CÓ CUỘC
SỐNG LÀ CÓ KHỔ ĐAU
Đứng trước dòng thác lũ cuộc đời với vô vàn cám dỗ
như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều, chúng ta
khó mà vượt qua những nhu cầu cần thiết đó vì nó có sức hấp dẫn lạ thường, hay
lôi cuốn, chi phối con người vào chỗ đam mê, say đắm. Cho nên, lúc nào ta cũng
sống với hai tâm trạng vui-buồn lẫn lộn bởi tốt-xấu, hơn-thua, nên-hư, thành-bại,
được-mất trong cuộc đời mà đón nhận kết quả khổ đau hay hạnh phúc.
Ta muốn
thưởng thức những đóa hồng đẹp thì phải chấp nhận thân gai góc của nó. Hoa hồng
mềm mại, thơm tho và đẹp đẽ nên ai cũng thích ngắm nhìn, thưởng thức hương vị
ngọt ngào của nó nhưng trên thân hoa lại có nhiều gai góc. Nếu muốn thưởng thức
sự tinh khiết của hoa thì ta phải chấp nhận thân gai góc. Cũng vậy, thân ta vô
thường bại hoại nên mới bị sự chi phối của già-bệnh-chết, nhưng ngay nơi thân
này có tính biết sáng suốt; nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn,
thấy chỉ là thấy, thấy tức biết; nương nơi tai thì nghe thấu mọi âm thanh sai
biệt của muôn loài vật nên nghe chỉ là nghe; mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.
Người lạc
quan luôn nhìn đời với các vì sao lấp lánh nằm trên bầu trời quang đãng,
sáng
trong. Chính vì vậy họ thấy thế giới luôn tươi vui, xinh đẹp như những
đóa hoa hồng. Người bi quan thì thấy thế giới là cả một bầu trời đen tối
chỉ toàn khổ đau nên thấy rất nhiều hầm hố, chông gai. Với người biết
sống một
cách thực tế thì thấu rõ chân lý của cuộc đời nên thấy thế giới không
hoàn toàn
tươi vui, xinh đẹp như hoa hồng mà cũng chẳng hoàn toàn nhiều gai góc.
Trong
cuộc sống những ai có hiểu biết chân chính và nhận thức sáng suốt thì
không đam
mê, say đắm bởi cái đẹp của hoa hồng. Họ nhìn thấy hoa hồng chỉ là hoa
hồng và vẫn
biết rõ trong hoa hồng phải có chất liệu của gai nên luôn cẩn thận để
khỏi bị
gai làm đau nhức.
Hoa
hồng tượng trưng cho bốn hoàn cảnh thuận lợi trong cuộc sống như được lợi lộc,
được khen ngợi, được tán thán và được vui vẻ. Gai góc thì được ví như bốn sự
không hài lòng, vừa ý trong cuộc sống như bị mất mát, bị chê bai, bị hủy nhục
và bị khổ đau. Đã làm người trong cuộc sống tất cả chúng ta đều phải trực diện
với các hoàn cảnh ấy dù ít hay nhiều trong dòng đời nghiệt ngã này. Ai có đủ
khả năng, ý chí, nghị lực, trí tuệ và sự sáng suốt thì sẽ vượt qua Tám cơn gió
lốc của cuộc đời để thành tựu Phật đạo mà cùng nhau chia vui sớt khổ trên tinh
thần vô ngã vị tha; nhà Thiền thường gọi là “Tám gió thổi chẳng động”.
Đời người
ít nhiều ai cũng trải qua sự thăng trầm của cuộc sống, khi thì được lên voi,
lúc thì bị xuống chó, cứ như thế ta phải đối diện với nó để chấp nhận quả an
vui, hạnh phúc hay phiền muộn, khổ đau. Trong cuộc sống thực tế những việc tốt
đẹp chúng ta thường gọi là may mắn hoặc “hên”, hay còn gọi là khi không, ngẫu
nhiên; nhưng chúng không đến với ta hai lần hoặc đến một lượt để ta được vui hưởng
trọn vẹn. Ngược lại, những chuyện không được hài lòng, vừa ý mà ta thường gọi
là không may mắn, hay xui xẻo lại cứ đến dồn dập hết chuyện này đến chuyện khác
làm cho ta đau khổ vô cùng. Với những người quá yếu đuối, kém cỏi, tinh thần
bạc nhược thì rất dễ hoang mang, lo lắng và sợ hãi nên luôn tìm cách trốn chạy
cuộc đời bằng liều thuốc độc. Trái lại, những người đã tin sâu nhân quả thì luôn
bình tĩnh, thản nhiên chấp nhận quả khổ đang dồn dập đến mà tìm cách tu tâm
dưỡng tánh để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Tôi bây
giờ có nhân duyên xuất gia học đạo, được gặp bậc minh sư chân chính tận tình
chỉ dạy, so với ngày xưa tôi tiến bộ quá nhiều, có thể nói là vượt bậc ngoài
sức tưởng tượng nhưng so với Tám gió thì tôi chưa hoàn toàn qua khỏi gió nào.
Có lúc tôi đứng sừng sững như quả núi lớn không gì có thể chuyển lay mỗi khi
giữ được Chánh niệm tỉnh giác, nhưng khi bất giác thì một chút gió cũng làm cho
tôi nghiêng ngã, trượt dài trong si dại. Cho nên, ai đã lỡ lầm huân tập thói
quen xấu quá nhiều thì hãy nên cố gắng, thận trọng trong việc tu tập mà chăn
giữ từng ý niệm của mình, đừng để cho nó phát sinh. Vì lẽ đó mà nhà Thiền có
câu: “chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”.
Khởi
nghĩ đủ thứ chuyện trên đời là thói quen thâm căn cố đế của mỗi người chúng ta,
do đó ta phải thường xuyên Chánh niệm tỉnh giác để điều phục ý nghĩ của mình,
đừng để chúng dẫn ta lăng xăng chạy suốt đầu trên xóm dưới. Đó là nghệ thuật
chăn trâu, chúng ta chỉ làm một việc duy nhất làm sao đừng để con trâu phạm vào
lúa mạ của người. Khi mới tu ta chưa đủ sức làm chủ con khỉ ý thức nên suốt
ngày ta cứ lăng xăng dính mắc phải quấy, tốt xấu. Do đó, Phật đưa ra nhiều
phương pháp để giúp chúng ta chuyển hóa chúng tùy theo
khả năng và sở trường của mỗi người. Chúng tôi cảm thấy rất hổ thẹn cho cuộc
đời tu hành của mình vì hiện giờ chỉ một gió được-mất thôi cũng đủ làm chúng
tôi trượt dài trong si dại, nhưng tôi còn biết
mình vọng động điên đảo nên luôn dặn lòng phải cố gắng nhiều hơn để chuyển hóa
con khỉ ý thức u mê, tối tăm thành trong sáng, hiện thực mà có cơ hội được kết
nối yêu thương cùng với tất cả mọi người. Đây là một sự thật đối với cuộc đời
của tôi, chúng ta cần phải cố gắng nhiều hơn nữa trong việc tu tập để chuyển
hoá phiền não tham-sân-si thành an vui, hạnh phúc. Trong nhà Thiền có câu châm
ngôn bất hủ dùng để răn nhắc mọi người chúng ta như sau:
Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ,
Việc lớn đã sáng cũng như đưa ma mẹ.
Tại sao
có chuyện lạ đời như thế? Khi chưa nhận ra đạo lý chân thật thì ta phải cố gắng
tu hành miên mật như một người con tiếc nuối, nhớ thương khóc đưa đám ma mẹ.
Lúc này đứa con không còn thiết nghĩ đến chuyện gì khác mà chỉ một lòng khóc
lóc, tiếc nhớ thương mẹ mà thôi. Ai đã từng có cha mẹ mất sẽ biết rõ điều này,
nhưng khi chúng ta đã ngộ đạo rồi thì cũng như đưa đám ma mẹ là sao? Khi ngộ
rồi ta chỉ mới nhận ra cái nhân thành Phật mà thôi nên đa số các vị Thiền sư
phải bỏ vào núi để làm tròn nhiệm vụ ấy. Ngài Quốc sư Huệ Trung khi ngộ đạo rồi
phải ở núi đến 42 năm mới xuống núi để giáo hóa chúng sinh, lúc này dù có mười
tám gió thổi tới cũng không làm gì được ngài. Vậy Tám gió là gì mà nó có sức
tàn phá, hủy diệt con người đến nỗi phải thất điên bát đảo như thế?
Phật
chỉ dạy Tám gió này để làm thước đo người tu hành; đó là gió được-mất, danh
thơm-tiếng xấu, khen-chê, khổ-vui. Tám gió này có bốn cặp đối đãi nhau. Một là
hưng thịnh, lợi lộc thì gọi là được; còn suy sụp, điêu tàn thì gọi là mất. Hai
là được khen ngợi hay bị chê bai, nói cho đầy đủ là được khen và bị chê trước
mặt mọi người. Ba là được xiển dương, tán thán hay bị phán xét, chỉ trích, vu
oan giá họa trước đám đông. Bốn là phiền muộn, khổ đau hay an vui, hạnh phúc;
nói gọn lại là khổ và vui, hai điều này luôn xảy ra nhiều nhất trong cuộc đời
tu hành của chúng ta.
Trong
cuộc sống hằng ngày, các nhà lãnh đạo, các nhà kinh doanh, các nhà giáo dục,
các nhà tâm linh, cho đến kẻ làm thuê làm mướn đều phải theo nguyên tắc và lệ
thuộc vào cả hai cặp đối đãi được và mất. Người lãnh đạo đang có nhà cao cửa
rộng, nhiều tài sản, đang sống một đời vương giả sung túc, đầy đủ với mọi nhu
cầu cần thiết trong cuộc sống thì gọi là được; vì cuộc sống gia đình được đầy
đủ, sung mãn về hai mặt phước và lộc. Có phước là giàu có, sang trọng; hưởng
lộc là uống rượu, ăn thịt, vui chơi thỏa thích
nhờ biết đóng góp nhiều công sức cho xã hội. Ngược lại, đang được đầy đủ và
sung túc như thế mà bỗng nhiên bị thân bại danh liệt, dính vào vòng tù tội, mất
hết tất cả quyền cao chức trọng, gia đình đổ vỡ, tan nát thì gọi là mất.
Các nhà kinh doanh khi làm ăn thuận buồm xuôi gió, tăng trưởng được
nhiều lợi nhuận nhờ biết tiếp thị đúng nhu cầu cần thiết theo sự tham muốn của
con người, nhất là các mặt hàng ăn uống không thể thiếu trong đời sống hằng
ngày. Lúc được lợi nhuận ai cũng cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc và thỏa mãn. Trong
thực tế, nó là nhu cầu cần thiết cho mỗi cá nhân và gia đình. Khi được lợi
nhuận như vậy chúng ta sinh ra vui mừng, thích thú mà một người bình thường ai
cũng có thể tự hào, hãnh diện khi được như thế. Họ thu được lợi ngày càng nhiều
nên cảm thấy hân hoan, vui vẻ, đón nhận hạnh phúc bằng sự say mê trong tham
đắm.
Các nhà giáo dục luôn hy sinh tận tụy với nghề dạy của mình, họ mong đào
tạo được thế hệ tương lai, sản xuất ra các bậc hiền tài để đóng góp, phục vụ lợi
ích cho xã hội. Họ có niềm vui trong dạy học, đào tạo nhân tài để đảm bảo đời
sống gia đình và điều mong muốn duy nhất của họ là có nhiều nhà lãnh đạo tài ba
lỗi lạc từ sự hướng dẫn, dạy dỗ của họ. Thế giới ngày nay nền văn minh khoa học
vật chất tiến bộ và phát triển quá nhanh giúp con người sống tiện nghi, vật
chất đầy đủ, hưởng thụ cuộc sống như ý làm con tim sung sướng đến tuyệt đỉnh.
Hạnh phúc như vậy dù là vật chất hay tinh thần đều dẫn đến khỏe mạnh và sống
lạc quan, yêu đời.
Các nhà
tâm linh thì đi ngược lại dòng đời với trách nhiệm và bổn phận hết sức lớn lao,
họ trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Muốn được như vậy họ phải cố
gắng tu tập để chuyển hóa phiền não tham-sân-si thành an vui, hạnh phúc. Sau khi
thành tựu họ phải dấn thân phục vụ vì lợi ích chúng sinh với tinh thần thương
yêu đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết. Nếu làm như vậy mà
không bị bức bách bởi các phiền não tham-sân-si chi phối thì ta gọi đó là được
an nhiên, tự tại.
Một hôm,
Thiền sư Phật Ấn nói chuyện đạo lý theo lời thỉnh cầu của Phật tử, Tô Đông Pha
nghe tin đến tham dự. Trong giảng đường mọi người đã ngồi chật kín không còn
chỗ trống nào, Thiền sư thấy Tô Đông Pha đến mà hết chỗ ngồi bèn nói: “Ở đây
không có chỗ cho quan lớn ngồi, xin cảm phiền chờ dịp khác.” Tô Đông Pha cũng không
vừa gì liền dùng Thiền ngữ để trả lời lại: “Nếu không có chỗ xin cảm phiền Thiền
sư cho mượn thân tứ đại để làm tòa ngồi.” Thiền sư nói: “Vâng, tôi sẽ cho quan
lớn mượn thân tứ đại này với điều kiện ngài phải trả lời được câu hỏi của tôi,
nếu không đáp được xin quan lớn cảm phiền cởi đai ngọc trên thân để lại cho
chùa làm kỷ niệm.” Tô Đông Pha tự thấy mình văn hay chữ giỏi nên nhận lời ngay
mà không biết khéo léo tìm cách từ chối. Thiền sư nói: “Tứ đại vốn không, Năm ấm
chẳng có, xin hỏi quan lớn phải ngồi chỗ nào?” Tô Đông Pha tuy có miệng nhưng
đớ lưỡi nói không được vì thân này do bốn chất đất-nước-gió-lửa giả hợp, không
thật có, làm sao có chỗ ngồi cho quan lớn. Tô Đông Pha đành cứng họng mà cởi
đai ngọc để lại cho Thiền sư, đến nay vật đó vẫn còn lưu giữ trong chùa Kim
Sơn.
Một
thời gian sau, Tô Đông Pha sáng tác một bài thơ và tự cho là tuyệt tác không chê
vào đâu được, ông bèn cho người đem tặng Thiền sư Phật Ấn lúc bấy giờ đang ở
chùa Kim Sơn. Nguyên văn bài thơ của cư sĩ Tô Đông Pha như sau:
Thân tâm cúi lạy bậc giác ngộ,
Hào quang tỏa sáng khắp muôn nơi,
Tám ngọn gió đời thổi chẳng động,
Ngồi vững tòa sen, dáng nghiêm
trang.
Quan
lớn này lần trước đến đấu lý với Thiền sư đã thua một trận nên phải cởi đai
ngọc để lại, ngày hôm nay lại muốn giở trò gì đây? Thiền sư Phật Ấn xem qua bài
thơ thấy nghĩa lý rất hay nhưng biết quá rõ Tô Đông Pha do tình thức bén nhạy
nên làm thơ nhờ văn hay, chữ giỏi chứ không phải do siêng năng, tinh tấn tu
hành ngộ đạo. Thay vì khen ngợi Tô Đông Pha để khích lệ, Thiền sư ngược lại liền
cầm bút phê vào hai chữ “hạ phong”, tức là “đánh rắm”, và bảo gia nhân đem về
trình lại cho cư sĩ Tô Đông Pha. Quả như điều Thiền sư Phật Ấn đã dự đoán, Tô
Đông Pha sau khi xem lời nhận xét của ngài xong liền đùng đùng nổi giận, lập
lức một mình chèo thuyền vượt sông sang chùa Kim Sơn để hỏi ngài nguyên nhân vì
sao lại vậy. Thiền sư Phật Ấn biết trước nên ra bờ sông đón, Tô Đông Pha vừa
gặp ngài liền lớn tiếng trách móc: “Bài thơ của tôi sai sót ở chỗ nào mà Thiền
sư dám phê vào hai chữ “đánh rắm” như thế?” Thiền sư Phật Ấn mỉm cười rồi hỏi:
“Quan lớn nói Tám gió thổi chẳng động, sao bây giờ một mình chèo thuyền qua
sông? Chỉ một cái đánh rắm mà quan lớn đã như thế, huống chi là phong ba bão
táp.” Lúc bấy giờ, Tô Đông Pha mới nhận ra mình chỉ hiểu biết suông trên văn tự,
chữ nghĩa mà thôi nên mới bị một chút gió đã bay bổng tận trời xanh, nói chi
đến Tám gió thổi chẳng động.
“Bát
phong trong nhà Phật” nghĩa là Tám ngọn gió đời, là Tám pháp thế gian, là thước
đo người tu hành chân chính. Tám gió này hay làm con người vọng động, điên đảo
mà sinh ra vui vẻ, hạnh phúc hoặc phiền muộn, khổ đau. Cư sĩ Tô Đông Pha chỉ
giỏi nghiên cứu, học hiểu suông mà không chịu áp dụng tu tập nên tình thức nhạy
bén mà cảm tác ra bài thơ và cứ tưởng như thế là ngộ đạo. Do đó, cư sĩ mới hãnh
diện, tự hào mình là con cháu nhà Thiền chánh tông nên mới làm bài thơ để khoe
với Thiền sư. Không ngờ chẳng những Thiền sư không khen mà con phê vào đó hai
chữ “đánh rắm” như tạt một gáo nước lạnh vào mặt làm ông đau điếng, liền biết
ăn năn sám hối mà nhận ra lỗi lầm của mình. Từ đó, cư sĩ càng thêm kính trọng
Thiền sư Phật Ấn nhiều hơn.
Cuộc
sống của chúng ta chẳng mấy khi được bình yên, hạnh phúc thật sự, mới vừa được
thì lại mất, cứ như thế mà xảy ra hằng ngày vì luôn bị Tám ngọn gió này thổi
cho tan tác. Chính vì vậy, chúng ta muốn thiết lập hạnh phúc, an vui trong đời
sống hằng ngày thì phải biết giữ vững tâm ý khi tiếp xúc, nói năng, làm việc
cho có chừng mực mới không bị Tám ngọn gió đời này chi phối. Bởi khi được thì
ta vui vẻ cảm nhận hạnh phúc, khi mất thì lo lắng, buồn rầu, khổ đau. Thiền sư
Phật Ấn chẳng giảng Kinh, thuyết pháp gì cao siêu mà chỉ nương ngay bài thơ của
Tô Đông Pha phê vào hai chữ ''đánh rắm'' để ông thức tỉnh mà biết cách quay lại
chính mình, tìm về cội nguồn hạnh
phúc.
Qua câu
chuyện trên chúng ta thấy được một bài học thiết thực trong cuộc đời. Nếu ta
chỉ học hiểu lý luận suông trên ngôn ngữ mà không thật tâm hành trì chuyển hóa
là mình chỉ Thiền trên môi mép, miệng lưỡi mà còn kẹt vào văn tự, chữ nghĩa như
cư sĩ Tô Đông Pha mà thôi. Tuy nhiên, Tám ngọn gió đời là giả cảnh huyễn hóa
không thật, lúc có lúc không, khi duyên với trần cảnh mà tâm ưa thích thì sinh
tham lam, đắm say, mê muội. Cho nên, tham được thì càng thêm tham, đến khi tham
không được thì sinh ra sân giận, hờn mát trong lòng mà khởi tâm ưa ghét, thù
hận nên càng làm ta bất an, đau khổ. Người Phật tử chân chính sẽ biết chúng là
giả có, vì ta biết mình có tâm sáng suốt, chân thật nên không bị Tám ngọn gió này
cuốn trôi.
Khi
được tài lộc ta không nên quá vui mừng, vì không vui mừng nên tâm không xao
xuyến, vọng động. Khi sa cơ thất thế, tài sản bị hao hụt, mất mát, thậm chí dẫn
đến tán gia bại sản mà ta vẫn thản nhiên, lòng không dao động. Khi bị phao du,
hủy nhục trước đám đông, chuyện không đúng sự thật làm mọi người hiểu lầm, nghi
ngờ ta là người xấu xa, đê tiện nhưng ta vẫn bình tĩnh, an nhiên, không tỏ ra
thái độ bực tức, giận hờn. Khi được tán thán, công kênh trước đám đông lòng ta
vẫn trước sau như một, tâm không hề lay động. Khi bị chê bai, chỉ trích quá
đáng ta vẫn một lòng an nhiên, không phiền muộn. Khi được ai khen ngợi quá đáng
ta vẫn thản nhiên, không vội mừng vì chưa biết rõ lời khen đó đúng hay sai. Khi
gặp khổ đau, trắc trở ta không oán trời trách đất, đổ thừa tại-bị-thì-là… mà
một lòng giữ vững niềm tin không dao động. Khi gặp việc vui ta cũng không quá
mừng mà tâm bị xao động, lăng xăng. Cho đến khi đối đầu với mọi hoàn cảnh dù
thuận hay nghịch, dù đúng hay sai, dù tốt hay xấu, dù được hay mất ta vẫn an
nhiên, bình thản đón nhận như chúng là một thực tại nhiệm mầu. Vậy ai trong
chúng ta xứng đáng đạt được danh hiệu “Tám gió thổi chẳng động”?
Đôi lời
tâm sự chân thành xin được cống hiến cùng chư huynh đệ pháp lữ gần xa một chút
duyên lành qua đề tài “Tám gió thổi chẳng động” để chúng ta có đầy đủ niềm tin
trong cuộc sống mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Kính
ghi
Phong Trần
Cuồng Nhân
HAI NGỌN GIÓ ĐƯỢC VÀ MẤT
Được làm cho ta vui vẻ,
Mất làm cho ta phiền muộn, khổ
đau.
Đây là
hai ngọn gió đầu trong Tám gió, hai gió này lúc nào cũng rình rập mỗi người
chúng ta không một phút giây lơ là từ khi ta có mặt cho đến khi từ giã cõi đời.
Trong cuộc sống với muôn vàn sai khác, chúng ta ai cũng ước mơ, mong muốn mình
có được việc làm ổn định, sự nghiệp vinh hiển, công thành danh toại, có gia
đình và sống hạnh phúc lâu dài nên khi được thì ta thích thú, vui mừng, đến khi
mất thì ta bất an, lo lắng, buồn rầu, đau khổ. Ta cho “được” là may mắn, là
hên, là hạnh phúc nên ta vui vẻ, mừng rỡ. Ta cho “mất” là thất bại, xui rủi nên
cảm thấy phiền muộn, khổ đau. Lúc hưng thịnh ta làm ăn xuôi chèo mát mái, phát
tài hưởng lộc, ăn nên làm ra, do đó sinh tâm vui mừng, phấn khởi. Khi bị sa cơ
thất thế, thua kém lỗ lã thì lại buồn rầu, lo lắng, cảm thấy bị mất mát, đau thương
rồi sinh ra phiền muộn, đau khổ. Được thì ta vui vẻ, mất thì ta đau khổ, được và
mất là hai thứ dễ làm cho ta buồn rầu, lo lắng hay an vui, hạnh phúc. Từ ngữ “thịnh-suy”
được triết lý bằng bốn cặp đối đãi nhau như hơn-thua, thắng-bại, lời-lỗ, cuối cùng
là được và mất. Bởi hơn thì được, thua thì mất; thắng thì được, bại thì mất;
lời thì được, lỗ thì mất; và giống như thế khi mới sinh ra ta cho là được, đến
khi từ giã cõi đời ta cho là mất.
Hai
ngọn gió “được-mất” này luôn theo ta mãi, nhưng được thì ít mà mất thì nhiều
bởi lòng tham lam, ích kỷ vô bờ bến. Khi gặp thất bại bị thua lỗ, thiệt thòi,
mất mát, ta sa sút, suy sụp vì phiền muộn, khổ đau xâm chiếm tâm hồn. Lúc được
thời thì lên như diều gặp gió, ta cảm thấy hân hoan, vui vẻ, hạnh phúc, nở mặt
nở mày với ông bà cha mẹ, sung sướng hãnh diện với bạn bè người thân. Những lúc
vui thú như vậy ta cảm thấy thân tâm an lạc, nhẹ nhàng. Đến khi thất bại, tán
gia bại sản, tài sản chỉ trông thoáng chốc tan thành mây khói làm cho ta cuồng
tâm loạn trí, sống dở chết dở như kẻ điên khùng, có khi còn muốn quyên sinh tự
tử để chạy trốn khổ đau. Cuộc sống mưu sinh với không biết bao nhiêu mồ hôi và nước
mắt, ta vật lộn với đời tìm kế sinh nhai chỉ để giành được một chút hy vọng
mỏng manh là nhà cao cửa rộng, gia đình hạnh phúc nên luôn cố gắng đấu tranh
sống còn. Thường thì cái mất nhiều hơn sự được, do đó chúng ta dễ dàng sa ngã
trong tối tăm, si mê, mờ mịt. Nếu ta không có chút lòng tin nơi cuộc sống,
không có ý chí và nghị lực thì ta sẽ là người gục ngã trước tiên bởi cuộc sống
không đơn giản và dễ dàng như ta tưởng.
Có một
người mang họ Tái nên người ta thường gọi là Tái ông. Một hôm, con ngựa yêu quý
và tốt nhất trong nhà đi đâu mất biệt không thấy trở về. Nghe tin hàng xóm mới
đến chia buồn và nói lời an ủi: “Tội nghiệp cho cụ quá, cụ là người nhân từ,
phúc hậu từ xưa nay, vậy mà có con ngựa quý cụ lại bị mất.” Lúc đó, Tái ông mỉm
cười nói: “Cũng chưa chắc như thế đâu, nhiều khi trong cái rủi lại có cái may.”
Vài ngày sau con ngựa đi mất trở về và còn dắt theo con ngựa khác đẹp đẽ hơn, khi
đó hàng xóm mới đến chia mừng cùng ông: “Ðúng thật cụ là người có phước, tưởng
đâu mất con ngựa quý, không ngờ lại còn được thêm một con ngựa đẹp khác nữa.” Lúc
này, Tái ông cũng cười và nói: “Cũng chưa hẳn như vậy đâu, biết đâu trong cái
may lại có cái rủi thì sao.” Và đúng là rủi thiệt, con trai duy nhất của ông từ
ngày có con ngựa mới đến nhà nó vui vẻ, thích thú quá nên cưỡi ngựa suốt ngày, do
đó bị té gẫy chân phải bó bột. Thấy vậy, hàng xóm mới đến chia buồn: “Tội
nghiệp cho cụ, cụ chỉ có đứa con trai duy nhất mà bây giờ lại bị gẫy chân, chịu
tàn tật suốt đời. Như vậy là trong cái may mắn lại có cái xui xẻo phải không
thưa ông cụ?” Tái ông không vì thế mà buồn phiền, ông nói: “Cũng chưa chắc đâu,
biết đâu trong cái rủi lại có cái may thì sao.” Chừng vài tháng sau vì có giặc
giã khắp nơi nên nhà vua bắt thanh niên đi lính thú, cậu con trai đó nhờ bị gẫy
chân nên được ở nhà sống với cha già trọn vẹn.
Chuyện
được mất là lẽ đương nhiên trong cuộc đời, ai có đầy đủ phước duyên lắm nên mới
ít gặp chuyện rủi ro, xui xẻo. Người đời khi được thì sinh vui mừng, khi mất
thì sinh phiền muộn, khổ đau. Chúng ta thử làm một bài toán nhân quả xem sao,
nếu kiếp trước ta tạo ít phước báo mà gây nhiều nghiệp ác thì cuộc sống hiện
tại ta gặp nhiều gian nan, trắc trở, chẳng được gì. Ta muốn cuộc sống được
nhiều hơn mất thì ngay bây giờ phải biết gầy dựng từ lòng tin sâu nhân quả, phải
tích cực tu tâm dưỡng tánh, làm nhiều việc phước thiện. Chúng ta sống bằng tất
cả tấm lòng phát xuất từ ý nghĩ cho đến lời nói mà thể hiện ra hành động chân
chính để cùng mọi người sống bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Ai đã từng
có mặt trong cuộc đời mà không một lần gặp hoạn nạn hay vấp ngã, làm việc gì
cũng thành công dễ dàng thì thường sinh tâm cống cao ngã mạn, khinh khi mọi
người, làm cho thế nhân chán ghét, muốn lánh xa. Khi gặp hoạn nạn, mất mát, đau
thương ta mới biết cảm thông cho hai đấng sinh thành đã vì ta mà chịu khổ nhọc
trăm bề.
Tái ông
khi lần đầu tiên mất ngựa ai cũng nghĩ ông sẽ đau khổ, buồn rầu nên đến để an
ủi và chia buồn cùng ông. Vậy mà ông vẫn bình thản, an nhiên, chẳng tỏ ra thái
độ gì có vẻ buồn phiền nên mới nói “biết đâu trong cái rủi lại có cái may”. Ông
sống lạc quan, yêu đời như thế nên không bị hai ngọn gió được-mất làm lay động
tinh thần, do đó luôn sống vui vẻ, thoải mái. Tương tự như thế, khi có thêm con
ngựa đẹp do con ngựa mất dắt về ông cũng không vì thế mà hân hoan, vui mừng.
Chúng ta khi được thì vui, khi mất thì buồn nên niềm vui, nỗi buồn lúc nào cũng
xâm chiếm tâm hồn. Có khi chúng làm cho ta thất điên bát đảo, có khi làm ta cảm
thấy vui mừng, thích thú. Cứ như thế ta luôn bị hai ngọn gió được-mất này làm
cho vui buồn lẫn lộn. Trong cuộc sống ai cũng thích được đầy đủ tiền tài, sắc
đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều nên khi được thì mọi người thích thú, vui
vẻ, phấn khởi, hả hê, cho đó là niềm an vui, hạnh phúc. Chính vì vậy mà ai cũng
mong kiếm thật nhiều tiền để hưởng thụ lạc thú dù chúng ngắn ngủi, qua mau. Khi
gặp cảnh làm ăn thua lỗ, mất mát, suy sụp thì phiền não, khổ đau cứ thế chất
chồng theo ngày tháng. Có những trường hợp thua lỗ mà tán gia bại sản, tan nhà
nát cửa, thân bại danh liệt, sự nghiệp chẳng còn, bao nhiêu công lao gầy dựng
gần cả đời người, nhất là những nhà triệu phú thường hay tự tử vì không đủ sức chấp
nhận, chịu đựng.
Vào thời Phật còn tại thế, có một mệnh phụ phu nhân là một Phật tử thuần
thành, bà thường xuyên cúng dường Trai Tăng. Một buổi nọ, khi đang dâng thực
phẩm cúng dường lên chư Tăng thì bà nhận được một tin hết sức bất hạnh trong
gia đình nhưng vẫn thản nhiên, bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra. Bà bỏ
lá thư vào túi rồi tiếp tục việc dâng thức ăn cúng dường. Một tỳ nữ mang sữa dâng
lên quý thầy được đựng trong bình cổ quý, cô vô tình bị té làm bình sữa bể tan
tành. Ngài Xá Lợi Phất thấy vậy sợ phu nhân phiền não mà la rầy tỳ nữ nên liền
đến khuyên nhủ: “Bình sữa đã bể thì không thể nào hàn gắn lại vì mọi thứ có
tướng đều vô thường sinh diệt.” Bà nói: “Thưa Tôn giả, con vừa mới nhận được
tin 12 đứa con trai của con đã bị nhà vua hành hình vì lời tâu dối của kẻ nịnh
thần”, đây quả là chuyện bất hạnh, đớn đau nhất đối với gia đình con; nhưng đến
giờ con vẫn bình tĩnh sớt bát cho chư Tăng được đầy đủ mà không hề dao động,
hoang mang. Việc cái bình đã bể ấy nào có vấn đề gì.”
Vị Phật tử này trước sự mất mát, đau thương quá lớn lao như thế mà vẫn
thản nhiên, bình tĩnh, tự tại. Bà thật xứng đáng được tặng danh hiệu “Tám gió
thổi chặng động.” Chuyện đau lòng đến thế mà bà vẫn tỉnh như không để lo việc
cúng dường chư Tăng được đầy đủ, trọn vẹn. Việc mất một lúc 12 đứa con trai
trong cuộc đời ít có biến cố nào lớn lao hơn thế. Con người trước những thuận
nghịch hoàn cảnh thường luôn thể hiện cảm xúc vui buồn rõ rệt, khi được lợi thì
vui mừng, hớn hở, muốn kiếm thêm; khi bị hao hụt, mất mát, hay tổn hại thì lại buồn
rầu, tiếc nuối, khổ đau. Người thế gian lúc nào cũng loanh quanh, lẩn quẩn trong
vòng được-mất, hơn-thua mà sinh ra phiền muộn, khổ đau hay vui vẻ, hạnh phúc.
Người phụ nữ này là một phu nhân quý phái được hưởng đầy đủ vinh hoa phú
quý nhưng lại là một Phật tử thuần thành, bà không bao giờ cống cao ngã mạn mà
khinh thường mọi người. Ngược lại, bà luôn biết cung kính người tu hành chân
chính, biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ hai bên, luôn thương tưởng, nâng đỡ kè
bần cùng, cô độc. Bà đã có lòng tin sâu Tam bảo nên không bao giờ tỏ thái độ
giận hờn hay ghét bỏ một ai. Bà là người đầu tiên thỉnh cầu đức Phật cho hàng
đệ tử tại gia thọ Bát quan trai một ngày một đêm để giúp cư sĩ có điều kiện tập
sự hạnh xuất gia. Nhờ truyền thống tốt đẹp đó mà ngày nay các chùa mở khóa tu
một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày. Bà xứng đáng được tôn vinh là người phụ nữ
vẹn toàn cả hai mặt tài năng và đức hạnh.
Vào một lần nọ bà đi nghe Phật thuyết pháp, người tỳ nữ sơ ý bỏ quên
chiếc áo choàng nạm ngọc quý trị giá hơn ngàn lượng vàng. Bà không quở mắng,
rầy la cô tỳ nữ mà còn khen ngợi cô ta nhờ bỏ quên chiếc áo mà bà có dịp phát
tâm xây dựng Tịnh xá từ số tiền đem áo đi bán. Vì giá trị của nó quá cao nên không
ai mua nỗi, bà đã tự bỏ tiền ra mua lại. Trở lại câu chuyện khi bà đang cúng
dường trai Tăng và nghe tin 12 đứa con đều bị giết vì lời tâu dối của nịnh
thần. Chúng ta thấy, điểm đáng kính nể và khâm phục nơi bà là sự bình tĩnh,
thản nhiên trước sự mất mát quá lớn lao. Có nhiều cha mẹ trong nhà chỉ có một đứa
con bị bệnh hay bị chết họ đã khóc thương rất thảm thiết như mất đi điều quý
nhất trên đời. Họ khổ đau, tiều tụy, mất ăn mất ngủ trong nhiều ngày trước cơn
gió mất mát, đau thương. Với vị mệnh phụ phu nhân này, việc sinh được 12 đứa
con trai và đều được làm quan trong triều đại phong kiến là một chuyện không dễ
gì nhà nào cũng có được. Đùng một cái 12 đứa con đều bị giết bởi chế độ phong
kiến độc tôn, vậy mà bà vẫn không hề xao xuyến hay dao động, vẫn bình tĩnh cúng
dường đúng lễ như không có chuyện gì xảy ra. Bà xứng đáng được tặng danh hiệu
người phụ nữ siêu việt của mọi thời đại vì “Tám gió thổi chẳng động”. Thật sự,
Tám cơn gió lốc cuộc đời chỉ cuốn trôi những ai còn tham lam, ích kỷ, đam mê
hưởng thụ những lạc thú trần gian.
Trong
cõi thế gian vốn bất toàn, tương đối, cuộc sống con người có khi lên voi, gặp
hoàn cảnh thuận lợi, tốt đẹp, công việc làm ăn suôn sẻ nên kiếm được nhiều tiền
xây nhà cao cửa rộng, gia đình được cơm no áo ấm, sống vui vẻ với nhau. Những
lúc như thế chúng ta cảm thấy hạnh phúc, an nhiên vì hiểu được ta có quả báo
tốt đẹp hôm nay là do nhân tốt đã tạo trong quá khứ. Tuy nhiên, nếu gặp hoàn
cảnh bất hạnh, khổ đau, không như ý như vị mệnh phụ nói trên chắc ta không chịu
nỗi dù vẫn biết cuộc đời luôn vô thường thay đổi, được và mất là hai ngọn gió
luôn làm cho ta vui mừng, phấn khởi hoặc phiền muộn, khổ đau. Có một điều không
ai có thể chối cãi là khi mình được sinh ra thì ta ăn mừng sinh nhật, nên gọi
là “được”. Khi có tang sự trong nhà, người thân hay chính ta qua đời thì gọi là
“mất”, nên vì thế phải làm đám tang để bà con cô bác, hàng xóm láng giềng đến
chia buồn, đưa tiễn. Như vậy rõ ràng khi sống thì được, khi chết thì mất. Thấy
rõ điều này chúng ta mới hiểu thấu chuyện được-mất là lẽ đương nhiên, không có
gì đáng cho ta phải lo lắng, bận lòng. Ta chỉ một lòng tin sâu nhân quả, không
làm việc xấu ác mà hay làm việc thiện lành, tốt đẹp, sẵn sàng buông xả hai điều
ưa-ghét vì được và mất thì sẽ bình thản, an nhiên, tự tại trong mọi hoàn cảnh.
Có một
Phật tử nhân ngày đầu năm đến Thiền Viện thăm Thiền sư và sau đó yêu cầu Thiền
sư chúc phúc. Thiền sư liền chúc như sau: “Ông chết, cha chết, con chết, cháu
chết, chắt chết, và chít chết.” Vị Phật tử nghe xong quá kinh hoàng, hoảng sợ nói:
“Kính bạch thầy, hôm nay là ngày đầu năm sao thầy chúc con toàn sự chết chóc,
thật là xui xẻo và bất hạnh cho gia đình chúng con. Con muốn gia đình, người
thân được sống an vui, hạnh phúc lâu dài chớ con đâu muốn gia đình con chết
chóc, đau thương như thế. Kiểu chết hàng loạt như vậy thật khủng khiếp, hãi
hùng.” Thiền sư từ tốn trả lời: “Ta chúc phúc như vậy là mong cho gia đình anh
được đại phước đức. Vì sao? Vì gia đình nào mà được chết theo thứ tự từ lớn đến
nhỏ quả là có phước báo to lớn. Nếu trong một gia đình ông bà còn sống mà con
cháu cứ chết dần, chết mòn thì thử hỏi gia đình đó có hạnh phúc được không? Hay
là cành già không đổ mà lại đổ cành non. Có ai muốn như vậy không?”
Thế
gian này thật hạnh phúc là nhờ chết có trật tự, tức là ông già rồi thì ông
chết, cha già rồi thì cha chết, con già rồi thì con chết, rồi đến cháu-chắt-chít
đều theo thứ tự mà ra đi có trật tự. Chết có logic thì được gọi là hạnh phúc
trọn vẹn, gia đình nào khi ông bà cha mẹ còn sống sờ sờ mà con cháu, chắt chít
đều chết trước quả là một bất hạnh lớn lao. Như vậy, chúng ta thấy theo cách
nhìn của thế gian khi được thì vui, khi mất thì buồn; “được” cho là an vui,
hạnh phúc; “mất” cho là bất hạnh, khổ đau. Với cái nhìn của các vị Thiền sư thì
được hay mất là lẽ đương nhiên của cuộc đời, do đó không có gì để ta đáng phải
bận tâm buồn phiền, lo lắng. Cho nên, “Sanh
như đắp chăn Đông, Tử như cởi áo Hạ”. Sinh ra hay mất đi là việc bình
thường của thế gian, ai rồi cũng phải đến lúc như thế. Cũng như hoàn cảnh ta
đang nghèo khó mà bỗng dưng trúng số 10 tờ độc đắc, đêm đó ta có chắc mình ngủ
được hay phải thức trọn cả đêm? Vì từ xưa nay mình chưa bao giờ được như thế,
nay khi được lại quá sức tưởng tượng nên không tài nào chợp mắt. Và cũng như
thế khi có việc mất mát, đau thương, mọi thứ vất vả gầy dựng đều đội nón ra đi,
ta bị sốc, bị buồn rầu, đau khổ mà tiếc nuối mãi.
Trong
cuộc đời này có những việc thuận buồm xuôi gió nên ta được may mắn, tốt đẹp,
hay còn gọi là “hên”. Ngược lại, những chuyện không may, xui rủi cứ đến với ta
liên tục hết chuyện này đến chuyện khác. Chính vì những cái được-mất này mà làm
ta dễ bị hụt hẫng, chới với, chơi vơi giữa dòng đời vô tận. Ta cảm thấy đau lòng vì sự sống này luôn tràn
ngập khổ đau, để rồi chịu chết trong si cuồng, khờ
dại khi không đủ năng lực làm chủ bản thân, do đó trên oán trời, dưới trách đất,
đổ thừa cho xã hội sao quá bất công. Người Phật tử chân chính khi đã tin sâu
nhân quả rồi thì không còn phải bận bịu, lo toan những cái được hay mất mà chỉ
biết làm sao trong hiện tại điều phục được từ ý nghĩ, lời nói, cho đến hành
động luôn hướng về đạo đức mà làm các việc thiện lành, tốt đẹp.
HAI NGỌN GIÓ KHEN VÀ CHÊ
Khi được khen ai cũng vui tươi,
Khi bị chê ai cũng buồn chán,
Người khôn vượt khỏi khen chê,
Thân tâm an ổn, vui tươi làm
lành.
Bài kệ
ý nói xưng tán, ca tụng, khen ngợi hay khiển trách, chê bai; nói gọn lại là khen
và chê; hai ngọn gió này là một cặp thăng trầm khác mà con người luôn phải
thường xuyên đối phó. Khi được tán dương, ca tụng, ngợi khen thì ta được nở mặt
nở mày với tất cả mọi người; khi bị chê bai, chỉ trích thì mặt mày ủ rũ, khốn
khổ như kẻ mất hồn, tinh thần suy sụp.
Có ông
già nọ cùng cậu con trai dắt nhau ra chợ để mua ngựa. Mua được con ngựa vừa ý
hai cha con mừng quá nên cùng nhau dắt ngựa về nhà. Ði được một đoạn người qua
kẻ lại bàn tán xôn xao: “Thiệt là hai cha con ngu dốt làm sao, ai đời mua ngựa
làm gì mà không chịu cưỡi, lại dắt đi bộ như thế giữa trời nắng chang chang”.
Hai cha con nghe vậy mới bàn với nhau: “Phải rồi, mình mua ngựa để cưỡi chứ ai
lại dắt đi bộ thế này”. Thế là hai người đồng trèo lên ngựa cưỡi đi, nhưng được
một đoạn họ lại gặp người khác phê bình: “Ðúng là kẻ ác nhân thất đức, hai cha
con như vậy mà thượng lên con ngựa thì nó làm sao chịu nỗi, thật là ác độc quá
chừng”. Nghe thế người con lật đật tuột xuống để người cha một mình cưỡi ngựa.
Người cha ung dung ngồi trên lưng ngựa và cảm thấy rất vui vẻ, nhưng đi một lát
lại gặp một người phê phán, chỉ trích: “Ðúng là ông cha thời nay có khác, con
còn nhỏ đáng lẽ cha phải nhường con ngồi ngựa, cha gì mà lại đi dành phần hơn,
nỡ để con phải đi bộ như thế”. Người cha nghe nói tức quá chịu không nỗi nên
liền xuống ngựa, nhường lại cho con. Đi thêm một đoạn lại gặp người dè bỉu, chê
bai: “Ðúng là thời đại đảo điên, con cái bây giờ quá bất hiếu, không biết kính
trên nhường dưới, đành lòng ngồi trên cưỡi ngựa mà để cha mình phải đi bộ như
thế, đúng là thứ con trời đánh”.
Câu chuyện
trên nếu nhân vật cha con là chúng ta thì mình xử trí ra sao? Hai cha con sau
khi mua ngựa cùng nhau đi bộ thì bị người ta chửi “ngu”, người cha cưỡi ngựa một
mình thì lại bị chê “tàn nhẫn”, cùng nhau lên ngựa thì lại bị nói “độc ác”, con
cưỡi một mình thì lại bị gọi “thứ con bất hiếu”. Vậy phải làm sao để vừa lòng
tất cả mọi người? Chúng ta ai cũng đều biết trên đời này không bao giờ có
chuyện vừa lòng hết mọi người. Nếu nghe một lời chê nào ta cũng sửa đổi theo ý
người khác, hay khi nghe khen ta hoan hỷ, vui vẻ làm theo thì rõ ràng ta cũng
giống như hai cha con ông già mua ngựa. Tức là khi ta được người khen hay bị
người chê thì họ chỉ là những người bàng quan bên ngoài lâu lâu chọt vô một
tiếng, vậy mà mình lại dính mắc theo họ. Khi làm việc gì ta phải có lập trường
của riêng mình, phải xác định mục tiêu, lý tưởng rõ ràng, không nên vì tiếng
khen chê của thiên hạ mà tự làm khổ mình. Ta có quyền lắng nghe sự khen tặng
hay chê bai của người khác, cái gì đúng ta bắt chước làm theo, cái gì sai ta cố
gắng sửa đổi. Nói đúng nói sai, nói phải nói quấy, nói tốt nói xấu là chuyện
của mọi người, ta có quyền tiếp thu ý kiến đúng và loại bỏ ý kiến sai. Nếu
không như vậy thì suốt cả đời ta cứ bị tiếng khen lời chê làm rối loạn tinh
thần nên mất bình tĩnh, do đó dẫn đến buồn vui lẫn lộn mà không làm chủ được
bản thân.
Nói đến
khen chê ta hãy xem đức Phật khi bị như vậy Ngài xử trí thế nào? Một hôm, đức
Phật đi trước và một nhóm sa môn ngoại đạo theo sau. Các vị sa môn trẻ hết lời
khen ngợi đức Phật là vị tu hành chân chính, có trí tuệ và khả năng biện tài vô
ngại, dám bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dân thiên hạ để đi tu
và là vị thầy dẫn đường xứng đáng nhất thời đó. Khi nghe như vậy các vị tỳ kheo
cùng đi với Phật rất hân hoan, khoái chí vì thầy của mình được mọi người khen
tặng nên bản thân cũng được thơm lây. Đi được một đỗi lại gặp đám đông khác
nói: “Ông sa môn Cồ Đàm là kẻ phá hoại sự sống của nhiều người. Ai cũng thích tiền
tài, sắc đẹp, danh vọng và ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều. Vậy mà ông ta lại
khuyên không nên chạy theo và dính mắc vào chúng mà làm tổn hại thân tâm. Ông
ấy đi đến đâu là người ta đổ xô theo đến đó để tu tập khiến chồng bỏ vợ, cha bỏ
con để sống đời xuất gia”.
Như
chúng ta đã biết, người trẻ tuổi thì khen Phật quá hay, kẻ lớn tuổi thì chê
Phật phá hoại hạnh phúc gia cang của nhiều người. Vì Phật nói chuyện nhân quả
hay quá nên nhiều người phát tâm tu theo. Khi nghe chỉ trích Phật vẫn an nhiên,
bình tĩnh. Trong khi đó các vị tỳ kheo cảm thấy rất khó chịu, bực bội. Đến chỗ
có bóng cây che mát Phật mới bảo các đệ tử ngồi xuống rồi từ tốn nói bài pháp
như sau: “Này các đệ tử, khi nghe lời khen ta chớ vội mừng vì mừng quá sẽ mất
bình tĩnh, hễ mất bình tĩnh thì tâm bị dao động, khi tâm bị dao động thì làm
sao ta biết rõ người ta khen đúng hay sai. Khi nghe ai đó chê bai hay chỉ trích
thì ta chớ có vội buồn, vì khi buồn ta sẽ mất bình tĩnh, lúc mất bình tĩnh thì ta
không biết lời chê đúng hay sai. Khen chê là chuyện thường tình của thế gian,
có nhiều người khen để lấy lòng thiên hạ, có nhiều người chê vì ganh tị tật đố.
Cho nên, chúng ta phải sáng suốt, bình tĩnh trước những lời khen chê đó”.
Cuộc
sống của chúng ta hằng ngày lúc nào cũng phải tiếp xúc với hai sự khen-chê. Ta
phải lắng nghe lời khen hay tiếng chê để biết mà sửa mình. Ai khen đúng thì ta
cố gắng tiếp thu, thay đổi. Ai khen sai ta phải dè dặt, coi chừng nhưng phải
bình tĩnh, khoan mừng, khoan buồn, khoan giận, khoan ghét thì chúng ta mới sáng
suốt để nhận thức được tiếng khen đó nhằm vào mục đích gì. Khi bị chê ta phải
biết lắng nghe lời chê để biết được họ nhằm mục đích gì, họ chê để hạ nhục uy
tín của ta hay chê để ta biết mình sai mà cố gắng sửa sai sao cho tốt đẹp hơn. Theo
tâm lý học Phật giáo, tất cả chúng sinh khi nghe ai khen đều rất phấn khởi, vui
mừng; khi bị chê thì rất bực tức, khó chịu, buồn phiền. Nhiều khi ta chịu không
nỗi nên tức quá cãi lại thành ra hai bên đấu khẩu nhau, cuối cùng “chó le lưỡi,
nai giạt móng”. Lời khen tiếng chê tuy không thật nhưng nếu ta chấp vào đó thì thành
ra mình bị nó sai sử, khi thì vui mừng quá mức, lúc lại buồn rầu, khổ đau.
Ngày
xưa, tôi có quen một cô nọ là người giỏi giang, học giỏi, có bằng đại học và có
nhan sắc mặn mà cũng rất dễ thương. Cô có tiền tài, danh vọng nhưng không thích
lấy chồng, chỉ thích nghề gõ đầu trẻ mà thôi. Cô sống như vậy cho đến năm 28
tuổi thì bắt đầu nghe bà con cô bác hàng xóm xầm xì bàn tán với nhau: “Ôi, đồ thứ
con gái hư, từng tuổi ấy mà không có ai đến rước, chắc cha mẹ cô ta ăn ở thất
nhơn ác đức lắm nên bây giờ cô ta mới bị ế chồng như vậy”. Thật ra, cô ta được rất
nhiều chàng trai ưa thích đến tán tỉnh, nhưng vì cô có tâm nguyện muốn xuất gia
tu hành nên đã từ chối hết những lời tỏ tình đó. Sau khi nghe mọi người chê bai,
chỉ trích như vậy, cô tức quá mới nói: “Tôi sẽ lấy chồng liền cho mọi người coi.
Tôi xinh đẹp, duyên dáng thế này mà nói tôi là cái thứ con gái hư. Để chứng
minh cho mọi người thấy cha mẹ mình là người có đạo đức, cô lập gia đình rồi kế
hoạch hóa không cho có con quá sớm để có thời gian rãnh rỗi mà làm nhiều việc
phước thiện. Có chồng đã hơn ba năm mà chưa có mụn con nào, bà con hàng xóm bắt
đầu bàn tán xì xào: “Đúng là cây độc không trái, gái độc không con”. Ý họ nói
cô ta không sinh con được, mà người đời nói phụ nữ ác độc nên không thể sinh con.
Khi nghe
mọi người nói vậy cô tức quá liền bỏ kế hoạch hóa gia đình và bốn năm
sau cô
sinh được bốn đứa con. Lúc này cô phải đầu tắt mặt tối, vừa đi dạy, vừa
chăm lo
cho bốn đứa con nên nhan sắc tàn phai, mặt mày xuống cấp, trông cô chẳng
khác một
bà già đã U50. Vì chạy theo lời khen tiếng chê mà hôm nay cô phải chịu
khổ đủ
điều, nhưng như vậy đâu đã xong xuôi và êm thắm mọi việc. Chồng cô bây
giờ lại
sinh tật bồ nhí, vợ lớn vợ bé nên lại có chuyện để hàng xóm xôn xao:
“Sao chị
ngu quá vậy, chị để cho nó lấy chồng mình công khai, phải cạo cái đầu
khô của
nó ra mới được, tụi tui sẽ phụ cho”. Lúc bấy giờ cô mới nói: “Thôi, ổng
có vợ
bé thì mặc kệ ổng. Tôi vui vẻ, hạnh phúc sống khi thấy các con đều thành
đạt là
đủ rồi”. Thật may, cô vì biết đủ nên sống an ổn, nhẹ nhàng, giữ vững
được hạnh
phúc gia đình cho đến ngày nay đã gần 60 tuổi, con cái giờ đây đều khôn
lớn
trưởng thành, có nơi ăn chốn ở đàng hoàng. Chồng cô qua đời trong cơn
bạo bệnh nên bây giờ cô không còn bận bịu vì ai nữa, lúc này mọi người
lại đến
nói ra nói vào như sau: “Thật tôi nghiệp cho chị, sao chị ở vậy có một
mình,
chị hổng thấy buồn hay sao?”
Chuyện
đời là thế đó, quý vị có thấy không? Chỉ vì lời khen tiếng chê mà cô bạn của
tôi đã bị quay như chong chóng suốt gần 30 năm, nhưng những lời đó có giá trị
thật sự hay không. Vậy mà khi nghe ai khen “sao dạo này nhìn chị trắng trẻo,
đẹp ra nhiều” dù ta đang đen, lùn, xấu thì mình cũng mừng quýnh mà tin đó là sự
thật. Một lời khen đúng sẽ giúp ta thăng hoa đạo đức tâm linh, một lời khen sai
chỉ làm hại ta rơi vào hố sâu tội lỗi. Do đó, ta không nên khen ai khi thấy họ
làm sai. Một người nào đó uống rượu như hũ hèm, ngày nào anh ta cũng uống mà
chẳng bao giờ thấy say, gặp người như vậy ta không nên khen vì sự tác hại của
rượu rất ghê gớm. Mỗi khi không làm chủ bản thân họ có thể hành hạ, đánh đập vợ
con, hiếp dâm, giết người bừa bãi. Ta cũng không nên chê bai khi thấy người
khác làm việc thiện lành, tốt đẹp, bởi chê như vậy vô tình ta làm hại người đó
và làm tổn phước cho bản thân.
Đứng về phương diện thế gian, một tiếng khen nhẹ nhàng, đúng lúc cũng
như một liều thuốc bổ giúp ta phục hồi sức khỏe nhanh chóng, làm ta cảm thấy
hài lòng, mát dạ. Nhưng nếu lời khen đó không đúng sự thật, chỉ là lời của kẻ
nịnh bợ hay gian dối, phĩnh gạt sẽ làm cho ta sinh tâm cống cao ngã mạn mà
chuốc lấy khổ đau vì dễ dàng bị người lợi dụng làm chuyện xấu. Ta không nên khen
để lấy lòng cấp trên, khen để người ta đam mê dính mắc, khen để được lòng mọi
người để rồi ác tâm mưu hại hoặc lường gạt của nhau. Khi thấy ai làm một việc
ích lợi cho nhiều người thì ta hãy nên thành thật khen tặng để người đó càng
ngày càng làm tốt hơn trong việc chia vui sớt khổ. Khi ta bị người đời khinh
thường, coi rẻ, chê bai thì ta đã biết trước kia mình gieo nghiệp ác quá nhiều,
thay vì bị đọa địa ngục để trả quả khổ đau, nay đời này ta bị khinh chê nhiều
nên tội nghiệp đời trước lần hồi được tiêu diệt theo thời gian.
Khen đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng sẽ kích thích cho người đó thêm
sự cố gắng mà làm tốt hơn. Trái lại, việc khen chê không đúng lúc, đúng chỗ,
đúng đối tượng sẽ làm người đó tự ái mà có thể làm hại lại chính ta. Là người
Phật tử chân chính ta phải sống có ý thức trong việc khen chê, phải làm sao cho
phù hợp lòng người. Thường những người quản lý, các nhà lãnh đạo giỏi, các nhà
giáo dục tâm linh thường sử dụng lời khen chê như một công cụ giao tiếp chủ đạo
nhằm kích thích đối phương càng cố gắng phục vụ tốt hơn. Lời khen đúng như rót
mật vào lòng nên ai không ham, không thích, không khoái sao được. Nó là liều
thuốc bổ giúp con người hoàn thành tốt mọi công việc được giao. Tuy nhiên, cũng
không thiếu những người quản lý, các nhà lãnh đạo có tiếng tăm khi tiếp xúc với
kẻ dưới quyền họ chỉ phê phán, chê bai nhiều hơn khen ngợi. Họ ít quan tâm lắng
nghe sự chia sẻ của người khác, do đó dễ đụng chạm tự ái mà sinh ra phiền muộn,
khổ đau.
Khen và chê là hai cặp thăng trầm trong việc đối nhân xử thế. Ai cũng
cảm thấy hãnh diện khi được khen và cảm thấy buồn phiền khi bị chê. Những người
hay khuyên nhủ, nhắc nhở ta, hay chê trách ta đúng sự thật thì đó là thầy ta. Ta
hãy nên biết ơn và cung kính học hỏi người đó. Những ai chê và khen không đúng
sự thật tức là kẻ tiểu nhân, kẻ gian dối, dua nịnh, hay khen sai để lấy lòng
mình thì ta nên thận trọng. Khen và chê là hai cặp đối đãi làm cho nhiều người
điên đảo và si mê, vọng động. Người trí sẽ không bị lung lạc bởi tiếng khen lời
chê nên hiên ngang, sừng sững như tảng đá lớn mặc tình cho mưa rơi, gió thổi
vẫn không làm lay động được. Như chúng ta đã biết, từ ngàn xưa đến nay không có
một ai hoàn toàn bị chê, hay người trọn vẹn được khen. Nếu luận về khen chê thì
quả thật trong cuộc đời này biết bao giờ ta kể cho hết, nhưng chưa có người nào
hoàn toàn bị chê và cũng chưa có người nào được khen trọn vẹn. Chính đức Phật
mà còn bị người khác chê bai, chỉ trích, chửi mắng thì huống hồ chúng ta bây
giờ chỉ là hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi.
Một hôm, trên đường đi giáo hóa Phật bị một người theo sau chửi mắng
thậm tệ nhưng Người vẫn thong dong, bình tĩnh bước đi nhẹ nhàng, không nói một
tiếng nào. Kẻ kia tức quá chạy lên phía trước chặn lại và nói: “Này Cù Đàm, ông
có điếc không?” Phật nói: “Ta không điếc.” “Nếu Ngài không điếc, tại sao nghe
tôi chửi mà Ngài vẫn làm thinh?” Phật bảo: “Này anh bạn, giả sử nhà ông có tiệc
tùng, ông mời bạn bè người thân tới dự và có chút quà để tặng nhưng họ không
đến. Vậy quà đó thuộc về ai?” “Quà ấy vẫn thuộc về tôi chứ ai.” “Cũng vậy, ông
từ sáng đến giờ cho ta quá nhiều ngôn ngữ yêu thương nhưng ta đâu có nhận. Vậy
quà đó vẫn thuộc về ông.” Người ta chê bai, chửi mắng Phật nhưng Ngài vẫn an
nhiên, bình thản không đón nhận mà còn khởi tâm từ bi thương xót vì người kia
quá vô minh, mê muội. Chúng ta tu theo Ngài cũng vậy, ta không nên để lời khen tiếng chê làm rối loạn
tâm cang. Bởi người đó không dám chấp nhận người khác có tài đức hơn mình nên
mới tìm cách chê bai, lăng nhục Phật như thế. Khi nghe Phật nói như vậy ông ta
liền thức tỉnh mà nhận ra lỗi lầm của mình do tâm ganh ghét tật đố, từ đó ông phát
tâm quy y đầu Phật.
Người
chê ta mà chê phải chính là thầy ta, người chê ta mà chê sai là vì ganh ghét,
tật đố vì thấy ta hơn họ. Người khen ta mà khen phải là bạn ta, nhưng kẻ khen
theo kiểu vuốt ve, nịnh bợ là kẻ thù của ta. Ở đời có hai sự khen chê, một là
khen chê bằng tấm lòng chân thật để giúp ta làm tốt hơn hoặc để ta biết sai mà
sửa sai; hai là khen chê bằng sự ganh ghét, tật đố khi thấy ta thua người hay
vì quyền lợi riêng tư. Miệng lưỡi thế gian lúc nào cũng có hai mặt phải và
trái, đúng và sai, ta cần phải nhận biết lời chê tiếng khen của mọi người thật
hay giả để biết ai là bạn, ai là thù. Từ vua chúa cho đến thứ dân bần cùng thật
khó một ai tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc trong lời nói. Người chê ta mà
chê đúng là thầy ta, người chê ta mà chê sai là kẻ muốn hại ta. Người khen ta
mà khen đúng là bạn ta, người khen ta bằng cách tâng bốc, nịnh hót là kẻ vì lợi
ích riêng tư, đa số là kẻ dưới quyền. Mỗi khi ta phạm sai lầm thì ta không dễ
gì nhận ra. Người chỉ ra cái sai của ta tức là giúp ta thấy được cái sai của mình
thì hiển nhiên họ là thiện hữu tri thức có hiểu biết hơn ta. Người đó xứng đáng
là bậc thầy của ta về trí tuệ. Hơn nữa, họ dám chỉ cho ta nhận ra cái sai của mình
để ta có hướng khắc phục, sửa đổi nên đó chính là người có tâm từ rộng lớn muốn
giúp ta thăng tiến trên con đường tu học. Ta hãy tôn xưng người ấy làm thầy để
có điều kiện được gần gũi học hỏi và tu hành.
Người
khen ta mà khen phải là người tốt không có tâm đố kỵ, hiềm khích trước những cái tốt, cái hay của người khác. Họ khen ngợi
ta để cùng chung vui, chia ngọt xẻ bùi. Đó chính là người bạn tốt, ta hãy nên
kết làm bạn tri kỷ. Trong cuộc đời mình nếu ta có được nhiều người thầy, người
bạn như thế thì ta quá ư là diễm phúc. Tuy nhiên, trong cuộc sống không phải ai
khen hay chê mình thì đều là thầy, là bạn của ta. Để nhận ra đâu là người bạn đích
thực biết khen ta đúng lúc, đúng việc chứ không gian dối, nịnh bợ thật không dễ
tí nào. Trước hết, kẻ gian dối, nịnh bợ khen ta là xuất phát từ lòng vị kỷ, vì
mục đích mưu cầu lợi ích riêng tư. Những kẻ đó luôn lấy việc vuốt ve, nịnh bợ
để tiến thân khiến cho người được khen ngày càng tự đánh mất mình, xa rời lẽ
phải mà rơi vào chỗ khốn cùng. Thật đáng tiếc thay, thời đại nào cũng có vô số
những kẻ như thế. Sử sách đã ghi lại không biết bao nhiêu bậc vua chúa vì những
lời ngon tiếng ngọt mà dẫn đến người tôi trung bị hãm hại, dân tình sống điêu
linh khổ sở vì nạn bóc lột thậm tệ của kẻ quan quyền. Lời dạy của người xưa
luôn giúp chúng ta biết phải sáng suốt để nhận ra đâu là bạn, đâu là thù. Ai khen
ta thật lòng thì ta càng cám ơn họ và càng cố gắng làm tốt hơn nữa những việc
làm có lợi ích cho xã hội.
Ngày
nay, nền kinh tế thị trường mở cửa nên có nhiều người vì muốn được danh thơm
tiếng tốt, tiền bạc dồi dào mà bằng nhiều cách thường vuốt ve, nịnh bợ cấp trên
nhằm mục đích phục vụ lợi ích cho riêng mình nên dễ làm tổn hại, thất thoát của
chung. Chúng ta muốn mọi người giúp ta, chỉ lỗi cho ta, chê ta thật lòng thì
mình phải biết coi trọng những người đó như ân nhân của mình. Cũng vậy, đối với
gia đình người thân, bạn cùng lứa, anh em, ta phải sống với nhau chân tình, thành
thật, dám chỉ ra những khuyết điểm của nhau để ta và người cùng sửa sai mà hoàn
thiện chính mình. Nói tóm lại, người khen ta mà khen đúng, người chê ta mà chê
đúng thì ta hãy nên nhận những người này là thầy bạn tốt của ta. Ngược lại,
người khen ta mà khen sai, người chê ta mà chê sai thì ta hãy nên thương họ
nhiều hơn vì họ quá vô minh, mê muội nên mới có thái độ và hành động không tốt
như thế. Cho nên, khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ
vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi
bị dao động ta sẽ bất an, khi bị bất an ta sẽ bị hai ngọn gió khen-chê thổi bay
mất, mà người tu cần phải “Tám gió thổi chẳng động” thì mới tu có kết quả.
HAI NGỌN GIÓ DANH THƠM VÀ TIẾNG XẤU
Bây giờ
chúng ta cùng tiếp tục khám phá hai gió kế tiếp, hai gió này quan trọng hơn nên
nếu chúng ta vượt qua được thì những gió khác như được-mất, khen-chê, khổ-vui
không làm gì mình được. Các bậc Thánh nhân, các vị đại Bồ tát đều phải vượt qua
hai gió này để thành tựu đạo pháp. Xin mời các bạn hãy cùng chúng tôi khám phá.
Bị vu
oan hủy nhục hay được tán thán, cồng kênh trước đám đông là hai ngọn gió tàn
khốc nhất trong cuộc đời tu hành của chúng ta. Ai qua được hai gió này thì có
khả năng vượt qua cạm bẫy cuộc đời để thành tựu đạo pháp. Được danh thơm tiếng
tốt hay bị mất danh dự mà ta vẫn bình thản, an nhiên, tâm không hề dao động quả
thật là một điều rất khó. Đây là hai ngọn gió quan trọng, tiên quyết trong đời
sống tu hành của chúng ta mà ai cũng phải trải qua để thành tựu đạo pháp.
Thường thì ai cũng thích thú, vui vẻ, hoan hỷ đón mừng danh thơm tiếng tốt nên
khi được ai tán thán, cồng kênh trước đám đông thì cảm thấy mừng vui phấn khởi,
hãnh diện tự hào. Khi bị vu oan hủy nhục về một việc làm xấu nào đó ta sẽ cảm
thấy bị mất mát, thiệt thòi, bị khinh thường, coi rẽ nên thấy mất hết danh dự
thành ra lo lắng, buồn rầu, đau khổ. Có khi ta không chịu nỗi nên muốn chết đi
để bỏ hết chuyện đời. Được tán thán, cồng kênh trước đám đông thì ta thích thú,
vui mừng; bị hủy nhục, rêu rao tiếng xấu trước mặt nhiều người thì ta cảm thấy
tổn thương nặng nề nên tức tối, giận hờn mà sinh phiền muộn, khổ đau. Hai ngọn
gió này ít người nào vượt qua khỏi vì được danh thơm tiếng tốt quá mức nên ta
thích thú, vui mừng; lúc bị phao du hủy nhục quá đáng thì lại dễ dàng bức xúc,
bực tức, đau khổ nên khó lòng được an nhiên, tự tại.
Ngày
xưa, có một vị cao Tăng đức độ nuôi dạy gần 500 đồ chúng, đến khi tuổi
già sức
yếu bệnh hoạn mà chưa chọn được người kế thừa. Để tìm kiếm bậc Pháp khí
trong
nhà Thiền, vị cao Tăng bày ra kế điệu hổ ly sơn, tung tin bị mất trộm
tiền Tam
bảo làm trong chúng ai cũng hoang mang nghi ngờ lẫn nhau. Một hôm khi
chúng
đang ngủ trong giờ trưa, vị cao Tăng la lớn: “Ăn trộm, ăn trộm.” Mọi
người hoảng
hốt chạy theo tiếng la, vị đệ tử lớn chạy vào liền bị vị cao Tăng thộp
cổ áo mà
nói lớn: “Ta bắt được trộm rồi”. Chú đệ tử nói: “Dạ không, con không
phải là
tên ăn trộm, con nghe la ăn trộm nên con chạy vô phụ thầy bắt ăn trộm.”
Bằng
chứng sờ sờ trước mắt nên không thể nào chối cãi, chư huynh đệ pháp lữ
trong
chúng ai cũng thấy thầy tay thộp cổ áo sư huynh mà la “ăn trộm, ăn
trộm”. Cho
nên, vị đệ tử lớn liền bị khai trừ ra khỏi chùa ngay tức khắc mà không
hề được
minh oan. Trục xuất xong vị thầy còn viết giấy truyền cho các chùa khác
không
được chứa chấp thầy ấy vì tội ăn trộm đồ của Tam bảo. Vị đệ tử này xưa
nay được
Tăng chúng tín nhiệm chức thượng thủ trong chùa, chú còn là người mô
phạm dạy
dỗ chúng Tăng. Đột nhiên bữa nay lại bị mang danh tên ăn trộm và bị đích
thân
thầy mình viết giấy khai trừ khỏi Tăng chúng một cách công khai, thử hỏi
ai nằm trong hoàn cảnh ấy mà không đau khổ. Chỉ trong thoáng chốc
bao nhiêu tiếng xấu đổ dồn vào vị sư huynh và bị mọi người khinh chê,
coi thường,
ai rơi vào hoàn cảnh này mới thấy thật tội nghiệp cho vị sư huynh ấy.
Đường đường
cũng là một vị Tăng tướng dung mạo trang nghiêm mà giờ đây chịu nuốt lệ
đau
thương ngậm ngùi, cay đắng trước một sự thật không thể ngờ.
Bị thầy
hủy nhục như vậy trước mặt đồ chúng nên bao nhiêu uy tín từ xưa đến nay bỗng
phút chốc tan tành theo mây khói. Vậy mà chú đệ tử ấy không hề buồn giận, trách
móc hay thể hiện một nét mặt nào tỏ thái độ oán ghét vị thầy. Chú vẫn một lòng
cung kính và tôn trọng thưa: “Xin thầy hãy từ bi cho con ngủ đỡ ngoài cổng Tam quan
cũng được, để mỗi ngày con còn được học hỏi và phụ giúp chúng Tăng làm việc”.
Ấy vậy mà vị thầy cũng không chịu mà nói nếu ở đó thì phải chịu trả tiền ngủ
nhờ. Dù bị thầy hủy nhục, hành hạ, làm khó dễ đủ điều nhưng chú vẫn một lòng
tôn kính thầy mà siêng năng gia trì tinh tấn tu hành. Thời gian như vậy kéo dài
gần 3 tháng, chú vẫn một lòng tín tâm, không một lời than vãn hay trách móc
điều gì. Cuối cùng, vị cao Tăng cũng tìm ra được bậc chân truyền, hôm đó ông đã
chính thức tuyên bố trước đại chúng: “Ta bây giờ đã tìm được người kế thừa,
mong đại chúng sau này khi ta viên tịch rồi thì hãy nghe theo lời chỉ dạy của
sư huynh các người.” Nói xong ông thầy từ giã đại chúng rồi an nhiên ra đi.
Trong lịch sử nhân loại từ xưa nay biết bao nhiêu bậc vĩ nhân, hiền Thánh vẫn
thường bị vu oan giá họa nhưng các ngài vẫn bình tĩnh, an nhiên chứng minh cho
đời sự trong sạch của mình bằng chất liệu của từ bi, vô ngã, vị tha. Vị đệ tử
đó nếu không gặp hoàn cảnh khắc nghiệt như thế thì vị cao Tăng làm sao biết được
đệ tử của mình đã vượt qua Tám gió thật sự và để tất cả đại chúng có đủ niềm
tin mà nương tựa học hỏi, tu hành. Nếu gặp thầy nào còn quá yếu thì khi bị vu
oan giá họa như vậy chắc có lẽ sẽ hận vị thầy của mình suốt cả đời. Nhờ thử
thách đó mà vị thầy biết rõ đệ tử của mình đã qua được Tám gió được-mất, khen-chê,
danh thơm-tiếng xấu và khổ-vui. Nghịch cảnh hay chướng duyên đối với người trí
chỉ là thử thách nên họ vẫn bình thản, an nhiên khi bị hủy nhục sai sự thật
trước mặt mọi người. Giả sử như lúc đó tôi đang ở trong hoàn cảnh này thì có lẽ
tôi sẽ đùng đùng nỗi giận mà oán ghét ông thầy của mình rồi bỏ đi không một lời
từ giã. Tám gió thổi chẳng động là
thước đo để kiểm nghiệm người tu hành chân chánh, nếu ta không trải qua những
hoàn cảnh đau thương, nghiệt ngã như thế thì làm sao ta biết mình có bị gió
thổi hay không.
Đức
Phật của chúng ta ngày xưa cũng bị nhiều người hủy nhục trước mặt vua quan,
thần dân thiên hạ. Khi bị cô gái giả làm bụng bầu bêu xấu trước mặt mọi người:
“Sa môn Cồ Đàm đã lấy em rồi mà ngày nay bỏ bê em như thế này để em phải bụng
mang dạ chữa, sao anh đối với mọi người đều từ bi thương yêu bình đẳng mà lại để
em thành ra nông nỗi. Nếu anh không có thời gian để lo cho em thì hãy nên nhờ
bà Tỳ Xá Khư chăm sóc, giúp đỡ cho em chứ?” Trước mặt đại chúng, Phật an nhiên
trả lời “chuyện này chỉ có tôi biết, cô biết” mà không cần phải đính chính hay
minh oan một lời nào. Sự thật vẫn là sự thật, trời xuôi đất khiến thế nào mà
trong lúc cô ta đang diễn kịch thì cái bụng bầu giả bằng gối rớt xuống trước
mặt mọi người. Cô gái quá xấu hổ nên nhanh chân bỏ chạy, nhiều người tức quá chạy
chửi theo “đồ thứ con gái hư thân mất nết”.
Chuyện
đó xảy ra không bao lâu thì một chuyện khác lại kinh hoàng, khủng khiếp và độc
ác, dã man hơn làm rúng động lòng dân trong cả nước. Bọn người đê tiện, thấp
hèn muốn hại Phật lần này đã tung một chiêu đòn quyết định, chúng muốn tẩy chay
cả giáo đoàn đức Phật cho bằng được nên lập mưu bày kế tinh vi hơn lần trước
gấp trăm ngàn lần. Kỳ này chúng mướn bọn nghiện rượu giết một cô gái đẹp rồi
giấu trong Tịnh xá chỗ Phật ở và lên trình báo với vua quan cô gái ngoan đạo
của họ một thời gian gần đây hay đến Tịnh xá của Phật nghe pháp và bây giờ đã
bị mất tích. Chúng yêu cầu nhà vua phải làm sao tìm cho được cô gái ngoan đạo
ấy. Vua Ba Tư Nặc cho mở cuộc điều tra và cuối cùng tất cả mọi người đều phát
giác ra cô đã bị giết và xác được chôn trong Tịnh xá. Sự thật đã quá rõ ràng,
đâu còn ai nghi ngờ gì nữa vì mọi người đều tai nghe mắt thấy rõ ràng. Vậy ai
là thủ phạm đã giết cô gái và chôn ở chỗ Phật? Phật à, không thể nào có chuyện
đó xảy ra, đệ tử Phật cũng không thể nào làm như vậy.
Bọn người
xấu lúc này lợi dụng thời cơ đem xác cô gái bỏ lên xe chở đi khắp thành Xá Vệ
và rêu rao Sa môn Cồ đàm đã bức tử cô gái. Sự việc xảy ra quá bất ngờ làm cho
vua Ba Tư Nặc không biết giải quyết ra sao vì ông biết chắc Phật trước kia là thái
tử Sĩ Đạt Ta có vợ là hoa hậu đẹp nhất thời bấy giờ và có cả hàng trăm cung phi
mỹ nữ tuyệt nhưng Ngài vẫn từ bỏ hết để sống đời tu hành đơn giản. Nhà vua biết
chắc đây là âm mưu sâu độc của bọn xấu ác vì lòng tham lam ích kỷ, ganh ghét
tật đố mà làm chuyện tày trời như vậy để vu oan hủy nhục đức Phật. Những cuộc
điều tra bắt đầu, nhà vua cho tung ra nhiều thám tử tài ba lỗi lạc có mặt khắp
nơi để dò la tin tức. Bốn chúng đệ tử xuất gia và tại gia thì buồn rầu, lo lắng
chờ đợi kết quả cuối cùng. Riêng bọn người xấu ác thừa dịp này rêu rao tuyên
truyền, tung tin rằng xác cô gái chết do sa môn Cồ Đàm quá thất nhơn ác đức đã
hãm hiếp cô gái rồi giết luôn và chôn ngay chỗ ở. Lúc này những người hiểu biết
đạo chỉ biết trông chờ kết quả điều tra để minh oan cho Phật. Người không hiểu
đạo thì nguyền rủa đức Phật sao mà quá tàn ác, nhẫn tâm. Kẻ bếu rếu, người chửi
bới làm náo loạn khắp cả thành Xá Vệ.
Lệnh
khẩn cấp được ban hành giới nghiêm 24/24, toàn thể chư Tăng đều phải ở
yên một
chỗ, không ai được rời khỏi trú xứ cho đến khi nào điều tra được vụ án,
nếu ai
vi phạm sẽ bị xử trảm ngay. Một ngày trôi qua, hai ngày trôi qua nhưng
vẫn không
có tin tức gì sáng sủa. Nhiều người đang bất mãn, buồn chán, thất vọng,
lo âu
về sự thật quá phũ phàng, từ xưa đến nay có bao giờ xảy ra vụ án mạng
tày trời
như thế. Nhưng trời đâu có hại người ngay, nhân quả rất công bằng, gieo
gió thì
gặt bão, giết người thì bị người giết lại. Đến ngày thứ ba thì ban
chuyên án đã
tìm ra manh mối để đem lại sự trong sạch cho Phật và giáo đoàn. Ai hay
tin cũng
thở phào nhẹ nhõm và mừng thầm trong bụng vì đã qua cơn đại nạn. Số là
bọn
nghiện rượu sau khi giết cô gái xong đã nhận được số tiền lớn từ tay bọn
xấu
ác, nhưng do ăn chia không đồng đều nên trong lúc ăn nhậu cùng nhau,
chúng đã cãi cọ, tranh giành nhiều ít và bị quan quân phát giác, tóm
cổ. Thế là cả bọn đều được đưa về cung vua chờ lệnh xét xử, bọn chúng sợ
quá nên
đã khai hết. Có một số người ngoại đạo đã mướn họ giết cô gái để tẩy
chay giáo
đoàn của Phật. Vua tức giận quá cho người bắt ngay kẻ chủ mưu quăng liền
vào
hầm lửa để thiêu sống, những tên giết mướn đều bị giam vào ngục chờ lệnh
xét xử
sau.
Chuyện
xảy ra như vậy mà Phật vẫn bình tĩnh, an nhiên, không mảy may dao động trước sự
phao du hủy nhục quá nặng nề. Phật không hề đính chính hay minh oan mà vẫn âm
thầm lặng lẽ chờ đợi kết quả hiện thực. Phật an nhiên, tự tại, bất động trước Tám
cơn gió lốc cuộc đời nên ngày hôm nay ta thờ Phật, cung kính lễ lạy Phật vì
nhân cách siêu phàm vượt Thánh của Ngài mà cố gắng bắt chước tu tập để vượt qua
cạm bẫy cuộc đời trước Tám ngọn gió được-mất, khen-chê, danh thơm-tiếng xấu và
khổ-vui. Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết
nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà
quy chánh. Thứ đến Ngài tùy căn cơ chúng sinh mà nói pháp thích hợp để giúp họ
chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Bất kể là thành phần nào
trong xã hội khi gặp Phật đều được lợi lạc, an vui. Chính vì việc làm và hành
động cao thượng của Ngài đã để lại tiếng thơm muôn thuở cho đời giúp chúng ta
biết cách làm chủ bản thân mà sống bình yên, hạnh phúc. Hương thơm của các loài
hoa có ngào ngạt cách mấy cũng không bằng hương thơm của người đức hạnh luôn
bay ngược chiều gió để lại cho đời bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.
Trong cuộc sống muôn
màu muôn vẻ, người hiểu biết thì ít mà kẻ thấy biết sai lầm thì lại quá
nhiều. Xã hội ngày càng thêm phức tạp về mặt quản lý, giáo
dục tệ nạn xã hội và cách thức chuyển hóa tệ nạn để con người ý thức
được cuộc
sống này cần phải có tình thương yêu nhân loại mà cùng nhau vượt qua cạm
bẫy
cuộc đời. Học chuyện xưa để ta thấy con người vì si mê chấp ngã cho rằng
mình
là trung tâm của vũ trụ, là đấng tối cao, là đấng bề trên nên có quyền
ăn trên
ngồi trước mà hưởng thụ lạc thú trần gian. Chính vì những sai lầm đáng
tiếc này
mà từ khi con người có mặt trong cuộc đời đã tương tàn tương sát lẫn
nhau để
tranh danh đoạt lợi. Lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu theo quy luật vay trả,
trả vay.
Vì bảo tồn mạng sống cho mình mà ta đành lòng giết hại lẫn nhau. Thế
giới loài
người từ khi có mặt trong bầu vũ trụ bao la này vì miếng ăn, sự sống mà
chiến tranh
chẳng khi nào thôi dứt do không giữ được 5 Giới của nhà Phật. Con người
càng
phát triển và tiến bộ nhiều chừng nào thì thiên nhiên, tài nguyên, cho
đến các
loài vật bị hủy diệt một cách tàn độc dã man đến đó vì chén cơm manh áo
loài người.
Phật vì lòng từ bi thương xót chúng sinh còn đang lặn hụp, đắm chìm
trong biển
khổ sông mê nên Ngài từ bi thương xót chế ra 5 Giới nhằm giúp con người
giảm
bớt tệ nạn xã hội mà cùng yêu thương đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh
thần
chia vui sớt khổ.
Ta
không giết hại, không ăn thịt chúng sinh, không làm khổ một ai thì thế giới này
cùng vui sống hòa hợp với nhau và hòa bình sẽ có mặt khắp mọi nơi. Ta không
gian tham, trộm cướp, lường gạt của ai mà còn hay san sẻ, giúp đỡ mọi người khi
cần thiết với tinh thần từ bi và trí tuệ thì thế gian này sẽ là thiên đường của
hạnh phúc. Ta vui vẻ chung thủy sống một vợ một chồng, luôn giữ lòng thành thật,
biết cảm thông và tha thứ cho nhau; biết gánh vác, siêng năng làm việc hỗ trợ
lẫn nhau; biết nuôi dạy con cái đúng cách và biết cung kính hiếu dưỡng với ông
bà cha mẹ thì cõi cực lạc sẽ hiện tiền. Ta luôn nói lời thành thật, không nói
dối gạt nhau; luôn nói lời nhẹ nhàng, dễ nghe; không nói lời hằn học, mắng
chửi, móc họng, mạt sát hay lời ngon tiếng ngọt để dụ dỗ người nhẹ dạ, cả tin
và lời gian dối dua nịnh. Hãy nên nói lời yêu thương để ta và người cùng biết
cảm thông, tha thứ, khoan dung và độ lượng. Ta không dùng các chất say sưa có
tác dụng gây nghiện như xì ke, ma túy, rượu chè be bét làm tổn hại thần kinh,
dẫn đến quả si mê, điên dại đời này đời sau. Ai biết giữ được 5 Giới nhà Phật
thì sống một đời an ổn và bình yên, hạnh phúc mà không làm đau khổ cho người và
vật.
Trong
thời Phật còn tại thế, một vị tỳ kheo đem lời ác hủy nhục hai tôn giả Xá Lợi Phất
và Mục Kiền Liên. Phật biết được nguyên nhân sâu xa của nó nên đã khuyên dạy,
ngăn cản nhiều lần mà vị tỳ kheo ấy vẫn không nghe. Do nhân phỉ báng, hủy nhục
hai vị Thánh tăng nên một thời gian sau vị tỳ kheo ấy bị bệnh ung nhọt đầy mình
hành hạ đau nhức, khốn khổ và cuối cùng bị chết. Phật biết vị tỳ kheo này sau
khi chết bị đọa địa ngục chịu khổ báo vô số kiếp nên mới họp chúng mà chỉ dạy
rằng: “Người si mê chết vì phát ngôn bừa bãi giống như búa bén để trong miệng,
thế nên các thầy phải nên thận trọng trong lời nói. Nói đúng chỗ, đúng nơi, đúng
sự thật và đúng đối tượng thì họa may mới tránh được những lỗi lầm đáng tiếc.
Lời nói ác độc hại hơn lửa dữ, hơn rắn độc, làm cho nhân loại giết hại lẫn nhau
không thương tiếc bởi sự nóng giận, thù hằn mà ra”.
Vì sao
chúng ta hay nóng giận để rồi cãi vã, đánh đập nhau đến nỗi vợ chồng ly tán,
cha con xa lìa vì những chuyện vô cớ đâu đâu. Chúng ta không chịu mở mắt ra mà
quán xét cho kỹ trong khi lời nói như gió thoảng qua tai. Ta tranh nhau từ lời
ăn tiếng nói, từ miếng cơm manh áo mà vô tình làm khổ đau cho nhau. Phật nói
bài Kinh này nhằm nhắc nhở các vị tỳ kheo hãy ý thức việc tu hành mà điều phục
nhiếp tâm từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động. Ta phải nói như thế nào để gia
đình, người thân, bè bạn cùng thấm nhuần lời Phật dạy mà cùng nhau yêu thương,
nói lời hòa kính. Vị tỳ kheo đó có phước duyên ra đời gặp Phật, được xuất gia
tu hành nhưng không tranh thủ thời gian để gạn lọc tâm tư mà cứ một bề chấp
trước bám víu vào những cái thấy biết sai lầm của mình nên vô tình phỉ báng bậc
Thánh; được Phật khuyên răn rất nhiều lần nhưng vị đệ tử này vẫn một bề ngoan
cố, do đó bị khổ báo ngay hiện đời chịu thân mình ghẻ lở, cuối cùng khi chết bị
đọa vào địa ngục. Việc tu hành của chúng ta cũng vậy, trước tiên ta phải nhiếp
phục ý nghĩ, không cho nó âm ỉ sôi sục bên trong mà phát ra lời nói ác độc cùng
lời nói hủy nhục. Nguyên nhân chính từ sự bực tức hay không hài lòng, vừa ý một
việc gì đó nên ta mất bình tĩnh mà điên tiết nói những lời cuồng nộ.
Ngày
xưa vẫn có những thầy tỳ kheo tu hành chểnh mãng như vậy và đã được Phật trực
tiếp khuyên nhủ, chỉ dạy nhưng vẫn không chịu sửa đổi để cuối cùng phải chịu
quả báo sống khổ, chết đọa. Ngày nay cách thời Phật đã quá xa nên việc đấu
tranh kiên cường để tranh hơn tranh thua bảo vệ Tông môn Pháp phái. Ai cũng cho
rằng Pháp mình cao còn Tông kia thấp nên dễ dàng chống đối, phỉ báng lẫn nhau.
Ta không biết rằng lời Phật dạy là tùy bệnh cho thuốc, tùy theo căn cơ, trình
độ và sở thích của mỗi người mà Phật hướng dẫn Pháp tu thích hợp. Sở dĩ ta nói
lời nóng giận vì ta lầm chấp mình đúng, người sai. Ai không làm theo ý mình thì
ta bực bội, tức tối rồi sinh ra thù hằn, ghét bỏ mà tìm cách hủy nhục lẫn nhau.
Từ sự thấy biết sai lầm mà ta cố chấp, người trước nói thế nào thì người sau
bắt chước làm vậy nên mới có sự chê bai, hủy nhục lẫn nhau mà vô tình phỉ báng
lời Phật dạy. Cho nên, sống ở đời chúng ta cần phải sáng suốt nhận định đúng
sai mà làm chủ bản thân để vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
HAI NGỌN GIÓ KHỔ VÀ VUI
Hai
ngọn gió này là một cặp thăng trầm khác quyết định toàn bộ đời sống của mỗi con
người chúng ta. Ai đã có mặt trong cuộc đời đều phải bị hai ngọn gió phiền não-khổ
đau và an lạc-hạnh phúc chi phối. Từ vua quan cho đến thứ dân bần cùng đều bị
hai ngọn gió khổ-vui này làm cho thất điên bát đảo. Bởi lúc hưng thịnh, tiền
bạc dồi dào, quyền cao chức trọng, vợ đẹp con xinh thì ta nhận được biết bao sự
quý kính và tôn trọng của người khác nên vui vẻ, hân hoan, phấn khởi, nở mặt nở
mày với mọi người. Đến khi suy sụp, làm ăn sa sút, tán gia bại sản, con cái hư
hỏng, công danh sự nghiệp tan thành mây khói thì ta bị mất hết tất cả mà không
dám nhìn mặt ai nên cảm thấy khổ đau cùng cực. Người bất hạnh khổ đau vì thiếu
thốn khó khăn, nợ nần chồng chất, làm lụng vất vả nhọc nhằn mà không có một
ngày no đủ.
Khổ có
hai loại, khổ thân và khổ tâm. Thân khổ vì được sinh ra mà ta không biết mình
từ đâu đến nên bật ra tiếng khóc “oa oa”, rồi được mẹ cho bú sữa nên cảm thấy
an ổn mà nằm yên; đến khi đói khát mà mẹ mắc bận chuyện gì thì lại ngoa ngoe,
cục cựa, khóc thèm bú; không riêng mình ta khổ mà mẹ cũng khổ lây khi nghe con
khóc vì thèm khát. Đến khi lớn khôn, cái khổ của bệnh cũng hoành hành ta đủ thứ, rồi đến cái khổ của già và
dẫn đến cái khổ của chết. Từ khi ta có mặt cho đến khi ta từ giã cõi đời không
biết bao nhiêu sự khổ luôn quây quần, phủ chụp lên ta. Kẻ yếu đuối, bạc nhược
thì oán ghét trời đất, trách móc xã hội, giận hờn người thân, hoặc chịu không
nỗi mà đành chạy trốn cuộc đời bằng cách quyên sinh tự tử. Khi mới sinh ra mẹ
tròn con vuông thì ta vui vẻ ăn mừng đầy tháng, đến khi tròn trèm một năm thì
lại ăn mừng thôi nôi, sinh nhật, đủ thứ lý do để vui vẻ ăn mừng. Nhưng nếu
trong khoảng thời gian đó đứa bé không được khỏe mạnh hay ốm đau, bệnh tật hoặc
chết giữa chừng thì ta phiền muộn khổ đau, khóc sầu thương tiếc. Cứ như thế cho
đến khi khôn lớn thì phải già-bệnh-chết, hạnh phúc thì ít mà khổ đau thì nhiều,
do đó người không biết tu tâm dưỡng tánh sẽ bị hai thứ niềm vui và nỗi buồn chi
phối suốt cả cuộc đời.
Khổ là
một sự thật của cuộc đời, thân đau khổ bởi sinh-già-bệnh-chết, tâm đau khổ bởi
phiền não tham-sân-si. Trong gia đình khổ vì phải lo cơm áo gạo tiền, ăn mặc,
nghỉ ở, biết bao nhiêu thứ phải lo toan, rồi thương yêu nhau mà phải chịu xa
lìa cũng khổ. Ngoài xã hội thì đấu tranh phải quấy, tốt xấu, đúng sai, giành
giựt miếng ăn để bảo tồn mạng sống nên lúc nào cũng gieo ân oán, hận thù, do đó
mà khổ đau có mặt. Hoàn cảnh sống hiện tại con người phải chịu khổ vì chiến
tranh, thiên tai, sóng thần, động đất, bão lụt, hạn hán. Những nỗi khổ niềm đau
của kiếp người khó mà kể hết ra đây, nó luôn đeo đuổi, theo ta dai dẵng như
bóng với hình. Người có phước giàu sang, công thành danh toại thì phải khổ vì
lo lắng gìn giữ, sợ bị mất mát nên tham được thì càng thêm tham. Kẻ thiếu phước
thì nghèo khó, sự nghiệp lận đận, lao đao như thuyền chông chênh, chồng chành
giữa biển cả. Người giàu khổ vì sợ trộm cướp, con cái hư hỏng vì đam mê hưởng
thụ. Kẻ nghèo khổ vì tay lấm chân bùn, dãi nắng dầm mưa, nợ nần chồng chất, con
cái không được học hành tới nơi tới chốn. Cho nên, dù chúng ta có đầy đủ phước
báo như các vị vua, hay chư Thiên các cõi trời thì ta vẫn phải chịu khổ như
thường. Do đó, đạo Phật nói khổ không phải để ta bi quan yếm thế, chán chường
mà để biết khổ là một sự thật hầu tìm cách chuyển hóa chúng. Sở dĩ ta khổ là do
đâu? Do ta chấp trước bám víu vào cái thân vô thường bại hoại này nên ta tham
lam, sân giận, si mê; tham được thì vui, tham không được thì khổ vì bị mất
mát.
Người
Nhật họ làm ngọc trai bằng cách bắt con trai từ dưới biển lên rồi lấy dao xẻ
thịt chúng ra và nhét vô đó một hột cát, sau đó họ bỏ con trai xuống biển trở
lại. Con nào không đủ sức chịu đựng thì sẽ chết đi, con nào mạnh thì bắt buộc
phải tiết ra một chất gì đó để bao hột cát lại mà làm lành vết thương tuy phải chịu đau ghê gớm vì hột cát nằm trong da thịt
của nó. Từ đó, một viên ngọc trai bắt đầu hình thành. Chúng ta cũng vậy, sống
giữa dòng đời nghiệt ngã chúng ta hay gặp cảnh trái ý nghịch lòng hoặc đau
thương mất mát, cũng giống con trai kia bị người mổ bụng nhét hột cát vào, con
nào chịu nổi thì sẽ cho ra một viên ngọc trai quý giá. Con người cũng thế, nếu
yếu đuối quá sẽ bỏ cuộc nửa chừng vì không có đủ ý chí, nghị lực và niềm tin
trong cuộc sống, để rồi đành phải chấp nhận chạy trốn cuộc đời bằng cách quyên
sinh. Bởi vì sao? Vì thiếu sáng suốt nên không bình tĩnh mà đánh mất đi khả
năng sẵn có của mình, ta không chịu khó kiên trì chấp nhận, chịu đựng một
khoảng thời gian nào đó để có thể chống chọi được sự bất hạnh, đau khổ mà vươn
lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Khi gặp thuận duyên tài lộc dồi dào, được mọi
người cung kính khen ngợi, tán thán cồng kênh, mọi việc đều được hài lòng như ý
thì ta cũng chớ vội mừng; vì nếu mừng quá ta sẽ dễ dàng mất bình tĩnh, khi mất
bình tĩnh ta không sáng suốt mà sinh tâm cống cao ngã mạn, khinh khi, coi thường
mọi người. Khi gặp trở ngại hoàn cảnh khó khăn, mất mát đau thương, bị người
chê bai hủy nhục ta cũng chớ vội buồn; vì buồn ta sẽ mất bình tĩnh, khi mất
bình tĩnh sẽ không làm chủ được bản thân, từ đó khổ đau bắt đầu có mặt. Được
thì ta vui vẻ hạnh phúc, mất thì ta phiền muộn khổ đau, cứ như thế ta mãi dính
mắc vào đó để niềm vui nỗi buồn chi phối cuộc sống của ta.
Người
tu hành cũng giống như con trai vậy, họ phải chấp nhận chịu đựng mọi hoàn cảnh
khắc nghiệt và cần có sự trải nghiệm trong cuộc sống. Họ siêng năng bền chí tu
hành và hết lòng vì đạo Pháp, khả dĩ như vậy họ mới có thể đủ khả năng chống
chọi lại Tám ngọn gió độc mà đa số người đời đều chắp tay chào thua. Tóm lại,
con người thường hay dao động, bất an bởi những cảm xúc vui buồn trước những
hoàn cảnh thuận nghịch của cuộc sống. Khi được lợi lộc thì ta cảm thấy thích
thú, vui mừng, hớn hở; ngược lại, khi bị mất mát, tổn hại thì ta buồn bã, tiếc
nuối, trách móc, đau thương, phiền muộn. Khi bị chê bai hay bị chỉ trích ta cảm
thấy rất khó chịu, nhưng khi được khen thì ta vui thích, hài lòng. Khi được
xưng tán, tung hô thì ta ngất ngây, vui vẻ, hả hê với hạnh phúc đó; còn bị hủy
nhục, vu khống thì ta tức tối, bực tức, hậm hực, bức xúc, khó chịu nên cảm thấy
khổ đau cùng cực. Với những gì không được hài lòng, vừa ý thì ta cảm thấy phiền
muộn, đau khổ. Khi mọi việc vuông tròn tốt đẹp thì lại vui vẻ, hân hoan. Cuộc
sống chẳng mấy khi được bình yên, hạnh phúc trọn vẹn vì luôn bị Tám ngọn gió
này chi phối. Do vậy, muốn thiết lập hạnh phúc và an vui trong cuộc sống ta
phải giữ vững tâm ý khi tiếp xúc, đối diện với Tám ngọn gió đời. Ta phải thường
xuyên quán sát để thấy rõ bản chất của Tám ngọn gió ấy tuy hay làm mọi người
bất an nhưng thực chất chỉ là ở bên ngoài, chỉ vì ta chấp ngã, bám víu vào “cái
ta” không thực thể này nên mới bị chúng chi phối. Do ta hay chấp vào sự được-mất,
khen-chê nên khổ đau hoặc hạnh phúc mà không thấy rõ sự vô thường của chúng. Ta
hãy nên thường xuyên quán xét như thế cho đến khi “được” ta cũng không quá
mừng, mà có “mất” ta cũng chẳng buồn lòng, do đó có thể làm chủ được Tám gió mà
sống bình an, hạnh phúc.
Những lời tán thán, khen khợi của mọi người về một ưu điểm nào đó của
mình sẽ làm ta chấp vào đó mà cảm thấy thích thú, vừa lòng, dẫn đến tâm cống
cao ngã mạn, kiêu căng tự phụ, khinh thường thiên hạ. Sống trong cõi đời ai
không bị chê trách là nguồn hạnh phúc vô biên. Một người không bị chê trách là
phúc lành cho mình, họ được mọi người ngưỡng mộ và cảm thấy sung sướng, hạnh
phúc. Tuy nhiên, phải nói rằng rất khó để được tiếng tốt vì từ xưa nay chưa ai
hoàn toàn bị chê hay trọn vẹn được khen. Người trí biết điều phục chính mình
nên không bận tâm đến những lời khen ngợi, tán thán của người khác và dửng dưng
trước những lời chê bai, chỉ trích, dèm pha của thiên hạ. Nếu ta cứ để những
lời khó nghe đó vào lòng thì phiền muộn, khổ đau sẽ bắt đầu có mặt do bản ngã
bị xúc chạm. Nếu họ chê đúng thì chúng ta hãy nên cảm ơn mà tôn họ làm thầy, vì
họ giúp mình thấy được lỗi lầm mà biết chỗ sửa sai. Nếu họ chê sai vì tâm niệm
ích kỷ, thù hằn thì chúng ta chỉ biết mỉm cười mà vui vẻ cảm thông, khoan dung
độ lượng. Những lúc thành công được nhiều người ca ngợi, tán thán, đề cao mà ta
thích thú, hài lòng sẽ dễ sinh tự mãn và kiêu ngạo. Ta sẽ dễ dàng bị chết chìm
vì lời ngon tiếng ngọt của người khác. Thường những lời hủy nhục, hạ thấp danh
dự của người khác là vì tâm hẹp hòi, ích kỷ. Họ làm vậy là sai và sẽ bị quả
báo, nếu mình khởi tâm sân hận và trả thù thì mình cũng sai như họ. Người an
nhiên, tự tại là người không bị chao đảo trước những ngọn gió được-mất, khen-chê,
tốt-xấu và khổ-vui.
PHẬT ĐÃ VƯỢT QUA TÁM GIÓ
Ngày
xưa, Bồ tát Sĩ Đạt Ta hiên ngang, dũng mãnh, vững vàng vượt
qua Tám gió được-mất, khen-chê, tốt-xấu và khổ-vui để thành tựu đạo quả dưới
cội Bồ Đề. Trước tiên, Ngài
đã từ giã cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan cùng thần dân thiên hạ, Ngài có
được tất cả mà vẫn chấp nhận bỏ hết để không bị các thứ đó làm lung lạc, say
mê. Dưới cội Bồ đề, bọn ma đầu trâu mặt ngựa, hình thù quái dị hung hăng, dữ
dằn kéo đến hăm dọa, khủng bố nhằm làm cho Bồ tát kinh hoàng, khiếp sợ mà tâm
bị dao động, bất an. Chúng quấy nhiễu đủ cách để Bồ tát mất Chánh định mà hoảng
sợ rút lui, cuối cùng vẫn không làm gì được Ngài nên chúng đành bỏ cuộc tháo
chạy không kịp quay đầu. Ma vương Ba Tuần tức quá bèn sai ma dân hóa ra hàng
trăm cung phi mỹ nữ tuyệt đẹp cùng với công chúa Da Du Đà La đến để khóc than,
van xin, quỵ lụy quỳ bên chân Ngài mong Ngài thương xót mà quay trở về sống với
vợ con, hưởng tất cả mọi lạc thú trên thế gian này. Đối diện với các loại ma đó,
Bồ tát Sĩ Đạt Ta vẫn bình tĩnh, thản nhiên trước những lời quyến rũ ngọt ngào
mà nói rằng: “Ta vẫn biết các ngươi tuy đẹp thật, nhưng đó là vẻ đẹp hào nhoáng
bên ngoài được bao bọc bởi đãy da không mấy gì trong sạch. Ta đã rời bỏ nó từ
lâu lắm rồi, các ngươi đi đi, đừng làm náo động Chân tánh ta.” Ma nữ liền nói:
“Thái tử yêu dấu, chàng nỡ lòng nào phụ bỏ tình xưa nghĩa cũ với thần thiếp và
đứa con trai duy nhất hay sao?” “Ta đã biết các ngươi là bọn giả dối. Hãy cút
đi!” Thế là chúng tự xấu hổ mà rút lui có trật tự.
Cuối
cùng, Ma vương Ba Tuần hiện ra hỏi: “Ông có sợ chúng tôi không?” Bồ tát nói: “Ta
không sợ vì các ngươi là thứ huyễn hóa.” Ma vương bảo: “Cõi này là cõi của ta,
ta không thể để một ai vượt khỏi tầm tay của ta. Ta có trong tay hằng hà sa số
thiên binh vạn tướng, ông chỉ có một mình mà ông nói ông không sợ ta là ông
đang nói dối đó sao?” Bồ tát trả lời: “Dù các ngươi có thiên binh vạn tướng trong
tay nhưng cả bọn ngươi đều là đồ giả tạm. Ta tuy chỉ có một mình đơn thân độc
mã nhưng ta có cây cung Thiền định cùng lưỡi kiếm trí tuệ. Các ngươi là thứ yêu
tinh ma mị giả tạo thì làm sao có đủ năng lực để đối phó với cây cung Thiền định
và cây kiếm trí tuệ của ta.” Bồ tát vừa nói xong thì vầng hào quang sáng chói phủ
trùm hết tất cả làm cho chúa tể Ba Tuần và cả bọn ma quân khiếp sợ mà tháo chạy
thụt mạng. Đó là trường hợp Phật đã hàng phục chúng ma dưới cội Bồ đề. Đến khi
Ngài đi giáo hóa thì bị nhiều người mắng chửi, khen chê đủ điều, bị vu oan hủy
nhục đủ thứ nhưng Ngài vẫn bình thản, an nhiên, tự tại trước những cơn gió độc
để chứng minh với đời mình đã thoát khỏi mọi sự ràng buộc của thế gian. Chính
vì vậy, trước khi nhập diệt Ngài đã báo cho bốn chúng trời người biết rõ thời
gian thị tịch của mình hơn ba tháng.
Cho
nên, tùy theo sự dụng công tu hành của mọi người mà có các thứ ma khác nhau đến
để nhiễu loạn quấy rối làm hại ta. Như bản thân chúng tôi còn quá dính mắc vào
nghiệp si mê tình ái thì ma Ba tuần không cần đến để thử thách mà chỉ cần sai
ma nữ thôi là đã làm chúng tôi điên đảo đến bấn loạn cả người. Đó là một sự
thật, là thói quen thâm căn cố đế tệ nhất của chúng tôi. Do đó, mặc dù được
xuất gia tu học và hiện nay đã thuộc hàng U50 nhưng khi đối diện với sắc đẹp
tôi vẫn bị nó mê hoặc làm tê tái cả tâm hồn. Chúng ta có thể vì thương yêu nhân
loại còn đang đắm chìm trong biển khổ sông mê mà muốn ra tay cứu giúp chúng
sinh. Do đó, khi ta muốn giúp mọi người thì ta cần phải bình tĩnh, sáng suốt
dùng cây cung Thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ để quét sạch mọi yêu tinh ma mị
mà vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Người tu hành như chúng ta, đầu tiên dễ bị ma
danh vọng làm nhiễu loạn, kế đến ma lợi dưỡng và sau đó là ma sắc dục. Hai loại
ma danh vọng và lợi dưỡng dễ chi phối người tu hành, có nghĩa là được tiếng
khen và được lợi lộc. Hai ngọn gió này dần dần làm ta mờ mắt, cho đến khi ta
hết thấy đường thì chúng xỏ mũi ta đi một cách nhẹ nhàng. Niềm vui của người tu
hành là từng bước vượt qua sự cám dỗ của cuộc đời, muốn vậy ta phải nhận ra
tính biết sáng suốt và hằng sống được với tính biết đó. Được vậy thì những yêu
tinh ma mị phiền não từ vô thủy kiếp đến nay mới có thể dần hồi được chuyển hóa
và tan hòa vào hư không. Giống như mặt trời vừa mọc thì bao nhiêu u mê, hắc ám
trong đêm tối sẽ được ánh sáng mặt trời chiếu soi.
Đức
Phật của chúng ta đã làm cho lũ chúng ma một phen kinh hồn, khiếp đảm bởi cây
cung Thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ nên Ngài đã vượt qua cạm bẫy của ma và
tuyên bố “Ta đã chứng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Đó là niềm
vui lớn, niềm vui chân chánh, niềm vui của toàn thể nhân loại. Phật đã hàng
phục được toàn thể ma quân, không bị Tám ngọn gió đời làm lay động. Nhờ vậy,
hàng Phật tử chúng ta ngày nay biết được điều hay lẽ phải để học hỏi và tu
hành. Chúng ta cung kính quy ngưỡng, tôn thờ Thế tôn mà cố gắng bắt chước học
hỏi hành trì, ứng dụng lời Phật dạy vào trong đời sống hằng ngày để ta và người
sống trong bình yên, hạnh phúc. Muốn vậy, người tu của chúng ta làm sao giữ
được tâm bình thường và luôn bình tĩnh, sáng suốt mà an nhiên, bất động trước
những cơn gió lốc cuộc đời. Nói tóm lại, người tu là người bất động trước sự
khổ-vui, được-mất, khen-chê… Ai tu được như vậy thì bà con quyến thuộc nhà ma
không thể làm gì được ta nữa.
Trong
nhà Phật dạy, người được Thiền định và trí tuệ là người xứng đáng nhận lãnh danh
hiệu “Tám gió thổi chẳng động.” Chúng ta bây giờ như tôi chẳng hạn chỉ cần một
ngọn gió thôi là đủ bay rồi chứ nói gì đến “Tám gió thổi chẳng động”. Ví dụ có ai
chửi ta mà mình nổi tam bành lục tặc la hét trở lại thì chỉ cần một gió sân
thôi đã thổi ta vào địa ngục, gió tham thì thổi ta vào quỷ đói, gió si thì thổi
ta vào các loài súc sanh. Ngay nơi cuộc sống hiện tại này mà ta đã rơi vào các
loài như thế, huống hồ đến khi ta đối diện với cái chết sẽ không làm chủ được
bản thân thì làm sao ta có cơ hội được sinh trở lại làm người để tiếp tục tu
tập. Các vị Bồ tát thường nói, “Nếu Ta không vào địa ngục để cứu độ chúng sinh
thì ai sẽ can đảm vào đây? Gông cùm, xiềng xích, khổ đau trong địa ngục Ta
không mang thì ai mang?” Nhưng vì sao các vị Bồ tát lại phải phát nguyện như
thế? Bồ tát Quán Thế Âm thường phát nguyện đi vào đời để cứu độ chúng sinh mà
không biết mệt mỏi, nhàm chán để cùng chia vui sớt khổ với tất cả mọi người. Bồ
tát Địa Tạng phát nguyện vào địa ngục để cứu khổ chúng sanh. Vô lượng các vị Bồ
tát phát đại thệ nguyện như thế trước đức Thế Tôn để vào cõi Ta bà vui ít khổ
nhiều này mà tìm cách cứu độ chúng sinh. Các Ngài đã phát tâm dũng mãnh nên
không hề run sợ bởi các loại yêu tinh ma mị đó, các Ngài luôn dấn thân đi vào
đời đem niềm vui đến cho nhiều người và sẵn sàng an ủi, sẻ chia để làm vơi bớt
nỗi đau bất hạnh mà không hề tìm chỗ an ổn riêng cho mình.
Vậy mà
chúng ta bây giờ và đa số các Phật tử cứ muốn yên ổn cho riêng mình nên khi tu
chỉ thích cầu làm sao cho mau sớm về cõi Cực lạc, muốn Phật rước cho lẹ, muốn
khỏi phải làm gì hết mà được mau thành Phật. Nếu ta không phát nguyện tu theo
hạnh Bồ tát mà muốn mau thành Phật thì e rằng ta đang bị ngọn gió tham lam
hưởng nhàn đang cuốn trôi. Ta sống được và an vui, hạnh phúc ở thế gian này thì
không biết bao nhiêu con người, con vật và tài nguyên thiên nhiên phải chịu hy
sinh gánh lấy nhiều khổ đau để ta được tồn tại. Chúng ta tu mà không có sự trải
nghiệm trong khổ đau thì làm sao biết được chúng sinh đau khổ như thế nào mà
tìm cách cứu giúp? Chúng ta tu mà không thấy được lẽ thực, không thấy được chân
lý thì làm sao ta biết được cái gì giả để chuyển hóa, để loại trừ? Mình tu chưa
được bao nhiêu, chưa dấn thân đóng góp, phục vụ cho ai mà đã muốn sung sướng
hưởng nhàn thì làm sao cứu khổ chúng sinh? Thực tế, trong cuộc đời tu hành của
chúng tôi bữa nào lỡ ban trị nhật nêm nếm hơi lạt hay quá mặn một tí thì chúng
tôi đã thấy khó chịu rồi; khi nghe ai đó nói một lời nặng nề khó nghe thì đã
cảm thấy chịu không nổi thì thử hỏi làm sao người đời chịu nổi; bởi vì chúng
sinh ở cõi Ta bà này ngang tàng, lỳ lượm, bướng bĩnh, cang cường, khó điều phục.
Cho nên,
ai tu mà muốn được an ổn, nhàn hạ thì bị con ma hưởng thụ chi phối và sẽ chịu
chết chìm trong lạc thú nên dễ dàng bị nghiệp báo sai sử. Khi đã bị nghiệp dẫn
thì ta khó lòng an nhiên, tự tại trước Tám ngọn gió được-mất, khen-chê, danh
thơm-tiếng xấu và khổ-vui. Thành ra, đối với người tu như chúng ta thì không
được dễ duôi mà để tháng ngày trôi suông vô ích, tới lúc vô thường đến nhanh
chóng thì vô số chúng ma danh vọng, lợi dưỡng, sắc đẹp bao phủ, vây quanh thì
ta đành chịu bó tay chào thua để cho chúng trói chặt. Chúng biến ra các cảnh
thiên đàng đang hưởng thụ các dục lạc tối cao làm cho tâm tư chúng ta rối loạn,
mất hết sự định tĩnh. Trong lúc đang tu hành mà ta lơ là, bất giác một chút thì
các loài yêu tinh ma mị sẽ có cơ hội tấn công làm ta mất bình tĩnh mà dẫn mình đi
vào chỗ sa đọa, khổ đau. Chúng ta tu mục đích chính là để chuyển nghiệp, thắng
được nghiệp và làm chủ các nghiệp tập của mình. Muốn được như thế thì mỗi hành
giả cần phải thường xuyên sử dụng cây cung Thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ. Mục
đích của chúng ta là chặt đứt các dây mơ rễ má tham lam, sân hận và si mê để
được giác ngộ, giải thoát. Ta chưa có được Thiền định thì sẽ bị nghiệp dẫn đi
trong lục đạo luân hồi mà chịu khổ đau sinh tử. Ta chưa có được trí tuệ sáng
suốt thì không đủ sức chống chọi với Tám ngọn gió được-mất, khen-chê, danh
thơm-tiếng xấu và khổ-vui.
Tóm
lại, muốn được làm chủ bản thân để tu hành viên mãn mà vượt qua cạm bẫy cuộc
đời thì ta phải có cây cung Thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ. Nhờ có định tĩnh
ta không bị các phiền não trần lao chi phối, nhờ có trí tuệ ta dấn thân phục vụ
tha nhân mà không biết mệt mỏi, nhàm chán nên dễ dàng cảm thông và tha thứ bằng
trái tim yêu thương và hiểu biết.