PG & Thời đại
Vì sao chính quyền Trung Quốc cấm du khách Việt đến Tây Tạng?
20/08/2012 00:17 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Ngày 31.7.2012, chính quyền Trung Quốc cấm du khách 6 nước: Anh, Na Uy, Áo, Hàn Quốc, Philippines và Việt Nam đến Tây Tạng mà không cho biết lý do vì sao đưa ra lệnh cấm này.


Câu hỏi được đặt ra là, trên thế giới có hàng trăm quốc gia và vùng lãnh thổ, nhưng vì sao chỉ có 6 nước nêu trên bị cấm, và cấm đến Tây Tạng chứ không một vùng đất nào khác trên lãnh thổ rộng mênh mông của Trung Quốc?

Tây Tạng là một vùng đất “nhạy cảm” xét về lịch sử trong quá khứ và cả những gì diễn ra hiện nay. Trung Quốc thế kỷ 21 có khá nhiều “vùng nhạy cảm” chứ không riêng gì Tây Tạng. Tân Cương với thủ phủ Urumqui là một ví dụ. Những cuộc đụng độ sắc tộc nảy lửa diễn ra giữa cư dân bản xứ theo đạo Hồi với người Hán ở Urumqui trước đây cũng khiến cho chính quyền Trung Quốc ra quyết định cấm du khách bén mảng đến vùng đất này, nhất là nhà báo. Tôi chưa có dịp đến Tân Cương, nhưng Tây Tạng thì có. Bất kể du khách vào Tây Tạng bằng đường nào cũng đều phải có giấy phép đặc biệt do cơ quan chuyên trách ở Bắc Kinh cấp. Nếu một người ngoại quốc vào được Tây Tạng mà chưa có giấy phép, khi bị phát hiện sẽ gặp rắc rối to, thậm chí bị coi là gián điệp. Tây Tạng vốn là vùng đất Phật mà nay ra nông nỗi như vậy há phải có nguyên nhân?

Ngày 25.7.2012, TS Mai Hồng - nguyên Trưởng phòng Tư liệu thuộc Viện Hán Nôm đã tặng cho Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam tấm bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ xuất bản ở Thượng Hải năm 1904 và tái bản 1910 dưới triều đại nhà Thanh. Tấm bản đồ ấy chỉ rõ: cực nam đất nước Trung Hoa thời bấy giờ là Nhai Châu, một địa danh thuộc đảo Hải Nam, không có Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông. Thế rồi một ngày nọ, Trung Quốc trưng ra tấm bản đồ lạ hoắc có 9 đoạn bao gần hết biển Đông, còn gọi là đường lưỡi bò, “liếm” luôn 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chuyện chưa dừng lại ở đó. Căn cứ vào những tấm bản đồ địa chính trị xuất bản vào đời nhà Thanh đầu thế kỷ 20 ở Trung Hoa, Tây Tạng với thủ phủ Lhasa vẫn còn là một quốc gia độc lập.

Một góc thủ phủ Lhasa của Tây Tạng - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

Nỗi đau Lhasa

Ngày 22.2.1940, cậu bé 5 tuổi tên Tenzin Gyatso xuất thân trong một gia đình nông dân miền bắc Tây Tạng - hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, đã được tôn lên ngôi Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 trong một nghi thức trang trọng ngay tại thánh địa Lhasa. Tây Tạng lúc ấy chịu ảnh hưởng của đế quốc Anh, đang thâu tóm một vùng rộng lớn bao gồm cả Ấn Độ, Nepal, Butan và Miến Điện (Myanmar) - những quốc gia sát nách Tây Tạng. Năm 1947, Ấn Độ tuyên bố độc lập, thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Anh. Kể từ đây, người Anh mất dần ảnh hưởng ở Tây Tạng. Thời điểm này cũng bước vào giai đoạn cuối của cuộc nội chiến Trung Hoa giữa Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch. Năm 1949, Mao Trạch Đông giải phóng Trung Hoa lục địa, đuổi Quốc dân đảng và Tưởng Giới Thạch ra đảo Đài Loan cho đến tận ngày nay. Theo quan điểm của chính quyền Trung Quốc hiện nay, Đài Loan là “vùng đất không thể tách rời” đối với Trung Hoa lục địa. Theo lịch sử địa chính trị thì Đài Loan thuộc Trung Hoa từ thời xa xưa, vấn đề ở chỗ “sáp nhập” theo cách nào mà thôi. Thế còn Tây Tạng?

Tháng 10.1950 tức là chỉ mới 1 năm sau khi giải phóng Trung Hoa lục địa, 80.000 binh lính Trung Quốc bắt đầu tràn qua và chỉ đúng 1 năm sau, tháng 10.1951, Mao Trạch Đông đã kiểm soát thủ phủ Lhasa - trái tim của Tây Tạng. Trước tình cảnh đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 vẫn theo đuổi chính sách biến Tây Tạng thành vùng đất trung lập nhưng có vẻ khó thành hiện thực. Năm 1954, Đạt Lai Lạt Ma thân chinh đến Bắc Kinh để diện kiến lãnh tụ Trung Quốc Mao Trạch Đông. Ngài lưu trú ở Bắc Kinh cả tháng trời để tìm kiếm một nền hòa bình lâu dài cho vùng đất Tây Tạng thời hiện đại vốn xa lạ với chuyện binh đao, giết chóc.

Nguyện cầu trước cung điện Potala - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

Chuyến đi ấy của vị lãnh tụ tinh thần Tây Tạng chẳng hứa hẹn điều gì sáng sủa cho số phận của vùng cao nguyên lạnh giá. Đạt Lai Lạt Ma về đến Tây Tạng với tâm trạng nặng trĩu, bất an vì lúc này người ta có thể ngửi thấy “mùi chiến tranh” phảng phất khắp thủ phủ Lhasa. Và chuyện gì đến cũng đã đến. Tháng 3.1959, binh lính Trung Quốc với số đông áp đảo đã đồng loạt nổ súng và làm chủ hoàn toàn Lhasa trước sự kháng cự yếu ớt của binh sĩ “nghiệp dư” Tây Tạng. Trước khi chiến sự nổ ra, Đạt Lai Lạt Ma 14 đã kịp cải trang và cùng đoàn tùy tùng rời khỏi Lhasa. Sau nửa tháng di chuyển bằng đường bộ băng qua dãy Hy Mã Lạp Sơn, ngài đến Dharamsala, vùng đông - bắc Ấn Độ sống lưu vong cho đến ngày nay. Có người gọi Dharamsala là “Little Lhasa”.

Chốn linh thiêng

Thủ phủ Lhasa của Tây Tạng có 2 công trình kiến trúc đặc sắc, được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới: cung điện Potala và chùa Đại Chiêu (Jokhang Temple).

Đại Chiêu là ngôi chùa linh thiêng và nổi tiếng bậc nhất ở Tây Tạng, cũng là địa điểm thu hút đông đảo người hành hương và khách du lịch giống như Potala. Chỉ có điểm khác nhau cơ bản về địa lý: cung điện Potala nằm tách biệt trên một ngọn đồi, trong khi chùa Đại Chiêu lại nằm lọt thỏm giữa phố phường đông vui, nhộn nhịp. Trước chính diện của chùa là một quảng trường tấp nập người qua kẻ lại.

Kiểm tra nghiêm nhặt giấy tờ những người “có dấu hiệu khả nghi” ở chùa Đại Chiêu - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

Đến những thành phố du lịch trên thế giới thỉnh thoảng bạn thấy có cảnh sát, sự hiện diện của họ là nhằm kịp thời can thiệp, giải quyết những tình huống xấu xảy ra cho du khách. Ở chùa Đại Chiêu không chỉ công an “nổi”, công an “chìm” mà còn có cả sự hiện diện của lực lượng cảnh sát tinh nhuệ chống khủng bố, bạo động và quân đội nữa, tất cả đều là người Hán với súng tiểu liên trên vai và súng đại liên trên xe. Ngoài súng ống đạn dược, binh lính làm nhiệm vụ ở khu vực này còn được trang bị… bình chữa cháy màu đỏ như ta thường thấy và những cái mền đã được nhúng nước. Tại sao? Ở Lhasa, nếu ai đó có ý định tự thiêu vì lý do chính trị, thì quảng trường chùa Đại Chiêu là một nơi thích hợp cho việc ấy do có đông người chứng kiến. Lúc ấy, bình chữa lửa và mền nhúng nước sẽ dùng vào việc cứu hỏa. Và dĩ nhiên du khách nước ngoài sẽ không bỏ lỡ cơ hội ghi hình cảnh đau thương nhưng sống động ấy. Đó là lý do giải thích vì sao nhân viên an ninh làm nhiệm vụ ở đây có quyền kiểm tra camera của bất kỳ du khách nào nếu nghi ngờ người đó cố ý (hoặc vô tình) ghi lại những hình ảnh “không đẹp”. Khi đến tham quan chùa Đại Chiêu, du khách nước ngoài luôn được dặn dò là không nên chụp hình, quay phim cảnh sát và quân đội hiện diện nơi đây. Nếu bị phát hiện, người ta sẽ buộc bạn phải xóa đi những hình ảnh “nhạy cảm” ấy.

Ở quảng trường chùa Đại Chiêu, tôi đã chứng kiến cảnh công an kiểm tra chứng minh thư mấy anh chàng người Tạng “có dấu hiệu khả nghi”. Ở Tây Tạng ngày nay, nhìn trang phục bạn sẽ dễ dàng phân biệt được ai là du khách nước ngoài, ai là người Tạng, người Hồi hoặc người Hán. Một chiều đến tham quan chùa Đại Chiêu, tôi bắt gặp một gia đình Tạng gồm 1 người đàn ông lớn tuổi đi cùng 2 phụ nữ trung niên và 1 bé trai khoảng 5 tuổi. Đến giữa quảng trường, chắc do mỏi chân, người đàn ông ngồi xếp bằng dưới nền gạch làm bằng đá hoa cương, gương mặt đăm chiêu hướng về chùa Đại Chiêu. Ngay lập tức một anh cảnh sát trẻ người Hán mặc đồng phục đen đến nắm tay kéo ông ta đứng lên và ra hiệu đi chỗ khác. Lực lượng an ninh ở Lhasa buộc phải hành xử như vậy, theo suy nghĩ bất chợt ngay lúc ấy của cá nhân tôi, là nhằm tránh diễn ra sự kiện tương tự như từng xảy ra ở miền Nam Việt Nam năm 1963: hòa thượng Thích Quảng Đức ngồi xếp bằng tự thiêu giữa Sài Gòn nhằm phản đối chính sách đàn áp Phật giáo dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Không riêng gì chùa Đại Chiêu, ngay trong cung điện Potala nhân viên an ninh cũng có cách hành xử tương tự với bất kỳ ai nếu thấy người đó có biểu hiện “khả nghi”.

Chính diện chùa Đại Chiêu, cảnh sát chống bạo động (ngồi trong lều)

luôn hiện diện với vũ khí và bình chữa cháy - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

Bạn sẽ nghĩ gì khi đến tham quan một thành phố mà đi đâu cũng thấy lính tráng mặc đồ rằn ri tay lăm lăm súng tiểu liên? Lhasa là một thành phố như vậy. Để tăng cường sự kiểm soát và phản ứng nhanh một khi có biến cố xảy ra, chính quyền ở Tây Tạng đã tiến hành xây dựng khá nhiều đồn lính (một dạng như lô cốt) khắp các trục đường ở Lhasa. Những đồn lính ấy được làm bằng đá xanh khá vững chắc, rộng khoảng 30 m2, bên trong có bếp, nhà vệ sinh, phòng ngủ… Ngoài vô số những lô cốt hiện diện ở mặt tiền phố phường, còn có nhiều doanh trại quân đội chính quy khá quy mô nằm ngay trong nội thị của Lhasa. Phi trường quốc tế Lhasa cũng là một “điểm nhấn”. Ở đó, bạn sẽ thấy chiến đấu cơ còn nhiều hơn máy bay thương mại. Phi trường ấy có thể nhanh chóng biến thành căn cứ không quân ngay lập tức một khi cần phải như thế.

Đến Lhasa, du khách nào cũng tò mò muốn biết cuộc sống bên trong các tu viện, nơi đào tạo Lạt Ma Tây Tạng. Thế nhưng các tu viện ấy hiện nay chỉ mở cửa hạn chế và du khách buộc phải trình giấy phép cho đồn cảnh sát ở đầu ngõ thì mới được vào. Vào đến bên trong, bạn đừng ngạc nhiên khi thấy lính tráng hiện diện khắp nơi. Có nghĩa là, những tu viện trên toàn lãnh thổ Tây Tạng đều được cảnh sát và quân đội Trung Quốc “chăm sóc tận tình”. Tại sao? Vì tu viện ở Tây Tạng thực chất là trường đại học đào tạo Lạt Ma có trình độ cử nhân và tiến sĩ Phật học. Đó là nơi đại đa số gia đình người Tạng muốn con trai của mình được nhận vào.

Theo Đoàn Xuân Hải - TNO

Bao Hiem BSH
» Video
» Ảnh đẹp
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch