Bắc truyền
Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm - Kinh Lịch Sử Đức Phật
(Cũng có tên là Thần Thông Du Hý)
31/12/2556 20:30 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

KINH PHƯƠNG QUẢNG ĐẠI TRANG NGHIÊM

Hán dịch: Đời Đường, Đại sư Địa-bà-ha-la, người xứ Trung Thiên trúc

Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN X

Phẩm 24: THƯƠNG NHÂN ĐƯỢC PHẬT THỌ KÝ

        Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

        -Thế Tôn lúc mới thành Bậc Chánh Giác, vô lượng chư Thiên khắp cõi đều đến ca ngợi công đức của Như Lai. Lúc bấy giờ Thế Tôn luôn quán tưởng cây Bồ-đề lớn nhất ấy, mắt không lúc nào rời, lấy niềm vui thiền định làm món ăn, không nghĩ tới chuyện ăn uống, sut trong bảy ngày không rời khỏi chỗ ngồi. Vô lượng vị Thiên tử của các cõi trời Dục giới bưng mười ngàn bình quý đựng nước thơm đến chỗ Phật, lại có vô lượng các vị Thiên tử ở các cõi trời sắc giới cũng bưng mười ngàn chiếc bình quý đựng đầy nước thơm đến chỗ Phật, tất cả nước thơm ấy dùng để Như Lai tắm rửa cùng rưới trên cây Bồ-đề.

        Khi Như Lai tắm rửa xong, có vô s Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già... tranh nhau lấy thứ nước tắm của Như Lai để tẩy rửa thân mình. Sau khi tắm xong, tất cả đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, còn chư Thiên sau khi làm nhiệm vụ xong đều trở về Thiên cung, hơi thơm của nước đem cúng dường Phật còn lưu mãi nơi thân khiến họ chỉ còn nghe mùi hương của Phật chứ không còn nghe mùi thơm nào khác, tất cả đều sinh tâm hoan hỷ cho là việc chưa từng có, đạt Bất thoái chuyển đối với đạo Vô thượng Bồ-đề.

        Lúc đó có vị Thiên tử tên Phổ Hoa từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ ngang chân Phật và thưa:

        -Bạch Thế Tôn, Ngài đã an trụ vào pháp Tam-muội gì mà trải qua bảy ngày ngồi kiết già nhập định thân tâm bất động?

        Này các vị Tỳ-kheo, lúc ấy Ta đã đáp lời của Thiên tử Phổ Hoa:

        -Như Lai đã dùng Hỷ duyệt tam-muội làm tư lương thực mà an trụ, do diệu lực của pháp định ấy mà trải qua bảy ngày ngồi kiết già nhập định như vậy.

        Lúc ấy Thiên tử Phổ Hoa đứng phía trước Phật đọc bài kệ:

        Thế Tôn chân có ngàn vòng tròn

        Ví như hoa sen rất thanh tịnh

        Thường được chư Thiên luôn tôn quý

        Vì thếcon nay xin lễ kính.

        Bấy giờ Thiên tử lễ Phật xong

        Lại dùng Già-tha để tán dương.

        Vì muốn trời người khỏi nghi ngờ        

        Hoan hỷ chắp tay đến thưa hỏi

        Như Lai giáng sinh dòng vương Thích

        Khiến cho Thích tộc đều mừng vui

        Năng diệt ba độc cùng nghi hoặc

        Xin giải chỗ ngờ của Thiên nhân

        Do mười lực nào thành Chánh giác

        Trải qua bảy ngày quán cây to

        Mắt sen xanh Bậc Sư Tử chúa

        Kiết già quán cây không chuyển dời

        Tất cả chư Phật đều như vậy

        Hay riêng Thế Tôn quán cây kia

        Diên mạo đoan nghiêm không cất tiếng

        Răng trắng đều đặn, miệng ngát hương

        Xin vì lợi ích của trời người

        Khiến sinh hoan hỷ rõ sự thật.

        Bấy giờ Như Lai đáp Thiên tử

        Ta nay lược nói điều ông hỏi

        Cũng như phép nước lên ngôi vua

        Phải qua bảy ngày lo dời đổi

        Chư Phật là Bậc Đại Pháp Vương

        Thuận thế bảy ngày không chuyển dịch

        Lại như dũng tướng tự giữ mình

        Sau mới nghĩ mưu để thắng nhân

        Chư Phật hàng ma cũng như thê'

        Bảy ngày kiết già không khởi thân

        Ngã mạn, ba độc cùng phiền não

        Là những thứ tổn hại muôn loài

        Tất cả nhân hữu lậu phiền não

        Với chúng, Ta đều đã trừ tận

        Lửa trí vô lậu từ đó khởi

        Đốt cháy sạch hết ba thứ độc

        Ta ở nơi này dùng dao trí

        Quyết phá Lưới sinh tử dày chắc

        Hiểu đúng uẩn thân đều không thật

        Đều do mê vọng từ vô thủy

        Chấp ngã, ngã sở hai vô minh

        Cùng với tà kiến đều đoạn tận

        Bốn điên đảo như rừng chướng ngại

        Căn lành, lửa trí thiêu đốt hết

        Vọng chấp tham đắm từ tưởng sinh

        Đạt đến giác ngộ đều trừ bỏ

        Sáu mươi lăm thứ vô minh hiểm

        Bốn mươi bất thiện, ba mươi cấu

        Mười sáu buông lung, mười tám giới

        Hai mươi lăm hữu đều diệt tận

        Hai mươi trần cấu đều lìa xa

        Hai mươi tám thứ đời luôn sợ

        Ta  nơi đây luôn tinh tấn

        Tất cả Ta đều đã vượt qua

        Chứng đắc năm trăm pháp âm Phật

        Cùng đạt viên mãn trăm ngàn pháp

        Chín mươi tám sử, các tùy miên

        Là lá, là cành, là tội gốc

        Ta dùng trí tuệ làm lửa hồng

        Thiêu đốt cháy tan bao nhiêu thứ

        Ái, nghi tích chứa như sng cuộn

        Dòng nước kiến chấp thường đầy tràn

        Ta ở đây dùng mặt trời trí

        Ánh sáng nung chiếu đều cạn khô

        Tà ngụy, ác hiểm bao tật xấu

        Rừng phiền não lỗi lầm như vậy

        Ta ở nơi đây dùng lửa trí

        Thiêu sạch tất cả thành tan hoang

        Phỉ báng Thánh hiền gây bao tội

        Là gốc đưa đến đọa cõi ác

        Ta dùng thuốc trí tuệ trị liệu

        Khiến mọi độc ác nôn ra sạch.

        Ta ngồi ở nơi này

        Đạt định tuệ công đức

        Mọi khổ não lo buồn

        Trừ diệt không còn sót

        Cũng chính ở nơi này

        Ta đạt lý chân thật

        Mọi tên độc ngã mạn

        Nhổ sạch không hề sót

        Cũng chính ở nơi này

        Dùng đao bén trí tuệ

        Cắt đứt ngã, ngã sở

        Cội rễ của tử sinh

        Cũng như trời Đế Thích

        Đánh phá đám Tu-la

        Cũng chính ở nơi này

        Đạt trí nhãn thanh tịnh

        Mà muôn loài chúng sinh

        Bị mê mờ che lấp

        Ta dùng thuốc trí tuệ

        Rửa sạch mọi mê lầm

        Cũng chính ở nơi này

        Dùng nước trong giải thoát

        Tưới rừng cây khắp nơi

        Khói lửa tham đều tắt

        Cũng chính ở nơi này

        Dùng gió đại tinh tấn

        Xua tan mây phiền não

        Cùng sấm chớp phân biệt

        Cũng chính ở nơi này

        Đạt pháp Từ tam-muội

        Mọi kho chứa công đức

        Hàng phục đám ma quân

        Cũng chính ở nơi này

        Đạt được định vô nguyện

        Kho chứa công đức lớn

        Dứt sạch mọi phiền não

        Cũng chính ở nơi này

        Đạt được pháp định Không

        Trừ hết mọi phân biệt

        Đạt dược định Vô tướng

        Kho tàng của công đức

        Diệt trừ mọi hý luận

        Cũng chính ở nơi này

        Kho chứa mọi công đức

        Cũng chính ở nơi này

        Đạt được ba giải thoát

        Sức thần thông trí tuệ

        Phá tan lưới tử sinh

        Ta cũng dứt sạch hết

        Vô thường tưởng là thường

        Đời khổ tưởng là vui

        Vô ngã tưởng là ngã

        Ta dùng lực tinh tấn

        Đưa qua biển sinh tử

        Phá trừ mọi lưới ái

        Ví như cá Ma-kiệt

        Ta ở đây giác ngộ

        Rõ mọtham, sân, sỉ

        Ví như đám lửa lớn

        Thiêu đốt đám phù du

        Ta ở trong đêm dài

        Vô lượng vô biên kiếp

        Đường sinh tử nhọc nhằn

        Xoay vòng không ngừng nghỉ

        Nay đã được dừng dứt

        Hết mọi nỗi lo sợ

        Những điều ta giác ngộ

        Ngoại đạo nào vươn tới

        Từng câu, nghĩa cam lộ

        Năng dứt bao ưu não

        Ta vào thành vô úy

        Trừ hết giới, xứ, uẩn

        Mọi tham ái đã tận

        Không còn thọ thân sau

        Ta vì đạo giác ngộ .

        Nơi vô lượng ức kiếp

        Làm tất cả hạnh lành

        Thí cả đến thân mình

        Công đức đều viên mãn

        Cho nên ở nơi này

        Đạt pháp thắng cam lộ

        Bồ-đề vô thượng giác

        Phật Như Lai quá khứ

        Chứng đắc pháp chân thật

        Tùy căn cơ chúng sinh

        Phân biệt truyền giảng pháp

        Ta nay cũng như vậy

        Đắc pháp diệu chẳng khác

        Chỉ trong một sát-na

        Biết rõ khắp thế gian

        Nhân duyên hòa hợp sinh

        Không tịch giả hợp có

        Như thành Càn-thát-bà

        Như ảo ảnh trên không

        Pháp nhãn ta đạt được

        Thấy suốt khắp mọi nơi

        Như thể nhìn bàn tay

        Cầm quả A-ma-lặc

        Pháp Tam-muội ta đạt

        Thông tỏ hết tất cả

        Nhớ rõ vô lượng kiếp

        Như từ mộng choàng tỉnh

        Mọi người trời các cõi

        Bị tưởng điên đảo thiêu

        Ta chính ở nơi này

        Thấu tỏ mọi sự thật

        Ta từ vô lượng kiếp

        Cầu vô thượng Bồ-đề

        Tu tập hạnh đại Từ

        Tâm Từ duyên các pháp

        Hàng phục đám ma quân

        Ta từ vô lượng kiếp

        Tu tập hạnh đại Bi

        Tâm Bi duyên các pháp

        Trừ sạch mọi lo phiền

        Ta từ vô lượng kiếp

        Tu tập hạnh đại Hỷ

        Tâm Hỷ duyên các pháp

        Chứng đắc đạo vô thượng

        Ta từ vô lượng kiếp

        Cầu vô thượng Bồ-đề

        Tu tập hạnh đại Xả

        Tâm Xả duyên các pháp

        Chứng đắc pháp cam lộ

        Ta đối trước ma quân

        Phát thệ nguyện như vầy

        Nếu chẳng thành Phật quả

        Quyết không rời tòa này

        Ta dùng trí kim cang

        Phá trừ vô minh ám

        Đạt đủ mười loại lực

        Nơi tòa này nay hiểu

        Chưa đạt nay đều đạt

        Các lậu vắng sạch hết

        Quân ma cũng tận trừ

        Nơi tòa này nay rõ

        Cửa năm uẩn phá tan

        Mầm ba ái đều diệt

        Do vậy mà hiện nay

        Mới ngồi kiết già vậy.

        Bấy giờ Bậc Tối Thắng

        Từ tòa kim cang dậy

        Lại ngồi nơi bảo tòa

        Các trời dâng nước tắm

        Chư Thiên dùng bình báu

        Trong chứa đầy nước thơm

        Hiến Bậc Chúng Trung Tôn

        Tắm rửa khắp thân thể

        Lúc ấy chư Thiên chúng

        Cũng với nhiều Thiên nữ

        Tấu bao khúc nhạc trời

        Dốc lòng để dâng cúng

        y các vị Thiên tử

        Phải biết rõ như thế

        Ta trải qua bảy ngày

        Chẳng hề rời tòa ấy.

        Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

        -Vì sao lúc mới thành Bậc Chánh Giác suốt trong bảy ngày Như Lai không rời khỏi tòa ngồi? Vì Như Lai ngồi trên tòa ấy để đoạn trừ hoàn toàn vòng sinh, già, bệnh, chết nối tiếp nhau không đầu không cuối. Qua bảy ngày quán cây Bồ-đề không rời tòa, đến tuần thứ hai, Như Lai đã kinh hành trong khắp cõi Tam thiên đại thiên thế giới. Trong tuần thứ ba, Như Lai quan sát khắp Bồ-đề tràng, mắt không hề rời bỏ, cũng chính vì ở nơi đây Ta đã đoạn trừ sinh tử, chứng Tuệ giác Vô thượng. Trong tuần thứ tư, Như Lai kinh hành đến các vùng lân cận dọc theo bờ sông, lấy biển lớn làm giới hạn.

        Bấy giờ ma vương Ba-tuần đến chỗ Thế Tôn thưa:

        -Bạch Thế Tôn, Ngài đã trải qua vô lượng kiếp tinh cần tu khổ hạnh nay mới được thành Phật. Nay đã đúng lúc để Ngài nhập Niết-bàn. Cúi xin Như Lai mau nhập vào Niết-bàn. Cúi mong Bậc Thiện Thệ mau nhập Niết-bàn.

        Đức Phật nói:

        -Ba-tuần, Ta vốn phát đại nguyện mun làm lợi ích cho tất cả chúng sinh nên cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, trải qua vô lượng kiếp tinh cần gian khổ tích lũy bao công đức. Hiện tại tất cả chúng sinh đối với đạo pháp của Ta chưa đạt được lợi ích gì, sao ngươi lại xúi giục Ta nhập Niết-bàn? Hơn nữa trong thế gian này Tam bảo chưa có đủ, chúng sinh chưa được giáo hóa, thần thông cùng diệu pháp chưa được hiển bày truyền bá, vô lượng các vị Bồ-tát chưa có dịp để phát tâm Vô thượng Bồ-đề, sao ngươi lại hối thúc Ta sớm vào Niết-bàn?

        Lúc ấy ma vương Ba-tuần nghe Phật nói như vậy liền thoái lui đứng qua một bên, dùng gậy vạch xuống đất mà suy nghĩ, than thở:

        - trong cõi Dục giới này, từ nay trở đi ta là người chịu nhiều sầu khổ hơn ai hết.

        Lúc đó ba nàng con gái của ma vương thy cha sầu khổ liền hỏi:

        Đại vương do cớ gì

        Mà tâm cực sầu khổ?

        Nay khiến đại vương phiền

        Xin hỏi rõ là ai?

        Chúng con dùng dục kéo

        Như dùng dây dắt voi

        Khiến kẻ ấy tham đắm

        Đem về cung Tự tại.

        Ma vương đọc bài kệ trả lời các ma nữ:

        Thế gian chẳng hề nhiễm

        Cõi tham cũng không buộc

        Bậc ấy vượt mọi dục

        Vì thế ta buồn khổ.

        Ba nàng ma nữ này lúc Như Lai còn là Bồ-tát ngồi nơi tòa Bồ-đề đã đến và dùng mọi vẻ đẹp quấy nhiễu Bồ-tát, tạo ra vô số những trò huyễn hoặc mà chẳng được việc gì, nhưng vốn là hạng nữ nhân nặng nề đắm nhiễm, phiền não sâu nặng, nên lúc đó ba nàng đều tự biến dạng, một nàng hóa làm thanh nữ, một nàng hóa làm thiếu phụ, một nàng hóa làm một phụ nữ trung niên, cả ba cùng nhau đến chỗ Phật.

        Bấy giờ Đức Thế Tôn liền dùng diệu lực thần thông biến ba nàng ấy thành ba bà lão khiến chúng hổ thẹn vội lui về chỗ ma vương Ba-tuần nói kệ thưa:

        Cha nói người lìa dục

        Cõi tham không làm nhiễm

        Chúng con đã biến hóa

        Nhằm mê loạn Sa-môn

        Lắm kẻ thấy chúng con

        Lòng dục luôn dấy khởi

        Nay hiện sắc mỹ miệu

        Bậc ấy tâm chẳng động

        Dùng đại thần thông biến

        Chúng con thành bà lão

        Xin vương dùng uy lực

        Cho trở lại nguyên hình.

        Khi ấy ma vương đáp lời con:

        -Ta nhận thy không có ai dù là trời hay người có thể chế ngự được Phật. Các con phải tự mình đến nơi đó xin sám hối mọi tội lỗi trước nay của mình, mong Phật thư lại thần lực thì mới có thể trở lại thân hình cũ được.

        Ba nàng ma nữ vâng lời cha, đến chỗ Như Lai đọc bài kệ:

        Chúng con không trí tuệ

        Muốn mê hoặc Như Lai

        Chưa tường việc tốt xấu

        Chẳng rõ việc dữ lành

        Chúng con cùng sám hối

        Mong tội được tiêu trừ

        Cúi xin lực từ bi

        Cho hiện lại thân cũ.

        Lúc đó Như Lai vì lòng từ bi nên thu lại thần thông khiến ba ma nữ được trở lại thân hình như trước.

        Trong tuần lễ thứ năm, Như Lai trụ nơi chỗ ở của Mục-chân-lân^đà Long vương. Lúc ấy gió lạnh thổi dữ, mưa dầm suốt bảy ngày không ngớt, Long vương lo sợ gió mưa làm thương tổn Như Lai nên đã lìa khỏi cung của mình đến trước chỗ Phật, quấn thân mình thành bảy vòng quanh Phật để che chở, dùng đầu mình làm lọng che phủ phía trên đầu Phật, lại có vô lượng Long vương ở bốn phương cùng đến bảo vệ Phật. Thân của Long vương vòng cao rắn chắc như núi Tu-di. Khi đó các Long vương đều được uy lực và hào quang của Phật tác động nên thân tâm đều đạt được niềm an lạc chưa từng có.

        Qua bảy ngày mưa tạnh gió dừng, các Long vương cùng đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu theo phía tay phải ba vòng rồi trở về cung điện của mình.

        Vào tuần lễ thứ sáu, Thế Tôn đi dưới bóng cây Ni-câu-đà gần dòng sông Ni-liên là chốn có nhiều nhóm ngoại đạo. Các nhóm này đều đến làm quen, gần gũi thăm hỏi Thế Tôn trong bảy ngày mưa gió vừa qua có được an ổn, vui vẻ không.

        Đức Thế Tôn đọc bài kệ đáp:

        Tịch tĩnh mà biết đủ

        Tư duy nên chứng pháp

        Lợi ích cho chúng sinh

        Từ bthương tất cả

        Lìa xa mọi tội nhiễm

        Chẳng đắm việc thế gian

        Tâm dứt hẳn ngã mạn

        Đó là an lạc nhất.

        Vào tuần lễ thứ bảy, Thế Tôn đi vào rừng Đa diễn ngồi kiết già dưới một cội cây quán tưởng về chúng sinh đang bị nỗi khổ sinh, lão, bệnh, tử bức bách, rồi cất tiếng xướng kệ:

        Chúng sinh ở cõi thế

        Mãi bị năm dục thiêu

        Nên thường nhớ bỏ ái

        Vì ái làm tăng khổ.

        Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

        -Lúc bấy giờ có hai anh em người miền Bắc nước Thiên trúc, đều là chủ đoàn thương nhân, một người tên Đế-lý-phú-bà, còn người kia tên Bà-lý. Cả hai đều là người có trí tuệ, rất giỏi về việc kinh doanh làm ăn, tính tình hiền lành hòa nhã, khéo giao tiếp nên công việc buôn bán khấm khá dần và trở nên giàu có.

        Lúc đó hai anh em đang đưa năm trăm chiếc xe trâu kéo chở các hàng trân phẩm quý giá quay về quê cũ. Trong đoàn thương nhân có hai anh em lo việc điều khiển trâu kéo, một người tên Thiện Sinh, một người tên Danh Xứng. Hai anh em này rất thông thạo đường sá, biết rõ những chỗ an toàn hoặc hiểm trở, dùng cành hoa ưu-bát-la giơ lên cho trâu thấy mà đi, khỏi phải dùng roi gậy đánh đập. Đi đến Nhũ lâm, đường sá rất bằng phẳng nhưng chân một con trâu giẫm mạnh làm mặt đường bị lún khiến một càng xe bị gãy và cả đoàn xe năm trăm chiếc bị đùn lại bên đường, hai con trâu đi đầu cũng không chịu tiến tới, dùng roi gậy đánh mấy nó cũng chẳng chịu cất bước. Đoàn thương nhân đâm lo sợ, cùng nói với nhau:

        -Hai con trâu chẳng dám đi tới nữa, chắc hẳn có điều gì làm chúng kinh sợ chăng?

        Họ liền cử người cỡi ngựa cầm binh khí đi về phía trước thăm dò. Người này đi một lát rồi trở lại thưa với vị chủ đoàn:

        -Tôi đã đi tới phía trước xem xét kỹ nhưng chẳng thấy có gì là hiểm trở khó khăn, không rõ vì sao mà hai con trâu lại không chịu đi tiếp?

        Lúc đó vị thần giữ rừng hiện ra nói với đám thương nhân:

        -Các vị thương nhân chớ nên sợ hãi! Các ông ở trong đêm dài tối tăm mãi trôi lăn theo nẻo sinh tử, hôm nay các ông sắp được phúc lợi lớn. Vì sao mà ta nói thế? Vì có Đức Phật đã xuất hiện ở cõi đời này, mới thành Chánh giác đang an trụ trong khu rừng kia, chẳng ăn uống gì đã hơn bốn mươi chín ngày. Các ông nên đem các món ăn, nước uống đến để cúng dường Ngài.

        Hai vị điều khiển trâu liền cho xe tiến lên, hướng về phía có Đức Phật và cả đoàn xe cùng theo sau. Đi được một quảng đường, từ xa họ đã trông thy; Như Lai với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, hào quang từ thân chiếu sáng rực rỡ như mặt trời mới hiện. Đoàn thương nhân trông thấy Phật, đều tỏ ra cung kính cho là điều ít có, cùng bảo nhau:

        -Đây là Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương hay là trời Nhật Nguyệt hay là thần Núi, thần Sông?

        Lúc ấy Đức Thế Tôn liền đưa cao tấm ca-sa lên cho đám thương nhân trông thấy khi đó họ mới biết Như Lai là người xuất gia tu hành, nên họ đều sinh tâm hoan hỷ nói với nhau:

        -Theo pháp xuất gia thì ăn uống phải đúng lúc, vậy chúng ta nên sửa soạn các thứ ăn ngon quý như đề hồ, mật, sữa, cháo sữa... để kịp thời cúng dường.

        C đoàn khách buôn bày biện cấc thứ trai phẩm ăn uống xong liền cùng đến trước Như Lai, nhiễu quanh theo phía phải ba vòng rồi đứng sang một bên thưa:

        -Bạch Đức Thế Tôn, xin hãy thương xót chúng con mà nhận món cúng dường ít ỏi này.

        Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

        -Lúc sắp sửa thọ nhận trai phẩm cúng dường của đoàn thương nhân ấy, Như Lai liền suy nghĩ: “Chư Phật quá khứ đều dùng bình bát để thọ trai, còn ta nay dùng vật gì để nhận món ăn này”.

        Lập tức Tứ Thiên vương mỗi vị đem một bình bát vàng dâng lên Như Lai và thưa:

        -Cúi mong Thế Tôn nhận bát này của chúng con để đựng các món ăn cúng dường kia. Cúi xin Thế Tôn thương tưởng đến chúng con để cho trong cõi sinh tử này, chúng con gặp được nhiều an lạc.

        Lúc ấy Thế Tôn nói với bốn vị Thiên vương:

        -Pháp của hàng xut gia không được cùng nhận các bình bát vàng quý giá như thế, kể cả trường hợp bát làm bằng bảy món báu cũng không được nhận.

        Bấy giờ Tỳ-sa-môn Thiên vương ở phương Bắc nói với các vị Thiên vương kia:

        -Tôi nhớ lại thời xa xưa có vị Thiên tử Thanh Thân đem đến bốn cái bát làm bằng đá cho chúng ta, lại có vị Thiên tử tên Biến Quang tới bảo:

        -Không nên dùng cái bát ấy, cần phải tạo tháp thờ và cúng dường, bởi vì trong tương lai, khi có Đức Phật xuất hiện ở đời hiệu là Thích-ca Mâu-ni thì nên đem những bát này cúng dường vị Phật ấy. Vậy nay chính là lúc chúng ta đem những bát ấy cúng dường Phật.

        Các vị Thiên tử mỗi vị vội trở về Thiên cung, cùng với quyến thuộc mang theo chiếc bình bát bằng đá, dùng hương thơm xoa lên, đựng đầy các thứ thiên hoa, hòa tấu Thiên nhạc, cùng đến nơi chỗ Phật. Mỗi vị đều dâng bình lên Như Lai và thưa:

        -Bạch Thế Tôn, cúi xin Ngài thương xót nhận bình bát của chúng con để đựng các thức ăn của những thương nhân cúng dường. Cúi xin thương tưởng đến chúng con để chúng con thành bậc Pháp khí và được nhiều an lạc trong cõi sinh tử này.

        Bấy giờ Thế Tôn liền suy nghĩ: “Bn vị Thiên vương đã có tín tâm thanh tịnh cúng dường bình bát cho Ta nhưng Ta không thể nhận và giữ hết bốn chiếc bát. Tuy nhiên, nếu ta chỉ nhận bát của một vị thì những vị kia sẽ buồn lòng, vì vậy Ta nên nhận hết các bình bát ấy”. Đức Thế Tôn nhận bình bát của Bắc phương Tỳ-sa-môn Thiên vương và đọc bài kệ:

        Ông dâng Ta bát này

        Sẽ được pháp tối thượng

        Nay Ta thọ ông cúng

        Khiến ông đủ tuệ niệm.

        Đức Thế Tôn nhận bình bát của Đề-đầu-lại-trá Thiên vương và đọc bài kệ:

        Đem bát cúng Như Lai

        Niệm tuệ được tăng trưởng

        Nhiều đời được an vui

        Mau chứng thành Giác ngộ.

        Đức Thế Tôn nhận tiếp bình bát của Tỳ-lâu-bác-xoa Thiên vương và đọc bài kệ:

        Ta đem tâm thanh tịnh

        Nhận bát thanh tịnh này

        Khiến tâm ông trong lành

        Được trời người hiến cúng.

        Đức Thế Tôn lại nhận tiếp bình bát của Tỳ-lâu-lặc-xoa Thiên vương và đọc bài kệ:

        Như Lai giới thanh tịnh

        Bát ông dâng trọn lành

        Do tâm ông thuần khiết

        Được quả cũng sạch trong.

        Sau khi nhận bốn bình bát của các vị Thiên vương, Thế Tôn lần lượt đem đặt chồng lên nhau, rồi dùng tay phải ấn mạnh xuống hợp thành một bát, đường viền còn in rõ.

        By giờ Đức Như Lai nhớ nghĩ về việc quá khứ và đọc bài kệ:

        Ta xưa từng đem hoa đầy bát

        Cúng dường vô lượng chư Như Lai

        Nên nay được bốn vị Thiên vương

        Cúng ta bát thanh tịnh bền chắc.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Lúc ấy đoàn thương nhân cáo từ Phật rồi thúc đàn trâu kéo xe đi tiếp. Sáng sớm hôm sau, người lo việc chăn dắt trâu đi vắt sữa, sữa được vắt ra liền thành Đề hồ, người ấy cho là việc lạ, liền đem Đề hồ đó về thưa với vị thương chủ là sữa hôm nay mình vắt không hiểu sao đều biến thành Đề hồ cả, không rõ đây là việc lành hay dữ. Trong đoàn thương nhân có một người Bà-la-môn tính tình tham lam thưa với vị thương với chủ:

        -Đó là điềm chẳng lành, thứ đề hồ kia nên đem cho hết đi.

        Người thương chủ vốn có vị tổ xa xưa được sinh lên cõi trời Phạm thế, lúc đó hiện thân thành Bà-la-môn nói với đoàn thương nhân:

        Các ngươi từ xưa phát nguyện lớn

        Nếu Như Lai chứng đạo Bồ-đề

        Sẽ xin đem thức ăn dâng Phật

        Thọ thức ăn rồi chuyển pháp luân

        Nay Như Lai thành Bậc Chánh Giác

        Sở nguyện các ngươi cũng hoàn thành

        Thế Tôn đã nhận món ăn đó

        Sẽ chuyển bánh xe pháp vô thượng

        Sữa vắt hôm nay thành Đề hồ

        Chính do uy lực của Bậc Thánh

        Sáng sớm đã hiện ra điềm lành

        Do đó mọi việc đều tốt đẹp

        Phạm thiên nói xong bài kệ rồi

        Lại hiện nguyên hình về Phạm thế.

        Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

        -Lúc ấy những thương nhân nghe xong bài kệ rất vui mừng, lấy đề hồ đó rồi chọn thứ gạo tốt nhất nấu thành cháo nhuyễn, hòa thêm mật thơm, đựng đầy trong bát bằng Chiên-đàn trở lại rừng Đa diễn cúng dường Phật và thưa:

        -Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn thương xót chúng con mà nhận món ăn này.

        By giờ Thế Tôn nhận món ăn của những thương nhân. Sau khi độ xong, Ngài cầm bát bằng Chiên-đàn vốn rất quý giá làm bằng trăm ngàn thứ châu báu, ném lên không trung. Khi ấy có vị Phạm thiên tên Thiện Phạm đón lấy chiếc bát Chiên-đàn đem về Thiên cung xây tháp cúng dường. Tháp đó đến nay luôn được chư Thiên dâng hương hoa cúng dường không bao giờ dứt.

        Cùng lúc đó, Thế Tôn cũng chú nguyện cho đoàn thương nhân và nói bài kệ:

        Các ông sẽ gặp nhiều an lành

        Tài sản quý giá thêm sung mãn

        Muôn việc làm sẽ được an lành

        Cả đến thân mạng đều cũng vậy

        Của báu mong cầu tự nhiên đến

        Dùng vòng an lành đeo lên đầu

        Chư Thiên, tinh tú và Nhật Nguyệt

        Đế Thích Tứ vương theo hộ trì

        Nơi chốn đi đến đều bình yên

        Trở về cũng gặp nhiều may mắn

        Nhờ công đức cúng thức ăn này

        Về sau sẽ đắc quả Chánh giác

        Hiện là Vị Độ Tam Phần Phật

        Được thọ ký, thương nhân hoan hỷ.

        Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

        -Sau khi thành Chánh giác, đầu tiên Như Lai đã được hai vị thương chủ và những thương nhân cúng dường thức ăn và đã thọ ký cho họ như thế. Những thương nhân khi được Phật thọ ký đều nhận thy đây là việc chưa từng có nên đều cung kính chắp tay thưa:

        -Từ nay chúng con xin quy y Như Lai.

   
 

Trở lại

Tiêu điểm: