Mật tông
Hiển Tông và Mật Tông (Phần 1)
Kiêm Đạt
13/06/2011 13:39 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Mật Tông Tây Tạng  là một biến thể của Phật Giáo  khi đã hội nhập đã chuyển hóa theo tôn giáo bản địa. Theo những tài liệu sử sách tại đây thì trước khi Phật Giáo  Đại Thừa du nhập và đất Tây Tạng thì trên đất  nầy vốn đã có một  tôn giáo riêng, mang dấu  ấn của Thần Giáo. Tôn giáo nầy chứa  đầy những huyền phép đặc biệt, mang tính chất bí ảo, mà ít người có thể hiểu biết, chuyên thờ cúng và hành trì  những hiện tượng  siêu hình như  thuật khinh thân,  bói toán, tàng hình; đứng đầu là những  vị pháp sư.

Đại cương

Mật Tông Tây Tạng  là một biến thể của Phật Giáo  khi đã hội nhập đã chuyển hóa theo tôn giáo bản  địa. Theo những tài liệu sử sách tại đây thì trước khi Phật Giáo  Đại Thừa du nhập và đất Tây Tạng thì trên đất  nầy vốn đã có một  tôn giáo riêng, mang dấu  ấn của Thần Giáo. Tôn giáo nầy chứa  đầy những huyền phép đặc biệt, mang tính chất bí ảo, mà ít người có thể hiểu biết, chuyên thờ cúng và hành trì  những hiện tượng  siêu hình như  thuật khinh thân,  bói toán, tàng hình; đứng đầu là những  vị pháp sư.

Theo họ thì những mãnh lực huyền bí  vẫn tồn tại trong vũ trụ và  những nhà tu hành phải vận dụng đủ cách để chế ngự và điều động cho được những mãnh lực siêu nhiên nầy.  Khả năng chế ngự đến mức độ  nào là tùy theo  trình độ tu luyện của họ.  Huyền học  bao trùm tôn giáo  bản địa.

Về sau,  vì những khó khăn  trong việc ứng xử và hành trì,  cho nên đã có những tranh chấp và  phân ly thành  hai khuynh hướng tăng sĩ Huyền  Môn lẫn tín đồ. Họ đưa ra những  lý giải riêng có khi mâu  thuẫn nhau trên nhiều địa hạt. Những cuộc tranh luận giữa hai nhóm thường được tổ chức công khai hay trong hành trì. Cả hai đều tìm cách để bành trướng trong việc lôi cuốn tín đồ cũng như ảnh hưởng đến chính quyền. Điều nầy đã gây ra  những đổ vỡ trầm trọng trong  tôn giáo nguyên thủy của Tây Tạng.

Từ đó nẩy sinh  ra Chân Giáo và  Huyền Giáo. Chân Giáo muốn đi vào cuộc sống thiết thực để hướng dẫn cuộc sống; trái lại Huyền Giáo  thì đi sâu  vào việc nghiên  cứu các hiện  tượng siêu hình mà họ cho là đã điều khiển linh hồn mọi người.  Nhiều giai thoại về sự tranh chấp nầy vẫn được truyền tụng cho đếnnay, mà  họ cho là  chính danh và  tà thuyết.

Chính  quyền đã tìm cách để hoà giải hay đúng ra là  lợi dụng những rạn nứt nầy để dễ bề thao túng.Cuối cùng thì những nhà tu hành  theo Chân Giáo đã bỏ nước đến Ấn Độ để nghiên cứu  thêm. Tại đây, họ đã gặp các  tăng sĩ Phật Giáo và tiếp thu những tinh hoa của  tôn giáo nầy. Với họ, đây là điều may mắn. Có  nhiều vấn đề trước kia không  thông suốt, quán triệt được, thì nay giáo lý nhà Phật  đã giúp cho họ giải toả. Khả năng tiếp thu  tôn giáo của họ  vươn cao lên, để  thoát khỏi những lẩn quẩn trong  hiểu biết siêu hình.

Nhiều vị còn lưu  lại để nghiên cứu và  hành trì; trong  khi đó nhiều  vị đã trở  về Tây Tạng  để truyền bá tư tưởng mới. Họ vận  dụng Phật Giáo hoà nhập tinh thần dân tộc để truyền đạo. Từ cách tu hành cho đến việc giảng dạy cho tín đồ,  họ đã dùng những  phương thức mới lạ,  mà trước đây chưa phát triển  tại Tây Tạng.

Chẳng  bao lâu, ảnh hưởng  của tôn giáo nầy bành trướng mau lẹ. Lạt Ma Giáo (Lamaism) ra đời từ đó. Tôn  giáo  nầy  cũng  đã  trải  qua  nhiều  giai  đoạn  biến đổi. Trong  giai đoạn  đầu, họ  tìm cách  hoà hợp  Phật Giáo với những nguồn tín ngưỡng  bản địa.

Nhưng về sau, thông  qua kinh điển, họ đã cải  cách dần dà  từ nền tảng Phật Giáo. Kinh sách ngày càng nhiều, tăng sĩ đào tạo ngày càng đông, cho nên  tín đồ gia tăng nhanh chóng. Đã có những thay đổi lớn  lao so với tôn giáo cổ truyền ở Tây Tạng.

Theo nghiên cứu của Lạt Ma Lobsang Rampa thì: Nếu tôn giáo cổ của Tây Tạng chuyên về những phép  thuật Thần Thông, Ma Thuật, Huyền Học, xem đó là nền tảng chính yếu, thì đằng nầy Phật Giáo chỉ coi đó là những  phương tiện trong việc tu hành  nếu có, chứ không là cứu cánh giải  thoát con người. Mà đã là  phương tiện thì chỉ ứng xử trong một mức độ nào đó, sẽ  bỏ đi. Còn nếu cứ xem phương tiện là cứu cánh, thì điều nầy chỉ là trở ngại lớn lại trói buộc mức độ tu hành mà thôi.

Những danh tăng  của Lạt Ma Giáo có công  trong việc canh tân tôn giáo nầy để trở  nên vững chắc như hiện nay thì  phải kể đến công trình của  đức Milarepa và Tsong  Khapa. Nếu đức Milarepa  đi sâu vào việc nghiên cứu những vấn đề  thuộc luận lý học Phật Giáo thì đức Tsong  Khapa lại nghiên cứu  về lãnh vực tâm  lý học, luân lý học và siêu  hình học. Sự hoà hợp  nầy đã khiến cho Mật  Tông Tây Tạng trở nên uyên áo hơn.

Hiển Tông và Mật Tông

Pháp môn tu học trong đạo Phật rất nhiều vô lượng. Sở dĩ có nhiều vô lượng như thế là vì căn  tánh của chúng sanh bất đồng. Người ta liên tưởng  đến hình ảnh về thân thể  của con người mang nhiều chứng bệnh khác nhau, cho nên y  sĩ dùng các loại thuốc khác nhau  để chẩn trị  mới hiệu nghiệm được.   Đức Phật  đã thấu rõ nguồn cội căn tánh của mỗi chúng sanh cho nên Ngài giảng dạy vô lượng pháp môn tu để có thể thích hợp  từng căn tánh của mỗi một chúng sanh,ngõ hầu  ai nấy đều  thích ứng được,  có thể tiến  triển trên con đường tu hành của mình để Giác ngộ, Giải thoát.   

Pháp môn  tu học lưu  hành rộng rãi  phải nói đến  pháp môn Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông. Về Mật Tông  tại Việt Nam cũng đã  có một thời phát triển  và lưu lại nhiều huyền thoại:  tăng sĩ Khâu Đà La tu tại  chùa Dâu đã độ cho nàng Man Nương, thiền sư Nguyễn Minh Không thuộc dòng  thiền Vô Ngôn Không đã trị bệnh kỳ diệu cho vua Lý Thần Tông...

Trong sách sử  hành đạo của các cao tăng  thiền đức thường nói đến "Thiền, Tịnh song tu" tức là ngoại hiện thiền tướng, nội hành tịnh độ; hay là "Thiền, Mật kiêm trì" nghĩa là ngoại hiển mật hạnh, nội tâm  hành thiền;  hoặc "Thiền  hiển, Mật  tàng" tức  là ngoại hiện thiền tướng, nội tâm tu Mật chú.  Trong lúc Thiền Tông và Tịnh Độ  Tông được lưu hành khắp các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt  Nam thì Mật Tông đã trở thành  pháp môn tu  hành truyền thống của các nước  Tây Tạng, Mông Cổ và trong thời gian gần  đây đã được phổ biến đến các  nước Âu Mỹ qua các nhà sư Tây Tạng. Pháp môn tuy nhiều, tùy lúc mà nói, nhưng mục đích vẫn chỉ là làm  thế nào để đi vào biển viên mãn, cho nên trở về chỉ là Nhất thừa.  Hiển Tông và Mật Tông đều gồm thâu cả tánh và tướng.

Nghĩa lý Hiển Tông chia ra làm  năm thời, tóm lại là Tô Đạt Lãm (tức là Kinh). Mật Tông gồm ba bộ tạng, riêng gọi là Đà Ra Ni (Thần chú). Người học Hiển Tông cho rằng:  Không, Hữu, Thiền,  Luật có những  khác  biệt, nhưng cứu cánh, viên lý cũng  chỉ là một. Còn người học Mật Tông thì lấy: Đàn, Ấn, Chữ, Tiếng làm phép tắc, nhưng phương thức đều nhắm vào Thần Tông, bí áo.

Hiển Giáo (Sutra Path) thường được  gọi là Tịnh Độ Tông là phương pháp tu  hành gồm có:  đọc kinh, tụng  điển, lễ Phật,  cúng dường.Tịnh Độ Tông chú trọng đến việc tụng kinh, niệm Phật, đễ cho nhất tâm bất loạn, để lúc lâm chung  cầu cho trở về cõi Tây Phương Cực  Lạc của đức Phật A Di Đà.   Ngoài việc niệm Phật, Tịnh Độ Tông còn khuyên dạy chúng sanh quan tâm đến việc thanh lọc những  hành động thuộc Thân, Khẩu, Ý, sống theo hạnh nguyện  chân chính, thường xuyên phát  triển đức Từ Bi, Hỷ Xã, thường hoạch cát tường, viễn ly khổ ách.Tịnh Độ Tông được phân chia làm hai thừa là Đại Thừa (Mahayana)  và Tiểu Thừa  (Hinayana).

Các nhà tu hành nhấn  mạnh đến hai phép tu nầy chỉ là hai giai đoạn cần thiết trong việc tu hành, tự lợi, lợi tha, chứ không hề có chuyện mâu thuẫn nhau, nghịch lý nhau.  Mật  Thừa (Tantra  Path) còn  gọi là  Mật Tông,  cũng chỉ  là một phương pháp tu hành mà đức Phật muốn dắt dẫn chúng sanh đến con  đường Giác  ngộ và Giải thoát.

Một khi đã được Giác Ngộ và Giải thoát thì có thể tiếp tục tu hành, để hoàn thành con đường Bồ Tát  Đạo trở lại  cõi Ta Bà để độ  chúng sanh như hạnh nguyện  của đức Quan Thế Âm Bồ Tát đã từng làm.Tuy có sự phân chia như thế,  nhưng thật ra, tất cả chỉ là phương tiện, từng giai đoạn, để tiến  hành trên con đường duy nhất: giải thoát. theo những  kinh điển của Mật Tông, nếu  đi theo con đường Hiển Tông thì phải trải qua vô  lượng kiếp tu hành thì mới có thể  đạt đến quả vị Phật,  nhưng nếu theo con đường của Mật Tông thì có thể đạt đến quả vị Phật ngay trong một kiếp.

Cũng vì lý  do nầy cho nên nhiều người cho rằng con đường tu hành theo Mật Tông là con đường ngắn nhất. Tuy vậy,  những không phải bất  cứ người nào cũng  có thể tu hành theo Mật Tông  vì phải trải qua muôn ngàn  khó khăn, chỉ giành cho chư vị Bồ Tát, chư vị Tổ sư  có công phu tu hành vô cùng tinh tấn thì mới tu tập để chứng quả được. Ở những nước  phương Đông, do phong  tục, văn hoá và  tín ngưỡng,  hầu hết mọi người đều xem cái chết chẳng qua chỉ là một sự chuyển tiếp trong  muôn ngàn kiếp của  con người.

Tùy theo  nghiệp quả mà con người đã gieo trong kiếp nầy và trong vô vàng kiếp trước, mà sau khi chết con  người sẽ đầu thai vào một kiếp  tốt hơn hay xấu hơn. Có thể lên Niết Bàn, hoặc xuống  ngục A Tỳ, chịu những trừng phạt của Diêm Vương. Bánh xe luân hồi  không chỉ xoay vần trong vài ba kiếp, mà cứ mãi vần xoay miên viễn, cho đến khi linh hồn tu luyện đạt đến độ đạt đến mức giải thoát ngũ uẩn, lục  căn, được xem là thoát khỏi  vòng luân hồi, không còn trong vòng sinh tử, chuyển kiếp nữa.

Với nhận thức nầy, mọi người phải ra sức tu luyện, học hỏi giáo pháp, làm điều thiện, để được chứng quả. Theo hạnh nguyện của một số người,  sau khi đắc quả, vẫn quay trở lại trần gian theo Bồ Tát Hạnh  để dẫn độ chúng sanh. Có nhiều vị Phật vì xót thương chúng sanh ngụp  lặn trong mê mờ, đã chấp nhận hoá thân. Mật Tông là con đường tu chứng hết sức linh thiêng và huyền diệu trong các  pháp môn tu  học Phật Giáo,  với những năng  lực huyền diệu mang tính bí hiểm.

Những vị  Tổ sư của Mật Tông như Marpa và Milarepa đều  nhấn mạnh đến ý  nghĩa của công năng  trì tụng Thần Chú, như  là phương tiện cần  thiết nhất để đi  đến giác ngộ toàn chân. Từ trước đến  nay, theo truyền thống Mật Tông  Tây Tạng được kiến tạo trên  nền tảng truyền thụ  khẩu quyết giữa chân  sư và đệ tử,  cho nên sự  truyền bá cũng hạn chế. Hầu  hết những khẩu quyết nầy được giữ gìn bí mật, như một  yếu quyết, không muốn phổ biến sâu rộng. Vì trước khi bước vào ngưỡng  cửa nầy phải đi qua phần căn bản giáo lý Tiểu Thừa và Đại Thừa với ấn chứng vững chắc. 

Khẩu quyết nầy  tương tự như công án (Koan) của  Thiền tông, là cánh cửa mở vào Mật Tông; hành giả  phải trì tụng thuờng xuyên, quán chiếu nội tâm, để dần dà phá vỡ màn vô minh bao trùm các giới. Với những trở ngại như thế, cũng  như trong Thiền Tông, hành giả cần có vị chân sư hướng dẫn, chỉ điểm  và giải thích khó khăn trong việc hành trì.

Mật Tông không thể  tiến hành tu tập  sau khi hiểu qua một ít kinh sách, đọc vài câu  Thần chú, biết vài ấn quyết là đủ.  Sự kinh diệu là ở hành trì.  Hơn thế nữa con đường tu hành  khắc kỷ nầy đòi hỏi sức chịu đựng lâu dài,  thân thể khoẻ mạnh,  tập trung tư tưởng  cao độ thì mới  khai mở Phật nhãn được. Thiếu những yếu tố nầy, khó lòng đạt được mức ứng ngộ cao, đi thẳng vào thực tướng các pháp. Thành thử một khi  đã bước vào tu hành Mật Tông,  các vị chân sư thường khuyến  khích hành giả nên  tuân thủ pháp tắc  thật nghiêm minh, tôn  trọng giới luật, hiểu  biết sâu rộng để  hành trì. Mỗi khi thiện niệm được khai mở, quán chiếu vào mọi pháp, thì ngõ vào  Mật Tông được khai thông.

Những lãnh vực của Mật Tông

Thực ra Mật Tông không vận dụng triệt để những tư tưởng Phật Giáo trong cách tu hành và liễu ngộ. Điều học được của Phật Giáo là quan  tâm đến việc tìm  đường giải thoát ra  khỏi vòng sinh tử luân hồi;  tuy nhiên, vốn ứng  dụng những phương pháp  cổ truyền, cho nên những  danh tăng Mật Tông vẫn  dùng phương tiện để đạt đến sự giải thoát trên căn bản huyền học, đầy chuyện bí mật.

Qua những công  trình phát huy tôn  giáo nầy của đức  Milarepa, những tín đồ Mật Tông được phân chia là làm 2 loại: tu sĩ và Lạt Ma. Tu sĩ là những tín đồ chỉ hành  trì theo một số giới luật nhất định.  Họ có thể lập gia đình và tu hành trong khả năng hữu hạn. Còn Lạt Ma phải tuân thủ nhiều giới luật ràng buộc hơn, sống theo nếp đạo  hạnh thuần nhất để đi đến giải thoát.   

Về sau, do  sự thay đổi lớn trong  pháp môn tu tập. Mật Tông lại được phân chia ra làm nhiều Giáo phái khác, thậm chí có Giáo phái được liệt vào "ngoại đạo" nhưng lại ảnh hưởng rất lớn; nổi tiếng hơn hết là 3 Giáo phái: Giáo phái Số Luận (Samkyas), Giáo phái Thắng Luận (Vaisheshikas) và Giáo phái Huyền Học (Charvaka). Mật Tông có nhiều phương thuật tu luyện đặc biệt do những vị ẩn tu phát kiến; điều nầy đã khiến cho người Tây Phương xem là huyền thuật, khó tin, thậm chí là siêu phàm nữa. Chẳng hạn như khinh thân, tàng hình, dùng Thần Nhãn, khắc kỷ, cùng các phương thuật phát triển Thần Nhãn.

Theo Mật Tông, khi con người tu luyện đạt đến cảnh giới nào đó trong lối tu trì, họ sẽ có nhãn quan siêu phàm gọi là Thần Nhãn. Trong danh từ "Thần nhãn" thì  từ "Thần" có  nghĩa là phi  thường, khác thường,  liễu ngộ. Thông thường  những tu sĩ nầy thường vận  dụng Thần Nhãn của mình để soi sáng được cảnh giới vô hình. Nếu cả hai đều dùng Thần nhãn để  liên hệ với  nhau thì gọi  là "Thần giao  cách cảm".

Đạt được Thần  Nhãn, có nhiều  mức độ khác  nhau và đạt  được kết quả khác nhau. Chẳng hạn như có người dùng Thần Nhãn để xem tiền kiếp của mình  hay của người  khác. Lại có  người dùng công  năng Thần Nhãn trong việc trị bệnh. Với họ,  bệnh tật là do vướng mắc của  linh hồn. Cởi bỏ vướng mắc tức là lành bệnh.

Tuy nhiên với những đạo sĩ Mật Tông, việc khai mở Thần Nhãn phải được tiến hành thận trọng, nếu sai lầm hay với dụng tâm bất chánh nào đấy,  thì hậu quả không  biết đâu lường nổi,  thậm chí bị tẩu hỏa nhập ma. Đa số đạo sĩ dùng Thần Nhãn  để quán kiến nội tâm trong phép tu hành mà thôi. Với họ đây là phương tiện tốt nhất trong việc chiếu kiến của Thần Nhãn.

Những kinh điển chính của tôn giáo  cổ cũng như Huyền Môn sau nầy ở Tây Tạng  thường đề cập  sâu rộng những  vấn đề siêu  hình, tâm linh, những bí cấp và pháp  thuật Thần Thông, Thần Nhãn, soi hồn,   những  cõi vô  hình một  cách tự  nhiên với  nhiều huyền thoại mà  người đời thật khó tin. Tuy nhiên,  với họ vẫn là những phép mầu, linh thiêng, không thể coi thường được. Khi đề cập đến, họ thường tỏ vẻ trang nghiêm, tôn kính. Những vị chân tu Tây Tạng tin rằng:   "Những sự kiện nầy xẩy ra trong mọi nơi, trong mọi cõi đều là những hiện  tượng siêu nhiên, huyền  bí, tuy nhiên không  phải là chuyện khác thường".

Nhưng những  nhà nghiên cứu  Tây Phương thì lại giải thích bằng cung cách khác, dựa vào yếu tố Cảnh quan học và Thần linh học. Họ  cho rằng:  Vùng đất Tây Tạng nằm trên vị trí  cao nhất thế giới, quanh năm tuyết phủ, cây cối khó mọc được là nơi thuận lợi nhất  để kết tụ những hiện tượng siêu hình. Nhiều  quốc gia khác không hội đủ điều kiện nầy cho nên các nhà nghiên cứu tại đó đã nhìn về Huyền Học Tây  Tạng bằng nhãn quan khác lạ.  Khoa học thực nghiệm thì lại càng xa  xăm, ngờ vực hơn. Đây là vấn  đề thuộc tâm linh,  mà xứ sở Tây Tạng thì dễ tiếp cận hơn vùng đất nào khác trên thế giới.

Huyền Học Tây  Tạng giải thích các vấn đề  bằng con mắt siêu thần linh khác lạ.  Chẳng hạn: họ giải thích rằng:  Con người thực tạilà một phức  thể bao gồm nhiều thể chất  khác nhau. Qua cảnh giới  siêu hình thì mỗi thể loại tương  ứng với một cõi khác. Xác và Vía là hai thể  đối lập, cho nên thể  xác thì tương ứng với  cõi Trần  Gian, thể Vía thì tương ứng với Thân Trung Ấm (Bardo). Điều nầy được trình bày khúc chiết trong Tử Thư.  

Trong Mật  Giáo có nhiều  phương pháp hành  trì và tu  luyện khác nhau, tuy nhiên đa số đều sử  dụng những loại Thần chú, ấn quyết, Mạn Đà  La... để có thể  nhiếp phục được thân  tâm của mình trong những nghịch cảnh của đường tu tập. Họ cũng thường dùng đến sức mạnh của nội tâm và ý lực tự cường để trấn áp tà ma, quỷ mị, nghiệp  chướng, cho đến khi nào có thể đắc  Định Tuệ,  khai Pháp Nhãn.  Khi đó sẽ  hoàn toàn làm  chủ Thân và Tâm; đó là bước khởi đầu trên con đường tinh tấn tu hành của Mật Tông.

Một khi đã khai mở Định Tuệ của mình rồi, nhưng nếu người tu hành đã không phát  triển những hạnh nguyện rộng lớn  và cao cả hơn, thì cũng khó để có thể tiến xa hơn.Xác lập được hạnh nguyện rộng lớn của mình rất quan trọng, vì nhờ đó, có  thể thoát khỏi  vòng vô minh,  mê muội, phá  trừ được ngã  chấp, khai thông Trí Tuệ. Bắt đầu bước vào con đường tu  tập, đòi hỏi một khả năng tu hành,  trì giới thật  nghiêm nhặt.   Sau đó, tìm một  không gian tĩnh mịch để thiền định.

Trong những tu viện Tây Tạng ngày trước thường xây  những mật thất bằng đá khép kín, để giới tử có thể thực hành việc  thể nghiệm trong giai đoạn đầu nầy. Một khi vị Tu sĩ (Trappa) đã phát nguyện là sẽ nhập thất trong một thời gian nào đó, thì vị sư trưởng sẽ  trắc nghiệm khả năng,  đồng thời bố trí  để giới tử có thể tiến hành việc  tu tĩnh. Hàng ngày sẽ có vị  Giám sự theo dõi và trình lại cho sư trưởng  biết được những chuyển biến. Có người  nhập thất trong  ba tháng, sáu tháng, có khi  đến ba bốn năm. Sau khi hết thời gian chứng nghiệm nầy,  giới tử có thể rời mật thất.   Nhưng nhiều  vị khi hoàn tất  tu thiền nầy, lại  xin trở lại tiếp tục, vì họ thấy hoàn cảnh ở  đó thuận lợi cho việc thoát ly những vướng bận của hoàn cảnh chung quanh.  Tuy ở trong mật thất để Thiền  định, nhưng các tăng sĩ nầy có thể phóng ra bên ngoài những tư tưởng tốt lành để hộ trì cho kẻ khác.

Cũng có vị  sau khi hoàn tất thiền định  trong mật thất, lại tiến  xa hơn bằng cách tìm đến những  hang cốc lạnh lẽo trong rừng núi,  hay ngồi thiền  trên tuyết lạnh, hết năm nầy  sang năm khác. Ngoài  ra cũng có nhiều vị sau khi kết thúc thời gian Thiền định lại trở về cuộc sống bình thường để nhập thế độ sanh. 

Trong việc tu luyện nầy, vai trò  của những vị sư trưởng rất quan trọng. Sư trưởng  của Mật Giáo không phải là  một chức vị được đề cử sau khi tốt nghiệp kỳ thi Lạt Ma. Chức vụ nầy đòi hỏi một công phu tu hành lâu ngày, kiên định vững chắc và qua một thời kỳ Điểm Đạo (Initiation). Điểm  đạo ở đây theo đúng lễ  nghi và pháp tắc, khác với những hình thức Điểm Đạo  hàng chục ngàn Phật tử tham gia tùy  tiện như thường  thấy tổ chức đại trà tại  Hoa Kỳ trong những năm  gần lại đây.

Giới tử  trong khi tu tập,  ngày đêm kiên trì  giữ vững tư tưởng của mình. Trong những sách vở bí  truyền của Giáo phái Bon Pa Tây Tạng, con người có 3 nguồn năng lực là tư tưởng, dục vọng và hành động thì tư  tưởng quan trọng  hơn hết.

Tư tưởng chế ngự dục vọng và hướng dẫn hành động theo con đường chính đáng theo Phật dạy. Tu tập nghiêm  trì chẳng những tạo được công  hạnh trong kiếp nầy mà ảnh hưởng về những kiếp sau nữa.  Sự tái sanh của các  Lạt Ma thường được giải thích theo chiều hướng nầy.

(Còn nữa)

Theo: PTVN

Bao Hiem BSH
» Video
» Ảnh đẹp
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch