BÓNG MỜ
Ơn Cha Nghĩa Mẹ thật là sâu,
Khác chi Mẹ - Cha
có phép mầu.
Nuôi dưỡng tạo hình Da
- Gân - Cốt,
Thịt quyện thành
mình nắm đốt xương.
Bởi thế Tâm mình
có chỗ nương,
Đêm nương ngày tựa gọi là giường.
Theo nghiệp làm Người đương
làm Cáo,
Sinh mà chịu báo ở
Dương Gian.
Nguồn Tâm theo Phật thoát nguy nan,
Nguồn Thân y cứ Thể thanh nhàn.
Giác ngộ Tâm không
đan quyện dối
Mở Phủ quên mình sớm
- tối Si.
(Mẹ dụ Phật
Con dụ Thánh)
|
|
Xa Mẹ theo Con cất bước đi,
Tứ chúng ngẩn ngơ bận
mối nghi.
Mạt pháp hẳn kỳ sao thoát hiểm,
Rõ ràng Phật Pháp điểm mối nguy.
Cơ hội Ma Vương thừa dịp truy,
Hành sai Pháp Phật phải suy vì.
Hiện đang lẫn
lộn Chì Đen - Trắng,
Duy Tuệ đâu còn ánh nắng xuân.
Tà kiến phục tàng giữa trung quân,
Giác - Mê hỗn hợp phải quây quần.
Mong sao Thị Nghiệp tuần trăng tỏ,
Tứ Chúng hồi đầu ngộ Bản Tâm.
Xưa chưa có
Phật ẩn sơn lâm,
Hiện Chân
Lý Phật chẳng sai lầm.
Vương Mê Tâm tối âm thầm cách,
Cách Phật Tâm đành chuốc những sai.
Đồng bóng - Mã vàng hỏi của ai ?
Sóc thẻ rồi ra Bói - xin Đài ?
Chánh Điện sớm mai con xin hỏi :
Hẳn là năm
thứ phải Ngài chăng ?
Tượng Phật ngồi im chẳng nói năng,
Nhớ rằng thừa
mệnh ở Chân Tăng.
Đến gặp quý Thày con xin hỏi :
Năm thứ
trong đời Đạo có không ?
(Xuất gia là nói cả tại gia và xuất gia)
|
|
Nghe có xuất gia vẫn Hầu
Đồng,
Lấy ai chỉ
rõ lý Chân Không ?
Chúng Sinh quanh quẩn trông sai lối,
Giác ngộ Tâm thường sớm - tối không !!! ?
Thực tại con người có 2 nguồn:
Nguồn Thân: Do dòng truyền thừa của Cha - Mẹ nhân bản sinh thành để lại.
Nguồn Tâm: Do dòng truyền thừa Phật vì một niệm bất giác theo nghiệp
mà đến.
Nên có câu:
"Tâm tức Phật"
Vậy thì: Con người có 2 nguồn: Thân - Tâm. Nguồn Thân thuộc về Cha - Mẹ. Nguồn Tâm
thuộc về Phật, lấy đâu ra nguồn thứ
3 để cho Thánh gá.
Để gọi là:
Tâm tức Thánh đây ?
Kinh Lăng Nghiêm nói:
Có 36 loại quỷ. Trong đó có một loại gọi là "Truyền tống Quỷ".
Đồng Bóng: Thực ra cũng chỉ một loại Quỷ Thần mượn Thân nhập Thần vào Xác.
Bởi một lẽ:
Chúng ta mê
mờ Chân Tánh nên mới quên mình theo
vật, rồi tự nguyện cho loại Quỷ Thần
này mượn Thân mình, nhập Thần vào Thân Xác mình. Rồi chịu cho Quỷ
Thần sai sử, làm những việc Hay - Dở,
mà trở ngại Đạo Tâm.
Nên Phật dạy:
"Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình".
Hoặc tự
mình làm việc Dở - Ác, hoặc chịu sự sai sử của ngoại cảnh Nhân - Thần mà làm điều
Dở - Ác.
Phật dạy:
"Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình".
Chân Tâm Bổn Thể: Hay còn gọi là Tự Tánh Phật. Vốn
thanh tịnh sáng suốt như: "Phật Nhật
Nguyệt Đăng Minh". Nhưng vì một niệm bất giác, sanh tướng Vô Minh, nên trở thành Vọng Tâm mê muội, chạy theo trần cảnh, rồi lao sâu vào Ngũ dục tạo nghiệp sa đọa luân hồi trong 6 nẻo. Đánh mất đi chính mình, cứ thế quanh quẩn sống với hiện tượng
giới, chính là cái Tâm mà Pháp Bảo Đàn Kinh Tổ dạy:
Hữu vật Thiên Tiên Địa (Tâm)
Vô hình bổn tịch liêu
Năng vi vạn vật chủ
Bất trục tứ thời diêu.
- Loại người thứ nhất:
Trong đời sống hiện tại có 2 hạng
người xuất gia đánh mất Tâm
ban đầu là: Xuất Gia và Tại Gia.
Hàng Tứ
chúng của Phật đã quy y Xuất Thế Gian Tam Bảo, vì giác ngộ được
Bản Tâm. Theo con đường của Phật Thích Ca đã tìm được cách đây 2557
năm Phật lịch (dương lịch 2013).
Nên Tâm ban đầu phát nguyện nhập Đạo:
¬ Đã quy y
Phật. Con nguyện không quy y
Thiên - Thần, Tà - Ma, Quỷ - Vật.
¬ Đã quy y
Pháp. Con nguyện không quy y
Ngoại Đạo - Tà -Giáo.
¬ Đã quy y Tăng. Con nguyện không quy y
Tổn Hữu - Ác Đảng.
Chúng ta
cũng ví như "Gã cùng tử đói rách khổ sở đi tìm cầu Ăn - Mặc trong Tam Giới" nay đủ nhân duyên trở về
với Đạo Lý. Kinh Pháp Hoa nói: "Người Con thấy Cha giàu có lớn sang trọng
sinh lòng lo sợ, hối hận tại sao lại đến đây, rồi vội vàng bỏ chạy". Như
chúng ta nhập Đạo một thời gian sau, chạy theo Thần Thánh ra Mở Phủ Hầu Đồng,
quên đi nhiệm vụ của người con Phật:
"Trụ Pháp Vương Gia - Trì Như Lai Tạng".
Thì làm sao
có Tâm chân thật đưa được Chân Lý bỏ
pháp giả dối hư ngụy, trở về với Pháp
Thân Vô Tướng bất diệt, cho Chúng
Sinh tỏ ngộ được.
"Hành
Như Lai Xứ - Tác Như Lai Sự".
Nhằm: Thượng cầu thành Phật - Hạ giáo
hóa chúng sinh. Ra Hầu Đồng Mở Phủ
là dụ cho người con theo Kinh Pháp Hoa:
"Người
con đánh mất Bản Tâm, cho nên thuốc tốt mà không chịu uống, nên sinh bệnh nặng
trầm kha khó trị".
Hòa Thượng Thiện Trí giảng:
Hòa Thượng
về thăm vấn an Sư Phụ đã hơn 90 tuổi. Sư Phụ hỏi:
Con đã xuất gia chưa ?
Hòa Thượng
bạch:
Bạch Sư Phụ Con đã xuất gia rồi.
Sư Phụ lại
hỏi:
Nhưng Con đã thực sự xuất gia chưa ?
Vậy thì câu
hỏi lần thứ nhất Sư Phụ của Hòa Thượng Thiện Trí hỏi về: Thân tuy xuất gia. Câu hỏi thứ hai là: Tâm đã thực sự xuất gia chưa ? Như vậy yếu tố của bậc Chân Tu Thạc
Đức phải: Cả Thân - Tâm đều phải xuất gia. Để làm Thân Giáo - Khẩu Giáo, hiện
tướng thay Phật trước Chúng Sinh.
Người con còn Bổn Tâm:
Là bậc Chân Tu Thạc Đức, thực sự nương vào Giáo Lý của Phật truyền lại, để nghiên
cứu cho tỏ rõ Chân Lý sâu mầu. Biết
nương tựa vào ngôi Xuất Thế Gian Tam Bảo.
Để biết đường về với Đồng Thể Tam Bảo hay Tự Tánh Tam Bảo.
Dụ: "Người
con còn bổn Tâm, thấy thuốc tốt thơm đẹp, chịu uống liền, nên bệnh được lành mạnh"
(Tức bệnh Tham
- Sân - Si).
Đáp ứng bản
hoài của Chư Phật:
"Khai thị Chúng Sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến"
Mới đúng
nghĩa của bậc xuất gia:
"Thượng Cầu Phật Đạo - Hạ Hóa Quần Sinh".
- Loại Người thứ 2:
Là người chưa quy y Tam Bảo:
Tuy biết rõ
Phật Pháp là Lành Thiện lợi ích mà không chịu nhập Đạo, chỉ đến chùa lễ Phật cầu Phước. Kinh Pháp Hoa ví: "Người
Con thấy Trưởng giả giàu có lớn, chỉ đứng nhìn Cha mà thôi".
Nếu: Mọi
người đều thực sự xuất gia, đi sâu vào Giáo
Lý, tìm hiểu rõ được Chân Lý, biết
rõ phương pháp chuyển Tâm (Lý), rồi chuyển Thân (Sự), trong việc
tạo Phước - Trí đi đến sự thanh tịnh.
Như phẩm
27: Diệu Trang Nghiêm Vương Bồ Tát Bổn Sự
của Kinh Pháp Hoa:
Tịnh Tạng - Tịnh Nhãn thưa Mẹ:
"Mong
Mẹ đến nơi chỗ Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, chúng con cũng sẽ theo hầu
gần gũi cúng dàng lễ lạy".
Mẹ bảo:
"Cha
Con tin theo Ngoại Đạo, rất ham Pháp Bà La Môn, các Con nên qua thưa với Cha để
cùng nhau đồng đi".
Tịnh Tạng - Tịnh Nhãn nói:
"Chúng
con là Pháp Vương Tử mà lại sanh vào nhà Tà Kiến này".
Mẹ bảo:
"Các
Con nên thương tưởng Cha các con, mà vì đó hiển phép thần thông biến hóa, nếu
Cha con đặng thấy, Lòng ắt thanh tịnh, hoặc là chịu cho chúng ta qua đến chỗ Phật".
Tịnh Tạng - Tinh Nhãn:
"Dùng
các món thần biến, hiện tướng bảy đại ứng dụng Phật Pháp chuyển hóa vô ngại,
làm cho Vua Cha đặng thấy, sanh Lòng thanh tịnh tin hiểu".
Thất đại:
Địa - Thủy
- Hỏa - Phong - Không: thuộc: Thân
Kiến - Thức:
thuộc: Tâm
Vua Cha Diệu Trang Nghiêm: Chắp tay
hướng về phía con nói rằng:
"Thày
của các con là ai ? Con là đệ tử của ai ?"
Tịnh Tạng - Tịnh Nhãn:
"Đại
Vương ! Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật kia nay đương ngồi trên pháp tòa
dưới cây Bồ Đề bằng bảy báu, ở trong tất cả chúng Trời - Người thế gian, rộng
nói Kinh Pháp Hoa, đó là Thày chúng con, con là đệ tử".
Vua Diệu Trang Nghiêm nói:
"Ta
cũng muốn ra mắt Thày các con, nên cùng nhau đồng đi".
Như vậy: Tịnh Tạng - Tịnh Nhãn đã thực sự Cả Thân - Tâm đều xuất gia, vì đã ra khỏi
nhà Vật chất, nhà Tình cảm tầm thường, nhà Tư tưởng vướng víu bám trụ trong thế
gian.
Thân: Không còn tham đắm của cải vật chất
vô thường và tình cảm ân ái trói buộc. Mà chỉ trói buộc mình vào những gì là di
sản của Phật đã truyền trao.
Tâm: Không còn mong mỏi ở trong nhà lửa
Tam Giới. Mà chỉ để Tâm vào ngọn lửa Trí
Tuệ của Phật đã soi rọi ở trong Trời - Người thế gian. Đã thể hiện được
Thân Giáo - Khẩu Giáo, làm cho hiện tướng Chân Tăng thanh tịnh giải
thoát, chứng tỏ Phật Pháp nhiệm mầu, làm
cho Chúng Sinh nhìn thấy bậc chân tu
đạo hạnh, mà sinh Tâm hoan hỷ, Phát Bồ Đề
Tâm, nương theo vào con đường Phật Pháp để giải quyết việc giải thoát khỏi Sanh - Tử.
Vì Tịnh Tạng
- Tịnh Nhãn đã thực sự chuyển hóa được Bản
Thân, làm cho Cha - Mẹ tin theo.
Trong tứ chúng, thì Tịnh Tạng - Tịnh Nhãn là: Đương cơ chúng. Khơi dậy Tâm tỉnh thức ở Cha - Mẹ, vậy thì Cha - Mẹ
là: Ảnh hưởng chúng, đã xé tan màn
Vô Minh, xoay lại Vọng Kiến nhìn thấy Tự Tâm vốn sẵn có. Sau đó là cả Cha - Mẹ
cùng đến diện kiến Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí. Có nghĩa là nhập Phật Tri Kiến. Vì đã tu chuyển Thức thành Trí.
Tịnh Nhãn: Dụ Tiền
Ngũ Thức chuyển thành Thành Sở Tác Trí.
Tịnh Tạng: Dụ Đệ Lục
Thức chuyển thành Diệu Quan Sát Trí.
Mẹ: Dụ Đệ Thất Thức chuyển
thành Bình Đẳng Tánh Trí.
Vua Cha: Dụ Đệ Bát Thức chuyển
thành Đại Viên Kính Trí.