Phật pháp ứng dụng
Hãy nhìn vào cái chết để sống hạnh phúc
30/10/2013 13:45 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Chúng ta biết rằng các pháp là vô thường nhưng chúng ta lại đắm đuối vào chúng. Chúng ta biết các pháp là khổ, nhưng vẫn say mê chúng. Chúng ta biết các pháp là vô ngã, nhưng vẫn say đắm chúng. Sự hiểu biết về vô thường, khổ, vô ngã của chúng ta là không thực. Như vậy, đích xác phải hiểu các pháp này ra sao?

Bạn phải có chánh niệm định tĩnh hay thiền minh sát. Nói cách khác, hãy  quan sát sự biến hoại liên tục trong tâm bạn. Đây là nơi mà tâm tiến đến sự phát triển tuệ giác giải thoát, nắm lấy cái chết làm đề mục của tâm. Cái chết ở đây đề cập đến cái chết có mặt trong hiện tại—các cảm giác mang tính vật lý đang khởi lên và biến mất, các hoạt động tâm lý khởi lên và biến mất, tất cả đều nằm trong một sát na (chóc lát) của nhận thức. Chỉ khi nhận thức dựa trên cấp độ này, thì bạn mới có thể thấu rõ chánh niệm về cái chết.

Bây giờ, nêu ra đề tài về cái chết, chúng ta phải phản chiếu về sự sống nhằm thấy rõ có bao nhiêu cách mà các cảm giác và các hoạt động tâm thức được sinh ra. Đây là một cái gì đó mà một người đã đạt đến tâm thanh tịnh mới có thể biết được


amitabha (1).jpg


Các cảm giác khởi lên theo năm cấp độ tinh tế như sau:


1.Sắc xấu (hina-rupa): những cảm giác nặng nề, khó chịu, nhức nhối và đau đớn. Khi những cảm giác này khởi lên, bạn hãy tập trung chú ý xem những gì tạo ra chúng cho đến khi chúng biến mất.


2. Sắc đẹp (panita-rupa): những cảm giác thích thú khiến cho cơ thể cảm thấy dễ chịu, nhẹ nhàng và thanh khiết. Hãy tập trung chú ý vào những gì tạo nên chúng cho đến khi chúng biến mất.


3. Sắc vi tế (sukhumala-rupa): các cảm giác tinh tế, êm dịu, nhẹ nhàng và linh động. Khi chúng khởi lên, bạn hãy tập trung chú ý vào những gì tạo ra chúng cho đến khi chúng biến mất.


4. Sắc thô (olarika-rupa): các cảm giác vật lý đưa đến một cảm giác hùng tráng, phong phú, sáng suốt và hân hoan. Khi những cảm giác này khởi lên, bạn hãy tập trung chú ý để nhận rõ những gì tạo nên chúng cho đến khi chúng biến mất.


Tất cả bốn loại cảm giác này khởi lên và biến mất do chính bản chất của chúng; và có thể nhận rõ nơi chúng xuất hiện đầu tiên.


5. Ý hữu (mano-bhava): các trường hợp tưởng tượng xuất hiện qua năng lực của tâm. Khi chúng khởi lên, bạn hãy chú ý nắm lấy những biểu hiện của chúng cho đến khi chúng biến mất. Khi biết rõ theo cách này, thì bạn thâm nhập vào lãnh vực chánh niệm đích thực về cái chết.


Một sự giải thích về loại cảm giác này: khi tâm trở nên bình lặng và định tĩnh, thì nó có năng lực để tạo ra những hình ảnh trong trí tưởng tượng (các cảm giác nội tại, hoặc các cảm giác trong cảm giác). Bất cứ điều gì hình dung  ra, nó đều nghỉ rằng sẽ xuất hiện với nó sau đó, và khi chúng xuất hiện, thì tâm có xu hướng thâm nhập vào chúng, đồng thời rời xa nơi cư trú của mình (nó có thể cách rất xa). Nếu tâm bám chặt vào các cảm giác này, thì nó được gọi là tái sanh—đơn giản bởi vì nó không có cảm giác về cái chết. Những cảm giác này có thể xuất hiện trong bất cứ năm cách sau:

          a.Sanh khởi từ tình trạng của cơ thể và biến mất khi tình trạng đó thay đổi.

          b. Sanh khởi từ các ý tưởng bị tham, sân hoặc si chiếm hữu—khởi lên, định tĩnh rồi biến mất.

          c. Sanh khởi theo hơi thở ra và biến mất theo hơi thở vào.

          d. Sanh khởi từ sự thanh lọc máu huyết trong phổi—xuất hiện và biến mất trong chóc lát.

          e. Sanh khởi từ việc bơm máu của tim đi vào các bộ phận khác của cơ thể, áp lực của máu tạo ra các cảm giác khởi lên tương ứng với thị giác, thanh giác, khứu giác, vị giác và xúc giác. Các cảm giác kiểu này khởi lên và biến mất trong mỗi sát na.


Một loại cảm giác khác được gọi là “sắc hành xứ”—các cảm giác xoay quanh cơ thể vật lý. Có năm loại—cảm giác về ánh sáng, âm thanh, mùi, vị và xúc chạm—mỗi loại bao gồm năm cấp độ. Ví dụ, ánh sáng thông thường đi qua một cách chậm chạp; trong sự liếc nhìn của con mắt, nó hội tụ lại rồi sau đó biến mất. Cấp độ thứ hai là như ánh sáng tinh vi, đi xa hơn, và cấp độ thứ ba là đi xa hơn nữa. Cấp độ thứ tư và thứ năm có thể đi khắp vũ trụ. Tương tự, các cảm giác về âm thanh, mùi, vị và xúc chạm cũng như thế. Những mối quan hệ giữa tất cả các tiềm lực trong vũ trụ vạn hữu đang tương tác trong từng sát na, chỉ khác biệt là nhanh hay chậm mà thôi. Đây là tính sai biệt được gọi là “vô thường”—sự biến chuyển vốn có. Bất cứ ai bị vô minh che lấp đều thường xuyên suy nghỉ rằng tất cả điều này là không thể xảy ra, nhưng thực chất đây là cách mà các pháp thể hiện bản chất của chúng. Chúng ta sẽ đi đến hiểu biết điều này qua kỹ năng thể nghiệm—không thông qua khẩu hiệu và các khái niệm bình thường. Đây được gọi là sự hiểu biết chân thực mà các thiền sinh phát huy tuệ nhãn sẽ nhận thức rõ chúng: biết các cảm giác này sanh khởi, sự tồn tại và biến hoại của chúng, trong hạn định thuộc các đặc tính ban sơ và nguyên lý cơ bản của chúng.

                                   Biết các pháp như thực

                                  Giải thoát, thanh tịnh, an nhiên, buông xả.

                                 Niết bàn là hạnh phúc tối thượng.

Nên biết, quãng thời gian mà các hoạt động của tâm sanh khởi và hoại diệt nhanh hơn các cảm giác gấp nhiều ngàn lần. Để có thể nắm bắt được tiến trình sanh khởi và hoại diệt của chúng, nhận thức của chúng ta phải trở nên định tĩnh. Có bốn loại hoạt động tâm thức như sau:

          -Thọ (vedana): sự thể nghiệm của tâm qua các cảm thọ vui, khổ và không khổ không vui.

          -Tưởng (sanna): thừa nhận và bám víu các đối tượng của tâm.

          -Hành (sankhara): sáng tạo tâm thức hoặc cấu thành điều thiện và bất thiện.

          -Thức (vinnana): hiểu biết rõ ràng hoặc nhận thức rõ các đối tượng.

Một loại của các hoạt động tâm thức này tồn tại một chỗ, sanh khởi và biến hoại qua quán chiếu trong chóc lát. Một loại khác được gọi là đối tượng của thọ, đối tượng của tưởng v.v phóng ra bên ngoài để khảo cứu thế giới. Mỗi một loại đều có năm cấp độ (năm uẩn), khác biệt ở chỗ là chúng thô thiển hay tinh tế, nhạy bén hay ngu ngơ, nhanh hay chậm. Năm cấp độ này liên kết với mỗi loại khác, tỏa ra trong nhiều phạm vi, sau đó quay lại điểm khởi nguyên của chúng, hoại diệt rồi sinh khởi—tất cả đều không có điểm kết thúc.


Khi không có kỹ năng để nhận thức các cảm giác cơ bản và các hoạt động của tâm tồn tại ở một chỗ, chúng ta không thể thấy rõ đối tượng của các cảm giác và các hoạt động tâm thức tuôn chảy tròn đầy. Điều này được gọi là “vô minh”[1], không hiểu rõ “kiết sanh thức”[2], sanh khởi hoạt động (hành), bản chất của nghiệp. Điều này dẫn đến kết quả như các cảm giác và cảm thọ được theo sau bởi tham ái, và sau đó hành động bám víu sanh khởi cấp độ khác của ý thức—của các đối tượng cảm giác—và vòng xoáy cứ tiếp tục xoay tròn. Đây được gọi là “khandha-vitta”, nghĩa là vòng quay của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), quay tròn và biến đổi thất thường, không nhất quán. Thấy rõ điều này thì gọi là aniccanupassana-nana, nghĩa là nhận thức rõ bản chất đích thực của vô thường. Điều này được biết qua tuệ nhãn, tức kỹ năng của nhận thức chính xác.


Như vậy, những người thực tập các phương pháp của thiền minh sát[3] nên ứng dụng tính nhạy bén và thận trọng một cách đầy đủ nếu họ hy vọng giải thoát khỏi mê mờ. Các hành, trong tình huống này, giống như những đợt sóng trên biển cả. Nếu chèo thuyền ra khơi khi những đợt sóng to nổi lên, thì tầm nhìn của chúng ta sẽ bị hạn chế. Tất cả các cảm giác nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và tưởng tượng của chúng ta đều bị giảm sút. Chúng ta không thể nhìn xa hơn trong khoảng cách đó. Điều này có nghĩa khi tâm chúng ta bị mắc phải những chướng ngại, chúng ta sẽ hoàn toàn không nhận thức rõ cái chết. Tuy nhiên, một khi chúng ta vượt qua các chướng ngại đó, thì giống như chèo thuyền vượt qua đại dương khi sóng yên biển lặng. Chúng ta sẽ thấy những đối tượng xa hơn trong khoảng cách đó. Mắt của chúng ta sẽ nhìn thấy rõ, tai chúng ta sẽ nghe rõ, các cảm giác ngửi, nếm, xúc chạm và tưởng tượng của chúng ta sẽ trở nên mênh mông rộng lớn. Nước sẽ trở nên trong xanh, và ánh sáng trở nên rực rở. Chúng ta có thể biết tất cả xuất hiện xung quanh mình.


Tương tự, những người biết rõ cái chết phải bắt đầu bằng cách thực tập thiền định như là một nền tảng để phát triển tuệ giác giải thoát. Năm loại cảm giác được đề cập đến ở trên sanh khởi như thế nào? Những nguyên nhân của chúng là gì? Chúng biến hoại ra sao? Những cảm thọ tâm sinh lý khởi lên như thế nào? Chúng biến hoại ra sao? Những nguyên nhân của chúng là gì? Các nhãn hiệu và khái niệm khởi lên như thế nào? Những nguyên nhân của chúng là gì? Chúng biến hoại thế nào? Các hoạt động của tâm sanh khởi ra sao? Các nguyên nhân của chúng là gì? Chúng biến hoại thế nào? Ý thức sanh khởi như thế nào qua các cảm giác thấy, nghe, ngưởi, nếm, xúc chạm và suy nghỉ? Những nguyên nhân của nó là gì? Nó biến hoại ra sao?


Nhìn chung, có bốn cấp độ tác động đến mỗi yếu tố trong năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức): thế giới nội tại tại và ngoại tại, tuôn chảy và đứng yên. Những điều này có thể được biết đến trong bất cứ lúc nào, nhưng chỉ những người có tuệ giác xuất phát từ việc luyện tập tâm trong tỉnh lặng và thiền minh sát mới có thể biết rõ cái chết trên cấp độ này.


Tuệ giác sanh khởi theo cách này được gọi là “pubbenivas-anussati-nân”, nghĩa là hiểu biết rõ tất cả các cảm giác trong quá khứ, tương lai và hiện tại. Những cảm giác này khác nhau ở cách thức chúng sanh khởi và biến mất. Biết được điều này tức là đã đạt được một kỹ năng nhận thức dựa trên thể nghiệm.


Thiên nhãn minh (cutupapata-nana): với loại trí tuệ này, chúng ta có thể nắm bắt được các trạng thái tâm mình khi chúng sanh khởi và hoại diệt. Các trạng thái tâm ấy, đôi lúc, sanh khởi  và biến hoại tốt; đôi lúc  sanh khởi và biến hoại xấu; đôi lúc khởi lên tốt và biến hoại xấu; đôi lúc sanh khởi xấu và biến hoại tốt. Để nắm bắt vết tích theo cách này, thì phải biết rõ các trạng thái của hiện hữu và tái sanh.


Lậu tận minh (asavakkhaya-nana): khi tuệ giác thuộc kỹ năng này sanh khởi,  nó dẫn đến phá tan vô minh với cách thức mà các cảm giác và hoạt động của tâm sanh khởi và hoại diệt, sau đó sanh khởi trở lại, đơn giản nó chỉ xoay quanh: các cảm giác thô thiển đi qua với chu kỳ chậm, các cảm giác tinh tế đi với chu kỳ nhanh hơn; các hoạt động của thô tâm (tâm thô tháo) đi qua chậm, các hoạt động của tâm vi tế đi với tốc độ nhanh hơn. Khi nắm bắt được mấu chốt của điều này, bạn biết rõ hình thái của phiền muộn. Bấy giờ, hãy tập trung chú ý trở lại tâm của bạn để thấy rõ nó có trung hòa hay không tại thời điểm đó. Nếu tâm chạy theo sự hiểu biết của nó hoặc các thứ mà nó biết, thì được gọi là kamasukkallikanuyoga—đắm mình trong khoái lạc. Nếu tâm không chạy theo hiểu biết của nó hoặc những thứ mà nó biết, thì được gọi là attakilamathanuyoga—đắm mình trong khổ hạnh. Một khi bạn đã thấy rõ điều này, thì hãy điều chỉnh tâm trở nên trung hòa hướng về bất cứ điều gì mà nó biết: thời  điểm nhận thức đó là trạng thái tâm đang thực hành chánh đạo. Khi chánh đạo sanh khởi, thì các nguyên nhân của sầu não biến mất. Hãy cố gắng với cách tốt nhất của bạn để giữ trạng thái tâm đó tiếp tục biểu hiện. Hãy theo đuổi nó đến mức tối đa nếu bạn có thể. Tâm, khi nó ở trong trạng thái đó thì được cho là phát triển chánh đạo—và tại bất cứ thời điểm nào dù chánh đạo bền vững, biến hoại và không hiện hữu.


Khi có thể thực hiện được điều này, bạn đạt đến cấp độ nơi mà mình biết rõ cái chết. Những người biết rõ cái chết theo cách này thì sau đó có thể giảm bớt số lượng lớn cái chết của chính họ. Một số các bậc Thánh có hơn bảy lần chết (sanh tử) trước đó, một số chỉ có hơn một lần chết, và số khác hoàn toàn vượt qua cái chết. Các bậc Thánh này là những người hiểu rõ sanh tử, và vì lý do này, họ chỉ còn một vài lần sanh tử. Thật rất khó để tìm ra những người bình thường hiểu rõ sanh tử của chính họ theo cấp độ này. Nói chung, sự sanh tử thông thường không phải là đặc biệt cần thiết, nhưng những người không hiểu giáo pháp lại đề cao chuyện sanh tử như là một điều phổ biến.


Vì vậy, bất cứ ai biết được cái chết theo cấp độ này đều phải phát triển kỹ năng nhận thức xuất phát từ việc rèn luyện tâm. kỹ năng ở đây là biết rõ sự ưu tư của tâm trong quá khứ, tương lai và hiện tại. Đây là kỹ năng nhận thức, tức sự hiểu biết chơn chánh hay trí tuệ. Việc buông xã quá khứ, tương lai và hiện tại, hoàn toàn không bám víu vào bất cứ điều gì: đây là thanh tịnh và giải thoát.


Nói về vô minh, nó thực sự là điều đối lập (với trí tuệ): không biết những gì về quá khứ, tương lai và hiện tại—sự sanh khởi và biến hoại của các cảm giác và các hoạt động của tâm thức, hoặc thân và tâm—hay hầu hết chỉ hiểu biết dựa trên nhãn hiệu và các khái niệm được ghi nhớ từ những gì người khác nói, chứ không hiểu biết dựa trên cấp độ nhận thức mà chúng ta phát huy ở chính mình. Tất cả điều này được gọi là vô minh, hoặc ngu si.


Không quan trọng mấy khi chúng ta sử dụng những từ ngữ trí tuệ và tỉnh giác, vì nó vẫn  không khiến chúng ta đạt được giải thoát. Ví dụ, chúng ta biết rằng các pháp là vô thường nhưng chúng ta lại đắm đuối vào chúng. Chúng ta biết các pháp là khổ, nhưng vẫn  say mê chúng. Chúng ta biết các pháp là vô ngã, nhưng vẫn say đắm chúng. Sự hiểu biết về vô thường, khổ, vô ngã của chúng ta là không thực. Như vậy, đích xác phải hiểu các pháp này ra sao? Phải hiểu như:

                             Biết rõ hai bên

                             Buông xả hai lối

                             Bỏ hết mọi thứ.


“Biết rõ hai bên” nghĩa là thấu hiểu cái gì là thường và cái gì là vô thường, cái gì là khổ và cái gì là an vui, cái gì là tự ngã và cái gì là vô ngã. “Buông xả hai lối” nghĩa là không bám chấp vào các pháp là thường hay vô thường, không bám chấp vào các pháp là khổ hay an vui, không bám chấp vào các pháp là ngã hay vô ngã. “Bỏ hết mọi thứ” nghĩa là không chấp chặt vào quá khứ, tương lai và hiện tại: sự tỉnh thức không hướng về phía trước hay phía sau, tuy vậy bạn không thể nói rằng nó đang đứng bám vào một chổ. Phải nói đó là:

Yavadeva nanamattaya patissatimattaya anissito ca viharati na ca kinci loke upadiyati.

“Chánh niệm và tỉnh thức, tâm an nhiên tự tại, không vướng chấp các pháp”.



[1]Vô minh: hay u mê là một khái niệm quan trọng trong những lời giảng huấn của Phật. Phật giảng rằng Vô Minh là một trong ba thứ nọc độc (tam độc) gồm có Tham Lam, Hận Thù và Si mê (Tham, Sân, Si). Vô minh tức là si mê, u tối, là sự hiểu biết sai lạc thực thể của những hiện tượng xảy ra chung quanh ta và trong tâm thức ta. Lầm lẫn do hiểu biết sẽ đưa đến lầm lẫn trong hành động và những xúc cảm bấn loạn trong tâm thức. Phật trình bày Vô Minh như là một mối giây, một khoen móc nối chính yếu trong chuỗi dài tương tác (nhị tập nhân duyên) trói buộc mọi sinh linh (chúng sinh) trong thế giới ta bà (sa-bà), còn gọi là thế giới Luân hồi (Samsara). Thế giới Luân hồi tức là một thế giới luôn luôn biến động và đổi thay (vô thường) đang xảy ra chung quanh ta, trên thể xác ta và trong tâm thức ta.

Vô minh tiếng Phạn là Avidyà và tiếng Pa-li là Avijja, nghĩa từ chương là « thiếu hiểu biết », « thiếu khoa học ». Theo lời giảng huấn của Phật, Vô minh không phải là sự thiếu hiểu biết có tính cách học hỏi từ chương trong sách vở, hay sự thiếu hiểu biết có tính cách thông thái chất chứa trong phần trí nhớ của ta. Vô minh mà Phật thuyết giảng ám chỉ một cái nhìn sai lầm, một quan niệm lệch lạc, thiếu sự cảm nhận trực tiếp về thực thể hay bản chất đúng thực của những hiện tượng chung quanh ta. Phật dạy ta nhìn (quán nhận) bản chất đúng thực của mọi vật thể (và mọi hiện tượng) như thế này : « Đây là một vật thể, đây là cách thức dựa vào đó vật thể hiển hiện ra, đây là sự chấm dứt của nó, và đây là con đường (hay cách thức) đưa đến sự chấm dứt của nó. Nếu ta nhìn bằng phương cách như thế, ta sẽ thấy rằng mọi vật thể (và mọi hiện tượng) tự nó không có một sự hiện hữu thật sự nào cả, một sự độc lập nào cả ». Câu ấy có nghĩa là tất cả mọi vật thể và mọi hiện tượng ta thấy đều do nhiều thành phần, nhiều điều kiện tạo ra nó. Những thành phần và những điều kiện ấy biến đổi không ngừng, những vật thể và những hiện tượng do chúng tạo ra vì thế cũng biến đổi không ngừng.

Vậy Vô minh là gì? Vô minh là cái nhìn cứng ngắc cho rằng mọi vật thể tự nơi chúng chúng có thật, giống như có một bản thể thật sự bất di dịch (tự tại) mà ta có thể nắm bắt được, chiếm giữ được. Chữ mọi vật thể nói đến ở đây không những chỉ định các vật thể vật chất và những hiện tượng bên ngoài mà còn gồm cả những vật thể thuộc tâm thức, tức những giác cảm, những cảm nhận (cảm biết), những thành phần duy ý hay chủ tâm (sự bám níu), tri thức (sư hiểu biết) và tư tưởng (tư duy) của ta nữa. Năm thành phần này Phật gọi là « năm thứ cấu hợp của sự chiếm hữu » (ngũ uẩn). Tại sao gọi là chiếm giữ ? Chỉ vì khi ta chiếm giữ làm sở hữu năm thứ cấu hợp luôn luôn biến động ấy sẽ làm phát sinh trong ta cái ảo giác về thực thể của một cái « tôi » bền vững, tức ảo giác của một cái « ngã » (tiếng Phạn : àttman, tiếng Pali : atta), tức một cái « ta » có thể tính trường tồn.

[2] Kiết sanh thức: là thức liên hệ giữa đời này và đời sau  của nhiều cảnh giới từ địa ngục cho đến cõi cao nhất của vô sắc giới. Nếu đọc giả muốn hiểu rõ hơn về Kiết sanh thức, thì nghiên cứu tác phẩm Thắng Pháp Tập Yếu Luận, chương V, do HT Minh Châu biên dịch.

[3] Thiền minh sát: Trong tiếng Pali, từ 'Vipassana'là danh từ ghép hai từ khác là: “Vi”có nghĩa là “bằng nhiều cách khác nhau” và “passana”có nghĩa là “thấy”. Vì vậy, nguyên chữ “Vipassana” có nghĩa là “thấy bằng nhiều cách khác nhau”, và khi được dùng trong ý nghĩa về “Thiền” thì “Vipassana” có nghĩa là: “thấy mọi đối tượng hay hiện tượng là vô thường(anicca), khổ(dukkha) và vô ngã(anatta)”.

Nguyên tắc của Thiền Minh Sát là “quan sát” hay “quán sát” bất kỳ quá trình tâm vật lý khởi sinh lên ngay trong khoảng khắc này. Như vậy việc định tâm không phải được cố định trên một đối tượng riêng lẻ nào, mà trên những khoảng khắc định tâmhay sát-nađịnh (khanika samadhi) khởi sinh lên khi tâm không còn dính với năm chướng ngại. Trong lúc này, tâm có thể “lưu ý” bất cứ đối tượng nào nổi lên hay khởi sinh một cách mạnh mẽ, và nó sẽ lộ ra bản chất đích thực của nó (yathabhuta).

www.daophatngaynay.com


Bao Hiem BSH
» Video
» Ảnh đẹp
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch