến tướng nam tướng nữ nào cả. Tuy nhiên căn cứ vào công hạnh độ
tha đó mà Bồ Tát cơ cảm hiện thân, như: “Phật Bà Quan Âm, “Phật Mẹ Quan Âm”,
“Mẹ Hiền Quan Âm”, “Ðức Mẹ Từ Bi” như hầu hết chúng sanh trong thế giới ta bà
nói chung, các quốc gia Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam,
Singapore và các quốc gia Tây phương, mọi người trên hành tinh trái đất nói
riêng đang tín ngưỡng phụng thờ…
Chúng ta có thể tìm hiểu vài nét về
thân tướng thật của Bồ tát, thân ứng hiện cơ cảm và các thân khác…!
1/ Thân tướng thật của Bồ Tát: Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ thì
thân của Bồ tát cao tám mươi muôn ức na do tha do tuần, da màu vàng tử kim.
Trên đỉnh đầu có nhục kế, có vầng sáng tròn, mỗi phía rộng trăm nghìn do tuần,
trong vầng sáng tròn xuất hiện 500 vị hóa Phật, mỗi vị hóa Phật tướng tốt như
Phật Thích Ca Mâu Ni và có 500 vị Bồ tát hầu cận.
Toàn thân ánh sáng chiếu suốt 10
phương hình tướng của tất cả chúng sanh trong lục đạo đều hiện rõ bóng trong
ánh sáng ấy. Trên đầu Bồ tát có thiên quan. Trong thiên quan có một vị hóa Phật
cao 25 do tuần. Mặt Bồ tát sắc vàng diêm phù đàn. Lông trắng giữa đôi mày đủ
bảy màu báu đẹp, chiếu tám muôn bốn ngàn thứ tia sáng xuyên suốt khắp 10
phương. Trong mỗi tia sáng có vô số vị Hóa Phật và vô số hóa Bồ tát.
Cánh tay của Bồ tát màu như hoa sen
hồng, tám mươi ức tia sáng đẹp kết thành chuổi ngọc. Bàn tay năm trăm ức màu
hoa sen hồng. Ðầu ngón tay có tám muôn bốn nghìn lằn chỉ. Mỗi lằn chỉ có tám
muôn bốn nghìm màu, mỗi màu có tám muôn bốn nghìn tia sáng. Tia sáng dịu dàng
chiếu sáng khắp mười phương. Quán Thế Âm dùng tay báu tiếp dẫn chúng sanh về
Cực lạc (Ðường Về Cực Lạc của HT Thích Trí Tịnh biên soạn). Giúp chúng sanh ra
khỏi mê lầm giải thoát tử sanh.
2/ Thân ứng hiện cơ cảm của Bồ tát:
Chúng sanh trong
thế giới ta bà luôn được đón nhận tấm lòng từ sâu rộng như biển cả, vô biên như
trời xanh của Ðức Phật. Lòng từ của Ngài đến với chúng sanh như tấm lòng bà mẹ
thương con, lòng bi của Ngài luôn nghĩ suy đến chúng sanh như “mẹ hiền che chở
cho con”…Lòng từ bi đó là hạnh nguyện của chư Phật, của Ðức Phật Thích Ca qua
biểu tượng “Phật Bà Quan Âm, “Phật Mẹ Quan Âm” mà mọi người có được duyên lành
tín ngưỡng. (sách Linh ứng Quán Thế Âm, trang 8 của Thích Tịnh Từ, Tu viện Kim
Sơn ấn hành)
Khi nói đến Ðức Bồ Tát Quan Âm, thì
mọi người theo Phật giáo hay không theo Phật giáo đều cảm niệm đấy là “Phật Bà
Quan Âm”, “Phật Mẹ Quan Âm”, “Mẹ hiền Quan Âm”. Thánh tượng “Phật Bà Quan Âm”,
cũng chính là biểu tượng được tôn trí thờ phượng tại các Chùa lớn trong cả nước
cũng như tại Quan Âm Tu Viện – Biên Hòa.
3/ Thân hạnh nguyện: Dựa trên cơ sở 12 danh hiệu của Ðức
Bồ Tát Quan Âm (có trong kinh Nhựt Tụng dành cho Tăng Ni Phật tử tụng đọc hằng
đêm) chúng ta thấy mỗi danh hiệu là một hạnh nguyện hải, hạnh nguyện nào cũng
nói lên nguyện lực của Bồ Tát Quan Âm hướng về cứu khổ chúng sanh trong thế
giới Ta Bà đang lâm khổ nạn. Ðây cũng chính là hạnh nguyện cao cả của Phật qua
thâm ý Bồ Tát Quan Âm phát nguyện vì khắp muôn loài mà thị hiện thuyết pháp.
Ðức Bồ Tát Quan Âm còn có những
thân tướng pháp thân đại sĩ khác, như: Phật mẫu chuẩn đề, Tiêu diện đại sĩ, Lục
độ mẫu…nhất là biểu tượng thị hiện thân ngàn tay ngàn mắt, nói thần chú “Quảng
Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại bi tâm Ðà ra ni”, tức là chú Ðại Bi (trích Kinh Quán
Âm Ðại Bi Tâm Ðà ra ni). Trong 84 câu thần chú đại bi, mỗi câu là một biểu
tượng dáng vẽ hiền từ, trang nghiêm nhưng đầy uy lực và dũng mãnh dùng làm
phương tiện cứu khổ độ sanh: ”không muốn thấy chúng sanh đau khổ, muốn thấy
chúng sanh đều được giải thoát.
Trong kinh quán Vô Lượng Thọ, kinh
Pháp Hoa, phẩm Phổ môn, Ðức Phật có nói đến hạnh nguyện của của Bồ Tát Quan Âm “Quan
Âm vị Cổ Phật Chánh Pháp Minh Như Lai Hạnh nguyện sâu rộng lớn
Cứu độ khắp muôn loài
Nghe tiếng kêu liền đến
Lợi ích chúng hằng sa
Nếu ai thương xưng niệm
Cảm ứng bất tư nghì”
Với bài kệ trên chúng ta thấy: Ðức
Bồ Tát Quan Âm là vị Phật cổ có đức hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai.
Chúng ta còn có thể hiểu thêm một
danh hiệu khác của Ðức Bồ Tát Quan Âm là “Quán Tự Tại Bồ Tát” trong kinh Bát
Nhã Ba La Mật Ða, nên nói:” Quá khứ Chánh Pháp Minh, hiện tiền Quán Tự Tại” là
vậy.
Có bài kệ xưng tán Ðức Bồ tát Quan
Âm:
Trí tuệ hoằng khai đại biện tài
Ðoan cư ba thượng tuyệt trần ai
Tường quang thuớc phá thiên sanh bệnh
Cam lộ năng khuynh vạn
kiếp tai
Thúy liễu phát khai kim thế giới
Hồng liên dũng xuất ngọc liên đài
Ngã kim khể thủ phần hương tán
Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai
Chư Phật tử nên nhất tâm niệm danh
hiệu ngài thật chí thành:”Nam
mô Hiển Thánh Viên Thông Tầm Thinh Cứu Khổ Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát”.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát
Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp
Giới Tam Bảo.
64. NGÀY THỨ SÁU MƯƠI BỐN:
Ứng hóa sanh thân trong thơ nôm
Quan Âm Thị Kính
Vấn: Xin Sư hoan hỷ tiếp tục giảng
giải thêm về thân ứng hóa Ðức Quan Thế Âm khi ngài thị hiện trong đời nhiều
thân để cứu khổ độ sanh? Nhất là thân ứng hóa thật tuyệt vời trong thơ nôm Quan
Âm Thị Kính, khi ngài giả trai đi tu có tên là Kỉnh Tâm, chịu nhiều nỗi oan ức
cho đến khi bị đánh tuyệt mạng?
