Trong Phật giáo, có hai chân lý mà ta  được biết: Tục đế và 
Thánh đế. Tục đế là chân lý quy ước, chân lý của  kinh nghiệm: kinh 
nghiệm chủ quan và kinh nghiệm có phân tích trên cơ sở  khoa học. Khi ta
nói đến chân lý quy ước, thì ta đang hình dung đến một  sự kiện nào đó 
mà ta có thể chấp nhận, chẳng hạn, vận tốc chuyển động đều của  áng 
sáng, một sự vật có một con số nhất định khi đem lên bàn cân… Tóm  lại, 
cho dù bị chi phối bằng bất cứ trạng thái tâm lý nào, thì số đo,  vận 
tốc chuyển động đều của ánh sáng vẫn không thay đổi, nghĩa là ta  không 
thể nói: “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Vậy thì, hiện tượng  quy 
ước, trong bản chất nó vốn nội hàm cái không gian hai chiều của nó:  Vừa
chủ vừa khách quan. Chủ quan vì ta biết số cân của nó và đó là tự  thể 
của nó khi được quan sát trên phép đếm – khách quan tính của sự thể.  
Tuy nhiên, thực chất của các chúng sinh hữu tình, có lẽ sẽ có nhiều  
không gian hơn, trong đó những hệ lụy của cảm xúc đã tham gia sâu vào  
trong suy tưởng của chúng ta. Có thể vận tốc ánh sáng, số cân của một sự
vật là hoàn toàn chính xác trong tự thân của nó, song, qua những cảm  
xúc, thì các hằng số ấy có thể sẽ có những những thay đổi, và thường  
những thay đổi đó sẽ được hiện thân bằng một số mệnh đề điều kiện. Do  
vậy, trong lãnh vực vật lý, người ta không chấp nhận những con số ảo,  
tức là bản thân sự vật là tính tuyệt đối của nó trên mặt thể hiện, trừ  
phi cái cân, hay con số bị tính sai đi. Ở đây, không có cái gọi là: “nếu
như… giả như…”. Con số hay phép tính phải đi theo một đại lượng nào đó
thì nó mới thực hữu và có giá trị. Cũng vậy, trong ngôn ngữ, danh từ 
mà  không đi theo nó là một tính từ, thì danh từ đó chưa đủ nghĩa.
Nếu
xét trên cơ sở cảm quan, thì số phận của tâm lý học rất dễ bị ruồng 
bỏ,  đến độ mà ta bao giờ cũng muốn lẫn tránh những cảm xúc của mình, 
bởi  vì, thực tại là một cái gì đó không thể thấy bằng cảm xúc. Tuy 
nhiên,  quá trình tiến hóa của nhân loại không thể không có cảm xúc, bởi
vì nó  là dấu ấn của thi tính và mỹ quan và hơn thế khoa phân tâm học 
của Phật  giáo đã đạt đến một chiều sâu đáng kể trong các cấu trúc trừu 
tượng và  khả năng thị quan về màu hay các biến thể tương hỗ của âm 
thanh mà trong  đó một nhân vật nổi tiếng và ưu việt nhất, chính là đức 
Quán Thế Âm  Bồ-tát, người chuyên dùng thị lực vô hình và âm thanh để 
giáo hóa chúng  sinh và tự mình lấy đó làm phương châm tu tập. 
Vì
số phận bị  ruồng rẩy của tâm lý học – thiếu hẳn những phạm vi đạo đức 
của giới luật  –  buộc ta phải dấn thân vào con đường của tôn giáo và 
cũng bởi vì, dù  ta có suy luận là, ngoài đời sống lưỡng cư, ta chắc 
phải có một đời sống  khác hơn, đời sống không bị ném vào không gian hai
chiều: có-không,  sống-chết, khổ-vui… Ta đi tìm nguyên nhân duy nhất và
vĩnh hằng, chẳng  hạn, một hạt cơ bản nào đó mà thật sự là nó không do 
bất cứ hạt cơ bản  nào cấu thành – Chúa ở bên ngoài sự sáng tạo của mình
– hạt cơ bản (tự  sinh). Bất hạnh thay, suy luận cho ta biết là mình có
thể có đời sống  của Niết-bàn, thế nhưng, suy luận ấy cũng chỉ là sự 
suy luận trên cái  không gian đối thể của chúng ta. Triết học sẽ cho 
biết rằng, đường chân  trời là một đường có thật, nhưng không thể tới, 
còn tôn giáo thì ném  không gian hai chiều vào thế giới quy ước, để 
sống-chết, có-không… thật  sự là sống-chết, có-không. Cú ném này được 
triết học cho là cú nhảy vọt,  còn tôn giáo, nhất là Phật giáo, thì đấy 
là sự thực hành, hay “sống đời  sống đạo”. Sống đời sống đạo, có nghĩa 
là sống đời sống của một người  tu hay một hành giả. Sống trong thắng 
nghĩa đế.
Thắng nghĩa đế,  thừa nhận thế giới quy ước theo giá 
trị của chính nó, vì đó là giá trị  quy ước, quy ước ngay cả trên mặt 
thí nghiệm – bởi vì hiện tượng được  quy định bằng những khái niệm hay 
lý thuyết có kiểm chứng, cho chân lý  quy định được Phật giáo cho là tục
đế, và vì, khi cái gì còn quy định,  thì cái đó, thế nào rồi cũng dẫn 
đến khổ – tương đối. Nói cách khác, cái  đó rồi cũng đi đến hủy hoại. Do
hoại mà khổ và do đi tìm cái thường  cũng là khổ. Thậm chí, ngay cả 
luật vô thường, cũng chỉ là quy ước – ta  sống trong thế giới hai chiều,
nên ta thấy có vô thường. Và đây là một  phần ý nghĩa của Thắng Diệu 
Đế. Nói cách khác Tục đế cũng chính là Diệu  đế của sự trui rèn và nói 
như các như luận lý học Phật giáo, thì bản  chất của tục đế là không, 
giả danh, cho nên, tục chính là chân – không  hai không khác.
Trong
thắng diệu đế của Phật giáo, người ta không  xem ánh sáng là con đường 
lý tưởng, độc đạo và cũng như tự thân nó vốn  chứa đựng một loại vận tốc
mà chưa có vận tốc nào có thể vượt qua. Vì ba  cõi là vô thường, bất 
an, nên ánh sáng không là lý tưởng thuộc về thắng  nghĩa đế. Nói tóm 
lại, nếu không-thời gian là tương đối, vậy thì nó  tương đối trên mặt 
khổ thánh đế – có quá khứ, hiện tại và vị lai, chỉ  cho vận tốc – cho dù
ta có đi bằng vận tốc ánh sáng đi nữa, thì bản thân  ta cũng sẽ di 
chuyển trên con đường của thời gian và vẫn y nhiên, sanh  tử luân hồi – 
cái thứ không gian hai chiều mà ta khó lòng lẫn tránh.  Trong các cõi 
Phật giáo, như kinh dạy, ta biết có những thân thể chúng  sinh được cấu 
trúc bằng ánh sáng hoặc siêu việt ánh sáng, nhưng không  thụ khổ (như 
thuyết tương đối), chẳng hạn, những công dân của cõi Tịnh  độ A-di-đà. 
Và ở đó, họ sống thật sự trong đời sống 10 chiều – dâng hoa  cúng 10 
phương Phật chỉ trong một bửa ăn, hoặc “thân cư tịnh độ mà ‘hiện  thân’ 
giáo hóa ta-bà.”
Tại sao, ở đó, nơi cõi tịnh độ, người ta  có thể
thực hiện được điều kỳ diệu như thế? Theo triết gia Duy Minh, vì  ta 
chưa thật sự vô công dụng hạnh (never totally disintered, dis  passioned
observers) trong mọi hành vi và ta dồn mọi nỗ lực chỉ để hướng  ngoại 
cầu huyền (trying to discover something real out there. That is  the 
wrong image). Ta tích cực hoạt động trong việc sáng tạo công cụ,  trong 
những tư kiến, ta thật sự chưa biết là sự hoạt động của mình ở bất  cứ 
nơi đâu và thời điểm nào, đều do nghiệp chỉ huy (in the time and  place 
that we happen to be because of karma). (Theo The New Physics And  
Cosmology, p. 192.) Tóm lại, một đời sống kỳ diệu, là một đời sống trong
yêu thương vô ngã. Nói cách khác, đó là một đời sống trong Đại bi tâm 
Đà-la-ni.
Nói đến Phật giáo là nói đến nhân quả và quan trọng 
hơn  là lý duyên sinh. Một số người nào đó, đôi khi đánh đồng nhân quả 
với  lý duyên sinh hay duyên khởi, nghĩa là người ta lầm lộn nhân quả 
với  nhân duyên. Thật ra, khi ta nói nhân quả là nói đến tiến trình, và ý
niệm này vô hình trung ta đã giẵm chân lên học thuyết tương đối của  
Einstein. Học thuyết của Einstein, theo Arthur Zajonc, là một học thuyết
chỉ đơn giản quy vào tính tương quan nhân quả - một sự kiện xảy ra, 
thì  phải xảy ra trên phạm vi vận tốc ánh sáng – một sự kiện nào đó muốn
trở  thành, thì nó phải có vị trí hoặc không gian và thời gian. Không 
thể có  sự vật nào vừa là cái này lại vừa là cái kia. Nhân quả, nói 
chung là  một tiến trình tuần tự. Không thể có cái gọi là “đồng thời cụ 
túc tương  ưng”. Thật bất ngờ, sự sai lầm mà ta đang gánh lấy, chính là 
sự sai lầm  của lịch sử nhân loại này, từ khi ánh sáng và thời gian được
tôn vinh và  tệ hơn, ta đi theo khoa học – Phật giáo khoa học – nói 
cách khác, ta  tôn thờ chủ nghĩa duy khoa học, mà thực chất ta không 
phải là một nhà  khoa học. Triết gia Duy Minh mói: “Chủ nghĩa nhân bản 
xuất hiện từ thời  kỳ Khai Sáng của Châu Âu và từ sự khám phá khoa học 
dẫn thành hệ thống ý  thức xem con người là trung tâm hóa của tất cả. 
Chủ nghĩa này là loại  chủ nghĩa duy khoa học, chớ không phải là khoa 
học, vì vậy, nó thuộc về ý  thức hệ. Tiến trình mà nó kéo theo, chính là
loại bỏ hẳn khả năng tâm  linh của chúng ta và hùng hổ hướng đến thiên 
nhiên càn quét. Duy khoa  học vừa không phải là một loại chủ nghĩa duy 
nhiên, cũng chẳng phải là  chủ nghĩa duy linh.” Đây có phải là một phần 
lý do vì sao mà trong Phật  giáo có quá nhiều triết gia mà lại ít có 
khoa học gia chăng? Có chắc là  ta sẽ không phong thánh cho Kant hay 
Einstein, cho dù ông ta quy y Phật  trước hoặc sau khi viết Phê Phán Lý 
Tính Thuần Túy hoặc Tương Đối  thuyết? Hơn thế, vì là chủ nghĩa duy khoa
học, cho nên, theo Duy Minh,  nó đã lấy trí thức làm sức mạnh khai phá 
thiên nhiên một cách đáng tiếc  và dã man. 
Cái gì để chứng minh Phật giáo là một tôn giáo siêu việt?
Biến
một cái gì đó thành cụ thể hay cụ hữu trong tiến trình Chỉ và Quán  
(trong tư duy phân tích hay trong âm thanh – chỉ cho chân ngôn chú ngữ),
thì cái đó sẽ là chân thường, chẳng hạn, vô thường được cắm sâu vào  
trong xương tủy của một hành giả Nhập Lưu tựa mủi tên từ người xạ thủ  
thiên tài. Tiến trình “biến cái gì đó…”, Phật giáo gọi là Tu, nhất là  
giữa thời đại mà tâm và vật đã là pháp chấp, còn duyên khởi thành là ý  
thức hệ mà theo tôi là nó đã bị đặt vào trong một bộ khung – tách ly  
khỏi năm trạng thái suy thoái của đời mạt pháp -  khó có thể vượt qua.  
Bộ khung đó, người ta gọi là giải cấu trúc hay chủ nghĩa hậu hiện đại.  
Và , “tách ly khỏi năm trạng thái khổ đau” hay ngũ trược ác thế, vì chủ 
nghĩa này lấy lý luận làm nền tảng diễn ngôn, thay vì lấy duyên sinh 
hay  tu tập làm quả và đó cũng là một loại ý thức hệ, chớ không phải là 
dạng  nhân quả duyên sinh trong Phật giáo.
Mọi chủ nghĩa đều kéo 
theo  chúng những giáo điều nhất định, còn Phật giáo thì đưa ra những 
con  đường, mà có hấp dẫn hay không là do việc thử nghiệm của ta. Tất 
nhiên,  như là một liệu pháp, trong các con đường ấy, sẽ có rất nhiều 
những quy  định hay các lời khuyên cho những ai đang đi trên đó, y như 
lời khuyên  của một bác sĩ cho cách dùng thuốc của chúng ta. Thật thế, 
những lời  khuyên này, không thể là những giáo điều (trừ phi ta muốn bám
vào đó để  răn đe. Tất nhiên mọi bám chấp hay “chấp pháp”, có nghĩa là 
ta đã phạm  thuốc), bởi vì, giáo điều, trong tự thân của nó chính là ý 
thức hệ.  Trong Phật giáo, không có bất cứ cuộc chiến ý thức nào, ngoài 
trừ cuộc  chiến của quá trình tự hàng phục tâm trong yêu thương và buông
xả. Chẳng  hạn, tụng Kinh, niệm Phật là một liệu pháp để trị bệnh khổ 
và là cái  cách làm quen với Phật tánh của chúng ta, mà trong đó một vài
lời khuyên  cho cách dùng phương thuốc này, chính là chí thành đọc 
tụng, và  hướng  tâm vào sự huyền bí của ngữ tính trí bi, nhất là hướng 
đến Tam bảo. Lama  Anagarika Govina nói” ngôn từ là dấu ấn của tâm thức,
là những điểm tối  hậu, chính xác hơn, đó là những chặng đường của các 
chuỗi vô tận kinh  nghiệm được quá khứ xa thẳm ngút ngàn sinh ra truyền 
vào hiện tại và dò  dẵm hướng đến tương lai cũng xa thẳm ngút ngàn chẳng
kém chút nào.” (1)  Và ông cho đó là “diệu ngữ và lực ngôn trung.” Tức 
là sự mầu nhiệm của  ngôn từ và tính dũng mãnh trong thuyết ngôn (La 
magie du mot et la  puissance de la langue).
Y trên cách nói của 
L. M. Govina, ta  tiến vào chú Đại Bi với một số tư liệu và tri thức hạn
chế để viết về  nó, một bài chú lừng lẩy và có nhiều công năng hơn hết 
trong tất cả mật  chú của Phật giáo – một loại tu tập và giáo hóa bằng 
âm thanh trong Phật  giáo, chính xác hơn, một loại chân ngôn được cho là
siêu việt từ ngôn  thuyết của đức Quán Thế Âm.
Trước tiên để 
hiển nghĩa bài chân  ngôn này bằng dịch thuật (cho dù, mật chú là một 
trong những vùng cấm -  không thể dịch, trong Phật giáo. Thế nhưng, theo
tôi, chân ngôn, ngoài   tính diệu ngôn và lực ngôn trung, nó còn mang 
thi tính và thẩm mỹ, đến  độ các tần số của nó làm thành những gam màu 
trong các liên hệ “dây”  huyền nhiệm đưa ta vào thanh tịnh, hệt như thi 
kệ của các chân sư ngộ  đạo), ta sẽ nói sơ qua về hành trạng của đức 
Quán Thế Âm, theo La Thập  và Quán Tự Tại theo Huyền Tráng.
Hành trạng Quán Âm
Quán
Âm, tiếng Phạn là Avalokiteśvara – người làm chủ cái thấy của mình,  
Huyền Tráng dịch là Quán Tự Tại, và theo Quán Âm Bửu Điển (觀音調寶典), thì  
Quán Âm có nghĩa là Quán Thế Tự Tại, Quang Thế Âm và ngài được cho là  
một vị bồ tát cứu thế (Cứu Thế Bồ-tát), cứu thế vô cầu (Cứu Thế Tịnh  
Thánh), ban cho chúng sinh sự không sợ hải (Thí Vô Úy), vị bồ tát có tay
như đóa sen không nhiễm ô (Liên Hoa Thủ), mở ra cho chúng sinh vô số  
pháp môn tu tập (Phổ Môn), tâm từ bi không thể đo bằng bất cứ phép tính 
phàm phu nào (Đại Bi Thánh). Trong Phật giáo đại thừa, ngài được biết  
đến như là một vị bồ tát lẩy lừng trên hai phương diện: trí tuệ và đại  
bi. Sở dĩ được gọi là tuệ, vì ngài đã từng tu tập và nghiệm chứng trí  
tuệ sâu xa là trí Bát-nhã và sở dĩ được gọi là đại bi, vì ngài hiện thân
bằng thệ nguyện, liên tục bạt trừ nhất thiết khổ của toàn thể chúng  
sinh trong vũ trụ này. Theo Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa:” nhược hữu
vô lượng bá thiên vạn ức chúng sinh thụ giả khổ não, văn thị Quán Thế 
Âm bồ tát, nhất tâm xưng danh, Quán Thế Âm bồ tát tức thời quán kỳ âm  
thanh, giai đắc giải thoát.” Từ đó ta có thể thấy, sự vĩ đại trong tu  
pháp và thệ nguyện hoằng thâm của ngài như thế nào.
Liên hệ đến  
danh hiệu bồ tát Quán Thế Âm, nhất là “Quán Thế Âm”, ta được văn bản  
“Chú Duy Ma chư kinh”, ở quyển thứ nhất mà trong đó La Thập giải thích  
về dịch pháp của mình như sau: “Thế có nghĩa là nguy nạn, cho nên xưng  
là tự quy. Vì [bồ tát quán kỳ âm thanh tức đắc giải thoát] cho nên (Quán
Thế Âm) lại có nghĩa là Quán thế niệm – niệm Quán Thế - vốn hàm nghĩa 
quán tự tại.” Như vậy, theo La Thập, trong Quán Thế Âm đã vốn có nghĩa 
“Quán Tự tại” rồi. Tức là sự liên hệ tương hỗ giữa Quán Thế Âm và chúng
sinh niệm tưởng Quán Thế Âm một cách tự tại. Khuy Cơ, một đại sư đời  
Đường, trong quyển thượng của “Bát Nhã Tâm Kinh U Tán”, cho rằng, “tự  
tại” có nghĩa là tùy nhậm, chỉ cho thắng quả được chứng đắc. Trong quá  
khứ ngài đã tu hành lục độ, cho nên hôm nay quả chứng viên thành, do tuệ
quán trước tiên mà thành tựu mười loại tự tại:
1/ Thọ tự tại: có thể tự bảo trì tính mệnh của mình.
2/ Tâm tự tại: không bị sanh tử làm cho ô nhiễm.
3/ Tài tự tại: Do thành tựu bố thí, nên tùy ý hiện ra tài bảo chu cấp cho chúng sinh. 
4/ Nghiệp tự tại: ngài chỉ thực hành thiện sự và khuyến chúng sinh hành thiện. 
5/ Sinh tự tại: do thành tựu giới hạnh nên tùy ý đến đi.
6/ Thắng giải tự tại: do đắc thành an nhẫn, nên tùy ý biến hiện.
7/ Nguyện tự tại: do đắc tinh tấn mà lạc quán thành tựu.
8/ Thần lực tự tại: do định lực thành tựu mà hiện khởi thần thông tối thắng.
9/ Trí tự tại: trí tuệ tùy thuận ngôn âm. 
10/ Pháp tự tại: do đắc trí tuệ mà mà thấu triệt mọi nghĩa của khế kinh cũng như tự tạo mọi phương tiện khéo cứu độ chúng sinh.
Từ xưa đến nay, danh xưng “Quán Thế Âm” trong các dịch pháp đã có những bất đồng, chẳng hạn:
Chi Diệu, đời hậu Hán trong “Thành Cụ Quang Minh Định Ý kinh: Quán Âm (觀音調).
Chi Khiêm, đời Ngô, trong “Duy Ma Cật kinh”: Khuy Âm (窺音).
Phan Tăng Khải, đời Tào Ngụy, trong “Vô Lượng Thọ kinh”: Quán Thế Âm (觀世音)
Trúc Pháp Hộ, đời Tây Tấn, trong “Quang Thế Âm Đại Thế Chí Kinh Thụ Quyết kinh”: Quang Thế Âm (光世音).
Vô
La Xoa, đời Tây Tấn, trong “Phóng Quang Bát Nhã kinh”: Hiện Âm Thanh  
(現音聲). Và, Huyền Tráng, đời Đường, thuộc trường phái tân dịch, trong  
“Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh”: Quán Tự Tại (觀自在).
Chú thích:
1.
Les mots sont la marque de l’esprit, les pointes finaux ou plus  
exactement les étapes de séries indéfinies d’expériences qui, sortant du
plus inimaginable passé, parviennent au présent et constituent de leur
côté les points de départ de nouvelles qui touchent à un futur tout  
aussi peu imaginable.” Les Fondements De La Mystique Tibétaine par Lama 
Anagarika Govinda. Charles Andrieu dịch từ tiếng Anh dưới sự cho phép  
của tác giả.
Nét đặc trưng của Quán Thế Âm bồ-tát
 
Theo bản kinh “Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại  Bi Tâm Đà-La-ni”, thì Quán 
Thế Âm bồ-tát vốn đã thành Phật, với hồng  danh là “Như Lai Chính Pháp 
Minh”(1) từ vô số kiếp lâu xa, nhưng vì đại  nguyện tận độ chúng sinh, 
nên ngài thị hiện làm thân bồ-tát, kiến tạo  thuyền từ luôn duỗi rong 
trong bể khổ cứu vớt chúng sinh. Và vào lúc đức  Bổn sư của chúng ta còn
tại thế, thì ngài là một vị bồ-tát khổ tu dưới  pháp tòa của bậc thầy 
này. Quán Âm Bửu Điển cho rằng, sự hiện thân và  hành trạng của ngài như
vậy đã nói lên Phật pháp bình đẳng như thế nào -  một vị Phật hóa thân 
bồ-tát đi học  một Phật.
Với trí và bi siêu  việt, chẳng những 
ngài đã được các nước theo Phật giáo Bắc truyền tôn  thờ như một vị Phật
mà ngay cả những quốc gia chủ yếu theo Phật giáo Nam  truyền của Đông 
Nam Á Châu cũng đã dựng tượng ngài như là một chỗ dựa  để phát triển văn
minh và an ẩn. Nói cách khác, sự hiện thân của ngài  Quán Thế Âm qua 
nghệ thuật hình tượng (iconography) nơi các quốc gia  Đông Nam Á này, 
như một tấm thảm vàng để Phật giáo Nam truyền nhẹ nhàng  tiến bước. 
Nghĩa là “nhân cách” của ngài – từ bi, cao quý, thần thông và  trí tuệ 
-   không chỉ hấp dẫn Phật giáo Bắc truyền mà còn cuốn hút ngay  cả Phật
giáo Nam truyền nữa.(2) 
Hơn thế, khi mở đầu trì tụng  bất cứ 
kinh điển Đại thừa nào, thì chân ngôn Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi  Tâm 
Đà-La-ni vẫn là bài chú được khải phát trước tiên. Điều này cho  biết 
rằng, bản chân ngôn ấy, mà giá trị đích thực của nó, chẳng những  dẫn 
vào tính trong sáng vốn bị vô minh che lấp của hàng phàm phu, mà nó  còn
là lộ trình tức khắc đưa sở hành của một vị thánh từ Sơ địa lên tới  
địa vị thứ Tám trong Thập địa, như bản kinh “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán  
Thế Âm Bồ-tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-la-ni” đã tuyên  
thuyết như thế khi đức Thế tôn ngự tại đạo tràng Bảo Trang Nghiêm của  
bồ-tát Quán Thế Âm, đã giới thiệu cho tứ chúng biết về sự tích và công  
hạnh của ngài qua việc hành trì thần chú Đại Bi mà bồ-tát đã thọ nhận  
trong vô lượng ức kiếp về trước nơi đức Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ.
Lúc được đức Phật Tịnh Trụ trao cho thần chú Đại Bi, thì bồ-tát vẫn 
còn  ở đẳng vị Sơ Địa. Vừa nghe xong thần chú, ngài liền chứng được đệ 
bát  Địa. Vô cùng cảm kích, ngài vội vàng phát ra lời đại nguyện sau 
đây:
“Nếu  trong đời vị lai, con có thể đem lại lợi ích và an vui
cho tất cả chúng  sinh với thần chú này, thì khiến cho con được ngàn 
tay ngàn mắt…” (3)
Mật tâm bi-trí – Quán Tự Tại bồ-tát đặt trí trong bi
Nguyện
là một “kỳ tích” của Phật giáo, và ấn tượng nổi bật ấy đã trao cho 
Phật  giáo một vương miện nhiều quyền năng hơn mọi nền tôn giáo lớn nhất
trên  thế giới này, bao hàm cả triết học lẫn thiền định. Vì nguyện mà 
mối  liện hệ của nó là giải thoát và cứu độ hết thảy chúng sinh, cho nên
“nguyện” đã không còn bất cứ giới hạn nào, dù ở nơi Phật, bồ-tát hay  
Thanh văn hoặc chúng phàm phu. Đến độ mà, bên dưới đức hạnh của bi  
nguyện, chính là nơi ẩn tàng của viên trí hay trí bát-nhã. Do vậy, lược 
bản Bát-Nhã dạy:”Quán Tự tại bồ-tát hành thâm Bát-Nhã ba-la-mật-đa 
thời,  chiếu kiến ngủ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.” Đoạn kinh 
này  muốn nói rằng, vì bồ-tát chứng được trí tuệ thâm sâu, thấy được năm
uẩn  là không, cho nên mọi chúng sinh đều được độ tận. Nói cách khác, 
mỗi một  phương tiện bi là mỗi một phương tiện trí dẫn vào tịch diệt.
Ngoài
ta, Quán Thế Âm ngầm chỉ cho giác tính siêu việt của tất cả chúng 
sinh,  chẳng những ngài luôn năng quán âm thanh của chúng sinh mà mỗi 
chúng  sinh, nếu có thể quán chiếu giác âm trong thể tính của mình, thì 
âm ba  thể tính được quán chiếu ấy, chính là Quán Thế Âm vậy. Nói tóm 
lại, năng  quán tức là sở quán, sở quán tức là năng quán. Tự thể thanh 
tịnh cá  biệt là thể tánh phổ quát của duyên sinh, và như thế “tự tánh 
Di-Đà”  trong một chừng mực nào đó trong pháp tu Quán Âm, chỉ là khái 
niệm một  chiều khi ta không chấp nhận “có” cõi A-Di-Đà ngoài tâm vọng 
niệm. Và  khi thừa nhận “có” Phật độ này, thì ta có thể mang theo mọi 
loại nghiệp  sâu chướng nặng quy hướng về đó mà không nhất thiết phải 
loại trừ. Trong  toán học, mọi con đường có thể giao nhau qua một điểm, 
rồi đi theo  hướng riêng của mình, nhưng trong phép niệm Phật, điểm giao
với Phật là  một điểm giao tuyệt đối – chỉ có một con đường thành Phật 
mà thôi. Điểm  giao đó gọi là Quán Tự Tại.
“Quán Tự Tại”, nghĩa là tính đại tự tại, không bị bất cứ loại phiền não nào trói buộc cả.” (Theo Quán Âm Bửu Điển, p. 05.)
Trong
Phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, đức Thế Tôn đã khuyên ta nên quán niệm
danh hiệu ngài, cũng không ngoài ý nghĩa là để ta chứng đắc tính diệu 
âm  trong thể tính của mỗi chúng ta. Và hơn thế, chính danh hiệu đó đã 
được  ngài đầu tư bằng bi trí từ vô lượng kiếp, và đó cũng là nơi sở y 
an  toàn hơn hết của mọi chúng sinh vốn bị sanh, già, bệnh, chết, ý thức
hệ…  làm cho sợ hãi đảo điên.
Quán Thế Âm của Phổ Môn thị hiện
Quán
Thế Âm còn có một đặc chất nữa là, Phổ Môn thị hiện. Phổ Môn thị hiện,
có nghĩa là bất kể là chúng sinh có nhu cầu gì, thì ngài liền hiện 
thân  thuyết pháp và cứu thoát tùy theo nhu cầu và đặc chất của bất cứ 
loài  hữu tình nào. Do vậy, ngài có 33 ứng hóa thân. Ba mươi ba ứng hóa 
thân,  chứa đựng cách diệu hữu của ngàn tay ngàn mắt, nhắm đến sự giải 
thoát  ngàn nỗi bi thương trừu tượng hay vô thể của vạn loài.
Nên
nhớ  rằng, ba mươi ba thân tướng ấy, không phải là giới hạn của nhân 
quả hay  con số, mà chính là hình thái tương tức tương nhập, đồng thời 
cụ túc  tương ưng của lý duyên sinh. Chẳng hạn, nếu chúng sinh nào muốn 
giải  thoát vừa bằng Phật thân lẫn Thanh văn thân, thì ngài đồng thời 
hiện cả  hai thân để chúng sinh ấy được giải thoát. Hiểu như vậy, tức là
hiểu  được thuật ngữ Phổ Môn, vốn chứa đựng huyền cơ, diệu lý như thế 
nào. Phổ  Môn lại có ý nghĩa rằng, cùng một lúc, vượt mọi không-thời 
gian, bậc  thánh ấy đáp ứng trọn vẹn nhất thiết sở cầu của tất cả chúng 
sinh.
Ba mươi ba ứng hóa thân
Người  ta 
nói rằng trong Phật giáo có đến tám mươi bốn ngàn pháp môn để tu tập  và
mỗi một pháp đều đưa ta đến bờ giác, giải thoát thống khổ. Do đó,  
trong tự thân, pháp Phật vốn là pháp bình đẳng. Tuy nhiên, cách giáo hóa
hay phương tiện giáo hóa thì mỗi pháp là mỗi sai biệt. Vì phương tiện 
truyền thông trong “cõi người ta” là ngôn ngữ, cho nên, cách giáo hóa  
của “cụm A-Di-Đà” – A-Di-Đà Phật, Đắc Đại Thế Chí, Quán Thế Âm -  chủ  
yếu lấy ngôn ngữ làm phương tiện và riêng đối với Quán Âm, cái “đã hẳn” 
là ngôn ngữ còn có cả âm thanh nữa. 
Như ta biết, nguyện của 
Phật  A-Di-Đà là nguyện “ngôn ngữ” – quán niệm danh hiệu ngài – và ngay 
nơi  Quán Thế Âm cũng đã thể hiện điều đó. Trong ba mươi ba ứng hóa thân
mà  nét thù thắng của pháp tu Quán Âm, chính là ngôn ngữ (tôi dùng chữ 
“ngôn  ngữ” thay cho mot và langue của tiếng Pháp hay word hoặc speech –
ngôn  từ và ngữ thuyết - của tiếng Anh). Hơn thế, thân, ngữ và ý lại là
nét  đặc trưng hợp nhất của ngài - ứng hiện tùy duyên và tùy duyên 
thuyết  pháp.
Tiếc thay, ta không phải là một nhà âm thanh học, 
nên ta  không thể biết “sự đầu tư” trong danh hiệu của ngài như thế nào.
Nghĩa  là ngoài tầng số âm thanh của thánh hiệu, thì cái sức thần diệu 
của năng  lực nguyện đã ký gởi vào đó làm sao mà tính trừu tượng siêu 
hình như  thế lại có thể hiện hữu, thực hữu và diệu hữu đến độ “tần số 
rung” ấy  đưa ta đến bờ giác, hay ít ra, khi trì niệm danh hiệu ngài, 
thì dù khổ  đau bao nhiêu, “người ta dần dần cũng được an vui.” Có lẽ 
còn lâu lắm ta  mới thấu hiểu được điều này, và còn lâu lắm ta mới giải 
thích cho người  Tây Phương hiểu được “pháp môn niệm Phật” siêu việt như
thế nào. Tín  không thì chưa đủ, Nguyện không cũng chưa vẹn toàn, phải 
thêm Hành giải,  thì mới vừa lợi ta, lợi người. Nguyện cứu độ của Quán 
Âm, chính là  nguyện hiện thân thuyết pháp.
Tuy nhiên, trong 
“tư-duy-tu” của  Phật giáo, theo đức Dalai Lama, có hai nhóm: chứng 
trước và lý giải sau  hoặc giải rồi chứng sau.(4) Chẳng hạn, đối với 
Thiền Tông Trung Hoa, do  “bất lập văn tự” nên hành giả cầu chứng và 
không phân tích (thực tế, thì  Thiền Tông Trung Hoa, hầu hết đều y trên 
phân tích, ngôn ngữ mà các  Thiền phái này dùng, đôi khi là ngôn ngữ 
biểu tượng, và một thiền giả  thể nghiệm từ ý “tổ” của mình cũng phải 
băng qua lộ trình của sát-na  nghiệm chứng, nghĩa là có sự nối kết của 
ngôn ngữ “cực nhanh” để đưa họ  đến giác ngộ hay chứng tánh. Người ta đã
tốn quá nhiều chữ viết, giấy  mực, kể cả ngôn ngữ biểu tượng để lý giải
về cái “vô ngôn” này. Tuy  nhiên, đó là vấn đề của “ngôn ngữ học”, ta 
chưa đủ trình độ để lạm bàn –  theo Chomsky(5), thì ngôn ngữ hay yếu tố 
ngôn ngữ là một thành viên  không thể thiếu trong một sát-na tâm), còn 
đối với Chỉ và Quán, thì trên  thực tế, chính là phân tích – riêng đối 
với Chỉ (hay gọi là thiền Chỉ),  trong bản thân của phép tu này vốn đã 
có Quán rồi. Và đôi khi hành giả  có thể áp dụng chung cả hai pháp tu, 
vừa Chỉ vừa Quán. Chẳng hạn, người  ta có thể vừa niệm Phật vừa Quán 
Phật hoặc vừa Quán vừa phân tích vô  thường…Tóm lại, hoặc là con đường 
luận chứng hoặc là con đường phi luận  chứng, hoặc người ta có thể áp 
dụng vừa “luận” vừa “tư”. 
Như ta  biết trong pháp tu Quán Âm – 
ngay trong thuật ngữ này – đã nói lên, đây  là một pháp tu lấy âm thanh 
làm nơi y cứ và hành trạng ấy có thể cho  phép ta hiểu rằng, Tịnh độ 
tông hay pháp niệm Phật gần gũi với Mật Tông  hơn và chính bài chú Đại 
Bi là một minh chứng không thể chối cãi. Nếu  như ai đó có đọc Phẩm Phổ 
Môn bằng tiếng Phạn, thì họ sẽ nhận ra rằng,  toàn bộ phẩm ấy là một 
nguồn thơ bất tận – sự nhịp nhàng của nó, như là  các đợt sóng trùng 
dương với những rì rào của thiên thu mênh mông tịch  lặng và bản chất 
của âm thanh thì thực ra, trên mặt “thi tính và thẩm  mĩ” vốn đã viên 
thông cả Chỉ lẫn Quán rồi. Liệu có lẽ đó là lý do mà  trong truyền thống
Tịnh độ tông thường cho rằng, “ông già bà cả thất học  niệm Phật, đôi 
khi thù thắng hơn kẻ trí học nhiều” chăng? Và vì “thi  tính và thẩm mĩ” –
khi đắc danh đã thấy lòng thanh tịnh – cho nên, đôi  khi Tịnh Độ tông 
gọi hành nghi của mình là “tha lực niệm Phật”. Vì “tha  lực niệm Phật”, 
nên lễ bái, sám hối, trì chú, nguyện Phật gia hộ, đọc  tụng kinh Phật, 
phóng sanh, làm việc phước điền…là những hành nghi không  thể thiếu 
trong pháp tu Tịnh độ. Còn vấn đề là những “nghi quỹ” như vậy  có lợi 
lạc – có phải là Phật pháp - hay không, thì tôi chắc rằng không  ai 
“dám” phản đối bao giờ.
Nói đến việc tiếp cận Mật tông mà tông  
Tịnh Độ viên thông, làm ta không khỏi tự hào về phép tu này và nói như  
đức Dalai Lama, thì pháp tu của Mật giáo hầu như thâu nhiếp hết thảy  
pháp tu của mọi trường phái, ngài cho biết:
Phật giáo Tây Tạng y trên Luật nghi của Thanh văn thừa.
Phương
pháp tu tập phù hợp với Phật giáo Nguyên Thủy hay Trưởng Lão bộ, bao  
hàm 37 phẩm trợ đạo và niệm trụ trên đối tượng thiền định đã được tôn  
giả Thế Thân chỉ dạy trong Câu-Xá luận.
Khai phát trí-bi theo các bản kinh Đại thừa như: Bát-Nhã, Pháp Hoa…tức là thâu nhiếp Kinh Thừa.
Thâu nhiếp luận tánh không của Long Thọ và cả Duy Thức của Thế Thân. 
Các
pháp mật tu mà chư thánh trí của Tây Tạng khám phá từ những bản kinh  
Đại thừa được Phật giảng dạy nơi các cõi trang nghiêm…(6) mà cả Trung  
Hoa lẫn Nhật Bản chưa từng thực hiện.
Và, chính tông Tịnh độ là  
một tông phái với niềm tự hào là đã nhiếp dung hầu như trọn vẹn các giáo
pháp như thế theo một cách thế riêng biệt của mình. Chẳng hạn, nhất 
tâm  niệm Phật và các thời công phu trì chú tương tục trong nguyện vãng 
sinh  thành Phật tận độ chúng sinh. Đem tự ngguyện của mình nhập thành 
nhất  thể với “tha lực niệm Phật” mà không cần phải đúng với nghi quỹ 
nghiêm  khắc của những Mạn-đà-la. Thậm chí ta có thể nói theo ôn Trí 
quang, “tu  tuy khó mà dễ, chỉ ròng niệm Phật là đủ…”
Trở lại, Quán Âm Bửu Điển đã chia ba mươi ba ứng hóa thân của thánh Quán Âm thành 7 phạm trù:
1/ Ba tôn thể thuộc về Thánh giả: Phật thân, Bích Chi Phật thân và Thanh văn thân.
2/
Sáu tôn thể thuộc về thiên giới: Đại Phạm vương thân, Đế Thích thân, 
Tự  Tại thiên thân, Đại Tự Tại thiên thân, Thiên nhân thân (thân thể vừa
trời vừa người).
3/ Năm tôn thể thuộc về ngoại đạo: Tiểu vương thân, Trưởng giả thân, Cư sĩ thân, Bà-La-Môn thân
4/ Bốn tôn thể thuộc về nội đạo: Tỳ-Khưu thân, Tỳ-Khưu ni thân, , Ưu-bà-Tắc thân, Ưu-Bà-Di thân.
5/
Sáu tôn thể thuộc về nữ thân và đồng nam đồng nữ thân: Trưởng giả phụ 
nữ thân, cư sĩ phụ nữ thân, tể quan phụ nữ thân, Bà-la-Môn phụ nữ thân,
đồng nam và đồng nữ thân.
6/ Những tôn thân thuộc về Thiên long
bát bộ: Thiên thân, long thân, Dạ-xoa thân, Càn- thát-bà thân, A-tu-la
thân, Ca-lâu-la thân, Khẩn-na-la thân, Ma-hầu-la-già thân.
7/ Tôn thể thuộc kim cang thân: Chấp kim cang thân.
Quán Âm trong Thai tạng giới và Kim cang giới
Trong
hai cảnh giới Kim cang và Thai tạng, thì danh hiệu của thánh Quan Âm  
không giống nhau. Ở Thai tạng giới nơi trung đài Bát hiệp viện, bao gồm,
viện của Liên hoa bộ (Quán Âm viện), Thích Ca viện và viện Văn Thù, 
thì  tôn hiệu của ngài được gọi là bồ-tát Quán Tự Tại, còn trong Thai 
Tạng  giới thì ngài được gọi là bồ-tát Pháp Kim Cang (Kim Cang Pháp 
bồ-tát -   金剛法菩薩). Do vì hiện thân trong bốn viện như đã nêu, cho nên 
hình thái của  thánh Quán Âm cũng đa dạng. Chẳng hạn, trong Liên Hoa 
viện, tức Quán Âm  bộ, thì hình tượng của ngài với tay trái cầm hoa sen 
mới hé nụ và tay  phải với tư thế muốn mở bung cánh hoa, ngầm chỉ cho 
phẩm chất từ bi,  giải thoát vô thủy vô minh của chúng sinh. Còn tay 
trái cầm hoa sen,  ngầm chỉ cho “nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật 
tính.” Và trạng thái  “chưa hé nụ” này, ngầm chỉ cho chúng sinh vì vô 
minh che chướng, nên đảo  điên mê vọng.(7)
Kinh Lăng Nghiêm và pháp tu khét tiếng Nhĩ Căn Viên Thông của thánh Quán Âm
Phải
nói, ngôn cú của pháp tu Nhĩ Căn Viên Thông ở bản tiếng Hán rất cô 
đọng  và vô cùng súc tích, đến độ mà trong vài thư tịch và dịch bản về 
bản  kinh Lăng Nghiêm bằng tiếng Việt đã có những chỗ rất khó hiểu. 
Những gì  diễn ra trong tiến trình siêu hình tu tập của một vị đại thánh
mà qua đó  người ta, tức các nhà dịch thuật từ Phạn ra Hán văn, cố mô 
tả bằng ngôn  từ, hẳn nhiên đã là quá khó và càng khó hơn khi chuyển 
dịch những “thâm  ý” ấy ra tiếng Việt. Cho nên, trong hầu hết các bản 
Việt dịch của đoạn  kinh này vẫn còn vài điểm gút chưa được tháo rời. 
Tiếc thay! ta không  còn Phạn bản để đối chiếu để có được một bản Việt 
dịch tuyệt vời hơn.
Dựa  vào bản chú giải của Viên Trắc đại sư, 
tôi cũng cố gắng thử dịch đoạn  kinh ấy qua một ít hiểu biết của mình về
Phạn văn. Ý tôi muốn nói là qua  cấu trúc của bản tiếng Hán và cách 
giải thích của Viên Trắc, tôi thử  liên hệ đến cấu trúc của tiếng Phạn 
để chọn cho mình một chút hiểu biết  nào đó về dịch từ mà ở đây, đoạn 
kinh ấy là con đường đưa ta vào sự thể  nghiệm chứng đạo đầy chi tiết 
của thánh Quán Âm. Tất nhiên, tôi vẫn mong  những đóng góp từ tất cả bạn
đọc để làm rõ hơn đoạn kinh xem chừng như  “bí hiểm” này. Bí hiểm, vì 
có thực tu mới chứng “cảnh” của “ngôn tu”.
Dựa trên pháp tu nhĩ căn viên thông, ngay nơi đoạn đầu tiên mà văn cảnh thể hiện, ta có thể chia nó làm thành hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất (bản Hán): “Sơ ư văn trung, nhập lưu vong sở, sở nhập ký tịch, động tịnh nhị tướng liễu nhiên bất sinh.”
Tạm
dịch:”Khi ở trong tánh nghe, thì pháp tu hay phương tiện liền được xả 
bỏ; khi lìa phương tiện, tất nhiên hai tướng động tịnh cũng chẳng phát 
sinh.”
Theo Viên Trắc, đoạn này có nghĩa là: “Trên cơ sở thiền  
định (diệu tam-ma-địa) mà triền phược bị tháo bỏ, tức là thiền trụ trên 
“căn” (của năm uẩn) mà sự thể ngộ từ chính hạnh ấy tuần tự diễn ra.  
Trước đó, Phật hỏi với chư thánh đệ tử của mình về viên thông mà “nhĩ  
môn” là mật ý trong tiến trình tháo bỏ triền phược tế vi được (bồ-tát  
Quán Âm) thực hiện như thế nào.”
Thuật ngữ “mật thị - 密示” mà Viên
Trắc dùng, muốn nói rằng, theo Phật thì pháp tu “nhĩ môn” là thù thắng
hơn cả.(8) Ở đây, “căn” chỉ cho sắc pháp. Hành giả đi từ sắc tiến đến 
không. Điều này cho biết rằng, pháp tu mà đức Quán Tự Tại thực hiện,  
thuộc về pháp tiệm tu viên thông. Tất nhiên, khi ta nói tiệm hay đốn  
chứng, đều là “hý luận chủ quan”, vì luận ấy được thiết lập trên cơ sở  
tương quan nhân quả; còn đối với sự thể ngộ của một vị hành giả ngay  
“cái hiện tiền” đó, không thể cho là đốn hay tiệm được, bởi vì sự kết  
nối đồng nhất trong tiến trình viên thông như vậy, được thực hiện bằng  
vô niệm – không có không-thời gian nào để gọi là “tiến trình” cả.
Giai
đoạn thứ nhì (bản Hán): “Như thị tiệm tăng, văn, sở văn tận, tận văn  
bất trú. Giác, sở giác không, không giác cực viên; không, sở không diệt,
sinh diệt ký tận, tịch diệt hiện tiền”
Tạm dịch: “Như vậy, tiến
trình tu chứng tăng dần, mà trong đó năng văn (chủ thể nghe) và sở văn
(đối tượng được nghe) đều bị xả bỏ và ngay cả tính xả bỏ này hành giả 
cũng không bám lấy. Do tận xả, cho nên hành giả thực chứng rằng, năng  
giác (cái biết) và sở giác (hiện tượng được biết) vốn là vô thực thể.  
Khi viên thành sự chứng không, thì năng không (bản chất của giác tính)  
và sở không (không tính của hiện tượng chứng nghiệm) đều bị tận diệt  
(Ngã chấp và Pháp chấp tế vi đều bị diệt trừ); khi diệt được cái diệt  
phát sinh, vậy thì, Niết-bàn tịch diệt liền hiện ra trước mặt.”
Theo
Viên Trắc, thì “ba cái không (giác, sở giác không / không giác cực 
viên  / không sở không diệt) liên quan đến cách diệt dứt lục kiết hay 
sáu  trần, cho nên viên thông mà đức Quán Âm trình bày, hoàn toàn hiển 
thị  quá trình đi từ chỗ cạn đến chỗ sâu; mỗi một giai đoạn tiến tu đều 
được  trình giải phân minh – tháo bỏ lục kiết, phá ngũ ấm – bằng sự tu 
chứng  liễu nghĩa rõ ràng. Trước hết lấy phát bồ-đề tâm làm nguyện, do y
trên  nguyện mà hành phát sinh; trước tiên chọn lấy pháp nhĩ căn làm 
giáo chỉ,  do y giáo mà khởi tu.(9)
(Còn tiếp)
Chú thích:
1. 觀音寶典: “觀世音菩薩不可思議威神之力;已于過去無邊量劫中,已作成佛竟,號正法明如來。大悲愿力,安樂眾生故,現作菩薩.”(千手千眼大悲心陀羅尼經.)
2. Theo Iconography of Avalokiteśvara in Mainland South East Asia by Nandana Chutiwongs. p. 81.
3. Theo Hành Trì Pháp QUÁN THẾ ÂM do L.H Tịnh Huệ trước tác, bản tiếng Việt phát hành nội bộ. p. 10.
4. The New Physics and Cosmology – Dialogues with the Dalai Lama, edited by Arthur Zajonc.
5. Xem Language and Mind by N.Chomsky, p.23-25.
6. Kindness, Clarity, And Insight: Treasures of Tibetan Buddhism. pp. 64-67.
7. Mọi chi tiết trong Thai Tạng giới và Kim Cương giới, xin thỉnh đọc: Quán Âm Bửu Điển, bản tiếng Hán, pp. 72-265.
8.
Thử thị diêu tam-ma, tùng căn giải kết chi chánh hạnh, nhất môn thâm  
nhập chi thứ đệ. Tiền Phật lệnh tuyển trạch viên thông, dĩ mật thị nhĩ  
môn (此是妙三摩,從根解結之正行,一門深入之次第。前佛令撰擇圓通, 已密示耳門.) Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng  
Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa. p. 869. Viên Trắc giảng giải.
9. Toàn bộ
phần chính kinh trên, được Viên Trắc giải thích như sau: “Sơ ư văn  
trung”: Bước ban đầu hạ thủ khởi tu, thì đức Quán Âm đã chọn nhĩ căn làm
đối tượng thể nhập, tức nhĩ căn là diệu môn mà trong đó văn tính (bản 
chất của cái nghe) làm cảnh giới chiếu soi…
“Nhập lưu vong sở”: 
Từ quá khứ lâu xa, đức Phật Quán Thế Âm đã dạy là y trên văn, tư, tu mà
đi vào Tam-ma-địa, giờ đây Quán Thế Âm bồ-tát cũng y theo đó mà tu 
nhập.  Nói nhập lưu tức là nói ngược lại với xuất lưu. Nhĩ căn bị thanh 
trần  chi phối chuyển lưu, chính là nhân của trói buộc; còn phản văn 
nhập lưu  chiếu tánh, tức là căn bản của giải thoát. Vì nhân duyên mà 
chư Phật  thuyết pháp khác nhau, nhưng âm thể đưa tới giải thoát là nhất
quán, cho  nên Phật dạy A-nan rằng, cái mà khiến cho ngươi lưu chuyển, 
sống chết,  trói buộc các căn, chính là sáu căn của ngươi, chớ không là 
đối tượng  nào khác, cũng như cái mà khiến cho ngươi tốc chứng, an lạc 
giải thoát,  cũng chính là sáu căn đó, chớ không là đối tượng nào khác. 
Do đó, Quán  Thế Âm Bồ-tát, chọn pháp môn tu hành là nhĩ căn, hoàn toàn 
phù hợp với  giáo chỉ của đức bổn sư và mười phương chư Phật.
“Nhập
lưu”: Trí  quán là năng nhập, còn nhĩ môn là đối tượng sở nhập. “Nhập”,
tức là đi  ngược trở lại cơ cấu của cái nghe, không bị thanh trần cuốn 
trôi lưu  chuyển, thể nghiệm bản chất của cái nghe  bằng quán chiếu. 
Trạng thái  nhập lưu chiếu tính này (thể nghiệm bản chất của cái nghe 
bằng quán  chiếu), có nghĩa là đão ngược vọng nghiệp chuyển lưu từ vô 
thủy, tùy  thuận sự chân lưu của bản chất cái nghe, của nhĩ căn, do đó 
nhập lưu tức  là tư tuệ bao hàm luôn văn tuệ… (thỉnh xem Phật Đảnh Thủ 
Lăng Nghiên  Kinh Giảng Nghĩa, p.870-877.)
Nguồn: Tập San Pháp Luân 82