T.W.
RHYS DAVIDS
(1843-1922)
Thomas
Williams Rhys Davids sinh ngày 12-5- 1843 tại Colchester
(Anh quốc), con của mục sư T.W. Davids. Ðầu tiên, ông theo học Phạn ngữ
(Sanskrit) với giáo sư Stenzler tại trường đại học Breslau
ở Ðức, và tốt nghiệp cấp bằng Tiến sĩ Triết Học (Ph.D). Năm 1864, ông được bổ
nhiệm giữ chức Dân sự (Civil Service) tại Tích Lan, một quốc gia theo Phật
Giáo. Nhờ sẵn có kiến thức về ngữ học đã giúp giáo sư bấy giờ nghiên cứu dễ
dàng hai thứ tiếng Tamil (miền nam Ấn Ðộ) và Sinhalese (Tích Lan).
Nhân cơ hội ông được đề cử giữ
chức thẩm phán tại Tích Lan để xét xử vụ kiện liên can đến một ngôi chùa làng,
và dính líu đến luật giới của Phật Giáo, qua các văn kiện trình bày viết bằng
thứ ngôn ngữ mà bấy giờ ở tòa án không ai đọc hiểu được, như học giả I.B.
Horner (1896-1981) đã cho biết rằng: “Tài
liệu trên gồm có đoạn trích dẫn từ Luật Tạng (Vi- naya Pitaka) và chính điều ấy
khiến cho Rhys Davids quyết tâm nghiên cứu về thứ tiếng xa lạ này”.
Ngôn ngữ khó hiểu đó là tiếng
Pali, thánh ngữ của Phật Giáo mà về sau Rhys Davids đã theo học với nhà sư kiêm
học giả Tích Lan, Yatramulle Unnanse. Dưới sự chỉ giáo của vị đại sư này, sau
một thời gian học tập, Rhys Davids đã học hiểu thông suốt tiếng Pali, và có thể
thực hiện những công tác khảo cổ. Giáo sư sao chép lại các bản kinh Phật, khảo
cứu về thánh tích Anuradhapura, cựu kinh đô của Tích Lan, và bắt đầu nghiên cứu
lịch sử Phật Giáo Tích Lan.
Năm 1872, vì bất đồng ý kiến với
nhân viên cao cấp của chính quyền bấy giờ, ông xin thôi chức vụ Dân sự Tích
Lan, và trở về Anh quốc. Tại đây, ông đã dành hết thì giờ cho công cuộc nghiên
cứu và truyền bá Phật Giáo. Năm 1875, tạp chí của Hội Hoàng Gia Á Châu (Journal of the Royal Asiatic So- ciety),
xuất bản tại Luân Ðôn (London), lần đầu tiên đăng tải những bài khảo cứu giá
trị của giáo sư như: “Các bia ký của vua Paràkrama Bàhu” (Inscriptions of Paràkrama Bàhu);
“Sigiri, núi đá Sư tử” (Sigiri, the Lion
Rock) và “Hai bia ký cổ xưa tiếng Sinhalese” (Two Old Sinhalese Inscriptions), đã
giúp Rhys Davids nhanh chóng trở thành một học giả Pali nổi tiếng bấy giờ.
Mặc dù trong lúc đi khảo sát
nghiên cứu, sống giữa các khu rừng Tích Lan, bị hành hạ vì bệnh sốt rét, giáo
sư vẫn không ngừng cố gắng nhẫn nại học hỏi, đào sâu, tìm hiểu thấu đáo về lịch
sử Phật Giáo, qua thánh ngữ Pali.
Thành Lập Hội Phiên Dịch Thánh
Ðiển Pali, Hàn Lâm Viện, và Hội Phật Giáo Anh Quốc
Năm 1881, giáo sư Rhys Davids
đứng ra thành lập đầu tiên Hội Phiên Dịch Kinh Tạng Pali (The Pali Text Society) tại Luân Ðôn, và
ông giữ chức chủ tịch, với sự tham gia của nhiều học giả Ðông lẫn Tây Phương
như Viggo Fausboll (Ðan Mạch): 1824-1908; Hermann Oldenberg (Ðức): 1854-
1920; Emile Senart (Pháp):
1847-1928 và Richard Morris. Vào lúc ấy, Hội nhận sự tài trợ của những cá nhân
hảo tâm, các nhà Ðông Phương học, cơ sở giáo dục và các trường đại học danh
tiếng khắp nơi trên thế giới. Những học giả Pali của nhiều quốc gia đã tình
nguyện đóng góp không nhận thù lao cho mọi công tác chú giải, dịch thuật ra Anh
văn các kinh luận Phật Giáo Pali. Hầu hết mọi việc của Hội bấy giờ đều do giáo
sư Rhys Davids trông coi, điều khiển cho đến năm 1894 ông kết hôn với cô
Caroline Augusta Foley (36 tuổi) là người mà về sau đã chia xẻ, giúp đỡ cho ông
rất nhiều trong việc phát triển Hội cũng như dịch thuật kinh tạng Pali. Hội này
hiện vẫn còn duy trì, hoạt động tại Anh quốc.
Năm 1882, Rhys Davids được mời
làm giáo sư dạy Pali và văn học Phật giáo tại đại học College ở Luân Ðôn; làm
tổng thư ký và quản thủ thư viện (1885-1904) cho Hội Hoàng Gia Á Châu. Tiếp
đến, ông đứng ra thành lập Hàn Lâm Viện Anh Quốc (British Academy), cùng trường
Nghiên cứu về Ðông Phương và Phi Châu tại Luân Ðôn (London School of Oriental and African Studies).
Năm 1904, học giả Rhys Davids
được bổ nhiệm làm giáo sư môn Tôn giáo Tỷ giảo (Comparative Religion) tại đại
học Victoria, Manchester (Anh quốc). Năm 1907, ông thành
lập “Hội Phật Giáo Anh quốc và Ái Nhĩ Lan” (The
Buddhist So-ciety of Great Britain
and Ireland),
và được bầu làm Hội trưởng đầu tiên.
Công trình văn hóa: Trước tác,
phiên dịch Kinh Tạng Pali
Giáo sư Rhys Davids đã phiên âm
tiếng Pali theo mẫu tự La Tinh (Romanized Pali) những kinh sách Phật Giáo dưới
đây:
- 1884: Abhidhamma Sangaha (Compendium of Philoso- phy) hay Thắng
Pháp Tập Yếu Luận. Ðây là tác phẩm trình bày về khoa tâm lý và đạo đức Phật
Giáo do Ðại Ðức Anu- ruddha viết bằng tiếng Pali tại chùa Mulasoma ở Tích Lan
vào khoảng cuối thế kỷ thứ 11 hay đầu thế kỷ 12 sau tây lịch.
- 1884: Dàthavamsa (The History of Buddha’s Tooth): Lịch sử
Răng của đức Phật.
- 1886: Sumangàla-Visàlini Vol.
I (Commentary to the Dialogues of the
Buddha): Bộ Sớ Giải về Trường Bộ Kinh của ngài Phật Minh
(Buddhaghosa), Tập I (chung soạn với J.E. Carpenter)
- 1889: Digha Nikàya Vol. I (Dialogues of the Buddha): Trường Bộ
Kinh, tập I (chung soạn vói J.E. Carpenter) thuộc Sutta Pitaka (Basket of Discourses) hay Kinh Tạng tái
bản năm 1975.
- 1903: Digha Nikàya Vol. II (Dialogues of the Buddha): Trường Bộ
Kinh, tập II (chung soạn với J.E.
Carpenter) thuộc Kinh Tạng, tái bản năm 1982.
Giáo sư cũng dịch từ nguyên bản
tiếng Pali ra Anh văn các bộ kinh luật dưới đây:
- 1880: Introductory Essay of
the Buddha’s History (Jàtaka Nidànakathà):
Giới thiệu về lịch sử đức Phật. Sau này giáo sư M. Viggo Fausboll (1821-1908),
nhà Phật Học
Ðan Mạch (Denmark) đã cho
in thành sách với tựa đề “The Buddhist Birth Stories or Jataka Tales” (Những Mẫu Chuyện Tiền Thân Ðức Phật).
- 1881: Buddhist Scriptures (Buddhist Suttas): Những bài kinh Phật,
được xuất bản thành tập (Vol.) XI trong bộ (Se- ries) “Thánh Thư của Ðông Phương” (The Sacred
Books of the East, viết tắt là SBE) dưới sự chủ biên của giáo sư Max Muller
(1823-1900), nhà Phật Học người Anh gốc Ðức.
- 1881-1885: The Buddhist
Monastic Rules (Pàtimok- kha):
Giới Bổn; Greater Section (Mahavagga):
Ðại Phẩm và Shorter Section (Cullavagga):
Tiểu Phẩm thuộc Vinaya Pitaka (Basket of
Discipline) hay Luật Tạng, với sự cộng tác của giáo sư người Ðức,
Herman Oldenberg (1854-1920) và được in thành các tập (Vols) XIII, XVIII và XX
trong bộ “Thánh Thư của Ðông Phương”
(S.B.E.)
- 1890-1894: The Questions of
King Milinda (Milindapan- ho):
Na Tiên Tỳ Kheo Kinh, được ấn hành trong hai tập (Vols) XXXV và XXXVI trong bộ
“Thánh Thư của Ðông Phương”
(S.B.E.). Dịch phẩm này được tái bản tại Hoa Kỳ năm 1965.
- 1899: Dialogues of the Buddha
Vol. I (Digha Nikàya): Trường
Bộ Kinh, tập I, do Hội Phiên Dịch Kinh Tạng Pali ( Pali Text Society), với sự
tài trợ của vua Thái Lan Chu- lalongkorn (1868-1910) in thành tập 2 trong bộ
(Series) “Thánh Thư của Phật Tử”
(Sacred Books of the Buddhists, viết tắt là S.B.B.).
- 1910: Sau đó Hội cho xuất bản
tiếp Dialogues of the Buddha Vol. II (Trường
Bộ Kinh), tập II, in thành tập 3 trong bộ “Thánh Thư của Phật Tử” (S.B.B.). Cuốn
này giáo sư dịch chung với bà Rhys Davids.
Ngoài ra, giáo sư cũng là bút
giả của những tác phẩm dưới đây:
- 1877: The Ancient Coins and
Measures of Ceylon (Tiền Tệ và sự đo
lường thời xưa của Tích Lan).
- 1878: Manual of Buddhism (Phật Giáo Khái Luận) do Hội Truyền Bá
Kiến Thức Thiên Chúa Giáo (Society for
Pro- moting Christian Knowledge) ấn hành, và đến năm 1914, tác phẩm
này đã tái bản lần thứ hai mươi ba.
- 1896: Persecution of Buddhists
in India
(Sự Ngược Ðãi Phật Giáo tại Ấn Ðộ).
- 1896 và 1909: Abbreviations of
Titles of Pali Books (Lược tóm các kinh
sách tiếng Pali).
- 1901: Political Division of
India (Sự Phân Chia Chính Trị tại Ấn Ðộ).
- 1908: Early Buddhism (Phật Giáo Nguyên Thủy)
- 1919: Cosmic Law in Ancient
Thought (Luật vũ Trụ trong Tư Tưởng Cổ
Thời).
- 1923: What Has Buddhism
derived from Christianity (Phật Giáo đã
thu nhận được gì từ Thiên Chúa Giáo).
Giáo sư Rhys Davids còn soạn
chung với học giả người Anh gốc Ðức William F. Stede (1882-1958) cuốn Tự Ðiển
Pali- Anh (Pali-English Dictionary)
dày 738 trang, xuất bản lần đầu tiên tại Luân Ðôn (Anh quốc) vào những năm
1921-1925 và được tái bản bốn lần vào những năm 1949, 1952, 1959, và 1966.
Viếng thăm Hoa Kỳ và Ấn Ðộ
Năm 1894-1895, ông bà giáo sư
Rhys Davids sang thăm Hoa Kỳ, và ông ta được mời thuyết giảng sáu lần tại Ðại
học Cornell (New York).
Những bài thuyết trình đó của ông sau này được in thành sách, mang tựa đề:
“Lịch sử và Văn Học Phật Giáo” (The
History and Literature of Buddhism) và xuất bản tại New york năm 1896.
Năm 1899-1900, lần đầu tiên giáo
sư Rhys Davids hành hương qua chiêm bái Bồ Ðề Ðạo Tràng (Buddha Gaya), thuộc
tiểu bang Bihar (miền đông bắc Ấn độ), nơi xưa kia đức Phật đã thành đạo; và
nhiều thánh tích Phật Giáo khác. Kết quả của chuyến đi này là tác phẩm của ông
viết về “Phật Giáo Ấn Ðộ” (Buddhist India)
được ấn hành năm 1903; và đến năm 1959, đã tái bản lần thứ tám.
Những năm cuối cùng
Năm 1915, Rhys Davids xin nghỉ
dạy đại học ở Manchester, và dọn đến ở luôn tại Chipstead, quận Surrey, miền
đông nam nước Anh. Trong thời gian này, như Dr. I. B. Horner cho biết: “Ông sống cuộc đời yên tĩnh của một học giả, thường
hay đau, nhưng vẫn làm việc cho đến gần hết đời người; không từ bỏ đánh gôn và
các trò chơi khác, trong nhà cũng như ngoài trời, mà chúng đã giúp cho sức khỏe
của ông từ lâu...”
Vào những năm cuối cùng, với
tuổi già sức yếu, giáo sư Rhys Davids vẫn còn tiếp soạn cuốn tự điển Pali-Anh (Pali- English Dicitonary) mà ông đã sưu
tập tài liệu, nghiên cứu trong suốt 40 năm, với sự cộng tác của nhà ngữ học nổi
tiếng, Dr. Wil- liam F. Stede (1882-1958), người Anh gốc Ðức. Phần đầu cuốn tự
điển được xuất bản năm 1921; và ít lâu sau khi ấn hành phần 3 của cuốn tự điển,
thì rất tiếc, vì bịnh sưng phổi tái phát hoành hành, ông đã từ trần ngày
27-12-1922, hưởng thọ 80 tuổi.
Sự vĩnh viễn ra đi của học giả
Rhys Davids bấy giờ là một mất mát to lớn không riêng cho dân tộc nước Anh mà
cả toàn Phật tử khắp nơi trên thế giới. Công trình đóng góp vĩ đại cho sự
truyền bá, phát triển Phật Giáo tại Tây Phương, qua việc phiên dịch kinh tạng
Pali ra Anh văn của ông; các học giả Phật tử Châu Âu đã so sánh chẳng khác gì
những công tác phiên dịch tam tạng kinh đại thừa Phật Giáo từ Phạn ngữ
(Sanskrit) ra chữ Hán và Tây Tạng của những đại pháp sư, học giả Trung Hoa, Tây
Tạng danh tiếng đã làm trong quá khứ như ngài Huyền Trang, Cưu Ma La Thập, và
Thon-mi Sambhora v.. v..
Sự ngưỡng mộ của các nhà Phật
Học thế giới
Qua nhiều năm cộng tác làm việc,
sau khi nghe tin Rhys Davids từ trần, để tỏ lòng tôn kính của mình, Dr. Willam
F. Stede đã viết: “Sự liên hệ giữa tôi và
Rhys Davids, không có ai, ngoại trừ tôi và giáo sư biết rõ. Ðiều tôi nhớ nghĩ
đến giáo sư là những giờ phút tôi ngồi bên cạnh giải bày với giáo sư những khó
khăn của tôi... Tâm trí tôi sẽ giữ mãi hình ảnh của giáo sư, và tôi luôn luôn
tưởng nhớ đến giáo sư như một thiện hữu trí thức của tôi...”
Moritz Winternitz (1863-1937),
người Áo (Austria), giáo sư đại học Prague (Tiệp Khắc) đã bày tỏ: “Trong quá khứ, chưa có ai đã sống, và đóng góp
nhiều cho sự hiểu biết về Phật giáo và nền văn học Phật giáo như Rhys Davids.
Tên tuổi của giáo sư sẽ luôn luôn được mọi người ghi nhớ như một học giả chân
thành và nhiệt tâm; còn đối với người may mắn có dịp đích thân tiếp xúc với
Rhys Davids, sẽ mãi nhớ giáo sư như một người bạn lành đáng mến; một Phật tử
đúng với ý nghĩa chân chính của danh từ này”.
Charles R. Lanman (1850-1941),
người Mỹ, giáo sự đại học Harvard (Hoa Kỳ) đã phát biểu: “Tôi phải nói rằng chúng ta đã vô cùng mang ơn đối
với sự kiên nhẫn đầy can đảm của học giả Rhys Davids, trải qua nhiều năm huy
hoàng và sóng gió, giáo sư đã chú tâm vào công tác vĩ đại mà giờ đây nó đã trở
thành hiện thực; và sự quan trọng cùng giá trị của nó mà giáo sư đã nhìn thấy
xa trước khi những học giả khác có thể biết đến...”
Giáo sư S.
Tachibana của Nhật bản đã viết: “Giáo sư Rhys Davids đã dành hết phần lớn đời mình vào sự truyền bá
Phật Giáo ở Tây Phương, và tất cả mọi người đều biết tiên sanh đã hành động
nhiều ra sao cho đạo nghiệp ấy. Sự đóng góp của ông thật to lớn hơn bất cứ học
giả nào khác”.
Dr. K.N. Sitaram của Ấn Ðộ đã
nói: “Giáo sư Rhys Da- vids đã thực hiện
nhiều hơn bất cứ học giả nào khác trong sự truyền bá kiến thức về tôn giáo, và
giáo lý của một trong những người con vĩ đại nhất của mẫu quốc Ấn Ðộ”.
Giáo sư P. Maung Tin của Miến
điện đã phát biểu: “Với tôi, những công
trình của Rhys Davids là một nguồn vui và khích lệ. Tên tuổi của ông sẽ được
mọi người nhắc đến; và ghi nhớ mãi, với lòng tôn kính và ngưỡng mộ nhiều hơn so
với các học giả khác”.
Và sau hết, Dr. W.A. de Silva
của Tích Lan đã bày tỏ: “Rhys Davids
không chỉ là nhà học giả lỗi lạc, mà giáo sư còn là một nhân vật đã truyền bá
cho thế giới giáo pháp của đức Thế Tôn. Và dân chúng Tích Lan đã tìm thấy nơi
giáo sư con người không chỉ mến yêu hải đảo và người dân Tích Lan (Sinhalese);
mà còn có thể trình bày trước thế giới điều tốt đẹp nhất mà chúng ta chưa từng
thấy trong lịch sử của chúng ta”.