Ðáp: Ðức Bồ tát Quan âm luôn thị
hiện trong thế giới khổ đau để giúp cho chúng sanh tiến hóa ra khỏi khổ đau, tế
khổ độ mê; ngài có hạnh nguyện thị hiện ngàn tay ngàn mắt, thị hiện nhiều thân,
thân nào cũng được chúng sanh trong thế giới ta bà rất cảm kích tín ngưỡng tôn
kính ngài. Thường là đức Bồ tát hay thị hiện thân nữ lưu, đức hạnh song tòan
nên chúng sanh trong thế giới ta bà gọi ngài là Phật mẹ, Phật mẫu,bậc Mẹ Hiền
tối tôn tối thượng. Vì chỉ có ngài mới đủ lực từ bi cứu khổ chúng sanh; qua
ngài mọi người mọi loài nhận chân được giá trị hành đạo của Ðức Phật Thích ca,
vị Giáo chủ cõi ta bà.
Thị hiện trong đời, ngài cũng có
rất nhiều cơ cảm tùy duyên hóa độ, có khi thị hiện làm Quan Âm tướng hảo quang
minh, có khi thị hiện hình tướng xấu xí như Tiêu Diện đại sĩ; nhất là như trên
đã nói, thường hiện thân phụ nữ ở Triều tiên, Trung hoa, Nhật bản rồi Việt nam.
Ðức Quan âm Bồ tát, xưa là một nam
nhân tuấn tú, hảo tâm xuất gia, tâm không còn dính bụi trần, trải qua chín kiếp
tu như thế và được làm Sa môn tu hành đắc đạo.
Một ngày nọ Ðức Phật Thích ca Mâu
ni thị hiện hóa thân một vị nữ lưu đức hạnh vẹn tòan, đẹp như tiên nga non bồng
giáng thế để thử lòng vị Sa môn.
Ðức Mâu ni xuống thử lòng
Hiện ra một ả tư dung mỹ miều
Lần khần ép dấu nài yêu
Nhưng vị Sa môn từ chối vì đã trót
tu hành, đang thọ giới pháp của Phật, kiếp nầy không thể thương yêu được, có
thể xin hẹn lại kiếp khác!
Người rằng: ”vốn đã lánh điều nguyệt hoa”
Có chăng kiếp khác họa là
Kiếp nầy sợi chỉ trót đà buộc tay
Không ngờ do lời hứa hẹn bâng quơ
đó mà phải vướng vào vòng lao lý, bị đọa đày trong sanh tử luân hồi ở kiếp thứ
mười.
Nào ngờ pháp Phật nhiệm thay
Lỡ lời mà đã vin ngay lấy lời
Chờ cho kiếp nữa đủ mười
Thử cho đày đọa suốt đời xem sao?
Là người tu, họa phước đều xuất
phát từ miệng, một lời nói không cẩn ngôn cẩn hạnh phải chịu nhiều khổ đau
trong cuộc đời ở kiếp lai sinh; miệng xuất phát từ ý niệm nghĩ suy. Từ đó mà
quả báo thay nhau ẩn hình đóng vai trò “ân đền nghĩa trả” trong thế gian và cứ
như thế mà trầm luân khổ đế.
Câu chuyện cổ tích thơ nôm Quan Aâm
Thị Kính, tác giả là người tu Phật cũng cho chúng ta thấy được cái lý nhân quả
trong nhà Phật mà Ðức Phật từng thuyết cho mọi người nghe. Gieo nhân thì hái
quả, không có quả nào sai trái với mầm nhân đã gieo.
Bạch Sư! Trong thế gian có lắm điều
phi lý:”khi người làm ác mà đời sống của họ vẫn sung túc giàu sang quý phái?”.
Sự việc có nguyên nhân của nó:”theo
giáo pháp nhà Phật chắc chắn người làm ác (hạt nhân) thì phải gặp ác (quả báu),
nhưng vì cái hạt nhân của việc làm ác ấy chưa chín mùi, chưa đủ yếu tố để tác
thành quả...vì vậy mà người làm việc ác vẫn thấy được sung sướng, hạnh
phúc...Tuy nhiên đến khi “hạt nhân ác “chín mùi, đủ yếu tố tác thành quả không
ai tài nào tránh khỏi họa hại đến nhà.
Chúng sanh thường”theo nghiệp lực
mà tái sinh vào thân sau”. Tái sanh vào cõi Thánh, tái sinh vào cõi phàm trần,
tái sinh vào cõi A tu la, địa ngục, ngã quỷ, súc sanh...chỉ trừ Ðức Phật là bậc
giải thoát toàn chân thiện mỹ ra khỏi sanh tử luân hồi, không tái sanh vào đâu
cả, mà thị hiện vào đời cứu khổ, độ chúng sanh. Bồ tát thì vào đời bằng hạnh
nguyện, nhưng vẫn còn một chút trở ngại khi mang “ấm thân”. Bậc Thanh văn tái
sinh vào đời lại càng trở ngại hơn nữa khi vào bào thai mẹ, nơi huyển thân
nhiều ô uế, nên phải chịu kiếp si mê rồi mới giác ngộ tu hành; trong giáo pháp
nhà Phật có câu:” Thanh văn còn muội lúc ra thai, Bồ tát còn mê khi cách ấm...”
Thân tướng Bồ tát Quan âm là thân
ứng hóa sanh thân, Ngài luôn có trách nhiệm đi vào thế giới ta bà, làm công
việc bỏ thân trước, mượn thân sau, nên nói Bồ tát còn mê khi cách ấm...
Tại Việt nam thân nổi bật là thân
Quan âm áo trắng,tay cầm nhành dương liễu và tay cầm bình tịnh thủy rưới mát
chúng sanh vạn lọai, Quan Âm phục long, Quan Âm hiện trong mây, Quan Âm Diệu
Thiện, Quan Âm đứng trên một hải đão biển cả cứu người bị nạn, biển cả tượng
trưng cho luân hồi, lực của ngài như một bà Mẹ hiền bao dung và từ ái.
Tại Trung quốc, thế kỷ thứ mười,
Quan Âm còn được giữ dưới dạng nam giới, thậm chí trong hang động ở Ðôn hòang,
người ta thấy tượng Quan Âm để râu, sau đó hình ảnh Quan Âm được vẽ mặc áo
trắng có dạng nữ nhân. Có lẽ đều nầy cho thấy có sự pha trộn giữa đạo Phật và
đạo Lão. Một cách giải thích khác là ảnh hưởng của Mật tông, trong thời kỳ nầy
đó là hai yếu tố từ bi và trí tuệ được thể hiện thành hai dạng nam nữ; mỗi vị
Phật hay Bồ tát theo Mật tông đều có người hầu cận thuộc nữ nhân. Vị quyến
thuộc của Quan Thế Âm được xem là vị nữ thần áo trắng, và Bạch y Quan Âm là tên
dịch nghĩa của danh từ đó. Kể từ thế kỷ thứ mười quần chúng Phật tử Trung quốc
tín ngưỡng Ðức Quan Âm áo trắng và kính tôn ngài là vị bồ tát có dạng phụ nữ.
Thường thì người Phật tử Ðông Bắc á
còn tín ngưỡng Phật bà “Quan Âm Nam hải”, vì họ luôn cầu nguyện cho được bình
an trong các chuyến đi về phương nam đánh cá.
Gia đình tôi, các chị em được giáo
dục từ thuở nhỏ; lúc lên sáu, bảy vừa biết chữ là phải thực tập tụng kinh niệm
Phật, ăn chay, mỗi tối ai không tụng kinh phải bị Ba (Bố) phạt quỳ hương, hoặc
đứng khoanh tay quay vào vách cho đến 23 giờ Ba mới tha cho đi ngủ. Trong khóa
lễ tụng kinh niệm Phật gồm có tụng bài Tán Dương chi, tụng bài Chú Ðại bi, tụng
bài kinh Cứu khổ, tụng A di đà Phật thân kim sắc, niệm 108 câu danh hiệu Phật A
Di đà, hồi hướng, tự quy y…về sau bắt đầu từ tháng giêng năm Kỷ hợi (1959) có
tụng bài Pháp kệ Phổ đà sơn, trung bình một khóa lễ như thế chừng 25 phút đến
30 phút là cùng, do vậy mà các chị em tôi ít có ai chán ngán khi đến thời giờ
tụng kinh niệm Phật, ngược lại còn rất phấn khởi (tinh tấn).
Trong các bài tụng tôi đều tâm đắc,
nhưng tâm đắc đặc biệt là bài: “kinh Quan Âm cứu khổ”
Nam mô Ðại từ Ðại bi Cứu khổ Cứu nạn
Quảng đại Linh cảm Quan Thế Âm Bồ tát.
Ðát chỉ đa,
Án, dà liệp phạt đa, dà liệp phạt đa
Liệp dà phạt đa, liệp dà phạt đa, ta ha
Thiên la thần, Ðịa la thần
Nhơn li nạn, Nạn li thân
Nhứt thiết tai ươn hóa vi trần
Nam mô Ðại từ Ðại bi Cứu khổ Cứu nạn Quảng đại Linh cảm Quan Thế Âm Bồ
tát.
Trên bàn thờ Phật, Ba thờ bức tượng
giấy lớn gọi là tượng Hội đồng chư Phật (tam thế là ba đời chư Phật: Di đà tam
tôn biểu tượng Phật quá khứ, hiện tại Phật Thích ca, vi lai Phật Di lặc), phía
dưới ở giữa thờ tượng Phật Thích ca ngồi thành đạo dưới cội bồ đề có ma vương,
ma nữ trêu ghẹo không cho ngài thành Phật, nhưng cuối cùng thì ngài chiến thắng
ma vương để thành Phật, bên phải là thờ ba ông Quan công, Quan bình, Châu
xương, bên trái thờ Phật Bà Quan Âm (tượng giấy lớn xưa), trong tượng có Phật
Bà Quan Âm, Thị Mầu bồng con, chim vẹt ngậm chuổi bay trên cao, phía sau là
khóm trúc xanh tươi; cũng có Thiện Tài, Long Nữ đứng hầu trước đức Bồ tát Quan
Âm, hai bên hình ảnh Phật Bà có đôi liễn:
Tử trước lâm trung Quán tự tại
Bạch liên đài thượng hiện Như lai
Cả nhà tôi tín ngưỡng Phật Bà tuyệt
đối và thuộc bài kinh Quan Âm cứu khổ, lúc nào gặp sự cố như bệnh, nhất là công
cuộc chiến tranh Việt Pháp, hai bên thường bắn nhau lúc bấy giờ cũng đều tụng
bài kinh Quan Âm Cứu khổ.
Sự linh ứng
Chiến tranh Việt Pháp là một thảm
họa chung của dân tộc; vào năm 1953 nhà Ba tôi ở chợ quận, mỗi lần hai bên đánh
nhau, Ba tôi dạy các con phải chun dưới bàn thờ Phật mà trốn, các con niệm danh
hiệu Nam mô Ðại từ Ðại bi Cứu khổ Cứu nạn Quảng đại Linh cảm Quan Thế Âm Bồ tát
cầu Phật mẹ gia hộ, bom đạn sẽ không quấy nhiễu; thời ấy tôi không hiểu gì cả,
nhưng nghe theo lời Ba dạy nên tin, tin lắm! Mà thật sự như thế, nhà tôi được
thoát qua nhiều cơn hoan nạn do lính Tây và Việt minh bắn nhau trước đường lộ
cách nhà 800 mét, mỗi lần hai bên “đụng trận” súng bắn liên hồi, mọi người cứ
tưởng là phải chết!
Cạnh nhà tôi có hai nhà hàng xóm ở
cùng một bên đường nhưng cách xa nhà tôi 500 mét nếu tính từ đường lộ lớn đi Mỷ
tho- Gò công nhìn vào bên phải thì có nhà Ông Cả (chủ trại hòm), nhìn bên trái
là nhà lớn của Duy bạn học, các nhà nầy có làm “trãng-sê” hoặc “sô hào gần
giống như công sự” để trốn tránh bom đạn. Một ngày nọ, bên quận đường “lính
quận cũng là lính Tây” đi ruồng (hành quân), khi đi vào đầu đường làng tôi lúc
18 giờ 30, hai bên Tây và Việt minh gặp nhau, lính Tây bắn xối xả, bắn ôi là
bắn, bắn thẳng thì đạn lạc vào nhà tôi, bắn bên phải thì đạn lạc vào nhà Ông
Cả, bắn bên trái thì đạn lạc vào nhà Duy bạn tôi…Lúc bấy giờ Ba tôi bảo các chị
em chúng tôi chun dưới bàn Phật nằm “sát-rạc dưới đất”, đồng niệm danh hiệu Bồ
tát Quan Âm cứu khổ cứu nạn cho đến khi chấm dứt trận đánh; vậy mà sau khi
ngưng bắn nghe bên nhà Ông Cả có người nhà khóc hu hu, thì ra khi lính quận bắn
phía bên nhà Ông Cả, Ông và mọi người chạy đôn chạy đáo ra “trãng-sê” ngoài vườn
trốn đạn, nên bị lạc đạn “thương vong”; nhà tôi, Ba tôi thoát nạn, Ba bảo:”nhờ
chun dưới bàn thờ và niệm Bồ tát Quan Thế Âm” nên đạn bom biến thành cát bụi
(nhứt thiết tai ươn hóa vi trần).
Sự việc cho đến năm 1966, tôi mới
nghĩ ra:”nơi bàn thờ Phật là nơi tôn nghiêm, nhà trên nhà trước, ban ngày ban
mặt, bộ đội “Việt minh” đi đánh Tây đâu có ai mà núp ở nơi không có “trãng-sê
công sự”, nên “lính quận” không bắn vào hướng đó, mà bắn vào nơi đối phương có
thể vừa “phục kích đánh Tây” vừa “trốn núp đạn” tức là nơi công sự trãng-sê; vì
vậy mà Ông Cả bị “lạc đạn” qua đời, gia đình tôi do núp dưới bàn thờ Phật, niệm
Bồ tát Quan Âm nên không ra sao cả.
Chín tháng sau, sau ngày mẹ tôi qua
đời, tức là vào ngày 01/7/1954, Ba tôi suy nghĩ phải làm trãng-sê cho các con
tránh lạc đạn. Công việc đắp trãng-sê của Ba đến ngày 19/7/1954 mới xong, nhưng
ngày hôm sau thì “đình chiến”.
Tâm niệm đến Ðức Bồ tát Quan Âm tôi
nhớ lại hồi năm 1955 cũng là năm tiệm buôn Tạp hóa của Ba buôn bán rất thịnh
vượng, ăn nên làm ra, nhà tôi là “nhà kê”, tức là nhà số “1” trong làng xã, mọi
người rất quý mến Ba, vì Ba là người tu Phật rất điềm đạm từ tốn với mọi người,
Ba cũng thường nói với những bà con bạn hàng nên siêng niệm Phật Bồ tát Quan Âm
để chấm dứt chiến tranh được tai qua nạn khỏi. Cũng trong năm ấy, Ba có sắm 1
tủ lớn bán sách giáo khoa cung cấp cho các nhà trí thức xưa và học trò trường
Tiểu học Chợ Gạo, trong tủ sách có một ngăn trưng bày các lọai truyện xưa tích
cũ, như truyện Vua Nghiêu Vua Thuấn, Bích câu Kỳ ngộ, Nhị thập Tứ hiếu, Phạm
công Cúc hoa, Thọai khanh Châu tuấn, Thạch sanh Lý thông, trong đó có sách
truyện Quan Aâm Thị Kính, lúc nào tôi cũng mãi mê đọc truyện Quan Âm Thị Kính,
đọc tới đọc lui đến nổi gần như thuộc lòng, vào những ngày giáp tết Ba thường
mua tranh tứ quý về bán chợ tết, trong đó có tranh Quan Âm Thị Kính là nổi bật,
tôi vừa nhìn là biết ngay Phật Bà Quan Âm Thị Kính và tỏ lòng ngưỡng mộ Phật Bà
trước hơn hết.
Theo tôi biết, tập thơ nôm Quan Âm
Thị Kính rất ít được phổ biến trong quảng đại quần chúng, ai có duyên thì gặp
không duyên lành thì chịu! Ba tôi, gia đình tôi thì không xem thường cho đến
khi quy y Phật vào cuối năm 1957 tại chùa Long Khánh, Thuộc nhiêu, Cai lậy với
Bổn sư là Hòa Thượng thượng Quảng hạ Ðức. Rồi đến năm Canh tý (1960) xuất gia
đầu Phật với Bổn sư là Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước, biệt hiệu Ðức Mẫu Trầu
Bồng Lai tại núi Bồng lai (Bà rịa Vũng tàu), thì đức Quan Thế Âm lúc nào cũng
ảnh hiện trong đầu của tôi, thỉnh thoảng ngài biến hóa thành đức Bồ tát Di lặc
độ trì tôi đi xuất gia.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát
Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp
Giới Tam Bảo.
65. NGÀY THỨ SÁU MƯƠI LĂM:
Giới thiệu thơ nôm Quan Âm Thị kính
Sư linh ứng
Năm 1967, sau khi đại hội thành lập
Ðoàn Du tăng Khất sĩ Non bồng diễn ra vào ngày 23/7 tại Tây viện Quan Âm Tu
Viện, tối đến tôi mở một quyển sách đọc một câu chuyện thời chiến tranh đệ nhị
thế chiến (1945). Lúc bấy giờ trục phát xít Ðức – Ý – Nhựt chia nhau thôn tính
hoàn cầu, Nhựt bản đánh chiếm toàn bộ các quốc gia Ðông Nam á, Ðông Bắc á…tại
Myanmar có một Viện Bảo Tàng Phật giáo ở giữa rừng, thờ nhiều phiến đá trong đó
có điêu khắc Tam Tạng kinh điển, khi chiến tranh lan đến đây nhưng các bên
không đánh nhau nơi có thờ Tam Tạng thánh điển, do vậy mà các gia đình trong
vùng có chiến tranh di tản đến nơi thờ kinh điển để tị nạn và trú ngụ an toàn
cho đến khi chấm dứt chiến tranh.
Tại Quan Âm Tu viện, pháp tháp
Huyền Diệu Quan Thế Âm thờ thánh tượng Quan Âm cao 7,2 mét được xây dựng vào
năm 1970, đến ngày 19/6 năm Tân hợi (1971) tổ chức lễ khánh thành, dưới sự
chứng minh của Ðức Hòa Thượng Tôn Sư Mẫu Trầu, có khoãng 20.000 Tăng Ni, Tín đồ
Phật tử các Tự Viện trong tông phong, từ các nơi về tham dự đông đủ. Thánh
tượng là một tượng đài Ðức Phật mẹ Quan Âm mặc áo màu trắng, tay cầm bình tịnh
thủy, tay cầm nhành dương liễu đứng sừng sững giữa pháp tháp, nơi đây là biểu tượng
của Quan Âm Tu Viện, cũng là sự tín ngưỡng tôn quý đức Bồ tát Quan Âm rất linh
hiển, giúp nhiều bà con thoát qua nạn tai trong chiến tranh Việt Mỹ.
Ngày 19 tháng 2 năm Giáp dần
(1974), chiến tranh Việt-Mỹ gần kết thúc, Ðức tôn sư và chúng tôi thường xuyên
đi núi Sập, thăm viếng Ðức Sư Ông, vì lúc bấy giờ huyển thân ngài yếu, có thể
đi về với Tổ Phật không biết lúc nào. Một duyên lành khác tiếp đến, tôi được Sư
Giác Nguyên tặng quyển Việt nam Thi văn Hợp tuyển của Giáo sư Dương Quãng Hàm
(Trung tâm học liệu xuất bản lần thứ 9, Saigon 1968) để tôi đọc học, trong đó
có mục Quan Âm Thị Kính, thơ văn có 786 câu, tác giả Vô Danh, truyện chia ra
làm 5 hồi như sau: Thị Kính mắc tiếng oan giết chồng – Thị Kính đi tu – Thị
Kính mắc tiếng oan với Thị Mầu – Thị Kính nuôi con Thị Mầu – Thị Kính rữa sạch
tiếng oan và thành Phật. tuy sách giới thiệu đủ năm hồi, nhưng trên thực tế chỉ
trích giảng từ câu thứ 123 đến câu 344 mà thôi.
Sách có nhắc đến việc Kỉnh Tâm
trước khi chết có viết thơ để lại cho mọi người, sau khi xem thư tuyệt mệnh,
người nhà mới biết tội mưu giết chồng là oan. Khi liệm thi hài, Sư Vãi trong
chùa mới rõ Kỉnh Tâm là phụ nữ (nhưng sách không trích bài thư tuyệt mệnh của
Kỉnh Tâm). Vậy là cả hai nổi oan đều được tháo gở.
Bức thơ tuyệt mệnh:
Thị Kính, pháp danh Kỉnh Tâm gởi cho cha mẹ:
Ơn sơn-hải một chút chi chưa báo, ở sao đành dù đi có sao đành. Phận
liễu-bồ mười đấy cũng là không, Sống đã tủi dù thác đi cũng tủi. Trăm hơn dặm
bỗng xảy ra muôn kiếp,
Một tấm lòng xin gửi lại mươi hàng.
Thị Kính nay:
Hổ Phận nữ-nhi,
Nhờ nền phúc-ấm,
Từ kết tóc sớm trao giây tú-mạc, ba thu vừa mới ấm chăn loan.
Vì cắt râu nên nỗi sóng Ngân-hà, một khắc nào ngờ tan dịp thước.
Tòa Ngưu-Nữ đôi bên cách trở,
Khóm thung-huyên đòi-đoạn bồi-hồi.
Chốn phấn-hương thẹn với nước-non,
Ðặt gánh hiếu phải sa rời dặm khách
Miền Bát-Nhã tìm vào mây khói,
Nương bè Từ cho vượt khỏi sông mê.
Ðuốc quang-minh đốt cháy thành sầu,
Bể khổ-hạnh bỗng nảy lên bãi giác.
Cảnh Văn-Tụ mừng vui miền thứu-lĩnh,
Rảy cành dương chẳng bợn chút trần-ai.
Ả Thị-Mầu đơm đặt chuyện Vu-sơn,
Gầy vóc liễu đã cam lòng giả sở.
Thủa làm vợ để chồng ngờ thất tiết,
Lúc làm trai cho gái đổ oan tình.
Ðoái nghĩ, ơn chín chữ cù-lao, xa-xôi chốc đã sáu thu, khoải-khoắc bận
lòng khi đán-mộ.
Tưởng đến nỗi đôi bờ ly-biệt, nuôi-nấng gọi là một chút, viếng thăm
thay mặt buổi thần-hôn,
Muôn phần bội bạc đã cam rồi,
Trăm lạy nghiêm từ xin ở lại.
Ðạo Phật là thế đấy, oan ức không
cần biện bạch, biện bạch là hèn nhác; Kỉnh Tâm đến khi bỏ xác thân tứ đại mới
nói nên lời. Sinh tiền Ðức tôn sư Mẫu Trầu cũng như thế, trong quá trình hành
đạo, ngài thường xuyên bị dư luận mạ lỵ khinh chê ngài, nhưng lúc nào ngài cũng
lặng thinh mà niệm Phật hay thuyết giảng nhằm giữ vững tinh thần cho môn nhơn
đệ tử an tâm tu học. Trải suốt trên năm mươi năm trường cho đến khi viên tịch,
được Hội đồng Chứng Minh Trung ương Giáo hội PGVN đến tấn phong lên hàng giáo
phẩm Hòa Thượng!
Sinh tiền Ðức tôn sư dạy:
Ngàn năm công khó không người biết
Một kỷ siêu thăng thiên hạ hay
Ngày 25/4/1975 bộ đội Mặt trận giải
phóng miền Nam tiến chiếm đến Trảng bom, đến ngày 28/4/1975 thì đến sân bay
Biên hòa, tại Quan Âm Tu viện có trên 600 người gồm Tăng Ni, Tăng Ni sinh, cô
nhi đang cư trú, ngày đêm tụng kinh Phổ Môn cầu nguyện hòa bình, cầu tai qua
nạn khỏi cho đến ngày 29/4/1975 Ban Giám đốc Quan Âm Tu viện quyết định đưa một
số cô nhi đến nhà Ông Mười Ðiều tại ngã ba Vườn mít lánh nạn, vì bấy giờ thị xã
Biên hòa do Quân Giải phóng kiểm sóat rồi. Tuy nhiên tại Quan Aâm Tu Viện còn
rất căng thẳng: “…Quân Giải phóng ở phía trước Tu viện, Ngụy quân đã “đầu hàng”
rồi, nhưng muốn có thêm trận đánh nữa, nên trốn ở phía ngòai sau Tu viện, bên
Giải phóng ở phía trước Tu viện bắt loa kêu gọi “Ngụy quân đầu hàng”, Ngụy quân
thì dàn trải chiến xa M113 từ phía núi Châu thới chỉa mũi súng thẳng về bên
hông Tu viện, hai bên chuẩn bị đánh nhau một trận cuối cùng; trong khi đó hằng
trăm tu sĩ Tăng Ni, cô nhi ở trong Tu viện tụng kinh niệm Phật, treo nhiều lá
cờ Chữ Thập Ðỏ lớn bằng chiếc đệm để kêu gọi không đánh nhau. Cuối cùng vào lúc
14 giờ ngày 29/4/1975 có một Ông Sư Khất sĩ xuất hiện cầm súng AK đứng trước
cổng Tu viện giữ trật tự, thỉnh thoảng đi vào pháp tháp Quan Âm, rồi lại đi ra
cổng, đi đi lại lại “ông Sư cầm súng đứng trước cổng Tu viện như là một thiên
thần cứu thế”, tín hiệu về chuyện đánh nhau sẽ không thành việc nữa rồi; cho
đến 19 giờ cùng ngày giông bão đến, trời trút một cơn mưa cực lớn đến 23 giờ
mới tạnh…thế là chuyện đánh nhau giữa đôi bên sẽ không có, cho đến 11giờ 30 hôm
sau, ngày giờ hòa bình đã đến: 30/4/1975.
Việc tụng kinh Phổ Môn, treo cờ Chữ
Thập Ðỏ, hình ảnh Ông Sư cầm súng AK và Trời đổ một trận mưa to kéo dài…có bốn
sự duyên, phải chăng đây là những pháp lực Quan Âm Bồ tát hộ trì cho Tu viện và
Tăng Ni, cô nhi tụng kinh Phổ Môn cầu nguyện tại Quan Âm Tu Viện.
Ðến năm 1988, gặp được quyển sách
Quan Âm Thị Kính cũng của tác giả Khuyết Danh, đọc tiếp cho đến ngày 19/2/Tân
mão (2011), lại tiếp tục được gặp áng thơ nôm Quan Âm Thị Kính…
Với nhiều nhơn duyên với ngài như vậy, tôi viết lời giới thiệu thơ nôm Quan Âm
Thị Kính”, trở thành bài pháp đưa vào sách”Một trăm ngày niệm Phật &Một
trăm bài pháp tập II” giới thiệu một hiện thân vi diệu, một siêu nhân vĩ đại
với đức hiệu Quan Âm Thị Kính trong văn học Việt nam, văn học Phật giáo Việt
nam, trong các sách viết về Phật Bà Quan Âm, Mẹ hiền Quan Âm.
Tập thơ nôm Quan Âm Thị Kính, sở dĩ
gọi tên tác giả là Khuyết Danh vì có hai giả thuyết như sau:
1/ Theo nhà nghiên cứu văn học Hoa Bằng (1902-1977) thì tác giả của tập thơ nôm
nầy là Nguyễn Cấp, một nhà văn sống vào nửa đầu thế kỷ thứ 19. Ông là người ở
thôn Thượng, xã Nguyên khiết, huyện Thọ xương, thuộc Tp.Hà nội. Sau khi đổ Giải
Nguyên năm Quý dậu (1912), ông được bổ chức quan, lần lượt trải đến chức Tri
phủ Thiên Trường (1929). Sau vì một chuyện lôi thôi trong kiện tụng mà vợ ông
có dính líu, ông bị bắt giam, nhưng trốn được. Nhờ nguyễn Công Trứ bấy giờ làm
quan Tham tán quân vụ ở Lạng giang che chở, nên ông đến ẩn tu hành ở tại đây.
Tác phẩm Quan Âm Thị Kính được ông sáng tác vào lúc cuối đời, đã thể hiện phần
nào tâm sự u uất của ông.
2/ Theo gia phả nhà họ Ðổ ở Bắc
ninh do Dương Xuân Thự cung cấp, thì truyện thơ Quan Âm Thị Kính do Ðổ Trọng Dư
(1786-1868) sáng tác. Ông là người xã Ðại mão, huyện Siêu lọai, xứ Kinh bắc,
nay thuộc tỉnh Bắc ninh. Ðổ Hương cống năm 1819, ông được bổ chức quan, lần
lượt trải đến chức Tri phủ Quốc oai. Ở chức nầy ông bị kiện là thu tiền của dân
không hợp lệ nên bị bãi chức (có một nho sinh muốn xin ông một chức vị trong
phủ nhưng ông không cho, nên làm đơn kiện ông), về nhà dạy học. Chán nản với thế
sự, ông đã viết thơ Quan Âm Thị Kính để gởi tấm lòng mình. Năm 1876, con ông là
Cử nhân Ðổ Trọng Vĩ chép lại, đến năm 1948, thì tác phẩm in bằng chữ quốc ngữ,
trên bản in đề rõ là của Ðổ Trọng Dư.
Trong khi chờ đợi xác định ai là
tác giả của tập thơ nôm Quan Âm Thị Kính, các sách Văn học Việt nam vẫn tạm ghi
là Khuyết Danh.
Như vậy, một tác phẩm của Khuyết
Danh, một tác phẩm của Ðổ Trọng Dư, một của Nguyễn Cấp; theo tôi thì Khuyết
Danh cũng là một tác giả, tức là ba tác giả và theo Giáo sư Nguyễn Huệ Chi còn
có một tác phẩm có bản in sớm nhất hiện còn là vào năm Tự Ðức thứ 21 (1868)
cùng một nôi dung. Dù là của ai tôi vẫn tôn quý trọng thị biết ơn người xưa,
các tác giả đã dày công tu hành, nghiên cứu kinh Phật, hiểu biết giáo lý Phật
mà biên sọan tập thơ nôm Quan Âm Thị Kính là một công trình vĩ đại trong văn
học Việt nam.
Thơ nôm Quan Âm Thị Kính là tập thơ
thuộc văn học Việt nam, nhưng nội dung diễn tả câu chuyện của các nhân vật, quê
hương của các nhân vật chính là nước Cao ly? Phải chăng tác phẩm ra đời vào
triều đại vua Tự Ðức trị vì và những triều đại kế tiếp gần như bị Tây hóa, lòng
người chạy theo cuộc sống giàu sang sung túc, quyền thế, mua quan bán chức,
giữa một xã hội lọan ly, những người tốt, người yêu nước, người ngay thẳng
thường bị hại; các tác giả là người “làm quan trung trực bị hại”, gặp nhiều nỗi
oan ức, nên biên sọan tác phẩm Quan Âm Thị Kính nêu lên những nỗi oan ức của
Thị Kính để gởi nỗi khổ niềm đau, nổi oan ức của mình vào tập truyện mà hóa
giải bằng con đường tâm linh, có lẽ vì vậy mà tác giả lập luận câu chuyện ở xa
tít tận Cao ly để cho quan quân triều đình, xã hội không để ý, không còn ám hại
nữa?
Một ý nghĩ khác, có thể tác giả là một bậc tu hành đắc đạo, biết được hạnh lợi
tha của Bồ tát là vô biên “không phân biệt Việt nam hay Cao ly”. Nhưng nếu nếu
cốt truyện Quan Âm Thị Kính là thơ nôm Việt nam, mà nhân vật chính cũng là
người Việt nam thì hay biết mấy! Vả lại xứ sở Việt nam là xứ Phật giáo, nếu tác
giả diễn tả Phật bà Quan Âm thị hiện ở Việt nam như nhân vật Thị Kính- Kỉnh Tâm
thì cũng xứng đáng lắm vậy!
Ở Việt nam còn có thơ nôm Quan Âm
Diệu Thiện cũng ít phổ biến trong quần chúng. Một câu chuyện Quan Âm khác nữa,
ở vào triều đại nhà Lý, nhà vua Lý Thánh Tông có người phi là Ỷ Lan, mẹ sinh ra
Lý Nhân Tông. Khi vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, Ỷ Lan phu
nhân ở nhà, thay vua trị nước rất giỏi, nhân dân rất mến phục, tôn vinh Bà là
Quan Âm nữ (Phật bà Quan Âm). Theo Ðại Việt sử ký tòan thư, thì năm 1096, phu
nhân có bày cổ chay ở chùa Khai Quốc, (hiện nay gọi là chùa Trấn Quốc) cúng
dường các vị Sư và cùng các vị Sư bàn về lịch sử truyền bá Ðạo Phật vào Việt
nam. Nội dung cuộc đàm luận nầy được ghi lại trong cuốn “Thuyền Uyển Tập Anh
ngữ lục” đời Trần (Phật học từ điển, trang 811, của Thích Minh Châu, Minh Chi, NXB
Khoa học Xã hội, Hà nội năm 1991).
Thơ nôm Quan Âm Thị Kính gồm có 786
câu chính, 2 câu kết luận thành 788 câu, và bức thơ riêng của Thị Kính gởi cho
cha mẹ trườc khi ngài liễu đạo thành Phật Bà Quan Âm; trong Việt nam Thi văn
Hợp Tuyển của Giáo sư Dương Quảng Hàm chỉ thấy nói 786 câu, tức là Giáo sư
không nói đến 2 câu kết luận, e rằng có thiếu sót chăng?
Trong sách Một trăm ngày niệm Phật
& Một trăm bài pháp tập II nầy, nhắc đến áng thơ nôm Việt nam Quan Âm Thị
Kính để quý Phật tử, đọc giả cùng tìm học đọc vừa là cổ xúy thơ nôm Việt, vừa
hiểu biết tận tường về sự thị hiện của đức Bồ tát Quan Âm, đức Bồ tát thể hiện
hạnh lành “Thiện hiện hạnh”, trong tam hiền, hay “Pháp Vân địa” trong thập
thánh; nêu cao ý chí nhẫn nhục từ bi của người Phật giáo nói chung, người con
Phật tại Việt nam nói riêng và góp phần làm tăng trưởng mức độ tín ngưỡng Bồ
tát Quan Âm trong cộng đồng Phật tử Việt nam và thế giới.
Phần kết:
Nói về Quan Aâm Thị Kính, người xưa
cũng muốn nói đến chổ tu hành thành Phật đắc đạo là không dễ dàng. Quá trình tu
hành cần có sự dày công tu tập, thực tập thiền tụng, công phu công quả, thực
hành khổ hạnh, nêu cao chí khí nhẫn nhục, học tập và phát huy đức tính từ bi
của Ðức Phật, giới luật tròn đầy thì quả vị mới cao. Lời Ðức Tôn sư thường
dạy:”Phật dụng tâm (sự quyết chí), không dụng nhiều mâm nhiều quả; chịu khổ
hạnh tu hành mới giỏi, công cho dày quả vị mới cao...”
Người phát huy được nội lực tu
hành, dù ở trong chốn thâm sơn cùng cốc, Ðức Phật cũng thân hành giáng lâm
chứng minh. Người tu hành nhờ công phu tu tập khó khổ trong một đời dù người
thế gian không hay biết, nhưng đức Phật biết, Thánh biết, sự quan tâm của Ngài
làm cho giáo pháp Ðức Phật ngày càng trong sáng thêm lên, hội nhập phù hợp từng
thế kỷ từng thời đại.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát
Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp
Giới Tam Bảo.
66. NGÀY THỨ SÁU MƯƠI SÁU:
Thân tướng Ðức Di Lặc
Vấn: - Ðức Di Lặc là vị Bồ tát gần
gũi chúng con như đức Quán Thế Âm, mỗi lần đi chùa bất cứ nơi đâu ở Việt nam
chúng con cũng nhìn thấy dung nhan của Ngài và đảnh lễ nghiêm túc. Trong pháp
môn tu niệm Phật Tịnh độ cũng nói đến hạnh lành của Ngài, chúng con chưa biết
nhiều về hành trạng của Bồ tát Di Lặc nhiều, kính mong Sư hoan hỷ giảng giải
cho chúng con được sáng tỏ để tu hành?
Ðáp: - Chư Tăng Ni Phật tử Việt nam
cũng như chư Tăng Ni, Phật tử các nước Ðông Bắc Á đều tín ngưỡng Ðức Bồ tát Di
Lặc; mỗi lần đảnh lễ tôn tượng, mọi người thường niệm Nam mô Ðương Lai hạ sanh
Di Lặc Tôn Phật, trong dân gian thường gọi Phật Di Lặc, hơn là gọi Bồ tát Di
Lặc, Ông Phật cười, Ông Phật bụng bự, Hòa thượng mang túi vải.v.v..chẳng biết
gọi các nào cho đúng. Thật ra thì sự hiện thân của ngài quá nhiều, được sử sách
nói nhiều, nhưng chỉ tòan là hạnh lành của Bồ tát, truyền thuyết, dã sử…ngay
như tiểu sử ngài Bố đại Hòa thượng (Hòa thượng có mang túi vải) trong sách Từ
Bi Âm cũng chỉ nói hiện thân của ngài là Bố đại Hòa thượng? Vậy thì tượng thờ
tại chính điện của các chùa có phải là Bố đại Hòa thượng? Vì thánh tượng ngài
“thì tay lần chuổi, tay cầm một túi vải”?
Sư sẽ nghiên cứu thật kỷ để giảng
giải cho các vị tu hành, mà không còn nghi ngờ nữa!
Trong kinh Phật có câu:
Nhất thế Phật bồ tát, hằng dĩ bi
tâm cố, Tùy nhơn tùy thế giới, tùy thời tùy duyên hiện.Thục thục bát vô dư, thế
gian vô tận cố…
Nghĩa:
Chư Phật và bồ tát, vì lòng từ bi thương xót
chúng sanh cứ chìm đắm mãi trong vòng sanh tử, nên các ngài tùy theo trình độ
của mỗi người mỗi thế giới, tùy theo thời tiết nhơn duyên, mà hiện thân giáo
hóa chúng sanh được thành thục.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thể theo
bổn nguyện hiện thân cõi ta bà, trong khãng 49 năm tùy cơ thuyết giáo. Do nhơn
duyên có hạn, cơ cảm có thời, bấy giờ ngài trở về Ta la song thọ là nhập Niết
bàn. Nối sau Phật Thích Ca có ngài Di Lặc là một vị Phật bổ xứ, sẽ hiện thân
thế giới ta bà giáo hóa chúng sanh.
Di Lặc là tiếng Phạn, Tàu dịch là
Từ Thị hay Từ Tôn. Người tu tâm đại từ, ấy là hiệu của Ngài. Tiếng Phạn gọi là
A Dật Ða, Tài dịch Vô Năng Thắng, không ai hơn ai đó là tôn hiệu của Ngài (kinh
Di Lặc hạ sanh, trang 46).
Nói đến Di Lặc, thấy lòng ta vui
vẻ, vì tâm ta tưởng tượng đến hình bóng của Ngài to mập, ngổi chiễm chệ, hai
tay chống ngữa về phía sau, bụng lớn phình về phía trước, khuôn mặt nở nang đầy
đặn, miệng tươi cười mở rộng, má lúm đồng tiền, tỏ vẻ khoan hòa thương yêu hết
thảy muôn loài.
Trong bộ “Song Lâm Phó đại Sĩ ngữ
lục hành thế” nói: “về đời Ngũ Quý bên Trung Hoa, ở đất Minh Ba, huyện Phụng
Hóa (Châu Minh) có một vị Hòa Thượng lùn béo, bụng to da đen, vẻ mặt nhân từ,
thường dùng một cây gậy quảy một túi vải, trong đựng bình bát, hành cước từ
thôn quê đến thành thị, khất thực, ai cho bất kỳ vật thực, đồ vật gì cũng đều
đưa vào trong túi vải, thấy vậy người đời thường gọi là “Bố Ðại Hòa Thượng”.
“Bố Ðại Hòa Thượng” còn làm nhiều
điều lạ thường, người nào được Ông nhận quà cúng dường. Thì người ấy làm ăn
phát đạt, may mắc. Gia đình nào được Ông quang lâm đến thì gia đình ấy là ăn
thịnh vượng, trên thuận dưới hòa. Ông hay nằm đất nhưng mình không nhơ, hoặc có
khi ngồi ngoài mưa, sương tuyết mà không hề ướt áo, khi đương nắng gay gắt mà
Ngài bỏ dép guốc thì trời đổ mưa, khi đang mưa mà bỏ dép guốc thì trời sắp
nắng.Các vị Tăng khác ai có duyên gặp Ngài hỏi đạo, thì Ngài dạy giúp được tỏ
ngộ. Ðến niên hiệu Trinh Minh, mùng Ba tháng Ba, Ngài ngồi trên một tảng đá lớn
sau chùa Nhạc Lâm thuyết bài kệ:
Di lặc chơn Di Lặc
Hóa thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhơn
Thời nhơn giai bất thức
Nghĩa:
Ta đây thật Di Lặc
Hóa ra ngàn vạn thân
Thường đứng trước mặt người
Mà người chẳng ai biết
Nói xong bài kệ này ngài liền thị
tịch. Từ đó trở về sau người đời cảm động cùng nhau đúc tượng “Bố Ðại Hòa
Thượng” để thờ, gọi là tượng Phật Di Lặc
Trong kinh “Bất Thực Nhục” chép
rằng:”về đời quá khứ, có Phật ra đời hiệu là Phật Di Lặc, thường thể hiện lòng
từ bi mà giáo hóa chúng sanh. Một hôm Ngài nói Kinh Từ tam muội quảng đại bi
hải vân, lúc bấy giờ trong nước có Ông Tiên tên là Nhứt Thế Chí Quang Minh, sau
khi nghe nói kinh nầy rồi thì ngài luôn luôn thọ trì và phát nguyện rằng:
Nhờ công đức nầy, đời sau tôi
Thành Phật cũng hiệu là Di Lặc
Phát nguyện xong Tiên Nhơn bỏ nhà
vào núi tu hành, ít lâu sau gặp năm mất mùa, nhân dân đói thiếu, Ông khất thực
không được. Lúc ấy trong rừng có hai mẹ con con thỏ, thấy Ông bảy ngày không có
gì để ăn cả, sợ Ông chết, mà giáo pháp không có ai truyền bá, nên mẹ con thỏ
kia liền xả thân nhảy vào đống lửa tự thui mình cúng dường. Thọ thần thấy vậy
liền đến trước Tiên nhơn bạch rằng:
“Hai mẹ con con thỏ, thấy Ngài
không có món ăn, nên đã thiêu mình cúng dường, nay thịt thỏ đã chín, xin ngài
nhận cho…”
Tiên Nhơn nghe Thọ thần nói như
vậy, hết sức buồn thảm thương xót, Ông liền mang bổn kinh mình thường đọc tụng
viết vào lá cây gần đấy và viết thêm bài kệ rằng:
Ninh đản hiện thân phá nhãn nhục
Bất nhẫn hành sát thực chúng sanh
Chư Phật sở thuyết Từ Bi
kinh
Bi kinh năng thuyết hành từ giã
Ninh phá cốt thể xuất đầu não
Bất nhẫn đạm nhục, thực chúng sanh
Thử nhơn hành Từ bất mãn túc
Ðương thọ đa bệnh đoàn mạng thân
Mê một sanh tử bất thành Phật
Nghĩa là: Thà tự đốt mình, đâm
thủng mắt, Chẳng nỡ giết hại chúng sanh mà ăn thịt. Chư Phật đã nói kinh Từ Bi
Kinh dạy: Những người hay ăn thịt
là người tu đức từ không đầy đủ, thà tự bổ đầu moi óc ra, chứ chẳng nở ăn thịt
chúng sanh.
Nói kệ xong, Ông phát nguyện:
“Tôi nguyện đời đời không nghĩ
tưởng sát sanh, không an thịt chúng sanh, cho đến kgi thành Phật, sẽ chế giới
đoạn nhục”.
Nguyện xong, Tiên Nhơn cũng chui
vào trong đống lửa theo cùng hai mẹ con con thỏ! Bỗng hào quang từ trong đống
lửa chiếu khắp một phía trời, người đời thấy vậy theo hào quang ấy tiến đến xem
thì chỉ thấy một thân người và hai con thỏ đã chết nằm trong lửa; trông xung
quanh thấy trên lá cây có viết một quyển kinh và một bài kệ, họ liền bảo nhau
đem về dâng cho nhà vua và tâu hết công chuyện họ vừa thấy. Vua bèn truyền một
vị Ðại thần đem ra tuyên đọc cho mọi người nghe. Ai nấy đều phát đạo tâm vô
thượng chính đẳng, chính giác.
Khi giảng đến đây, Ðức Phật Thích
Ca Mâu Ni bảo Ông Thức Can rằng:”Bạch thỏ vương trước kia tức là ta ngày nay,
còn thỏ con khi đó, nay là La Hầu La, vị tiên nhơn lúc ấy nay là Di Lặc Bồ tát
vậy…” (kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật, trang 50)
Ðức Di Lặc có nhiều hiện thân hóa
độ chúng sanh, trong đó có hai thân, một là thân ở Song Lâm thì có tên là Phó
Ðại Sĩ; một ở Nhạc Lâm thì có tên là “Bố Ðại Hòa Thượng”. Tôn tượng thờ Ðức Di
Lặc Từ Tôn được người đời sau trong Ðạo Phật tưởng nhớ công hạnh, tấm lòng từ
cao cả, điêu khắc thờ theo hình dáng Ngài “Bố Ðại Hòa Thượng”.
Còn ngày giờ lễ vía theo kinh “Di
Lặc thượng sanh”, trang 51 Ðức Phật Thích Ca nói kinh nầy đến 12 năm, nhằm ngày
rằm tháng hai thì Ngài Di Lặc Bồ tát về nước Ba la nại là chổ bổn sanh, ngồi
nhập diệt. Nhưng ngày giờ đản sinh thì chưa có. Có phải còn 16.800 năm nữa Ngài
mới đản sinh chăng? Nếu chưa đản sinh thì làm gì có nhập diệt?
Tuy nhiên sử Phật, Bồ tát, Thinh
văn thật là mênh mông, việc Phật sự cũng có đôi khi phải tùy theo tiền lệ mà
làm. Theo lời huyền ký trong kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật, nói về Ðức Di Lặc
và Hội Long Hoa như sau:
“…đến khi Phật Thích Ca ra đời, thì
ngài Di Lặc Bồ tát lại giáng sanh trong nhà của một vị Bà la môn, tên là Ba Bà
Lợi, ở Nam Thiên Trúc vào ngày mùng Một tháng Giêng. Họ ngài là A Ðật Ða (không
ai hơn). Tên của ngài là di Lặc (Từ Thị). Tên họ nầy tiêu biểu lòng từ bi, hỷ
xả vô lượng vô biên của ngài. Từ bao nhiêu kiếp cho đến thành Phật, ngài cũng
vẫn có danh hiệu là Di Lặc.
Về sau nhờ Ðức Thích tôn dạy tu Duy
thức quán, ngài quán sát các pháp đều do thức tâm biến hiện, không có một vật
nào chơn thật, thấu rõ được lý “tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Vì ngài
nhận thấy cảnh giàu sang, phú quý danh vọng quyền tước.v.v..đều như bóng trong
gương, như trăng dưới nước, do thức tâm biến hiện, nên ngài dẹp trừ được vọng
tưởng si mê về giả cảnh, chuyển tánh “biến kế sở chấp” trên “y tha khởi”, trở
lại làm tánh “viên thành thật”. Vì thế nên đức Phật thọ ký cho ngài về sau sẽ
làm Phật hiệu là di Lặc và được bổ xứ giáo hóa ở thế giới ta bà nầy…”
Một thuyết khác, nói về Ðức Di Lặc
giáng sanh: “…Ngài Di Lặc Bồ tát, hiện nay ở nội viện Thiên cung cõi trờ Ðâu
suất, đợi đến thế giới nầy hế kiếp giảm thứ chín, qua kiếp tăng thứ mười, trong
lúc nhơn lọai hưởng thọ được trên tám vạn tuổi. Khi bấy giờ thời cơ đã đến,
nhơn duyên hóa độ đầy đủ, ngài Di Lặc từ nội viện thiên cung trời Ðâu sấut,
giáng sanh xuống cõi diêm phù đề nầy, tại nước Ba la nại, trong nhà của một vị
Ba la môn, tân là Tu phạm ma, thân mẫu là Bà Phạm ma bạt đề, nhằm đời vua
Chuyển luân Thánh vương. Thân phụ ngài thật trí tuệ thông minh bậc nhứt, được
vua Chuyển luân Thánh vương phong cho chức Quốc sư. Còn thân mẫu ngài là dòng
sát đế lợi, nhan sắc tuyệt vời, tánh tình hòa nhã, đức độ hiền từ. Từ khi ngài
giáng sinh rồi, trải qua một thời gian đến lúc trưởng thành. Ngài quán sát thấy
tất cả chúng sanh trong tam giới, đều bị cảnh ngũ dục lôi kéo, nên bị đắm chìm
trong biển sanh tử, rất đáng thương xót! Ngào liền phát đại nguyện tìm phương
pháp cứu vớt hết tảy chúng sanh thoát vòng khổ não.
Ngài liền xin phép song thân đi
xuất gia tu hành. Rồi ngài đến ngồi dưới gốc cây Long hoa. Cây nầy cành lá sum
sê và cao lớn, che phủ tứ phía như cây Bồ đề của đức Phật Thích ca. ngài ngồi
thiền định, biết hết thảy các pháp đều sanh diệt vô thường. Ngài dùng Kim Cang
trí, trừ sạch hết vi tế vô minh chứng đạo bô thượng bồ đề. Lúc bấy giờ ngài đến
núi Kê túc để nhận lãnh y bát của Ðức Phật Thích ca, do ngài Ma ha Ca diếp cất
giữ để truyền lại.
Lãnh y bát xong, đức Di Lặc tán
thán Phật Thích ca ở đời ngũ trược ác thế, mà đã từng giáo hóa độ vô số chúng
sanh. Ngài lại tán thán ông Ma ha Ca diếp là bậc tinh tấn tu hành thứ nhứt và
đã cảm hóa rất nhiều chúng sanh phát tâm bồ đề.
Ðức Di Lặc thuyết pháp độ sanh dưới
cây Long hoa chia làm ba hội: hội thứ nhứt độ được chín mươi sáu ức người thành
a la hán, hội thứ hai độ được chín mươi bốn ức người thành A la hán, hội thứ ba
độ được chín mươi hai ức người thành a la hán, thế nên gọi là “Long hoa tam
hội”.
Sau khi ngài Di Lặc nhập diệt, chư thiên và các vị chuyển luân thánh vương
thỉnh xá lợi ngàu xây 81.000 bảo tháp cùng khắp trong thiên hạ để thờ (kinh Di
Lặc hạ sanh thành Phật, nói về Ðức Di Lặc và Hội Long Hoa, của Tâm Chính, trang
56)
Do vậy, trong giới thiền lâm xưa
nay chư Tôn đức Tăng Ni Trụ trì thường cử hành lễ vía Ngài Di Lặc Tôn Phật vào
ngày mùng Một tháng Giêng theo thuyết trên.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ
Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Ðộ Hàm
Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.