Bắc truyền
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
Hán Dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
23/07/2554 13:01 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
Mục lục
Xem toàn bộ

QUYỂN THỨ MƯỜI HAI

PHẨM TƯƠNG TỢ 
THỨ BA MƯƠI TÁM 
(Phần Dưới)

Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Những gì là tương tợ Bát nhã ba la mật?”

Đức Phật nói: “Có Thiện nam, thiện nữ nói sở hữu đắc Bát nhã ba la mật, đây là tương tợ Bát nhã ba la mật”.

Thiên Đế thưa: “Thế nào là thiện nam, thiện nữ nói hữu sở đắc Bát nhã ba la mật, đây là tương tợ Bát nhã ba la mật?”

Đức Phật nói: “Thiện nam, thiện nữ nói rằng sắc vô thường, thọ, tưởng, hành, thức vô thường, thật hành vậy là thật hành Bát nhã ba la mật. Người tu hành cầu sắc vô thường, cầu thọ, tưởng, hành, thức vô thường. Đây là thật hành tương tợ Bát nhã ba la mật.

Nói nhãn vô thường đến ý vô thường, nói sắc vô thường đến pháp vô thường, nói nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới vô thường đến ý thức giới, pháp giới, ý thức giới vô thường, nói địa chủng vô thường đến thức chủng vô thường, nói nhãn xúc vô thường đến ý xúc vô thường, nói nhãn xúc nhơn duyên sanh thọ vô thường đến ý xúc, nhơn duyên sanh thọ vô thường.

Như nói về vô thường, nói khổ, nói vô ngã cũng như vậy.

Lúc hành giả thật hành Đàn na ba la mật, vì sắc đến ý xúc, nhơn duyên, sanh thọ vô thường, khổ, vô ngã, có thể thật hành như vậy là thật hành Bát nhã ba la mật.

Như lúc thật hành Đàn na ba la mật, lúc thật hành Thi là ba la mật đến Bát nhã ba la mật, lúc thật hành tứ thiền đến tứ vô sắc định, lúc thật hành tứ niệm xứ đến nhứt thiết trí, cũng vì nói vô thường, khổ, vô ngã, có thể thật hành như vậy là thật hành Bát nhã ba la mật.

Nầy Kiều Thi Ca! Như trên đó gọi là tương tợ Bát nhã ba la mật.

 Lại nầy Kiều Thi Ca! Thuở vị lai, thiện nam, thiện nữ nói tương tợ Bát nhã ba la mật rằng các người tu hành Bát nhã ba la mật. Lúc tu hành Bát nhã ba la mật, các người sẽ được Sơ địa đến Thập địa. Với Thiền na đến Đàn na ba la mật cũng nói như vậy.

Nghe lời giải thuyết như trên, hành giả tương tợ hữu sở đắc, dùng tổng tướng tu Bát nhã ba la mật nầy. Đây gọi là tương tợ Bát nhã ba la mật.

Lại nầy Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ muốn nói Bát nhã ba la mật, bảo rằng các người tu hành Bát nhã ba la mật rồi sẽ hơn hàng Thanh văn, Bích Chi Phật. Đây gọi là nói tương tợ Bát nhã ba la mật.

Lại nầy Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ vì cầu Phật đạo, nên giải thuyết rằng các người tu hành Bát nhã ba la mật xong, sẽ nhập Bồ Tát vị, được vô sanh pháp nhẫn. Đã được vô sanh pháp nhẫn bèn trụ Bồ Tát thần thông, từ một Phật quốc đến một Phật quốc, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán chư Phật. Đây là giải thuyết tương tợ Bát nhã ba la mật.

Lại nầy Kiều Thi Ca! Vì cầu Phật đạo, thiện nam, thiện nữ giải thuyết rằng các người học Bát nhã ba la mật nầy, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, thời sẽ được vô lượng vô biên vô số công đức. Đây gọi là nói tương tợ Bát nhã ba la mật.

Lại nầy Kiều Thi Ca! Vì cầu Phật đạo, thiện nam, thiện nữ nói rằng như quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, tất cả công đức thiện căn từ sơ phát tâm đến thành Phật, đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Đây là giải thuyết tương tợ Bát nhã ba la mật”.

Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ vì cầu Phật đạo, thế nào là chẳng nói tương tợ Bát nhã ba la mật?”

Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu vì cầu Phật đạo, thiện nam, thiện nữ giải thuyết Bát nhã ba la mật như vầy: Nầy thiện nam tử! Nhà ngươi tu hành Bát nhã ba la mật chớ quán sắc vô thường.

Tại sao vậy? Vì sắc sác tánh rỗng không. Sắc tánh ấy chẳng phải pháp. Nếu chẳng phải pháp, thời gọi là Bát nhã ba la mật.

Trong Bát nhã ba la mật, sắc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường.

Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật, sắc còn bất khả đắc, huống là thường với vô thường.

Giải thuyết thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.

Giải thuyết như vậy thời gọi là chẳng nói tương tợ Bát nhã ba la mật.

Lại nầy Kiều Thi Ca! Vì cầu Phật đạo, thiện nam, thiện nữ nói rằng: Nhà ngươi tu hành Bát nhã ba la mật, đối với các pháp chớ có đi qua cũng chớ có đi lại.

Tại sao vậy?

Vì trong Bát nhã ba la mật, không có pháp gì qua được, đứng được. Bởi tất cả pháp tự tánh rỗng không. Tự tánh rỗng không là chẳng phải pháp. Nếu chẳng phải pháp thời tức là Bát nhã ba la mật.

Trong Bát nhã ba la mật không có pháp gì nhập được, xuất được, sanh được, diệt được.

Giải thuyết như vậy thời gọi là chẳng nói tương tợ Bát nhã ba la mật.

Nhẫn đến nói rộng như vậy trái hẳn với tương tợ, thời gọi là chẳng nói tương tợ Bát nhã ba la mật.

Nầy Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ phải nghĩa Bát nhã ba la mật như vậy.

Nếu nói nghĩa Bát nhã ba la mật như vậy, thời được công đức hơn trước.

Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có người giáo hóa tất ca chúng sanh trong Diêm Phù Đề, trong tứ thiên hạ, trong Tiểu thiên thế giới, trong Trung thiên thế giới, trong Đại thiên thế giới, nhẫn đến giáo hóa tất cả chúng sanh trong hằng sa quốc độ mười phương đều được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, quả Bích Chi Phật.

Ngài nghĩ thế nào, người nầy được phước nhiều chăng?”

Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Người nầy được phước rất nhiều”.

Đức Phật nói: “Vẫn không bằng thiện nam, thiện nữ đem nghĩa Bát nhã ba la mật nầy, dùng nhiều nhơn duyên vì người khác giải thuyết, khai thị, phân biệt cho họ hiểu biết. Bảo rằng các người đến lãnh thọ Bát nhã ba la mật nầy, siêng đọc siêng tụng, gảii thuyết, chánh ức niệm. Thật hành đúng như trong Bát nhã ba la mật đây nói.

Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật xuất sanh hàng Tu Đà Hoàn đến đạo Bích Chi Phật vậy.

Lại nầy Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ giáo hóa chúng sanh trong một Diêm Phù Đề nhẫn đến giáo chúng sanh trong hằng sa quốc độ mười phương, làm cho phát tâm Bồ đề nhẫn đến làm cho được bực bất thối chuyển, dầu được phước rất nhiều, nhưng vẫn không bằng người đem Bát nhã ba la mật giảng thuyết cho người khác, dùng những nhơn duyên khái thị, phân biệt cho họ được hiểu biết, bảo họ tu hành đúng như lời dạy trong Bát nhã ba la mật, sẽ được nhứt thiết trí và Vô thượng Bồ đề.

Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật xuất sanh những đại Bồ Tát sơ phát tâm, nhẫn đến xuất sanh những đại Bồ Tát bất thối chuyển.

Lại nầy Kiều Thi Ca! Chúng sanh trong một Diêm Phù Đề nhẫn đến trong hằng sa thế giới mười phương phát tâm cầu Vô thượng Bồ đề. Nếu có thiện nam, thiện nữ vì họ mà giảng rộng nghĩa Bát nhã ba la mật và khai thị, phân biệt cho họ được hiểu biết.

Có người vì một Bồ Tát bất thối chuyển mà diễn thuyết Bát nhã ba la mật và khai thị, phân biệt cho được hiểu biết, người nầy được phước rất nhiều.

Lại Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có chúng sanh tong một Diêm Phù Đề nhẫn đến trong hằng sa thế giới mười phương đều được bực bất thối chuyển. Có thiện nam, thiện nữ đem Bát nhã ba la mật giảng giải ý nghĩa cho những bực nầy. Trong đây có một Bồ Tát muốn mau chứng Vô thượng Bồ đề, nếu có người đem Bát nhã ba la mật giảng giải ý nghĩa cho Bồ Tát nầy, thời được phước nhiều hơn hết”.

Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Như đại Bồ Tát càng gần đến Vô thượng Bồ đề, lại càng nên giáo hóa thật hành sáu ba la mật, càng nên giáo hóa thật hành nội không đến vô pháp hữu pháp không, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng. Lại nên cúng dường y phục, ngọa cụ, ẩm thực, y dược, tùy theo chỗ cần dùng mà cung cấp.

Thiện nam, thiện nữ pháp thí và tài thí cúng dường đại Bồ Tát nầy thời được công đức. Vì đại Bồ Tát nầy mau thành Vô thượng Bồ đề vậy”.

Ngài Tu Bồ Đề nói: “Lành thay, lành thay! Nầy Kiều Thi Ca! Ngài vì thánh đệ tử mà an ủy chư đại Bồ Tát vì Vô thượng Bồ đề, nên đem pháp thí, tài thì làm lợi ích, theo lẽ thời phải như vậy.

Tại sao thế? Vì trong hàng Bồ Tát xuất sanh chư Phật thánh chúng.

Nếu Bồ Tát chẳng pháp tâm Vô thượng Bồ đề, thời Bồ Tát nầy chẳng thể học sáu ba la mật đến mười tám pháp bất cộng, chẳng thể được Vô thượng Bồ đề.

Nếu chẳng thể được Vô thượng Bồ đề, thời không có Thanh văn và Bích Chi Phật.

Nầy Kiều Thi Ca! Vì thế nên chư đại Bồ Tát học sáu ba la mật đến mười tám pháp bất cộng.

Do học sáu ba la mật đến mười tám pháp bất cộng mà được Vô thượng Bồ đề.

Do được Vô thượng Bồ đề nên dứt diệt ba ác đạo Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Thế gian bèn có những dòng hào tộc, bèn có các cõi trời từ Tứ Vương Thiên đến Phi Phi Tưởng Thiên, bèn có Đàn na ba la mật, bèn có nội không đến vô pháp hữu pháp không, bèn có tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, bèn có Thanh văn thừa, Bích Chi Phật thừa và Phật thừa đều xuất hiện thế gian”.

Tiêu điểm: