Các khái niệm chủ yếu trong Phật Giáo
Các khái niệm trong giáo lý Phật Giáo không phải là những gì được 
soạn thảo một   cách trí thức nhằm vào mục đích nghiên cứu, mà đúng hơn 
là một số phương tiện  giúp chúng ta nhìn thấy chính xác hơn sự hiện hữu
của chính mình. Do đó thiết  nghĩ cũng nên dành ra chút thì giờ để suy 
nghĩ về từng khái niệm một hầu lắng  nghe tiếng vang của chúng trong tim
ta và để cảm thấy sự thôi thúc của chúng  luôn nhắc nhở chúng ta nên cố
gắng bằng cách nào để thay đổi cách nhìn của mình  về những kinh nghiệm
cảm nhận của chính mình.


Hình bìa quyển sách « Phật Giáo nhập môn » và tác giả Fabrice Midal
Cõi Luân Hồi - Samsara
Chữ samsara của Phật Giáo đã đạt được nhiều thành quả thật  
bất ngờ trong thế giới Tây Phương. Nhiều xí nghiệp đã mượn chữ này để 
làm thương  hiệu và chữ này cũng đã được dùng để đặt tên cho một loại 
nước hoa đắt tiền. Tóm  lại là chữ samsara (cũng xin lưu ý là người Tây  Phương không dịch chữ samsara mà giữ nguyên gốc tiếng Phạn)
được hiểu  như là những gì thật tích cực. Thế nhưng đúng ra thì chữ ấy 
lại có nghĩa là một  cái vòng xoay vần bất tận của khổ đau nhằm trói 
buộc tất cả chúng ta. Cái bánh  xe của sự hiện hữu ấy buộc chặt chúng ta
vào các xu hướng của chính mình khiến  chúng ta luôn phải gánh chịu 
những gì xảy ra ngoài sự mong muốn của mình. Chẳng  hạn như chúng ta 
luôn bị xô đẩy vào hết cảnh huống này sang cảnh huống khác  trước sự bất
lực của chính mình. Theo các kinh sách xưa thì cái bánh xe của sự  hiện
hữu ấy được phân chia thành sáu cảnh giới, biểu trưng cho sáu loại ngục
tù  như sau :
* Địa ngục : 
trong cõi này thực phẩm  vun bồi cho chúng sinh là sự giận dữ và hận 
thù. Nếu rơi vào cõi đó thì chẳng  những chúng ta luôn bị chi phối bởi 
sự giận dữ mà bối cảnh chung quanh cũng luôn  tạo ra những mối đe dọa 
khiến chúng ta không còn nhận biết được là mình đang  giận dữ hay là 
đang lo sợ.
* Thế giới của ma quỷ đói khát (preta)
: Trong cõi này lan tràn một tình trạng đói khát vô cùng nghiệt ngã. 
Tất cả đều  chỉ là thèm khát và bất lực : thực phẩm, của cải, tiền bạc, 
giao du..., tất cả  những thứ ấy không thể mang lại được một sự thỏa mãn
nào. Các loại ma quỷ đói  khát đó (preta)
là các chúng sinh có một  cuống họng teo nhỏ như một cái kim, thế nhưng
cái bụng thì lại to tướng, to đến  độ không có bất cứ gì có thể làm 
giảm bớt đi sự thèm khát bất tận. Cũng không  khác gì cách nói « con mắt
to hơn cái bụng », trong cái thế giới đó chúng sinh  luôn bị đày đọa 
bởi sự bất toại nguyện.
* Thế giới của súc vật
: đấy là thế  giới của sự u mê xô đẩy chúng ta rơi vào một cái hang 
thật sâu khiến chúng ta  không còn trông thấy gì cả. Chúng ta cứ bước đi
thế nhưng lại không biết là mình  đang đi về đâu. Sự hiện hữu ấy thật 
căng thẳng, một mặt thì lo sợ sẽ bị nuốt  sống, một mặt thì lại thèm 
khát muốn được ăn. Thế giới ấy ngập tràn lo âu, thiếu  mọi sự nhận định 
sáng suốt, nói chung là một thế giới đầy đe dọa.
* Thế giới của con người
: đấy là  thế giới của sự bất toại nguyện triền miên thúc đẩy con người
thèm muốn đủ mọi  thứ, thế nhưng lại chẳng bao giờ tìm thấy sự hài 
lòng. Chúng ta lúc nào cũng  khao khát muốn đạt được một cái gì khác 
hơn, luôn tìm cách cân nhắc và lựa chọn  những gì hiển hiện ra với chúng
ta, khiến chúng ta luôn vướng mắc vào các cảnh  huống bất định gây ra 
bởi tình trạng xao lãng của mình.
* Thế giới của các chúng sinh đại ganh ghét  (asura) : thế giới này cũng chẳng khác gì với khu Wall Street  (khu vực sinh hoạt chứng khoán của thành phố Nữu Ước)!
Chúng sinh trong cái thế giới đó lâm vào một cuộc chiến bất tận. Đấy 
là cái thế  gìới bị chi phối bởi sự ganh ghét, tranh dành và mọi thứ xu 
hướng, tất cả luôn  thúc đẩy họ phải ganh đua với nhau để chứng tỏ mình 
là người giỏi nhất. Đấy là  thế giới của sự ganh ghét triền miên, và 
trong cái  thế giới ấy chỉ có hiệu quả  là đáng kể mà thôi.
* Thế giới của các vị trời (deva – thiên nhân) :
thường được hiểu  lầm là một thế giới ưu đãi và cao sang. Đặc tính tiêu
biểu nhất của thế giới này  là một thể dạng cực lạc triền miên. Thế 
nhưng thật ra thì cái thể dạng ấy thiếu  hẳn chiều sâu. Chúng sinh trong
thế giới này thật giàu có, họ luôn chuyển từ  sinh hoạt này sang sinh 
hoạt khác, hết cách giải trí này sang cách thụ hưởng  khác, chẳng khác 
nào như đang bị giam hãm trong một khung cảnh đầy tiện nghi thế  nhưng 
những tiện nghi ấy lại không mang một ý nghĩa nào cả  
(tác giả so sánh thật khéo léo cảnh huống của những  người giàu có và 
sang trọng trong xã hội chúng ta, hay biết đâu tác giả cũng ám  chỉ một 
cách thật tinh tế bản chất của thiên đường hay cõi cực lạc ?).
Đấy cũng là cái vòng lẩn quẩn mà nơi đó liên tục xảy ra một sự  
chuyển đổi từ hết thể dạng này sang thể dạng khác. Sự chuyển đổi đó có 
thể xảy  ra giữa hai kiếp sống khác nhau, hoặc cũng có thể xảy ra qua 
từng khoảnh khắc  một trong một kiếp sống. Sự xoay vần đó không bao giờ 
ngưng nghỉ. Một số thể  dạng có vẻ như dễ chịu, một số khác thì lại mang
tính cách khổ đau. Dù sao thì  trên phương diện Đạo Pháp (Dharma) cũng chẳng có gì khác biệt giữa các  thể dạng ấy  (tất cả đều là khổ đau, sâu xa và kín  đáo hay lộ liễu thế thôi).
Dù có sơn các song cửa sắt của một nhà tù  bằng màu nào thì cũng không 
làm thay đổi được gì cả. Điều quan trọng hơn hết là  phải thoát ra khỏi 
cái cảnh ngục tù ấy.
Niết bàn - Nirvana
Niết bàn là một thể dạng mà tất cả mọi khổ đau đều được loại bỏ. Thế 
nhưng thông thường thì kinh sách lại không đề cập nhiều đến cái thể 
dạng ấy – lý  do là vì đấy là một thể dạng không thể diễn tả được bằng 
các thuật ngữ và các  kinh nghiệm cảm nhận thông thường. Điều thiết yếu 
là phải bước theo Con Đường  trước đã. Ước mơ đạt được niết bàn thật ra 
chỉ là cách thúc đẩy chúng ta nuôi  dưỡng sự lầm lẫn bất tận của mình mà
thôi. Tóm lại là không nên nhắm vào bất cứ  một mục đích nào mà chỉ nên
cố gắng luyện tập thiền định và  học hỏi Đạo Pháp,  có nghĩa là những 
gì đang thúc bách chúng ta tại nơi này và trong từng giây phút  này. 
Niết bàn là một thể dạng của tâm thức khi mà nó không còn có gì để phải 
làm  nữa. Đấy là thể dạng không sinh, không tạo tác, không còn bị trói 
buộc bởi bất  cứ một điều kiện nào. Không hư vô. Không hiện hữu. Vượt 
lên trên cả sự an bình  cũng như mọi hình thức xung đột.
Vô-Ngã
Khái niệm về vô-ngã thường gây ra thật nhiều ngộ nhận. Chúng ta  thường thấy những người đã bước vào con đường  (tức  các Phật Tử và các người tu hành)
trong khi hàn huyên với nhau thì  hay nêu lên các câu như « cái ngã của
tôi », « cái ngã của anh », « phải buông  bỏ cái ngã » v.v.., thật ra 
thì đấy là những sự lầm lẫn rất lớn, là một cách  hiểu hoàn toàn méo mó 
về những lời giáo huấn của Đức Phật.
Đấy chỉ là một cách củng cố thêm một cái gì đó   (cái ngã) mà
giáo lý Phật Giáo không hề chủ  trương, và đồng thời cũng gián tiếp gợi
lên ý niệm về một sức mạnh tội lỗi không  hề có trong Phật Giáo  (nói
lên cái ngã của tôi, của  anh... là gián tiếp che dấu phía sau hậu ý 
của một sự sai lầm và tội lỗi và đó  là những gì không phải là Phật 
Giáo. Nhận xét này của tác giả thật hết sức tinh  tế).
« Cái ngã » của chúng ta được hình dung xuyên qua ba đặc tính khác  
nhau nhằm để xác định nó một cách dứt khoát. Cái ngã là vô thường, phải 
gánh  chịu mọi thứ khổ đau và không hàm chứa bất cứ một hình thức hiện 
hữu nào có thể  xác nhận được. Khi hiểu được cái ngã chính là như thế 
thì dần dần chúng ta cũng  sẽ quán nhận được đấy cũng là nền móng toàn 
bộ giáo huấn của Đức Phật. Đấy cũng  là những gì thật quan trọng mà 
chúng ta luôn phải giữ lấy trong tâm.
Chúng ta rất thích người khác quan tâm đến mình hoặc  giúp mình tìm 
hiểu chính mình, lý do là chúng ta luôn bị tác động bởi một thứ gì  đó 
tương tự như một khoảng trống không, khiến cho chúng ta luôn bị lo sợ : 
chúng  ta không bao giờ có thể hiểu rõ được thật sự mình là gì. Chúng ta
luôn cảm thấy  bị lệ thuộc vào những cảnh huống đang xảy xa và những 
mối giao tiếp mà chúng ta  đang duy trì. Đấy cũng là cách gián tiếp cho 
thấy sự vắng mặt của cái ngã    (sở dĩ
chúng ta hiện hữu là nhờ vào các điều kiện và  các cơ duyên đang xảy ra
cũng như các mối giao du với người khác mang lại cho  chúng ta cái cảm 
tính là chúng ta biệt lập với họ cũng như với cả bối cảnh chung  quanh, 
cái cảm tính ấy tạo ra ảo giác của một cái tôi hay là « cái ngã »).
Nếu thật sự mà chúng ta có một cái ngã thì sớm muộn chúng ta cũng bắt 
buộc phải  nhận thấy nó. Thế nhưng vì là nó không có cho nên các nhà tâm
lý học tất sẽ còn  nhiều việc phải làm (mất thì giờ trong việc nghiên  cứu và tìm hiểu một « cái gì » đó không hề có).
Nghề nghiệp, tuổi tác, vóc dáng, chiếc xe hơi của mình, gian nhà của 
mình, bằng cấp, lương bổng của mình, các phẩm tính cũng như các thứ 
khiếm khuyết  của mình..., tất cả đều không đủ để xác định mình là gì. 
Có một cái gì đó thật  huyền bí từ nơi sâu kín của mỗi con người : đấy 
chính là cái vô-ngã. Chẳng có  bất cứ gì thuộc vào chúng ta lại có thể 
mang tính cách dứt khoát và bất biến.
Khi nào nhận biết được là cái ngã chỉ là một sản phẩm tưởng tượng đã 
từng đánh lừa được chúng ta thì khi đó chúng ta mới nhận ra một điều là
tất cả  chúng ta đều liên kết với người khác. Khi nào nhận thức được là
các bức tường mà  chúng ta luôn tìm cách xây lên cho thật cao thật ra 
chỉ là những chiếc bóng  không mang tính cách vững chắc nào cả thì khi 
ấy chúng ta mới không còn tự tách  rời mình với thế giới chung quanh. 
Đồng thời chúng ta cũng sẽ cảm nhận đuợc cái  thể dạng vô-ngã ấy như là 
một sự hiện hữu thật tự nhiên, không cần phải xác nhận  thêm gì cả. Đấy 
mới chính là cái bản ngã đích thật – tức là con người của chính  mình 
khi đã lột bỏ được cái ngã.
Các câu chuyện võ thuật trong thiền phái Zen giúp tìm hiểu thật rõ  
ràng thế nào là vô-ngã. Thí dụ như trường hợp một người chiến sĩ luôn bị
bủa vây  bởi cái ngã của mình thì khó lòng tìm thấy được chiến thắng, 
lý do là hắn quá  quan tâm tìm đủ mọi cách để đạt được chiến thắng và để
bảo vệ lấy chính mình.  Cái ngã thật ra cũng chỉ là một sự giằng co 
giữa hy vọng và sự sợ hãi, đấy là  hai tên cướp đã tước đoạt mất sự cảm 
nhận của người chiến sĩ trước bối cảnh hiện  tại trong từng cảnh huống 
xảy ra  (một cá thể luôn bị  chi phối bởi lo sợ và hy vọng khiến không còn nhìn thấy được thực tại trong từng  giây phút một).
Nếu luôn bị ám ảnh bởi niềm hy vọng là mọi sự sẽ mang  lại tốt đẹp, và e
sợ những gì bất lợi có thể sẽ xảy ra thì hắn sẽ không thể nào  nhìn 
thấy được thực tại đúng với nó, và như thế hắn sẽ không sao tránh khỏi 
thất  bại.
Các câu chuyện đại loại như trên đây cho chúng ta thấy rằng vô-ngã  
chính thật là không gian của sự sống biểu trưng cho một thể dạng tự do, 
và tuyệt  nhiên không phải là một sự chiếm đoạt nào cả. Đấy là cả một 
không gian mở rộng  giúp cho con người trong mỗi chúng ta có thể phát 
triển một cách trọn vẹn hơn,  thoát khỏi mọi thứ gông cùm do cái tôi tạo
ra nhằm trói buộc chúng ta và khiến  cho chúng ta luôn phải sống trong 
lo sợ.
Chính vì thế mà Đạo Pháp là những gì thật triệt để và hoàn toàn khác 
biệt với các  phương pháp tiếp cận tâm linh khác. Ngoài Đạo Pháp ra thì
bất cứ  một phương tiện tiếp cận nào dù có giúp cho chúng ta trở nên 
khá hơn đi nữa cũng  không thể nào mang lại cho chúng ta một niềm hạnh 
phúc đích thật được. Các  phương tiện đó từ căn bản không thể giải quyết
được các khó khăn. Bởi vì bất cứ  nơi nào vẫn còn có cái ngã thống trị 
thì nơi đó chúng ta cũng chỉ có thể cảm  nhận được sự bất hạnh mà thôi.
Vô-Thường (hay là sự chuyển động tự nhiên của các hiện tượng)
Thoạt nhìn thì khái niệm này không có gì là khó hiểu lắm, tuy thế  chữ này vẫn chưa được các quyển tự điển của chúng ta   (tức của người Tây Phương)
nhắc đến. Vô-thường  có nghĩa là chẳng có gì trường tồn, bởi vì tất cả 
mọi sự vật đều phải gánh chịu  sự đổi thay. Thời gian trôi qua và chẳng 
có gì tồn tại. Bất cứ ai cũng đều có  thể biết được điều ấy và cảm nhận 
được sự kiện ấy. Một số học giả thường hay so  sánh khái niệm này với 
khái niệm của triết gia Hy Lạp Heraclite, và họ đã tóm  lược quan điểm 
của triết gia này bằng một câu như sau : « Người ta không bao giờ  có 
thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông ». Nếu hiểu theo cung cách đó 
thì ý  nghĩa đích thật trong tư tưởng của Heraclite cũng như của Đức 
Phật đều bị xuyên  tạc. Tuy rằng giáo huấn của Đức Phật và của Heraclite
không hề gặp nhau ở bất cứ  một điểm nào cả, thế nhưng cả hai vị ấy nào
có phát biểu một cách vô vị và nông  cạn đến thế  (hình
ảnh trên đây thật quá thô sơ và  không giải thích được thế nào là vô 
thường theo ý nghĩa của Héraclite và theo  giáo lý của Đức Phật).
Thuật ngữ vô-thường có vẻ phản ảnh khá trung thực ý nghĩa của chữ  anitya trong tiếng Phạn – chữ -nitya có nghĩa là « thường hằng » và  đầu ngữ a- thì có nghĩa là « không » tức phủ định cái thể dạng thường  hằng ấy.
Thế nhưng nếu nhìn một hiện tượng dưới khía cạnh của một sự tiếp nối  liên tục giữa nguyên nhân và hậu quả  (causal  concatenation)
và xem nó như là một hiện tượng vật lý thì đấy cũng sẽ  là một điều sai
lầm lớn : tương tự như khi nhìn tất cả các hiện tượng đều phát  sinh từ
nguyên nhân và điều kiện, và chúng nhất thiết sẽ phải biến mất khi các 
nguyên nhân và điều kiện tạo ra chúng không còn hội đủ.
Những gì mà giáo huấn của Đức Phật muốn chỉ đích danh thì thật ra  
không liên hệ gì đến các quy luật vật lý chi phối sự hình thành của các 
hiện  tượng, mà đúng hơn thì đấy là niềm hy vọng điên rồ của chúng ta cứ
muốn cho mọi  sự vật mà chúng ta hằng bám víu sẽ trường tồn bất tận. 
Vô-thường chính là khía  cạnh tự do của thực tại  (nói một cách khác là sự vận  hành tự nhiên của hiện thực) thách thức sức mạnh bám víu của chúng  ta. Giáo lý Phật Giáo liên quan đến sự kiện không-thường-hằng cũng là một  cách chứng minh cho thấy là thế giới này không hề hàm chứa một cái ngã nào cả    (đã là vô-thường thì không hàm chứa một thứ gì bất biến  để mà có thể gọi đấy là một cái ngã).
Sự tương liên (hay phản ảnh của hiện thực)
Chúng ta không hề là các chúng sinh biệt lập. Tất cả mọi sự vật đều  
gây ra tác động có ảnh hưởng đến chúng ta và ngược lại thì chúng ta cũng
tác  động và ảnh hưởng đến tất cả mọi thứ. Những gì mà chúng ta thực 
thi đều gây ra  tác động ảnh hưởng đến quá trình diễn tiến của mọi sự 
vật.
Các lời giáo huấn trên đây của Phật Giáo chính là nhằm vào mục đích  
thôi thúc chúng ta nên sớm thay đổi cách nhìn của mình về thế giới này, 
nghĩa là  phải quan tâm đến sự kiện tất cả chúng sinh đều hiện hữu bằng 
cách tương liên  với nhau và cả với toàn thể vũ trụ, đồng thời các hiện 
tượng tương tác thuộc vào  cả hai lãnh vực vật lý và tâm lý đó cũng liên
tục tác động đến toàn thể mọi lãnh  vực từ cá nhân, gia đình, xã hội 
cho đến địa lý.
Chúng ta cứ luôn muốn là mình hiện hữu một cách độc lập. Cái ảo giác 
đó tất nhiên sẽ trấn an chúng ta bởi vì nó tạo ra một thứ cảm tính nào 
đó về sức  mạnh của chính mình, thế nhưng thật ra thì đấy lại là cái 
mang đến cho chúng ta  mọi thứ đọa đày. Thuật ngữ « tương liên »  (interdependence  - từc có nghĩa là phụ thuộc lẫn nhau) dù có phản ảnh trung thực cách  mấy đi nữa ý nghĩa của từ tiếng Phạn pratityasamudpada
thì cũng vẫn cho  thấy một cái gì đó không được suôn sẻ cho lắm. Khái 
niệm về sự tương liên thật  ra mang tính cách khá giới hạn. Thay vì chỉ 
biết nhìn thấy bất cứ một vật thể  nào cũng phải lệ thuộc vào các vật 
thể khác thì chúng ta có nên suy nghĩ sâu xa  hơn như thế để quán thấy 
rằng tất cả mọi vật thể đều phụ thuộc lẫn nhau qua một  sự tương liên 
xuyên-cá-thể và xuyên-hiện-hữu hay không?  
(có nghĩa là quy luật tương liên chẳng những vượt xa  hơn lãnh vực vận 
hành của sự hiện hữu mang tính cách cá thể mà còn tương tác và  liên hệ 
đến các kiếp sống trong quá khứ cũng như tương lai, và đấy cũng là một  
cách giải thích về sự vận hành của nghiệp và hiện tượng tái sinh).
Tánh không
Tánh không là một trong các khái niệm then chốt nhất trong giáo lý  
Phật Giáo. Long Thụ, một nhà sư người Ấn sinh ra sau Đức Phật khoảng bảy
hay tám  thế kỷ, là người đầu tiên đã triển khai khái niệm này một cách
toàn vẹn và mạch  lạc nhất. Dựa vào các phép lý luận lôgic  (nguyên tắc  hợp lý) Long Thụ đã chứng minh cho thấy rằng những gì mà chúng ta cảm  nhận được về thực tại đều sai lầm.
Phật Giáo không hề xác định là không có gì cả, mà chỉ nêu lên cho  
chúng ta thấy là những gì do chúng ta tạo dựng ra nhằm áp đặt cho thực 
tại mới  là những gì không hề hiện hữu. Mọi vật thể hoàn toàn trống 
không về các khái  niệm mà chúng ta áp đặt cho chúng. Sự trống không đó 
không hàm chứa một thứ gì  cả, không được xác định bởi bất cứ một thứ gì
cả, và nhất là không hề biểu trưng  cho một sự vắng mặt nào hay một sự 
hiện diện nào cả.
Long Thụ từng nói như sau : « Khi đề cập đến một sự hiện-hữu thì đấy 
là quan  điểm chủ trương sự trường tồn, nếu đề cập đến một sự 
phi-hiện-hữu thì đấy là  quan điểm chủ trương sự hủy diệt  (hư vô).
Vì thế nên các vị hiền nhân không thường trú trong sự hiện-hữu cũng 
không thường  trú trong sự phi-hiện-hữu ». Tánh không có nghĩa là như 
thế : đấy tức là cách  phủ định tất cả các quan điểm, phá bỏ tất cả mọi 
luận đề, không chấp nhận bất cứ  gì ngoài sự mở rộng đối với các hiện 
tượng được nhận biết một cách tự nhiên.
 
Lòng từ bi
Từ bi cũng là một khái niệm chủ yếu trong Phật Giáo. Đấy là một thể  
dạng thật  thanh cao của con tim, là mối âu lo thiết tha mong cầu sao 
cho tất cả  chúng sinh đều tránh khỏi khổ đau.
Nếu muốn nắm vững khái niệm này thì nhất thiết phải hiểu rằng đấy  
không phải là một thứ bổn phận cũng không phải là một sự tự nguyện. 
Chúng ta  không trở thành một người có lòng từ bi. Bởi vì từ bi là một 
động lực bộc phát  từ con tim của mình trong thể dạng nguyên sinh của 
nó. Quả thật không có gì khổ  sở hơn cho những ai mong muốn được trở 
thành người từ bi. Họ chỉ có thể trở  thành những con người từ bi giả 
mạo vì mục tiêu của họ là muốn che đậy một sự  hung hăng nào đó. Lòng từ
bi đích thật phải là một động lực bùng lên và không  thể đè nén được, 
tương tự như lòng thương xót của một người mẹ khi nhìn thấy con  mình 
đang ốm đau.
Bất cứ nơi nào có sự hiện diện của lòng từ bi thì nơi ấy chúng ta sẽ 
không hề cảm thấy sợ hãi và hoang mang, đấy là một thể dạng vượt lên 
trên mọi sự  tính toán nhỏ mọn của cái ngã. Thật vậy, cái ngã luôn tìm 
đủ mọi cách để bảo vệ  vòng ảnh hưởng của nó, trong khi ấy thì lòng từ 
bi lại là một thể dạng hoàn toàn  mở rộng và thân thiện. Lòng từ bi giúp
chúng ta hiểu rằng không có một biên giới  thật sự nào ngăn cách giữa 
chúng ta với tất cả các chúng sinh khác.
Phật Giáo triển khai nhiều phép luyện tập giúp phát huy lòng yêu  thương sâu xa đối với tất cả mọi sinh linh.
Tại sao tánh không và lòng từ bi lại được xem như không thể tách rời khỏi nhau ?
Phần lớn các học phái Phật Giáo đều quan niệm rằng lòng từ bi đối  với chúng sinh không thể tách rời khỏi sự hiểu biết prajna (bát nhã),
và đồng thời thì đấy cũng là khả  năng tiên quyết nhất giúp nhìn thấy 
được tánh không. Do đó có thể so sánh lòng  từ bi như một con cá lội 
trong nước và nước thì tượng trưng cho sự hiểu biết.
Người ta không thể tách rời hai thứ ấy ra khỏi nhau. Lòng từ bi phải 
luôn kết hợp với sự hiểu biết. Thật vậy không thể nào tách nó ra khỏi 
sự sáng  suốt nhằm giúp chúng ta nhìn thẳng vào những gì đúng như thế. 
Nếu không thực  hiện được điều ấy thì lòng từ bi cũng sẽ chỉ đơn thuần 
là một sự dại dột. Thí dụ  như hành động thật vô ý thức đem cho trẻ con 
kẹo bánh mỗi khi chúng vòi vĩnh.  Chúng ta đều hiểu rằng đấy không phải 
là một hành động giúp đỡ trẻ con mà chỉ là  cách làm hại chúng. Lòng tử 
bi thiếu trí thông minh thì quả thật là thảm hại.
Tịch Thiên (Shantideva) một nhà sư sống vào thế kỷ thứ VIII, đã  trước tác một tập thơ rất nổi tiếng mang tựa đề là « Con đường của những vị  Anh Hùng hướng đến Giác Ngộ »  (Bồ-tát Đạo)
mà các nhà sư Tây Tạng đều phải học thuộc lòng. Tập thơ nói lên sự 
tương quan  giữa tánh không và sự bùng dậy của một con tim biết mở rộng (bodhicitta -  bồ đề tâm).
Khi nào hiểu được là cái tôi  không hề hàm chứa một sự hiện hữu cố định
nào và cũng không thể nào xác định  được nó một cách minh bạch, vì thật
ra thì đấy chỉ là những gì lệ thuộc vào các  điều kiện đang xảy ra với 
chúng ta, thì khi đó bản chất hẹp hòi của các thứ cảm  tính ích kỷ xem 
mình là trung tâm sẽ hiển hiện ra thật rõ ràng như là một quan  niệm sai
lầm về thực tại.
Tịch Thiên đã viết như sau :
« Nếu nhìn thấy hai chân hai tay,
Thì ta cũng có thể hình dung ra được đấy là tứ chi của một thân xác nào đó.
Vậy khi nhìn thấy chúng sinh,
Thì tại sao ta lại không thể hình dung ra được đấy chính là những thành phần của  sự sống? »
Cũng thế, nếu ta biết đưa tay để xoa chỗ đau trên bàn chân của mình  
khi bị vấp ngã, thì tại sao ta lại không đủ sức hành động tương tự như 
thế trước  những khổ đau của người khác ?
Tịch Thiên nhận thấy sự hẹp hòi đó là đã phát sinh từ sự bám víu  
mang tính cách bản năng và sai lầm của chúng ta vào ý nghĩ cho rằng 
chúng ta là  những con người biệt lập. Vì thế chỉ khi nào quán nhận được
bản chất đích thật  (của hiện thực) là như thế, thì khi đó  chúng ta mới có thể khơi động được lòng từ bi trong lòng mình   
(khi nào hiểu rằng chúng ta không phải là những chúng  sinh biệt lập mà
hoàn toàn tương liên với các chúng sinh khác thì khi đó chúng  ta mới 
có thể mở rộng lòng từ bi của mình một cách đích thật được).
Dù cho cách lý luận ấy có tỏ ra sắc bén đến mấy đi nữa thì quả cũng  
chưa đủ. Không cần phải giải thích dông dài, chúng ta cũng đều hiểu rằng
lòng từ  bi là một thứ gì thật tốt. Thế nhưng vấn đề then chốt hơn là phải làm thế nào để giúp cho nó được bộc lộ. Có khi nào chúng ta cảm thấy con tim mình khép lại  quá kín hay chăng ?
Người Phật Tử trong thế giới Tây Phương  (thật ra thì nếu đã là một người Phật Tử thì dù ở phương nào cũng thế)
phải biết tìm hiểu xem lòng từ bi đang nấp ở cái xó nào để lấy ngón tay
mà trỏ  thẳng vào cái chỗ nhạy cảm ấy, tức là vào cái chỗ thật xót xa 
và bức xúc trong  lòng mình, hầu giúp cho mình có thể phát huy được nó. 
Lòng từ bi chính là cái  vết thương ấy, nó đang rướm máu và đang thôi 
thúc chúng ta trước những khổ đau  của thế gian này. Nếu muốn làm giảm 
đi sự thôi thúc ấy thì phải hòa nhập vào tâm  điểm của sự đau xót đó, và
đấy cũng là cái điểm mong manh nhất của trái tim nhân  loại, để mà đặt 
hết niềm tin của mình vào đấy.
Nghiệp – Karma
Thuật ngữ karma phát sinh từ chữ kr và chữ này thì có nghĩa là « làm »,  và chữ này cũng làm phát sinh ra chữ « créer »    (« create » trong tiếng Anh, tức có nghĩa là « tạo  ra ») trong ngôn ngữ của chúng ta  (tức là  tiếng Pháp). Do đó thiết nghĩ chúng ta cũng nên quan tâm đến âm hưởng  vọng lại từ các hành động của chính mình.
Quả thật khó có một khái niệm nào lại có thể đối nghịch một cách dứt  khoát hơn với chủ nghĩa định mệnh  (determinism)
bằng khái niệm về nghiệp trong Phật Giáo, thế nhưng thật oái oăm là 
người ta lại  thường hiểu sai khái niệm này và cho rằng nghiệp là một 
thứ định mệnh. Thí dụ  như khi ốm đau thì ta cho đấy là vì nghiệp của 
mình mà ra, và quả thật nếu hiểu  theo cách đó thì không có gì khôi hài 
hơn. Quả đúng là điều đó có thể giúp chúng  ta liên kết nghiệp với cơn 
bệnh của mình và không tự xem mình như là một nạn  nhân  (phải gánh chịu bệnh tật phát sinh từ các  nguyên nhân bên ngoài), thế nhưng Đức Phật đã từng giảng rằng không  phải bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy được nghiệp (karma) bởi vì tiềm năng  tác động của nó thật hết sức phức tạp, vượt khỏi tầm hiểu biết của con người   
(sự vận hành của nghiệp rất phức tạp vì bị chi phối bởi  trùng trùng 
điệp điệp các nguyên nhân và điều kiện, trong khi đó thì trí thông  minh
của con người lại quá đơn giản và thô thiển).
Tuy nhiên điều quan trọng không phải là ở đấy. Những gì mà chúng ta  
cần phải quan tâm hơn chính là cách phải hành động như thế nào để có thể
tạo ra  các bối cảnh thuận lợi nhằm mang lại sự an vui cho chúng sinh. 
Dầu sao thì cũng  phải vượt xa hơn thế để tìm hiểu xem nghiệp có nghĩa 
là gì. Nghiệp là một tổng  hợp các hành động thực thi trong tình trạng 
tâm thần lầm lẫn. Có thể so sánh  nghiệp như là một mạng nhện được dệt 
và giăng ra trong cái khoảng không gian tạo  ra bởi dục vọng và sự thèm 
muốn, và cái mạng lưới đó sẽ lôi kéo theo với nó một  sự chuyển động bất
tận, một thứ phản ứng dây chuyền.
Bước theo vết chân của Đức Phật là cách làm cho sự chuyển động bất  
tận ấy phải chấm dứt. Đấy là cách dừng lại, không để cho các tín điều 
sai lầm và  các thứ xúc cảm xung khắc đưa đẩy chúng ta từ cảnh huống này
sang cảnh huống  khác. Hãy để cho không gian  (từ bi) và sự  trong sáng  (trí tuệ)
tìm thấy nhau trong  con tim của mình, sự kết hợp đó sẽ mở rộng và làm 
tan biến đi cái ảo giác của sự  trường tồn mà chúng ta luôn tìm cách để 
bảo vệ nó trong từng giây phút một. Đấy  là cách giúp cho các hành động 
đúng đắn và phù hợp với cái không gian rộng mở đó  giúp cho các hành 
động ấy có thể tự bộc phát một cách tự nhiên. Mỗi một khoảnh  khắc phải 
được chấm dứt một cách trọn vẹn hầu giúp cho khoảnh khắc tiếp theo sau  
có chỗ để hiển hiện ra. Đấy là cách hành động không tạo nghiệp vì đấy 
chỉ là  những gì đột phát một cách tự nhiên.
Sự tái sinh (không phải là đầu thai)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của  
Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »    (métempsychose / metempsychosis, rebirth),  Học thuyết này phát sinh từ một chủ thuyết bí truyền   (esotericism)
thiếu hẳn sự minh bạch và chủ  xướng một linh hồn có thể trú ngụ trong 
nhiều thân xác khác nhau. Đấy cũng chẳng  khác gì với các trò chơi điện 
tử mà người chơi phải trải qua nhiều « kiếp sống »  thì sau đó mới thắng
được  (tức đội lốt một nhân vật  nào đó trong cuộc chơi và phải chơi đi chơi lại nhiều lần cho « quen tay » thì  mới thắng được).
Quan điểm ấy mang tính cách tự xem mình là trung tâm  và vì thế là 
những gì hoàn toàn trái ngược lại với giáo huấn của Đức Phật.
Hơn nữa như chúng ta đã biết, Phật giáo phủ nhận sự vĩnh cửu và đặc  
tính bất biến của linh hồn. Chẳng những linh hồn sẽ phải chết mà thật ra
thì nó  cũng đã chết khi phải chuyển đổi từ khoảnh khắc này sang khoảnh
khắc khác. Chúng  ta không còn giống với những lúc còn ấu thơ nữa, và 
sự sống thật ra sẽ còn tiếp  tục biến chúng ta trở thành khác hơn với 
những gì mà chúng ta hiện đang có trong  ngày hôm nay.
Thuật ngữ « tái sinh » có vẻ phù hợp nhất với giáo huấn của Đức  Phật. Thuật ngữ này phản ảnh thật trung thực với từ punarbhava trong
tiếng Phạn mà nghĩa từ chương là « sinh ra trở lại ». Khi cái chết xảy
đến thì  tất nhiên sẽ phải có một cái gì đó mất đi, thế nhưng cũng 
không phải vì thế mà  bắt buộc phải có một cái gì khác còn giữ nguyên 
như cũ. Cũng thế, nếu đem ngọn  lửa của một ngọn đèn này để thắp cho một
ngọn đèn khác thì nó có còn giữ được  đúng với ngọn lửa trước kia, tức 
là sau khi đã được chuyển từ ngọn đèn này sang  ngọn đèn khác hay không?
Một người nào đó sau khi tái sinh thì sẽ không còn giống như trước  nữa thế nhưng cũng không phải là hoàn toàn khác hẳn.
Một mẫu đàm thoại rất nổi tiếng giữa nhà Vua Di-lan-đà (Milinda) và  
một đệ tử của Đức Phật là Na-tiên (Nâgasena) sẽ được trích dẫn dưới đây 
nhằm nêu  lên tất cả sự khó khăn trong việc tìm hiểu về chủ thuyết này.
« Nhà vua Di-lan-đà hỏi nhà sư Na-tiên như sau :
- Thế linh hồn có hiện hữu hay không ?
- Trong lãnh vực của sự thật tuyệt đối thì không !  (linh  hồn chỉ là một khái niệm quy ước)
- Này tỳ kheo Na-tiên, phải chăng là có một con người hoán chuyển từ thân xác  này sang một thân xác khác hay không ?
- Không.
- Thế nhưng tại sao người thứ hai lại phải gánh chịu các lỗi lầm đã có từ trước  (người tái sinh gánh chịu nghiệp do người quá cố gây  ra).
- Nếu giả sử không có sự tái sinh thì nhất định là người ấy phải  
tiếp tục gánh chịu lỗi lầm từ trước. Thế nhưng vì có sự tái sinh cho nên
người  ấy không còn gánh chịu lỗi lầm nữa  (có
nghĩa là  người tái sinh – hay là người « thứ hai » – sẽ phải gánh chịu
các lỗi lầm từ  trước. Khái niệm này tương đối khó nắm bắt bởi vì một 
mặt thì sự lý luận của  chúng ta luôn bị chi phối bởi sự trường tồn, tức
bởi « cái tôi » hay « cái ngã »,  và mặt khác thì chúng ta lại xem cái 
chết và sự tái sinh tượng trưng cho những  sự « gián đoạn », và  mỗi 
kiếp sống thì mang tính cách « độc lập ». Nếu muốn nắm  vững khái niệm 
này thì có thể xem thêm « Na-tiên Tỳ kheo Kinh », vì trong kinh  này có 
nhiều đoạn giải thích khá rõ ràng về sự tiếp nối và biến đổi giữa các  
kiếp sống của một cá thể dưới sự chi phối của nghiệp, hoặc cũng có thể 
xem thêm  một bài viết ngắn mang tựa đề « Khái niệm về nghiệp trong Phật
Giáo » của người  dịch đã đăng trên các trang thuvienhoasen.org, hoặc 
quangduc.com..., hoặc cũng  có thể sử dụng phép thiền định để quán thấy 
sự biến đổi của thân xác và tâm thức  mình trong từng khoảnh khắc một và
tiếp tục suy ra sự biến đổi ấy qua những kích  thước sâu rộng hơn – ghi
chú thêm của người dịch).
Đối với một số người thì khái niệm tái sinh như vừa được trình  bày 
trên đây thật minh bạch và dễ hiểu. Âm hưởng của nó vang lên thật phù 
hợp  với kinh nghiệm mà bất cứ ai cũng có thể cảm nhận được trong khi 
thiền định.  Trong những lúc thiền định đó thì người ta sẽ nghiệm thấy 
được các sự gián đoạn  làm phát sinh ra sự tiếp nối liên tục như thế 
nào. Thế nhưng sẽ là một điều sai  lầm lớn nếu cho rằng khái niệm này 
giữ một vai trò chủ yếu trong việc xây dựng  đạo đức Phật Giáo : có 
nghĩa là các hành động hiện tại sẽ đưa đến các cảnh huống  trong kiếp 
sống tương lai, và vì thế mà chúng ta phải làm điều lành và tránh  điều 
dữ. Ngày nay sau những chỉ trích thật gay gắt đối với tôn giáo của Marx,
Freud và Nietzsche thì đối với tôi thật hết sức khó để mà chống đỡ cho
quan điểm  trên đây  (tức xem sự tái sinh như một hình thức hăm  dọa để xây dựng đạo đức).
Nếu luân lý phải cần đến một người cảnh sát  để đe dọa khiến cho chúng 
ta phải khiếp sợ để mà áp đặt nó cho chúng ta, thì cái  nền luân lý ấy 
tất không được chính đáng lắm.
Mặc dù có nhiều người Phật Giáo đưa ra những ý kiến khác hơn, thế  
nhưng riêng tôi thì vẫn tin rằng sự tái sinh quả thật không giúp ích gì 
cả cho  việc thiết đặt đạo đức Phật Giáo. Không gian mở rộng do thiền 
định mang lại,  biết lắng nghe con tim mở rộng và mong manh của mình 
cũng thừa đủ để giúp một  người tu tập biết chọn cho mình một thái độ 
thích nghi nhất trong từng hành động  của chính mình  (đối
với tác giả thì đạo đức Phật  Giáo có thể phát động một cách tự nhiên 
và dễ dàng trong lòng mình, thế nhưng  đối với một số người tu tập thuộc
vào một cấp bậc còn yếu thì sự răn đe biết đâu  đôi khi cũng cần thiết.
Dầu sao thì « quả báo » cũng chỉ là một cách hiểu đã  được đơn giản hóa
về quy luật nguyên-nhân-hậu-quả khiến người tu tập e sợ phải  « đầu 
thai » trong những hoàn cảnh tệ hại mà không dám làm điều ác trong kiếp 
sống này).
Vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế thì tất cả người dân Ấn đều xem sự  tái sinh như là một sự kiện hiển nhiên  (sự
tái sinh  không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo, hầu hết 
các tín ngưỡng khác  vào thời bấy giờ đều chủ trương có sự tái sinh).
Thế nhưng ngày nay  thì đã khác hơn nhiều. Tuy nhiên đấy không phải là 
những gì hệ trọng để chúng ta  phải quan tâm. Trong từng khoảnh khắc 
một, chúng ta có một chút gì đó để chết đi  và đồng thời cũng có một 
chút gì khác để tái sinh trong một hoàn cảnh mới. Vậy  thì có cách nào 
giúp chúng ta tập buông xả những gì mà chúng ta luôn tìm cách để  bám 
víu hay không ? Và làm thế nào để vượt thoát khỏi các chuẩn mực giới hạn
hành động của chúng ta, hầu giúp chúng ta trở nên cởi mở hơn ?
Tôi tin rằng đấy mới đích thật là những gì thiết yếu trong những lời 
giáo huấn của Đức Phật. Trong từng giây phút một chúng ta phải biết tự 
giải  thoát cho mình khỏi những gì đang bóp ngạt và giam hãm mình.
Phật Giáo và cái chết
Đối với Phật Giáo thì cái chết hiện hữu thường xuyên trong mỗi chúng 
ta. Thế nhưng vì vô minh nên chúng ta lại cứ xem nó như là điểm kết 
thúc cuối  cùng của đời mình và không hề ý thức được là mình đang chết 
trong từng giây phút  một. Thể dạng mà chúng ta từng có trước đây  (trong  quá khứ) dù vẫn còn lưu lại một chút nào đó trong chúng ta hôm nay    (hiện tai), thì chúng ta cũng sẽ phải tiếp  tục buông bỏ nó để có thể trưởng thành  (trong tương  lai).
Tập luyện thiền định là một cách tuyệt vời nhất để chuẩn bị cho cái  
chết, bởi vì đấy là cách giúp chúng ta hòa nhập với thực tại trong từng 
giây  phút một. Thiền định sẽ giúp chúng ta hiểu được rằng phải buông xả
tất cả mọi  thứ bám víu. Chọn con đường thiền định là cách hòa nhập với
cái thể dạng vô  thường của cái chết, để luôn nghĩ đến nó và để chuẩn 
bị cho nó.
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mỗi khi có một người đau ốm sắp  
phải ra đi thì nên khuyên nhủ người ấy hãy chuẩn bị cho cái chết của 
chính mình.
Khi người hấp hối sắp ra đi thì tốt hơn là người thân không nên khóc 
lóc, bởi vì nước mắt sẽ tạo ra một bầu không khí bất thuận lợi, khiến 
có thể làm  bùng lên những gì mà người hấp hối từng quyến luyến, thí dụ 
như chúng ta chẳng  hạn. Thế nhưng sự vô cảm cũng có thể tạo ra cho 
người hấp hối một bầu không khí  đầy lo âu và bất hạnh. Người sắp chết 
cần được cảm thấy là mình không bị bỏ rơi.  Vì thế tốt hơn hết là nên 
nghĩ đến người sắp ra đi với tất cả lòng thương cảm  của mình.
Sự gia hộ của chư Phật
Nếu thu hẹp Phật Giáo để biến nó thành một con đường chỉ dựa vào sức 
cố gắng đơn thuần của con người thì quả thật là không có gì sai lầm 
hơn. Thật  thế, dù cho rất nhiều học phái xem việc tu tập thiền định là 
quan trọng hơn hết (tức chủ trương dựa vào sức cố gắng cá nhân của con  người). Thế nhưng trọng tâm của việc tu tập lại là một thể dạng buông  xả  (tức  có nghĩa là ngược lại với sự cố gắng).
Sự Giác Ngộ không thể nào đạt được bằng cách chỉ nhờ vào các hành  
động đạo đức  có tính cách cá nhân và một ý chí đơn thuần. Phải cần đến 
một cái  gì khác nữa để bổ khuyết thêm. Chẳng hạn như một số phép tu chủ
trương người tu  hành cần phải mong cầu xin tiếp nhận được một sự 
thương xót hay một sự thông  hiểu nào đó. Thế nhưng theo một cách nhìn 
khác thì sự bổ khuyết ấy cũng không  phát xuất từ một nơi nào khác hơn 
là chính mình. Đồng thời thì cái trí tuệ giúp  nhận biết được vô-ngã lại
hiển hiện ra trong lòng mình như là một sự gia ân nào  đó, một khả năng
thiên phú thật hết sức bất ngờ và vô cùng quý báu.
Bures-Sur-Yvette, 10.03.12 
Hoang Phong chuyển ngữ