Căn bản pháp hành Thiền
01/02/2010 09:29 (GMT+7)
Căn bản pháp hành Thiền
Mục lục

Giới thiệu Tác giả

Đại Đức Acharn PLIEN PANYAPATIPO ra đời vào ngày 16 tháng 11, năm 1933, trong gia đình Wongsachandra, quận Sawang-Dan-Din, tỉnh Sakon Nakorn, miền Đông Bắc xứ Thái. Lúc còn thơ ấu Ngài sống với ông bà, cho đến năm lên 11 tuổi thì trở về phụ giúp cha mẹ buôn bán tiệm trong làng.

Khi lên 18 Ngài tỏ ý muốn theo học ngành y khoa, do đó bắt đầu phụ tá cho vị bác sĩ trong xứ, vốn là người trong họ. Nhưng rồi Ngài gác lại dự định đi Bangkok học nghề y sĩ để vâng lời cha mẹ ở nhà phụ giúp gia đình.

Mặc dầu từ lúc thiếu thời lúc nào ý nguyện cũng hướng về đời sống tu sĩ nhưng mãi đến năm 1959 Ngài mới xuất gia tại Wat Dhat' Mechai, thuộc tỉnh Sakon Nakorn và sau đó ba năm, đậu bằng Giáo Pháp cấp Một.

Sau mùa An Cư Kiết Hạ năm ấy Ngài lên đường tìm minh sư để học pháp hành và gặp được nhiều vị Thiền Sư nổi tiếng vào thời bấy giờ tại miền Đông Bắc, miền Nam và miền Bắc xứ Thái, quan trọng nhất là Ngài Acharn Luang Pu Brohm Jirapunno, Acharn Luang Pu Thet Desaransi, Acharn Luang Pu Teur Achaladhammo và sau cùng Ngài Luang Pu Waen Suchino (theo Thái ngữ, danh từ "Acharn" -- Ajahn, A-chàn -- có nghĩa là Thầy. Luang Pu là Đại Đức Ông, hay Sư Ông, bao hàm ý niệm vừa tôn kính vừa quý mến).

Trong hiện tại Acharn Plien là Tăng Trưởng Wat Aranyavivake, trong quận Mae Taeng, tỉnh Chieng Mai, miền Bắc xứ Thái.

-oOo-

* Tính chất cốt yếu của pháp hành thiền Định (Samàdhi) là học hỏi nhằm hiểu biết cái tâm.

* Tâm hay biết và suy tư , nghĩ ngợi điều này rồi nhảy sang điều kia, quây quần theo những vấn đề khác nhau. Lơ đểnh buông lơi, lợi dưỡng trong giả tưởng và những ý niệm ấy là làm cho tâm luôn luôn khuấy động, không bao giờ ngừng nghỉ.

* Hay biết, theo dõi, ghi nhận cái tâm suy tư, được gọi là niệm (sàti).

* Thấu hiểu cái tâm đang suy tư là sampajanna, tức hiểu biết rõ ràng và sáng suốt.

* Chúng ta cần phải rèn luyện chú niệm (sàti) và hiểu biết rõ ràng (sampajanna) đủ bén nhạy để kịp theo dõi tâm.

Nếu chú niệm còn yếu ắt không đủ lanh lẹ để theo kịp cái tâm vốn phóng chạy đầu này, xẹt nhảy đầu kia vô cùng nhanh chóng, và do đó pháp hành vắng lặng (samàdhi) không thể tiến triển tốt đẹp, ta không thể gom tâm vào đề mục đã chọn, không thể chăm chú vào hơi thở-vào và thở-ra. Thay vì thế, tâm cứ tiếp tục trôi chảy theo con đường thiên nhiên của nó, niệm bị bỏ rơi lại, mãi chạy theo sau không bắt kịp. Chúng ta cố gắng đem nó trở về. Vừa gần đến nơi thì nó đã lẫn thoát nhảy vọt sang "Hoa Kỳ", và trong khi theo dõi, ta thấy nó đã về Thái… hoặc sang Đức. Chúng ta chỉ có thể đuổi chạy theo sau nhưng không bắt kịp vì niệm vẫn chưa được phát triển đầy đủ, chưa thuần thục. Niệm không theo kịp tâm. Đó là căn nguyên của những vấn đề khó khăn mà hành giả gặp phải trong khi trau giồi thiền vắng lặng (cũng gọi thiền định, hay thiền chỉ). Vì lẽ ấy, điều chánh yếu là phải gia công chuyên cần trau giồi niệm (sàti).

* Pháp hành nhằm phát triển chú niệm khởi đầu bằng cách hay biết oai nghi (tư thế) của thân trong giây phút hiện tại.

Đứng, hay biết mình đang đứng. Đi, hoặc nằm, ngồi, luôn luôn theo sát sự di chuyển và oai nghi của thân vào lúc ấy. Tắm, ăn, hoặc đi giải, luôn luôn hay biết đầy đủ những gì đang xảy ra. Sự hay biết không gián đoạn những tác động của thân đem niệm (sàti) và hay biết rõ ràng (sampajanna) lên hàng đầu.

Một khi chú niệm và giác tỉnh đã thuần thục, quý vị sẽ hay biết sự thay đổi oai nghi ngay vào lúc tác động xảy diễn: đang làm việc, giặt quần áo, rửa chén, đọc hay viết, may vá hay thêu thùa, bất luận việc gì mà quý vị đang làm, quý vị sống trong đó, ngay trong hiện tại, trong tác động. Ngay trong lúc đang làm, trong công việc đang làm. Không để phóng tâm, chớ nên lơ đểnh để tâm xẹt nhảy. Đó là phương cách trau giồi niệm trong cuộc sống hằng ngày.

Quý vị sẽ thấy rằng niệm trở nên nhanh nhẹn, sắc bén hơn, có thể nhận ra và bắt kịp cái tâm luôn luôn trôi chảy. Bất luận nơi nào mà tâm phóng đến, niệm sẽ theo sát và kịp thời đem trở về đề mục (cũng gọi là công án). Đã điêu luyện hơn trong pháp hành, quý vị có thể thành công gom tâm an trụ vào hơi thở-ra thở-vào. Mỗi khi tâm phóng, quý vị sẽ có thể bắt lại và đem trở về hơi thở.

Giờ đây niệm (sàti) đã thuần thục và sắc bén, quý vị hãy đưa tâm cùng với chiều hướng suy tư của nó an trụ vào hơi thở cho đến khi cảm nhận luồng hơi thở ra vào. Vào lúc quý vị thật sự cảm nhận hơi thở, tâm cũng hiện hữu cùng với hơi thở. Nếu không thấy rõ ràng hơi thở, ắt tâm đã phóng đi đâu khác. Chừng khi đem tâm trở lại, quý vị phải có thể hiểu biết như vậy. Dầu sao, nếu không còn ở với hơi thở tâm sẽ phóng đi bất định và không còn hay biết.

Quý vị hành giả nào có thể gom tâm quán niệm ở hơi thở một cách tương đối dễ dàng sẽ thấy rằng tâm mình trở nên an tĩnh, vắng lặng, cùng với hơi thở-ra thở-vào. Có sự hay biết rõ ràng từng hơi thở-ra, thở-vào, nặng hay nhẹ, dài hay ngắn, luồng hơi này tiếp theo luồng hơi khác. Trạng thái hay biết như vậy chỉ rằng tâm đã cùng ở với hơi thở.

Các tin đã đăng: