Thiền học
Phật hoàng Trần Nhân Tông viết về Thầy
02/07/2014 09:45 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Thượng sĩ là con trai đầu lòng của Khâm minh từ thiện thái vương (1) và anh cả của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu (2). Khi Thái vương mất, Hoàng đế Trần Thái Tông cảm nghĩa phong cho Thượng sĩ tước Hưng ninh vương.

a
Am Ngọa Vân nơi Thượng hoàng Trần Nhân Tông tịch diệt nhập niết bàn…
Ảnh VNN

Thủa nhỏ, Thượng sĩ bẩm tính thanh cao, nổi tiếng thuần hậu. Được cử trấn giữ quân dân ở lộ Hồng (3). Hai lần giặc Bắc xâm lăng (4), có công với nước, lần hồi được thăng chuyển giữ chức Tiết độ sứ vùng biển tại trại Thái - Bình (5).

Về cốt cách, Thượng sĩ là người có khí lượng thâm trầm, phong thần nhân nhã. Ngay từ còn nhỏ đã để chỏm (6) đã hâm mộ cửa không (7). Đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở Phúc - Đường, người đã lãnh hội được yếu chỉ, bèn dốc lòng thờ làm thầy.

Ngày ngày chỉ lấy việc hứng thú với Thiền học làm vui, không hề bận tâm tới công danh sự nghiệp. Rồi người lui về sống ở phong ấp Tịnh - Bang và đổi tên lại là Hương Vạn - Niên. 

Thượng sĩ trộn lẫn cùng thế tục, hòa cùng ánh sáng, chứ không trái hẳn với người đời. Nhờ đó mà nối theo được hạt giống pháp, và dìu dắt được kẻ sơ cơ.

Người nào tìm đến hỏi han, người cũng chỉ bảo cho biết điều cương yếu khiến họ trụ được cái tâm, mặc tính hành tàng, không rơi vào danh hay thực.

Vua Dụ lăng (8) mộ tiếng người từ lâu nên sai sứ vời vào cửa khuyết. Phàm những lời hầu chuyện nhà vua đều là lời siêu tục, do đó vua suy tôn người là sư huynh mà ban cho tên hiệu hiện nay.

Ngày kia, Thái hậu làm tiệc lớn đãi người. Người dự tiệc, gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ, hỏi rằng: "Anh tu Thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao được?".

Thượng sĩ cười đáp: "Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng chẳng cần làm anh. Cô chẳng nghe các bậc cổ đức nói "Văn Thù (9) là Văn Thù, giải thoát (10) là giải thoát" đó sao?"

Khi Thái hậu qua đời, vua Dụ lăng thiết cơm chay các vị sư ở cung cấm. Nhân khi vào tiệc lần lượt mời các bậc danh tăng bốn phương mỗi người làm một bài kệ ngắn để bày tỏ kiến giải của mình.

Nhưng kết quả bài nào cũng "ngầu bùn sũng nước", chưa tỏ ngộ được. Dụ lăng bèn đem giấy đến cho Thượng sĩ. Thượng sĩ bèn viết một hơi bài tụng tự thuật như sau:

Kiến giải bày kiến giải,
Như dụi mắt làm quái.
Dụi mắt làm quái rồi, 
Sáng sủa thường tự tại (11).

Vua Dụ lăng đọc xong liền viết tiếp:

Sáng sủa thường tự tại,
Cũng dụi mắt làm quái.
Thấy quái không thấy quái,
Quái kia liền tự hoại (12).

Thượng sĩ rất khâm phục bài kệ ấy.

Khi vua Dụ lăng ốm, Thượng sĩ viết thư hỏi thăm. Vua mở ra xem. Bài kệ trả lời của Dụ lăng như sau:

Oi nồng hầm hập mồ hôi ướt,
Quần mẹ sinh ta (13) thấm được đâu.

Thượng sĩ đọc bài kệ than thở giày lâu. Đến khi vua Dụ lăng trở bệnh nặng, Thượng sĩ tất tả tới cửa khuyết thì nhà vua đã quy tiên rồi.

Nay ta cũng nguyện đội ơn dạy dỗ của Thượng sĩ. Trước đây, khi ta chưa xuất gia, gặp lúc cư tang Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân đó có đi thỉnh Thượng sĩ. Người trao cho hai bộ ngữ lục của Tuyết Đậu và Dã Hiên (14). Ta cho rằng quá tầm thường, sinh ngờ vực, bèn làm vẻ ngây thơ hỏi Thượng sĩ rằng: "Chúng sinh quen cái nghiệp uống rượu và ăn thịt, thì làm sao tránh được tội báo?"

Thượng sĩ liền giảng giải rằng: "Giả thử có một người đứng quay lưng lại, thình lình có nhà vua đi qua phía sau, người kia không biết hoặc còn ném vật gì vào người vua; người ấy có sợ chăng? Ông vua có giận dữ chăng? Như thế thì biết rằng hai việc không liên quan gì đến nhau vậy". 

Nói rồi Thượng sĩ đọc hai bài kệ:

Mọi pháp đều biến diệt, 
Tâm ngờ tội liền sinh,
Xưa nay không một vật,
Mầm mống hỏi đâu thành.

Ngày ngày khi đối cảnh,
Cảnh cảnh từ tâm ra.
Cảnh tâm không có thật,
Chôn chốn ba - la - mật (15).

Ta lĩnh ý, giây lâu bèn nói: "Tuy là như thế, nhưng tội phúc đã rõ ràng thì làm thế nào?"

Thượng sĩ đọc tiếp bài kệ để chỉ bảo:

Ăn thịt và ăn cỏ,
Tùy theo từng loài đó.
Xuân về cây cỏ sinh,
Họa phúc nào đâu có.

Ta nói: "Nếu vậy thì công phu giữ giới trong sạch không chút xao lãng để làm gì?"

Thượng sĩ chỉ cười mà không đáp. Ta cố nài. Thượng sĩ lại đọc tiếp hai bài kệ để ấn chứng cho ta:

Trì giới và nhẫn nhục,
Chuốc tội chẳng chuốc phúc.
Muốn biết không tội phúc,
Đừng trì giới nhẫn nhục.

Như khi người leo cây,
Đang yên tự tìm nguy.
Không trèo lên cây nữa,
Trăng gió làm được gì.

Đoạn người dặn kín ta: "Chớ có bảo cho người không đáng bảo". Vì vậy ta biết môn phong của Thượng sĩ thật là siêu việt.

Một ngày kia, ta hỏi người về cái gốc của tôn chỉ Thiền. Thượng sĩ ứng khẩu đáp: "Hãy quay nhìn lại cái gốc của mình chứ không tìm đâu khác được". Ta bỗng bừng tỉnh con đường phải đi, bèn xốc áo thờ người làm thầy. 

Ôi! Thượng sĩ là người thần thái nghiêm trang, cử chỉ đĩnh đạc. Khi người đàm luận về cái lẽ cao siêu huyền diệu thì như gió mát trăng thanh. Đương thời các bậc đạo cao đức trọng đâu đâu cũng đều tôn trọng, cho Thượng sĩ là người "tin sâu biết rõ", ngược xuôi thật khó mà lường được.

Sau, người nhuốm bệnh ở trang Dưỡng - Chân (16), không nằm ở phòng riêng mà cho kê một chiếc giường gỗ giữa ngôi nhà bỏ trống, và nằm theo phép "cát tường", nhắm mắt mà tịch.

Người hầu hạ và thê thiếp trong nhà khóc rống lên. Thượng sĩ mở mắt ngồi dậy, gọi người lấy nước rửa tay súc miệng, đoạn quở nhẹ rằng: "Sống chết là lẽ thường, làm gì phải xót thương quyến luyến làm rối chân tính của ta?". Dứt lời người êm thấm mà tịch. Bấy giờ là ngày mồng một tháng Tư năm Tân Mão, niên hiệu Trùng Hưng năm thứ bảy, hưởng thọ 62 tuổi.

Ta thân đến làm lễ viếng và làm bài Thiêu hương báo ân tụng nhưng không chép ra đây.

Sau khi nối đạo, những lúc lên đàn thuyết pháp, ta tự nghĩ có bốn điều ân nặng (17), sữa pháp (18) khó đền, nên sai thợ vẽ bức chân dung của người để dâng cúng, và tự làm bài tụng như sau:

Đây bậc cổ chùy (19),
Đặt tên đâu dễ.
Thước góc Lương hoàng (20),
Mõ chuông Thái đế (21).
Vuông tròn đều hay,
Mỏng dầy đủ vẻ.
Biển pháp một người (22),
Rừng Thiền ba phía (23).

Đỗ Văn Hỷ - Huệ Chi (Theo Thơ Văn Lý - Trần Tập II Quyển Thượng Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, 1983)

Chú thích: (1) Khâm minh từ thiện thái vương: tức Trần Liễu, anh ruột Trần Thái Tông và là thân phụ Trần Quốc Tuấn. (2) Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu: con gái Trần Liễu, em Trần Tung và là chị hoặc em Trần Quốc Tuấn. Bà lấy Trần Thánh Tông. (3) Lộ Hồng: là phần đất trấn Hải - Dương về sau. (4) Hai lần giặc Bắc xâm lăng, ở đây tức là lần thứ hai (1281 - 1285) và thứ ba (1287 - 1288). (5) Trại Thái - Bình: có lẽ là một phần của tỉnh Thái - Bình ngày nay. (6) Để chỏm: Dịch thoát chữ bôi huề, tức là mang cái dùi bằng sừng. Xuất xứ từ câu thơ trong bài Hoàn lan, Vệ phong, Kinh thi "Đồng tử bội huề", nghĩa là con trẻ mang cái dùi bằng sừng. (7) Cửa không: thuật ngữ đạo Phật; không nghĩa là không có gì. Theo Triết học Phật giáo, thế giới là hư huyễn, không có thật, chỉ có cái bản thể mới là thật. Tuy nhiên, cái bản thể ấy cũng là không, có nghĩa là không phải một sự vật cụ thể nào. Không là một phạm trù đối lập với hữu. (8) Dụ lăng: tên lăng của vua Trần Thành Tông. Trong cách xưng hô đời xưa, để tỏ ý tôn kính đối với một vị vua đã mất, người ta không gọi thẳng tên mà dùng tên lăng để thay thế. (9) Văn thù: cũng gọi là Văn thù sư lỵ, mạn thù thất lỵ, phiên âm tiếng Phạn Mânjuri, có nghĩa là đức tốt lành, điều tốt lành, là vị Bồ Tát đứng đầu các Bồ Tát, có đến 108 cái tên, và tiêu biểu cho trí tuệ nên còn gọi là Đại Giác. Theo Phật thoại thì Văn thù là một vị cổ phật, nhưng luôn tùy cơ ứng hóa mà cứu độ chúng sinh. Trong tông Đại thừa, người ta thường vẽ Văn thù ngồi trên lưng sư tử xanh. (10) Giải thoát: thuật ngữ đạo Phật, phiên âm từ tiếng Phạn mộc đề, mộc xoa (moksha). Giải thoát của nghĩa là dứt bỏ được sự trói buộc của mọi sai lầm, phiền não, nhờ vậy sẽ được tự tại, giải thoát khỏi hoặc nghiệp, vượt ra ngoài tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) đạt đến Niết bàn. Giải thoát có hai tính: tính tịnh giải thoát (bản tính của chúng sinh vốn không tró buộc, ô nhiễm) và chướng tận giải thoát (bản tính của chúng sinh vốn thanh tịnh nhưng vì mọi phiền não mê hoặc nên bị che lấp đi; dứt bỏ được các chướng nghiệp ấy thì được giải thoát). (11) (12) Đò Nam Tử Đoàn Trọng Thuật dịch (13) Quần mẹ sinh ra ta: xem Cht 2 bài Giới định tuệ luận, số 9 của Trần Hoảng (14) Tuyết Đậu: Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc phái Vân Môn, tên thật là Trùng Hiển, thầy của Thiền sư Thảo Đường đời Lý. Dã Hiên: chưa rõ là người nào. (15) Ba-la-mật: ngoài 6 phương châm như ở lạc độ, còn có thêm 4 điểm: a) Phương tiện; b) Nguyện; c) Lực; d) Tri (16) Trang Dưỡng -Chân: chưa rõ ở đâu (17) Bốn điều ân nặng: nguyên văn là từ trọng, có thể là tứ trọng, có thể là tứ trọng ân, hoặc tứ trọng cấm. Theo ý nghĩa đoạn văn, chúng tôi cho đây là tứ trọng ân, là bốn điều ân nặng: 1. Ơn cha mẹ; 2. Ơn chúng sinh; 3. Ơn vu; 4. Ơn Tam bảo. Người tu Phật lúc nào cũng phải lo đền đáp bốn ơn trọng ấy bằng sự cung kính, cúng dường, phụng sự. (18) Sữa phép: thuật ngữ nhà Phật: đem cái tư vị của chính pháp để nuôi dưỡng cái pháp thân của người học đạo, như người mẹ dùng sữa nuôi con. (19) Cổ chùy: cái dùi xưa, thể hiện cho các bậc cao tăng đại đức. (20) Lương Hoàng: tức Lương Vũ Đế, tác giả cuốn Lương hoàng sám (21) Thái đế: tức Thái hoàng, tác giả phải đổi chữ đế vì âm vận câu thơ. Theo Sử ký, Tần Thủy Hoàng kỷ thì đời xưa có Thiên hoàng, Địa hoàng, và Thái hoàng. Vậy Thái hoàng là Nhân hoàng. (22) Một ngươi: nguyên văn độc nhỡn, đúng ra là "nhất chích nhỡn": một con mắt. Một con mắt nhìn sự vật một cách đúng đắn. Theo Bích nhan bát tắc, nếu có đầy đủ một con mắt (tức nhỡn tri minh giác) thì có thể chỉ ngồi một chỗ mà đoán định được mười phương. Ở đây Trần Nhân Tông ca trụng Tuệ Trung Thượng sĩ là một bậc đại trí tuệ của Thiền. (23) Tam giác: tức ngọn núi Côn Luân. Theo Thập châu ký: núi Côn Luân rộng hàng muộn dặm hình như cái lọng đặt ngửa, đưới hẹp trên rộng có ba góc (tam giác). Tác giả dùng điển này để nói Thượng sĩ cũng là một quả núi lớn trong rừng Thiền.

http://giacngo.vn/

Bao Hiem BSH
» Video
» Ảnh đẹp
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch