Phật pháp ứng dụng
Tu Thiền trước nhất phải tự tin chính mình
Thích Đạt Ma Phổ Giác
03/01/2015 19:39 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Chúng tôi dung hợp ba pháp tu Phật, Tổ và Bồ-tát trên thành một đường lối tu cụ thể như sau:

Trước khi đi vào từng phương pháp, chúng tôi xin nhắc lại lời Phật dạy trong kinh Chuyển Pháp Luân, người tu theo đạo giác ngộ giải thoát, đầu tiên phải tránh xa hai cực đoan hưởng thụ lợi dưỡng và khổ hành ép xác. Đây là điều kiện tiên quyết, mọi hành giả dù tu theo tông phái nào cũng phải tránh xa hai cực đoan trên, thì mới có thể thành tựu đạo quả đó là điều thứ nhất.

Điều thứ hai cũng không kém phần quan trọng mà ai cũng phải biết, đức Phật chỉ rõ cho chúng ta khổ là một thực tại luôn đeo đẳng con người bởi sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được như ý khổ, thân năm uẩn thịnh suy khổ và sầu bi, ưu phiền, khổ não bởi do nhiều nguyên nhân khác.

Đức Phật nêu ra nỗi khổ niềm đau của kiếp người để cho chúng ta phải nhận thức rõ ràng về Khổ Đế, kế đến Phật chỉ nguyên nhân vì sao chúng ta khổ! Khổ là do tham-sân-si-mạn-nghi-ác kiến, bởi do ta luyến ái tham đắm dục vọng cho rằng mình là ta, là của ta, nên từ đó luân hồi sinh tử nối tiếp nhau không có ngày thôi dứt.

Vậy muốn dứt khổ phải làm sao? Diệt đế tức là thể nhập Niết-bàn vô sanh chấm dứt luân hồi sinh tử khổ đau, theo kinh pháp Hoa là thể nhập tri kiến Phật, theo kinh Hoa Nghiêm thể nhập trí huệ Phật, còn  theo tinh thần của Phật hoàng Trần Nhân Tông thì “phản quan tự kỷ” tức quay lại chính mình để nhận ra ông chủ.

Muốn thể nhập Niết-bàn vô sanh thì phải thấu triệt tám phương pháp tâm linh mầu nhiệm đó là: Chánh kiến, chánh tư duy thuộc về trí tuệ. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về giữ giới. Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc về định lực.

 Tám nguyên tắc hành động Bát Chánh Đạo không phải là một tiến trình sắp xếp theo thứ tự nhất định, như việc yếu tố này phải đứng trước yếu tố kia. Trên phương diện thiết lập để tu học, tám yếu tố này được chia ra làm ba nhóm rõ ràng:

 -Nhóm giới luật được liên kết nhau bởi chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Người xuất gia hay tại gia đều phải gìn giữ giới luật tinh nghiêm, bởi giới giúp cho ta ngăn ngừa việc xấu ác. Giới như mặt đất bằng, mọi điều thiện từ đó sinh ra, giới như thầy thuốc giỏi, chữa được các loại bệnh, giới như ngọc minh châu, phá tan mọi si mê tối tăm, giới như thuyền bè, đưa người vượt qua biển khổ. Giới làm trang nghiêm và có khả năng phát triển định lực và trí tuệ đồng thời. Giới luật của Phật giáo giúp cho người tu hành chân chính, ngăn ngừa việc xấu ác và hay làm các việc thiện lành tốt đẹp bằng cách giữ tâm ý thanh tịnh.

 -Nhóm định lực được kết hợp hài hòa bởi chánh tin tấn, chánh niệm và chánh định. Siêng năng tinh cần, nổ lực hành trì, nhiếp tâm buông xả, chánh niệm tỉnh giác trong từng phút giây không lơi là giải đãi thì thành tựu định lực kiên cố.

 -Nhóm trí tuệ được chiêm nghiệm và tu tập bởi chánh kiến và chánh tư duy. Người tu hành có giới, có định lực nếu không có trí tuệ khai mở thì khó mà buông xả hết các tạp niệm vi tế. Muốn vậy chúng ta phải tư duy chiêm nghiệm quán chiếu thấy thân tâm hoàn cảnh hay ta, người, chúng sinh đều giả có, nhờ vậy mới thể nhập Niết-bàn hay sống với tâm Phật sáng suốt ngay nơi thân này.

 Nói rộng ra là Bát Chánh Đạo tám con đường tâm linh mầu nhiệm, nói gọn lại là giới-định-tuệ đầy đủ. Do đó, trí tuệ là một phương tiện tu tập thiện xảo, hầu giúp mọi người thức tỉnh để mở mang tâm trí, và thấy biết đúng như thật.

 Bát-chánh-đạo là tám con đường ngay thẳng, hay là tám phương pháp tâm linh mầu nhiệm, luôn giúp người tu hành chân chính đạt đến an lạc, hạnh phúc trong đời sống hằng ngày. Trong đạo Phật, bát-chánh-đạo được xem như phương pháp số một, giúp chúng ta biết cách dứt trừ phiền muộn, khổ đau để đạt đến an vui, tự tại, giải thoát.

 Bây giờ chúng ta đi sâu vào để phân tích giới-định-tuệ đầy đủ. Cụ thể là năm giới cho người cư sĩ tại gia, nếu mình giết hại, trộm cướp, nói dối, tà dâm, uống rượu say sưa hay xử dụng ma túy. Chúng ta chỉ cần phạm một trong năm điều này thì chắc sẽ không được định, bởi vậy người tại gia nói tu sau khó quá, mình không giữ được năm giới trọn vẹn thì làm sao có định lực?

 Đây là một thực tế mà ít ai tìm hiểu kỹ càng, nghe ai nói tu ba tháng sáu tháng thành Phật, có người ấn chứng thọ ký cho, ham quá chúng ta bỏ cha bỏ mẹ, bỏ vợ bỏ chồng, bỏ con bỏ cái để rồi cuối cùng rơi vào si mê tà kiến mà chẳng được gì.

 Quý vị nên nhớ giới-định-tuệ đầy đủ mới thành tựu phật pháp, có giới, có định mà không có trí tuệ trở thành định si, nên rất sợ tiếp xúc làm việc giúp đỡ người khác, chỉ được lợi ích cho riêng mình. Có giới, có trí tuệ thì thông suốt hết mọi sự việc nhờ chiêm nghiệm, quán chiếu, soi sáng nhưng lại lăng xăng không được định tâm.

 Thiền theo lời Phật dạy có hai phương pháp hỗ tương cho nhau là Thiền Chỉ và Thiền Quán. “Chỉ” là trụ tâm vào một chỗ như niệm Phật, niệm Bồ-tát, niệm hơi thở. “Quán” là dùng nhận thức để xem xét thân tâm, vạn vật nhằm biết rõ bản chất thật-hư của nó.

 Thiền Chỉ với mục đích dừng tâm vọng niệm lăng xăng nhờ chú tâm vào một chỗ nên được định. Thiền Quán giúp hành giả phát sinh trí tuệ nên buông bỏ được phiền não tham-sân-si, nhưng nếu quán hoài thì lăng xăng, không an định. Do đó, khi tu Thiền chúng ta phải biết dùng Chỉ và Quán để dung hoà thân tâm. Khi thì ta dùng Chỉ, khi thì ta dùng Quán để điều hoà tâm vọng động.

 Chỉ nhiều thì được định nhưng không có trí tuệ nên không thể buông xả tâm phải-quấy, đúng-sai, tốt-xấu, do đó cũng không thể thành tựu đạo pháp. Có trí tuệ nhiều thì tâm lăng xăng, không an định, do đó phải quay về Trung đạo để sống với tâm Phật sáng suốt của mình.

 Khi hai pháp Chỉ và Quán đã được dung thông thì mỗi hành giả phải xả  để không trụ vào bên nào mà thể nhập Phật tính sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, sự vật như thế nào thấy rõ như thế đó nên thấy chỉ là thấy, thấy tức biết, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Thiền theo lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thứ lớp từ thấp đến cao, tuỳ theo căn cơ, trình độ của mỗi người mà ứng dụng tu theo dưới nhiều cấp độ khác nhau.

 Đây là sự hiểu biết thông suốt toàn diện về mọi mặt từ thân, tâm và mọi hiện tượng sự vật, giúp ta thức tỉnh để vượt thoát sự ràng buộc ra khỏi cái thấy biết sai lầm, tham lam, ích kỷ, oán giận, thù hằn, ngu si, mê muội thuộc về chủ nghĩa cá nhân.

 Người tu theo tông chỉ Phật, Tổ và Bồ-tát sẽ trì niệm hồng danh Bồ-tát. Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát theo điệu nhạc, âm điệu nhẹ nhàng để hành giả niệm theo, chúng ta nên nhớ miệng niệm tai lắng nghe, bước đầu chỉ làm một việc như thế. Phương pháp trì niệm Bồ-tát Quán Thế Âm dùng để thực tập ở các đạo tràng hoặc chùa.

 Khi về nhà quý Phật tử sẽ ứng dụng hai cách: Nếu chúng ta cứ niệm Bồ-tát liên tục thì lâu ngày sẽ được nhất niệm tương ưng, nhưng nếu ta chỉ an trú trong niệm Bồ-tát hoài như vậy sẽ có định lực mà không có trí tuệ thấy biết đúng như thật, do đó vẫn còn phiền não tham-sân-si. Muốn dứt hẳn phiền não khổ đau chúng ta phải quán sát, soi sáng lại câu niệm Bồ-tát coi nó thật hay không? Khi ấy chúng ta sẽ thấy còn niệm là còn sinh tử luân hồi, nên hành giả trở về pháp tu trung đạo thể nhập tính nghe thường hằng mà thành tựu đạo pháp. Đó là phương pháp hành trì của Bồ-tát Quán Thế Âm “phản văn văn tự tính”, thế nên kinh Lăng Nghiêm nói nhĩ căn là viên thông hơn tất cả.

 Để thấu triệt tinh thần tu học của Phật, Tổ và Bồ-tát, chúng ta khi quán sát suy nghiệm theo lời Phật dạy: Thấy các pháp thế gian này hư ảo giả có bởi sự vô vô thường, vô ngã, duyên sinh mà thành tựu Bát chánh đạo hay nói gọn lại là giới-định-tuệ đầy đủ mà thể nhập Niết-bàn vô sanh.

 Chúng ta ứng dụng trì niệm Bồ-tát Quán Thế Âm bằng cách xoay lại tính nghe thường hằng của mình mà thành tựu đạo Vô thượng Chánh Đẳng Giác.

 Và cuối cùng là quay lại chính mình theo tinh thần phản quan của Phật hoàng Trần Nhân Tông mà sống với Phật tính sáng suốt ngay nơi thân này. Chính vì vậy, chúng tôi soạn ra quyển sách này là chủ trương dung hợp tinh ba của Phật, Tổ và Bồ-tát, bằng cách vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn mọi người tu trong bộn bề công việc, tu trong đời sống gia đình và xã hội, với phương châm “tốt đạo đẹp đời”.

 Đức Phật đã vô số kiếp hành Bồ-tát đạo mới thành tựu Phật pháp. Bồ-tát Quán Thế Âm lăng nghe tiếng kêu cứu khổ của chúng sinh mà đi vào đời để đem niềm vui đến cho mọi người và sẻ chia nỗi khổ niềm đau để làm vơi bớt bất hạnh. Phật hoàng Trần Nhân Tông khuyên mọi người gìn giữ năm giới tu mười điều lành, phá bỏ các tập tục mê tín, tập tục giết hại….

 Chúng tôi cô đọng lại bằng những pháp tu như sau:

 1-Trì niệm Bồ-tát Quán Thế Âm bằng cách xoay lại chính mình để nhận ra tính nghe thường hằng.

 2-Thấy các pháp là hư dối không thật.

 3-Thấy các pháp là Phật pháp.

 Đây là ba phương tiện chúng tôi tạm lập ra từ thấp đến cao. Tùy theo khả năng của mỗi người mà biết cách áp dụng để việc tu hành của mình đạt được kết quả tốt đẹp như ý muốn.

 TU THIỀN TRƯỚC NHẤT PHẢI TỰ TIN CHÍNH MÌNH

 Người tu Thiền trước nhất phải quyết tâm tin mình sẽ thành Phật, tâm Phật thanh tịnh, sáng suốt nương nơi 6 căn của mỗi người là mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, hình ảnh sự vật như thế nào thì biết rõ như thế mà không dính mắc, khi nghe chỉ là nghe, có tiếng nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng, tiếng lớn tiếng nhỏ là âm thanh bên ngoài, tính nghe thì luôn thường hằng không biến đổi mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.

 Chúng ta tin tâm mình là Phật, giống như chiếc gương sáng vì để lâu ngày bị bụi bám vào, muốn gương sáng trở lại phải chịu khó lau chùi, hết bụi tự nhiên gương sẽ sáng. Cũng vậy, chính tâm mình là Phật nhưng vì lâu ngày ta để bụi phiền não tham-sân-si bám vào nên tâm Phật không hiển lộ, đến khi chúng ta buông bỏ hết mọi vọng niệm thì tâm Phật hiện tiền mà hay soi sáng muôn loài vật.

 Không tin tâm mình là Phật thì chúng ta sẽ không cố gắng chuyển hoá phiền não tham-sân-si để được giác ngộ, giải thoát ngay trong cõi đời này. Quả quyết tin tâm mình là Phật là ta đã thành tựu đức tin mãnh liệt, nhờ vậy khi tu Thiền dễ dàng buông xả sự tham đắm, dính mắc từ trước đến giờ.

 Trong sự tu hành chúng ta phải khẳng định, tâm mình là Phật mới có thể tự giải thoát sống chết, không một đức Phật hoặc chư vị Bồ-tát nào có thể giải thoát thay thế cho chính mình được. Cuộc sống ngoài xã hội cũng vậy, mọi việc nên hư, thành bại, tốt xấu đều do chúng ta gầy dựng tạo thành. Chính ta là chủ nhân ông của bao điều hoạ phúc, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, thành Phật hay không là do sự quyết tâm của mỗi người.

 Ai có đầy đủ đức tin mãnh liệt nơi chính mình thì sẽ không trốn tránh trách nhiệm về mọi hành vi của bản thân, không ỷ lại hay cầu cạnh, nhờ vã kẻ khác, không yếu đuối, hèn nhát trước mọi khó khăn. Chúng ta can đảm đối diện với cuộc sống để tìm cách vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời nhằm chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, bằng trái tim hiểu biết.

 TU THIỀN PHẢI CÓ LÒNG QUẢ CẢM

 Nhờ tự tin chính mình chúng ta mới can đảm vượt qua mọi khó khăn, gian nan, thử thách, cương quyết quả cảm tiến lên, phấn đấu chiến thắng bọn quân ma phiền não làm trở ngại. Chúng ta biết rõ chính mình có khả năng thành Phật nên quyết chí tu hành cho đến khi thành tựu viên mãn mới thôi.

 Đức tự tin và lòng quả cảm giúp ta mạnh dạn, gan dạ dấn thân đóng góp, phục vụ tất cả chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán để mình và người cùng được bình yên, hạnh phúc. Nếu chúng ta không tự tin chính mình và không có lòng quả cảm thì ta sẽ không bao giờ kiên trì, bền chí khi gặp khó khăn.

 Nhờ tin tâm mình là Phật nên ta xem thường mọi nguy hiểm, sống đơn giản, đạm bạc để tu hành như vua Trần Nhân Tông. Vị vua Thiền Sư đã nhường ngôi lại cho con lên núi Yên Tử tu hành nơi đồi núi hiểm trở, khó khăn, thú dữ chực chờ. Trước những hiểm nguy như thế nhưng Phật hoàng Trần Nhân Tông vẫn ung dung, tự tại, không bất an, lo lắng, sợ hãi mà quyết chí tu hành. Thật là một tâm hồn quả cảm tràn trề! Nếu chúng ta ai cũng ứng dụng được tinh thần quả cảm này vào xã hội để dấn thân, đóng góp và phục vụ tốt cho mọi người, thì việc gì cũng có thể thành công tốt đẹp như ý muốn.

 TU THIỀN PHẢI BỀN CHÍ SIÊNG NĂNG LÂU DÀI

 Có lòng tự tin chính mình chúng ta mới cố gắng nỗ lực tiến tu để buông xả mọi tham đắm, dính mắc ở đời. Bất cứ làm một việc gì mà không tin mình làm được thì chắc chắn việc ấy sẽ bỏ dở nửa chừng, hoặc có làm cũng không tới đâu. Chúng ta tin chắc việc này mình làm được thì ngày đêm siêng năng, cần mẫn, không dám lơi là, giải đãi.

 Tin chính mình giúp ta cố gắng, siêng năng, bền chí, kiên trì, không chán nản hay bỏ dở nửa chừng. Tin tâm mình là Phật giúp người tu Thiền tinh tấn, bền chí, nhẫn nại, cố gắng thực hành cho đến khi công thành quả mãn mới thôi. Tin tâm mình là Phật là đã có nhân thành Phật, chỉ cần cố gắng tu hành sẽ thành Phật quả. Từ nhân đến quả đều do sự siêng năng tu hành của bản thân, không phải ai khác có thể làm thế cho ta được dù đó là đức Phật.

 Ở thế gian ai cũng tự tin chính mình thì chắc chắn mọi việc sẽ được thành công tốt đẹp. Tin tưởng mình có khả năng nên mới siêng năng, cố gắng trong mọi nhiệm vụ. Thế cho nên muốn làm việc được thành công viên mãn thì chúng ta trước tiên phải tự tin chính mình, có lòng quả cảm và bền chí, siêng năng, cần mẫn.

 TU THIỀN TUỲ THUỘC VÀO VẬN MỆNH ĐẤT NƯỚC DÂN TỘC

 Xã hội và tôn giáo luôn liên quan, ảnh hưởng mật thiết với nhau, tu Thiền nói riêng cũng vậy. Trong Phật giáo có quá nhiều pháp môn nhưng chính yếu vẫn là Thiền, tuy nhiên Thiền cũng có nhiều loại. Có hai phương pháp chính yếu khi tu Thiền là Thiền Chỉ và Thiền Quán, ngoài ra còn pháp Thiền Trực Chỉ, tức là đi thẳng vào nội tâm để buông xả.

 Thiền Chỉ và Thiền Quán luôn dung thông, hỗ trợ cho nhau và phải có sự liên kết chặt chẽ mới có thể thành tựu mục đích sau cùng. Khi dân tộc không bị chiến tranh loạn lạc, có chủ quyền độc lập thì pháp môn tu nhà Phật hướng về tự lực hoàn toàn. Khi dân tộc mất chủ quyền, bị lệ thuộc thì pháp môn tu hướng về tha lực nhiều hơn, nhưng chính yếu vẫn là tự lực. Chúng ta thấy sự thịnh suy của dân tộc là sự thịnh suy của Thiền, một đất nước mất chủ quyền thì người dân sao có thể tin vào khả năng tu tập của chính mình nên dễ dàng đánh mất tự chủ mà tin vào tha lực bên ngoài.

 Chính vì thế tu Thiền cũng chịu ảnh hưởng theo vận mệnh của đất nước. Tuy nhiên, nếu chúng ta đã tin sâu nhân quả thì dù trong hoàn cảnh nào ta cũng có thể tu Thiền, vì Thiền luôn song hành với đời sống của chúng ta. Như việc ăn uống, mặc quần áo, đi tiểu, đi đại hằng ngày nếu ta không biết Thiền thì sẽ tự đánh mất chính mình, vì những việc này ta phải tự giải quyết chứ người khác không thể thay thế được, ngoại trừ bệnh tật nằm một chỗ.

 THIỀN RẤT THỰC TẾ TRONG ĐỜI SỐNG MỌI NGƯỜI

 Chủ trương của Thiền là khai sáng trí tuệ, phục hưng lại con người tâm linh của bản thân mà ta đã lãng quên từ lâu vì bị phiền não tham-sân-si che lấp do chấp thân tâm này làm ngã. Chính nơi thân chúng ta đã có sẵn con người chân thật, đó là Phật tính sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Con người thật của mình không phải do Phật cho hay do một đấng thần linh, thượng đế nào tạo nên.

 Chính tâm Phật là cái có sẵn nơi chúng ta, một phút giây vắng nó thân này sẽ ngừng hoạt động và chuyển sang đời khác. Ví như gió không có hình tướng cụ thể nhưng thấy lá cây động, thân người mát, ta mới cảm nhận có gió, lúc bình thường thì không. Cũng vậy, ngay nơi thân này có tâm Phật sáng suốt nhưng vì vô minh, phiền não che chướng mà chúng ta lãng quên, bây giờ ta chỉ cần thừa nhận mình có sẵn thì một đời an vui, giải thoát.

 Một việc làm thực tế hơn nữa, người tu Thiền chỉ cần khéo biết cách áp dụng vào trong đời sống hằng ngày, từ khi mở mắt thức dậy, tắm rửa, đi đại, đi tiểu, ăn uống, làm việc, cho đến khi đi ngủ cũng đều Thiền được cả, không phải cứ vào chùa hay thâm sơn cùng cốc mới tu Thiền. Để thấy rõ tánh cách thực tế của Thiền, chúng ta cùng nghe Lục Tổ nói trong bài tụng “Vô Tướng”: 

    Phật pháp ở thế gian

Chẳng lìa thế gian giác

Lìa thế kiếm bồ-đề

Giống như tìm sừng thỏ.

 Bấy nhiêu đó cũng đủ cho ta thấy rõ tính cách thực tế của sự tu Thiền như thế nào rồi. Đạo và đời luôn gắn liền với nhau, nếu chúng ta muốn giải thoát thì phải tu ngay nơi trần gian này. Lông rùa và sừng thỏ là những vật xem như không có thực, người tu Thiền mà xa lánh thế gian để tìm cầu giải thoát cũng giống như kiếm lông rùa, sừng thỏ.

 Tu Thiền chính yếu là chuyển hoá tâm phiền não tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ từ bi để được giác ngộ, giải thoát. Hoa sen mọc tươi tốt và nở thơm ngát từ bùn nhơ nước đục, nên tu Thiền là ứng dụng ngay nơi cuộc sống trong bốn oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi. Điều này chắc chắn ai cũng có thể làm được, tuỳ theo khả năng và sự quyết tâm tu tập của mỗi người.

 TU THIỀN RẤT HỢP VỚI THUẬT DƯỠNG SINH VÀ RÈN LUYỆN THÂN THỂ

 Người tu Thiền biết điều hòa thân thể, điều hòa hơi thở và nội tâm nên ít bệnh hoạn, đau yếu. Về thân thể người tu Thiền ăn uống có tiết độ, ngủ nghỉ có chừng mực, làm việc đúng thời khóa, cấm kỵ những việc trác táng, rượu chè, đam mê sắc dục quá đáng. Về hơi thở người tu Thiền biết điều hòa hơi thở dài và nhẹ. Hơi thở là chủ yếu của sức khỏe, là quyết định của mạng sống. Khi mệt thì thở hổn hển, khi khỏe thì thở nhẹ nhàng. Mạng sống chúng ta còn hay mất là do hơi thở quyết định, thở ra mà không thở vào thì thân này bại hoại, chuyển sang đời khác.

 Ấy thế mà, đa số người đời sống không biết hơi thở mình như thế nào, dường như họ đã quên mất khi mình thở ra mà không thở vào là mạng sống chấm dứt. Về tâm tư con người cũng vậy, có những lo nghĩ bất thường hoặc tức giận, hoặc sợ sệt, hoặc lo lắng, phiền muộn, khổ đau, tất cả đều là nguyên nhân phát sinh bệnh hoạn.

 Người tu Thiền khéo buông xả những tâm tư vọng động khiến nội tâm trong sáng, tĩnh lặng nên thân tâm an ổn, nhẹ nhàng. Buông xả mọi tâm niệm xáo động nơi mình thì hành giả được an nhiên, bình tĩnh trước mọi sóng gió cuộc đời. Những khi thân bị gió lạnh xâm nhập chỉ cần ngồi Thiền trong một giờ thì tan hết, bởi lẽ ngồi Thiền thì hơi nóng trong người xông lên nên khí lạnh tan biến. Con người do thân bất an nên sanh bệnh, tâm lo lắng, sợ hãi, phiền muộn nên cũng sanh bệnh. Người tu Thiền khéo điều hòa thân an ổn, tâm yên định nên phù hợp với thuật dưỡng sinh.

 THIỀN ĐẠO PHẬT KHÁC VỚI CÁC LOẠI THIỀN NGOẠI ĐẠO

 Để khỏi lầm lẫn ý nghĩa chống đối hay khinh rẻ, chúng ta nên định nghĩa chữ "ngoại đạo" cho rõ ràng. Nhà Phật định nghĩa rất rõ, ngoài tâm cầu Phật là ngoại đạo. Như thế, dù cho người xuất gia theo Phật mà chỉ một bề hướng ngoại cầu mong cũng gọi là ngoại đạo. Bất cứ một pháp tu nào chỉ trông cậy bên ngoài, tìm kiếm bên ngoài đều gọi là ngoại đạo, vì chủ trương của nhà Phật người tu phải quay lại chính mình và phải "minh tâm kiến tánh" mới thành Phật. Tâm tính đâu phải việc bên ngoài, nếu tìm bên ngoài là trái với tông chỉ nhà Phật nên gọi là ngoại đạo.

Chúng tôi liệt kê những lối tu Thiền theo ngoại đạo đang hiện hành ở Việt Nam như Thiền xuất hồn, Thiền chuyển luân xa, Thiền chuyển tinh hóa khí, chuyển khí hóa thần, Thiền thai tức, Thiền điện thiêng liêng, Thiền Du-già… Những lối tu Thiền này không ngoài hai tiêu chuẩn mầu nhiệm và sống lâu. Mầu nhiệm thuộc huyền bí, hấp dẫn những người hiếu kỳ. Sống lâu thuộc thân thể khỏe mạnh, hấp dẫn người thích sống dai. Hai tiêu chuẩn ấy trái hẳn với đạo Phật.

 Đạo Phật chủ trương tu để mở mang trí tuệ, thấy được chân lý, không cần sự mầu nhiệm. Có trí tuệ liền thấy tất cả giả tướng ở thế gian đều là vô thường, dù cố dụng công bảo vệ, duy trì cách mấy rốt cuộc cũng hoại diệt. Cái giả mà cố giữ không phải si mê là gì? Thiền đạo Phật thấy tất cả pháp duyên hợp hư giả, thể tánh là không, nhận ra Phật tính sáng suốt ngay nơi thân này nên khác hẳn với pháp Thiền ngoại đạo.

 Thiền đạo Phật nhằm mục đích giác ngộ, giải thoát và giúp nhiều người cùng được sống bình yên, an vui hạnh phúc nên đi theo con đường Bồ-tát, “tốt đạo đẹp đời” nhằm giúp đỡ tha nhân cho đến khi thành Phật viên mãn mới thôi.

TU THIỀN TRONG BỘN BỀ CÔNG VIỆC

Mỗi sáng thức dậy, chúng ta có thể hân hoan vui vẻ, trong lòng nở một nụ cười tươi tắn vì ta đã ý thức rằng một ngày mới được bắt đầu với 24 giờ sống trong tỉnh giác. Trước khi ngồi dậy sau giấc ngủ an lành, chúng ta có thể vẫn nằm yên trên giường, buông thẳng hai tay và hai chân một cách thoải mái để an hưởng một ngày mới tươi đẹp với hơi thở nhẹ nhàng. Thở vào ta cảm nhận giây phút bình yên trong lòng, thở ra ta bắt đầu cùng mọi người vui sống và làm việc.

Sau đó, chúng ta đi tiểu, đi đại để đưa hết cấu uế trong người ra và chỉ giữ lại những gì có lợi ích để nuôi dưỡng thân tâm được khỏe khoắn và trong sạch. Điều tối kỵ nhất là nín đi tiểu hoặc đi đại tiện quá lâu, sau này sẽ bị bệnh suy thận, bị trĩ, bị nóng gan. Khi đi tiểu, đi đại ta biết ta đang đưa ra những thứ cặn bã độc hại được tích tụ trong cơ thể, ngay khi đó ta cảm nhận được sự thoải mái, nhẹ nhàng.

Khi chúng ta rửa mặt, súc miệng, tắm rửa, chải đầu, thay quần áo, chúng ta cảm nhận sự tươi mát qua xúc chạm những gì trong hiện tại bằng sự nhận biết rõ ràng mà không tham đắm dính mắc. Chỉ khoảng thời gian ngắn trong vòng nửa tiếng đồng hồ, ta khéo an trú trong từng hành động có ý thức, bằng sự tỉnh giác thì sẽ cảm thấy thoải mái, nhẹ nhàng và giải thoát.

Cái thấy nghe hay biết đó là biết rõ mọi cử chỉ, hành động đem lại cho ta sự bình yên, hạnh phúc nhờ ta lúc nào cũng sống trong chánh niệm tỉnh giác. Sự tỉnh giác đó giúp ta làm chủ được những ý nghĩ, lời nói, hành động đang diễn ra ngay tại đây và bây giờ.

Tỉnh giác là như thế, khi thấy chỉ là thấy, khi nghe chỉ là nghe, ta thấy nghe hay biết trong sự định tĩnh sáng suốt, thường biết rõ ràng. Khi ta chánh niệm tỉnh giác là ta đã có mặt trong từng giây phút của sự sống, nhờ vậy mỗi giây phút của sự sống là sự bình yên, hạnh phúc. Cái hạnh phúc này là một tặng phẩm quý giá cho sự sống của chúng ta.

Đây là một việc làm rất đỗi bình thường, khi chúng ta biết tỉnh giác trong từng phút giây, chúng ta sẽ nhận diện và an trú những gì đang có trong hiện tại. Ta biết như vậy là ta đang hành thiền trong đi đứng nằm ngồi, đâu phải tìm cầu đâu xa. Tắm dưới vòi nước tươi mát, ta gội đầu, kỳ cọ, cảm nhận được dòng nước tươi mát trong sạch trong trạng thái an lạc, thoải mái, nhẹ nhàng.

Khi làm việc gì ta biết việc đó, đừng để mọi suy tư nghĩ tưởng kéo ta về quá khứ hay mơ ước, mong mỏi đến tương lai làm cho ta dính mắc vào những lo lắng, sợ hãi, buồn phiền, sầu khổ và giận hờn.

Rồi chúng ta đến trước bàn thờ Phật hay một thư phòng, đốt nén tâm hương hướng về mười phương Tam bảo, nguyện cầu Phật pháp luôn được trường tồn ở thế gian này, ai cũng đều được thấm nhuần Phật pháp để mọi người hết khổ, được vui.

Tùy theo khả năng và thời gian chúng ta có thể ngồi thiền 10 phút, 20 phút, 30 phút cho đến 1 giờ hoặc 2 giờ. Trong lúc ngồi thiền ai niệm Phật, niệm Bồ-tát, tùy theo khả năng của mình. Ai quán sát hơi thở thì cứ quán sát hơi thở, thở vào ta chuyển hóa phiền não tham-sân-si, thở ra ta cảm nhận được bình yên, hạnh phúc trong giờ phút hiện tại.

Ai có chiều sâu trong tu tập thì tỉnh giác trong từng phút giây bằng cách nhận diện từng vọng niệm mà không cần phải xua đuổi hay bám víu vào nó, ngay khi đó thì tâm Phật hiện tiền mà vẫn thường biết rõ ràng trong định tĩnh và sáng suốt.

Kế đến, chúng ta thực tập thiền lạy Phật hay Bồ-tát. Hai tay chấp ngay trước ngực rồi từ từ đưa lên trước mặt, ngang trán, hai chân đứng với tư thế hình chữ Bát. Hai tay từ từ đưa xuống cùng năm vóc toàn thân, úp hai bàn tay xuống khi cách mặt đất khoảng 40 cm, đầu cúi theo úp xuống sát đất khoảng giữa hai bàn tay, hai đầu gối chấm sát đất, hai gót chân nhón theo.

Rồi hai tay bật lên theo sự đàn hồi của nó giống như một chiếc lò xo, trở lại tư thế ban đầu là chấp tay trước ngực. Và cứ như thế ta thoải mái, nhẹ nhàng lạy theo trình tự lúc ban đầu một cách đều đặn. Trong lúc lạy như vậy ai tu pháp niệm Phật, niệm Bồ-tát thì cứ niệm Phật, niệm Bồ-tát. Ai tu pháp hơi thở thì cứ quán sát hơi thở và ai có chiều sâu trong tu tập thì tự biết tỉnh giác nhận diện từng vọng niệm đưa chúng trở về bản tâm chân thật.

Phương pháp lạy Phật, lạy Bồ-tát giúp cho ta tiết kiệm được năng lượng, sức khỏe, khỏi phải mất thời gian tập thể dục trong buổi sáng vì trong lúc lễ lạy ta đang thực tập phương pháp thể dục thẩm mỹ toàn diện về thân thể. Cách lễ lạy này không làm cho ta mệt nhọc mà càng lạy ta càng thêm sức dẻo dai, tinh thần minh mẫn sáng suốt.

Khi lễ lạy như vậy ta chỉ một lòng hướng tâm vào thể tánh sáng suốt, dùng sự định tĩnh giống như chiếc lò xo đàn hồi bật lên, bật xuống đều đặn, nhẹ nhàng giúp cho máu huyết lưu thông toàn thân. Ta sẽ cảm nhận sự khỏe khoắn, sảng khoái, an nhiên trong khi đang lễ lạy.

Nếu có dư thời gian ta sẽ thực tập thiền đi, hành giả nào niệm Phật thì cứ niệm Phật, ai niệm Bồ-tát thì cứ niệm Bồ-tát, ai niệm hơi thở thì cứ niệm hơi thở và ta chấp hai tay trước ngực vừa đi vừa niệm. Quý vị nên nhớ ta chỉ cần chú tâm vào câu niệm Phật, niệm Bồ-tát hay niệm hơi thở mà thôi, việc đi nhanh hay chậm không quan trọng. Chúng ta chỉ cần nhớ miệng niệm, tai lắng nghe rõ ràng.

Sau khi thực tập bước một đã hoàn chỉnh, đạt đến nhất niệm tương ưng trong lúc đi đứng nằm ngồi, kế đến chúng ta chuyển sang bước hai là miệng niệm tâm lắng nghe, và cuối cùng là tâm niệm tâm lắng nghe mà vẫn thường biết rõ ràng, nương nơi mắt thấy chỉ là thấy, nương nơi tai nghe chỉ là nghe, mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.

Hành giả quán sát hơi thở và tu pháp tỉnh giác thì không cần chấp hai tay trước ngực, chỉ vừa đi vừa quán sát hơi thở, thở vào ta xua tan bao phiền muộn khổ đau, thở ra ta an trú trong giờ phút hiện tại. Hành giả đã có chiều sâu thì nhìn vọng niệm giống như gió thoảng mây bay vì lúc nào cũng sống trong tỉnh giác, thường biết rõ ràng.

Chúng ta tập ngồi, tập lạy, tập đứng, tập đi, tập hoạt động trong vài ba ngày sẽ thấy an nhiên thoải mái liền tức khắc. Đây là một sự thật nhiệm mầu mà ai cũng có thể làm được. Chúng ta hãy tập sống sâu sắc và thảnh thơi như vậy trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày trong khi ăn uống, đi tiểu, đi đại và làm việc thì chỗ nào chẳng phải là thiền.

Chúng ta muốn được an nhiên, thảnh thơi như vậy thì tâm ý không được tiếc nuối quá khứ, không mơ ước viễn vông đến tương lai để chuyển hóa mọi phiền não, khổ đau mà an trú trong giây phút hiện tại. Giây phút hiện tại chính là giây phút giúp cho ta bình yên, hạnh phúc ngay nơi cuộc sống này.

Nói tóm lại, trong nhà chúng ta có bàn thờ Phật thì chúng ta có thể ngồi thiền trước bàn thờ Phật, nếu không có bàn thờ Phật để lạy thì ta chọn chỗ nào trống tùy theo không gian của gia đình.

Việc làm thức ăn và ăn sáng cũng là một loại thiền tập quan trọng không thể thiếu trong đời sống vì những việc này ta phải tự giải quyết. Khi chúng ta nấu nước sôi, pha trà, pha cà phê, nấu cháo, nấu hủ tiếu, chiên cơm nguội…, chúng ta làm việc nào biết việc đó theo thứ tự. Chánh niệm tỉnh giác trong làm việc sẽ giúp cho ta biết cách chuyển hóa, soi sáng lại chính mình với những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại.

Tỉnh giác là cốt tủy của thiền tập làm cho trái tim ta hiểu biết và thương yêu hơn. Khi nấu nước sôi pha trà, chúng ta chỉ biết mình đang pha trà, không nhớ nghĩ quá khứ, không mơ tưởng tương lai, tâm ý thức việc ta đang pha trà là ta đang sống trong tỉnh giác. Nhờ tỉnh giác trong từng phút giây giúp ta sống hiểu biết hơn, yêu thương hơn và vui sống bình an, hạnh phúc với tất cả mọi người. Ai cũng có năng lực tỉnh giác, chỉ cần chúng ta kiên trì thực tập trong đều đặn thì kết quả sẽ đạt được ngoài sức tưởng tượng.

Thời gian làm thức ăn và ăn sáng có thể sẽ làm cho mọi thành viên trong gia đình đều vui vẻ vì đó là kết quả của thiền tập. Chúng ta sẽ có thể sắp xếp buổi ăn sáng cho gia đình trong vui vẻ và thuận thảo. Khi ăn sáng chúng ta đừng đọc báo, đừng nghe tin tức, đừng xem ti vi. Chúng ta cùng mọi thành viên ngồi thẳng lên, nhìn thức ăn trên bàn, mỉm cười và cùng mời nhau thưởng thức hương vị đậm chất ngọt ngào của buổi sáng.

Trước khi ăn chúng ta cần trao đổi, dặn dò điều cần làm trong ngày trước thì chúng ta sẽ ăn trong tỉnh giác. Khi ăn ta chỉ biết mình đang ăn, mặn lạt, chua cay, ngon dở ta đều biết hết. Ăn xong ta rửa bát, dọn bàn và sẽ cảm nhận được một ngày mới tươi đẹp bên mái ấm gia đình.

Sau khi ăn sáng xong, mọi người tiếp tục với nhiệm vụ của mình. Ta chỉ cần nhận diện mặt mũi xưa nay của chính mình, khi làm việc gì ta chỉ biết việc đó, cứ như thế ta suy nghĩ, nói năng, hành động trong tỉnh giác. Như vậy, mỗi ngày chúng ta có mặt là một ngày chúng ta có thiền, có tỉnh, có giác, có biết mà vẫn an nhiên, tự tại. Cuộc sống như thế có gì làm cho ta phiền muộn, khổ đau.

Chúng ta đã biết rõ như vậy nhưng vẫn còn tập khí, tức là thói quen. Đây là những thói quen xấu được lặp đi, lặp lại nhiều lần nên nó sai sử ta chạy theo những vọng niệm nhớ nghĩ, tiếc nuối về quá khứ hay mơ tưởng viễn vông đến tương lai mà đánh mất chính mình trong hiện tại.

Chính ta mải dính mắc vào quá khứ hay lo lắng cho tương lai nên ta không đủ khả năng để nhận diện những sai lầm đã qua mà có thể sống an lạc, trong hiện tại. Chúng ta luôn nhớ về quá khứ mà tiếc nuối trong đau buồn rồi lại suy đoán, dự kiến, chuẩn bị, mơ ước về những hoài bão trong tương lai để đạt được hạnh phúc.

Khi mới bắt đầu thiền tập và đang đi vào thiền tập, chúng ta sẽ bị những thói quen lo lắng, sợ hãi về tương lai. Chính những lo lắng, bồn chồn ấy đã làm cho ta không an trú vững chải được trong hiện tại. Tuy nhiên, ta phải kiên trì và bền bỉ để đến một lúc nào đó, ta sẽ làm chủ được những thói quen ấy mà không bị nó lôi đi như trước kia nữa.

Có rất nhiều người luôn bị quá khứ ám ảnh với sự tiếc thương, hờn oán, hối hận và khổ đau. Chính khi ấy họ không thể sống bình yên trong giây phút hiện tại. Nếu trong quá khứ chúng ta từng bị bạc đãi, từng bị khổ đau vì chuyện tình ái, ta phải biết cách thực tập thiền để quá khứ kia tự động chìm lắng vào dĩ dãng.

Chúng ta biết cách thiền tập trong đi đứng nằm ngồi, trong lúc ăn uống, làm việc hoặc nghỉ ngơi là ta luôn luôn trở về với thực tại nhiệm mầu. Khi chúng ta không tiếc nuối hay nhớ nghĩ về quá khứ, không bị tương lai làm xáo động tâm tư là ta đang được tự do và an lạc trong giờ phút hiện tại.

Tóm lại, từ khi mở mắt thức dậy rồi đi tiểu, đi đại, chải răng, tắm gội, mặc quần áo, ăn uống, đi bộ, làm việc, lái xe…, chúng ta hãy để hết tâm ý vào việc chúng ta đang làm như là một thực tại trong cuộc sống. Ta chỉ tìm an lạc và hạnh phúc ngay trong những phút giây ấy chớ không phải mong mỏi, tìm cầu đâu xa. Đó là một thực tế ít ai ngờ đến.

Nhiều người cứ nghĩ rằng tu là phải vô chùa, ở hang sâu rừng thẳm, không ngờ tu chỉ là đơn giản như vậy. Sự đơn giản ấy là một phép nhiệm mầu và chính ta làm nên phép nhiệm mầu ấy, không ai có thể ban phước giáng họa cho ta.

Trích ''Con Đường Tỉnh Thức Phật, Tổ Và Bồ-tát"

Bao Hiem BSH
» Video
» Ảnh đẹp
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch