Vấn đáp-Chia sẻ
Duy Lực Ngữ Lục
03/09/2015 11:59 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng
Mục lục
Xem toàn bộ

560. HỎI: Vậy cái tri của bộ não có phải là cái bóng của Chánh biến tri?

  • Ø ĐÁP: Nói là bóng cũng không đúng. Kinh Lăng Nghiêm nói “Bản tri là đệ nhất nguyệt”, do con mắt bệnh mới thấy mặt trăng thứ hai, chứ chẳng phải bóng của mặt trăng thứ nhất.

561. HỎI: Sư phụ nói “Pháp chẳng hai thứ”, nhưng tại sao Đức Phật dạy vô lượng pháp môn?

  • Ø ĐÁP: Vô lượng pháp môn là phương tiện, vì bệnh chấp của chúng sanh vô lượng, nếu bệnh chấp của chúng sanh không có thì một pháp cũng chẳng có. Cho nên nói: “Không có pháp gọi là Phật pháp”. Kinh Kim Cang nói “Pháp còn phải bỏ, huống là phi pháp!”, “Ai nói Như Lai có thuyết pháp là phỉ báng Phật”, “Vốn chẳng có một pháp do Như Lai thuyết”…

562. HỎI: Ngài Bảo Phương dạy: “Sau khi ngộ lấy vô tâm làm chánh dụng”, ngài Lai Quả nói: “Sau khi ngộ khởi vọng tưởng cho nhiều”, hai điều trên có chống đối nhau không?

  • Ø ĐÁP: Lời của chư Tổ đều là tùy bệnh cho thuốc, chúng sanh chấp cái nào phá cái đó. Nếu nói vô tâm là dụng, thì Tổ sư lại nói: “Vô tâm còn cách núi muôn trùng”. Bất cứ chấp hữu chấp vô đều là bệnh, nếu chấp VÔ là thật, tức chấp vào đoạn diệt, thành ngoại đạo. còn nói về “Sau ngộ phải nổi vọng tưởng” là bảo nhiệm, tất cả chỉ là lời diễn tả, không thật.

563. HỎI: Ngài Nguyệt Khê đã ngộ, sao còn đi bác sĩ chữa bệnh?

  • Ø ĐÁP: Ở thế gian phải tùy duyên của thế gian, có bệnh thì đi tìm thầy thuốc, người kiến tánh cũng vậy. Ấy là thị hiện thân bệnh, đến lúc lâm chung cũng thị hiện sanh tử, chẳng có đặc biệt hay khác hơn người thường. Nên nói pháp xuất thế gian chẳng hoại pháp thế gian, nếu có hoại pháp thế gian thì chẳng phải Chánh pháp. Do đó, pháp thế gian, pháp xuất thế gian bất nhị, chẳng phải có hai, do người chấp thật mới thành hai.

564. HỎI: Nghiên cứu Thiền Đạo Tu Tập của Trương Trừng Cơ  và Thiền Luận của Suzuki có lợi ích gì?

  • Ø ĐÁP: Chẳng có lợi ích, vĩnh viễn không thể đạt đến kiến tánh. Tác dụng của Tổ Sư Thiền là muốn trị hết tướng bệnh của bộ não, nên phàm lọt vào suy nghĩ, lời nói văn tự, đều là tướng bệnh. Có lý cũng là tướng bệnh, hễ lập ra chơn lý là phải đúng lý hay không đúng lý, Tự tánh bất nhị, làm sao có đúng hay không đúng, hợp hay chẳng hợp?

Suzuki dạy người giải công án chứ không phải tham công án, cứ giải thấu công án này rồi dạy công án khác để tìm hiểu đáp án, chỉ là kiến giải, là kéo dài tướng bệnh, chẳng thể trị hết bệnh mù.

Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tất cả tri kiến đều là căn bản của vô minh, thuộc pháp sanh diệt, chẳng kiến lập tất cả tri kiến mới là tri kiến Phật”. “Tri kiến vô kiến, tư tức Niết-bàn”, Niết-bàn không sanh diệt, làm sao dùng bộ não có thể giải được!

Còn Trương Trừng Cơ cao hơn Suzuki một chút, cũng là bệnh chấp thật, (Sư phụ dùng chữ VÔ của Bát Nhã Tâm Kinh để dẫn chứng, lượt qua). Phải diệt hết tất cả lý chướng và sự chướng, mới có thể kiến tánh thành Phật.

565. HỎI: Ra sức tham Thiền có ảnh hưởng gì không?

  • Ø ĐÁP: Ông đạp xích lô là phải ra sức đạp, nhưng tham thiền khởi lên nghi tình chỉ là dùng cái không biết chấm dứt tất cả biết, đã không biết thì làm sao biết ra sức? Chỉ là cảm thấy không biết, cái không biết đó chạm với tánh sẵn biết rồi tự thành nghi tình, khỏi cần ra sức.

Lúc đầu hoằng dương Thiền tông, do mọi người đối với pháp Tổ Sư Thiền còn mới lạ, vì muốn tăng trưởng lòng tin của mọi người, nên tôi dùng phương tiện khuyên hành giả ráng, dù nhức đầu, tức ngực, khó thở cũng không sao.

Cũng như Phật Thích Ca dạy người tu Tiểu thừa, đến khi chứng quả A-la-hán, Bích chi Phật rồi, bảo người Nhị thừa bỏ pháp đó, để tiến tu Đại thừa. Lời của tôi cũng vậy, là khiến cho mọi người có lòng tin, đến nay lòng tin pháp môn đã vững, tôi nói là phải tin tự tâm: Nếu lòng tin tự tâm đầy đủ thì khỏi cần ra sức. Vì “Ra sức” chỉ là phương tiện tạm thời cho lúc ban đầu, nếu ra sức mãi sẽ có hại.

566. HỎI: Sau khi Sư phụ ra đi, đối với những người phát tâm tham thiền thì sao?

  • Ø ĐÁP: Sự thật chẳng phải có pháp nhất dịnh gọi là Phật pháp. Kinh Kim Cang nói “Pháp, phi pháp, phi phi pháp”, chẳng có pháp nhất định mà Như Lai thuyết. Chánh pháp chỉ là trị bệnh chấp thật của chúng sanh mà thôi. Theo cơ bản cuốn Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền này, nếu tin tự tâm đầy đủ thì biết tự tâm mình bằng như chư Phật, tức Chánh biến tri khắp không gian thời gian, tự nhiên thực hành được chín chữ: “Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ”, tự nhiên đúng với tông chỉ Tổ Sư Thiền. Dù kiếp này chưa kiến tánh, kiếp sau cũng sẽ kiến tánh. Vì có nhân ắt có quả, đến trước hay sau cũng sẽ đến. Có tôi ở đây hay vắng tôi cũng chẳng khác, chỉ là theo Đường lối thực hành tham Tổ Sư Thiền để thực hành, và có thể đọc thêm một số Kinh sách để tăng trưởng lòng tin tự tâm, chứ không phải dạy thêm giáo lý..

Hiện nay mỗi tháng hai kỳ giải đáp thắc mắc cũng chỉ vì hành giả chưa đủ lòng tin, mới đưa ra câu hỏi, và tôi giải đáp để tăng cường lòng tin cho quý vị mà thôi, chứ không phải  là tôi cho biết thêm giáo lý cao siêu.

Kinh Kim Cang nói: “Pháp còn phải bỏ, huống là phi pháp”, lại, “Như chiếc bè qua sông, đến bờ thì phải bỏ bè”, đâu có pháp thật? Nếu chấp có pháp thật là nghịch với ý Phật vậy.

* * * * *

 

 

26/10/1992 – 01/11/1992

Thiền thất tại Chùa Từ Ân - Quận 11 - TP. Hồ Chí Minh.

567. HỎI: Nói “Tánh thấy không mất”, vậy thân này sau khi chết, tánh thấy của con ở đâu?

  • ØĐÁP:  Chớ nói đến sau khi chết, nay ông còn sống, đang ngồi ở đây, sở thấy rõ ràng trước mắt, nhưng tánh thấy của ông ở đâu? Ông hãy chỉ ra xem! Lúc sống còn tự chỉ không được, nói chi sau khi chết, tôi làm sao chỉ ra? Chính Phật Thích Ca cũng chỉ không được. Tại sao? Vì tánh thấy chẳng phải vật, vốn không lay động biến đổi, làm sao có sanh diệt? Đã chẳng phải vật thì làm sao chỉ?

Do tánh con người ham tìm hiểu, muốn biết tất cả, nhưng chính cái cơ thể của mình còn không biết, những gì trước mắt mình cũng không biết. Ví như tôi nhìn vào móng tay của tôi, đâu thấy nó dài ra? Nhưng nhớ lại thì có dài hơn so với ba ngày trước, vậy nói “Móng tay của tôi ba ngày dài một lần”, đúng không? Không. Tại sao? Móng tay tôi giây phút nào cũng đang dài, sự sanh trưởng đâu có lúc nào ngưng? Chính ngay hiện nay cũng đang dài, chỉ là tôi không biết thôi. Tóc, tế bào của cơ thể, có cái đang sanh, có cái đang diệt, mặt mũi của tôi cũng đang thay đổi, nhưng tôi có biết đâu! Ấy gọi là cuộc sống hàng ngày đang thay đổi mà chẳng tự biết, còn muốn biết tới những gì ngoài cơ thể? Có ích lợi gì?

Cái biết của bộ não là tướng bệnh, cái biết của Phật tánh là tướng mạnh. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta đang ứng dụng cái biết của bộ não, thì cái biết của Phật tánh phải ẩn thôi. Nay chúng ta tham thiền, dùng nghi tình dẹp cái biết của bộ não, tức dẹp tướng bệnh; khi nào hết bệnh, tướng mạnh mới hiện ra.

Cái biết của Phật tánh khắp không gian, thời gian, chẳng chỗ nào không biết, chẳng lúc nào không biết, còn cái biết của bộ não rất hạn chế, lại không đúng với sự thật. Nay nói đến không gian, thời gian, nếu phân tích nhỏ lại thì bộ não không biết.

Ví dụ một ngày đêm có 24 giờ; một giờ chia thành 60 phút, một phút chia thành 60 giây, theo nhà Phật một giây chia thành 60 sát-na. Nói “Một sát-na” thì bộ não còn có thể tưởng tượng được, nếu đem chia thêm ba lần nữa: một sát-na chia làm 60A, 1A chia làm 60B, 1B chia làm 60C. Khi tôi nói đến “1C” trong hiện tại, đã trôi mất mấy mươi C rồi. Hiện tại đã không thành lập được thì bộ não làm sao biết?

Nếu tôi đem chia thêm 30 lần, theo toán học, con số vẫn còn, nhưng bộ não đâu còn biết được thời gian thực tế nữa! Tóm lại, hễ còn con số thì thời gian vẫn có, mà bộ não không biết được. Ấy là nói về thời gian.

Bây giờ nói về không gian: Tôi từng xem một quyển toán học xuất bản ở Hồng Kông, trong đó nói đến một loại vi khuẩn dạng như chiếc dép cỏ, nay tạm gọi là “Con sâu dép cỏ,” loại vi khuẩn này thuộc đơn bào, phải dùng kính hiển vi mới thấy rõ. Về sự trưởng thành của nó, cứ cách một ngày đêm là nứt thành hai con, ngày sau nữa thành bốn con, rồi thành tám con … Từ đời thứ nhất đến đời thứ 90 thì thể tích của nó là 1m3, đến đời thứ 130 thì thể tích bằng quả đất! Chỉ cần trải qua 130 ngày, nếu chỉ có sanh mà không có sự  diệt, thì thể tích của con sâu này bằng một quả đất, đến đời thứ 131 bằng hai quả đất!

Căn cứ theo lý này, nay thử đem con sâu có khối thể tích bằng quả đất này xẻ làm hai, rồi mỗi bên lại xẻ làm hai, cứ như thế xẻ đến lần thứ 130 thì thể tích của nó trở lại thành một đơn bào. Như vậy, theo toán học, đem con sâu ấy xẻ thêm 130 lần; con số vẫn còn, nhưng cơ thể của nó bộ não mình còn biết được không? Con số có thể tiếp tục thu nhỏ, nhỏ đến vô cực, còn việc không gian thời gian trước mắt đã hoàn toàn không biết được rồi.

Cho nên, có người hỏi: “Kiến tánh rồi đi về đâu?”. Nếu có chỗ về thì chưa phải kiến tánh, vì không cùng khắp vậy. Bây giờ ai muốn đạt đến tự do tự tại, làm chủ cho chính mình, chỉ có thực hành tham thoại đầu, chứ đừng tìm hiểu và hỏi ở ngoài nữa, vì hỏi cũng vô ích. Tại sao vô ích? Như trong Kinh nói: Người mù hỏi người mắt sáng: Mặt trời như thế nào? Người  mắt sáng diễn tả mặt trời  có tròn có nóng, vậy là đúng rồi, nhưng nếu người mù cho “Tròn và nóng là mặt trời” thì sai; bởi vì đâu phải cái nào có tròn có nóng tức là mặt trời! Nếu người mù căn cứ theo lời của người mắt sáng mà nhận biết thì không đúng. (Người mù dụ cho người chưa kiến tánh, người mắt sáng dụ cho người đã kiến tánh).

Chớ nói là người mù, nay người mắt sáng với người mắt sáng cũng vậy, tôi thường lấy thí dụ về mặt mũi của ông Trương: Tôi  quen biết ông Trương, còn quý vị thì chưa gặp qua lần nào, chưa biết mặt mũi ông ấy ra sao. Tôi diễn tả mặt mũi của ông Trương  như thế nào, cao thấp ra sao … mặc dù tôi nói rất giống, nhưng quý vị dẫu có gặp ở ngoài đường cũng đâu biết người đó là ông Trương? Vì lời nói và thực tế có khác. Chẳng phải do tôi diễn tả không đúng, nhưng muốn dựa vào lời nói của tôi để nhận biết  thì không  được.      

Nay chưa kiến tánh, đối với sở thấy của mình rõ ràng, mà năng thấy còn chỉ không được, dẫu cho tôi nói được, quý vị theo lời nói của tôi cũng đâu thể nhận biết được! Vì thế cho nên, mục đích của chư Phật là muốn chúng ta trị hết bệnh mù, đích thân thấy, chứ đừng nghe lời người mắt sáng, bị người mắt sáng lừa.

Sự thật, người mắt sáng đâu muốn lừa chúng ta, chỉ tại mình cứ đuổi theo lời nói để nhận biết sự chơn thật. Nay chúng ta cũng như người mù, thấy cũng như không thấy, Đức Phật chỉ hướng dẫn cách tu, để chúng ta tự trị hết bệnh mù, rồi tự thấy.

568. HỎI: Phật với chúng sanh, ai là chủ, ai là khách?

  • ØĐÁP: Tự tánh bất nhị, không có chủ khách. Phật pháp chẳng lìa tự tánh. Lục Tổ nói “Lìa tánh thuyết pháp, ấy là tướng thuyết”. Chấp tướng mới có chủ có khách, còn căn bản của Phật pháp không có chủ khách không có tương đối. Tương đối là nằm trong nhất niệm vô minh.

569. HỎI: Có hai nhà Sư gặp nhau ở ngã ba đường, cùng hét lên một tiếng. Vậy ai là chủ, ai là khách?

  • ØĐÁP:  Đó là công án của chư Tổ. Nếu ngộ thì ngộ ngay lúc đó, nếu không thì phải giữ cái không hiểu, gọi là nghi tình, sau này sẽ được ngộ, công án không phải để cho người ta giải. Vì sự giải thích đó không đúng, lại thành phỉ báng Tổ.

570. HỎI: Tham thoại đầu có nhất thiết phải dùng một câu không? hoặc có thể theo đó mà khởi nghi tình?

  • ØĐÁP:  Nếu tham thoại đầu chỉ nhất định một câu thì chư Tổ chỉ dạy một câu là đủ. Thiền tông lần đầu tiên ra cuốn Truyền Đăng Lục có một ngàn bảy trăm công án, đều có thể tham được. Sau này đến bảy ngàn Tổ, bảy ngàn công án đều có thể tham. Nhưng mỗi người chỉ tham một công án, thấu được một công án thì thấu tất cả, vũ trụ vạn vật đều thấu. Lúc ngộ triệt để là đoạn dứt nghi căn, chẳng còn điều gì không biết. Tham thoại đầu và tham công án là một, chỉ là công án phức tạp hơn. Người nào thích hợp câu thoại nào, cảm thấy nghi nhiều thì tham câu đó. Đối với công án cũng vậy.

571. HỎI: Chúng con tập khí quá nhiều, vậy khi nào mới dứt được?

  • ØĐÁP: Nay hành giả tham thiền đừng để ý đến trừ tập khí, giữ được nghi tình thì tập khí có thể dứt dần, nhưng muốn dứt sạch phải kiến tánh mới được.

Tham thiền chỉ có thể dứt những tập khí thô, còn tập khí vi tế phải sau khi kiến tánh rồi mới dứt. Nên sau khi kiến tánh phải qua sự bảo nhiệm để dứt tập khí thế gian và xuất thế gian.

572. HỎI: Xin Sư phụ kể về những câu chuyện hoằng pháp ở Thiền đường nước Mỹ và chuyến đi thăm vừa rồi ở Chùa Cao Mân Trung Quốc?

  • ØĐÁP: Nay tham thiền với mục đích phát hiện được chính mình, làm chủ cho mình được tự do tự tại. Chữ Phật nghĩa là tự giác giác tha, giải thoát cho mình và cho chúng sanh, còn về những vấn đề trên là không cần thiết, sau này khi có dịp tôi sẽ kể cho nghe.

Vừa rồi, tôi có đi viếng thăm Chùa Cao Mân, và ở lại chùa một tháng từ ngày 04/08/1992 đến 04/09/1992. Ngài Trụ Trì Chùa có mời tôi làm Thủ Tọa. Ở đó, bất cứ cửa nào cũng đề bốn chữ “Chiếu cố thoại đầu.” CHIẾU là chiếu soi, CỐ là nhìn, tức nhìn chỗ thoại đầu, vừa nhìn vừa hỏi. Nếu không nhìn mà chỉ đề câu thoại để hỏi thì nghi tình dễ đánh mất, vừa hỏi liền mất; nếu vừa nhìn vừa hỏi thì nghi tình được kéo dài. Tham thiền chỉ cần vừa nhìn vừa hỏi, ngoài ra khỏi cần tìm hiểu, khỏi cần biết gì, bởi cái biết chẳng phải nghi tình, chẳng phải tham thiền.

Ở Chùa Cao Mân, ngày thường cũng đả Thiền thất. Vào mùa đông thì liên tục mười thất. Đáng lẽ ngày thường đã là thiền thất rồi, tại sao mùa đông lại tổ chức liên tục mười thất? Bởi vì bình thường mỗi ngày chỉ có mười bốn nén hương, đến mùa đông là hai mươi nén hương một ngày: Bắt đầu từ 4 giờ 30 sáng đến 11 giờ khuya mới nghỉ, công phu như thế được miên mật và tinh tấn hơn, nên trong Thiền thất có nhiều vị Tổ sư khai ngộ.

Nay chúng ta chỉ khi đến Thiền đường mới đả thất, còn ở nhà thì không đi hương tọa hương đúng theo quy định, và ở nhà tất nhiên giải đãi hơn, muốn tham cũng được, không tham cũng được, chẳng ai bó buộc và khích lệ. Còn những người ở Thiền đường, không vào thiền thất là không được, hằng ngày đều như thế, mùa đông càng phải dụng công hơn. Sự thật thì khi tập trung đả thất, mặc dù chi phí tốn hao nhiều, nhưng lợi ích cũng nhiều, không uổng cho sự tốn hao. Vì thế ngài Lai Quả khuyên chúng nên tu trong Thiền đường, không nên ở chùa tư.

Về thời khóa tu tập của Chùa Cao Mân, quý vị xem cuốn Tham Thiền Phổ Thuyết của ngài Lai Quả để biết thêm. Trong cuốn Tham Thiền Phổ Thuyết tôi có sửa lại đôi điều sai, vì khi tôi hỏi, mới biết là có sự chênh lệch so với nguyên bản của ngài Lai Quả, đó là do sự sai sót khi in ấn, nên tôi đã lọc bỏ ra những phần không phải của Ngài. 

Ngài Lai Quả kiến tánh ở Chùa Kim Sơn, ngài Hư Vân kiến tánh ở Chùa Cao Mân. Nay chỉ có Chùa Cao Mân giữ được pháp môn Thiền tông, nối theo ngài Lai Quả, còn Chùa Kim Sơn đã trở thành khu du lịch, trong Thiền đường chỉ có hai cụ  già  tham thiền mà thôi.

Vì lẽ đó, ngài Lai Quả nói “Pháp Thiền ngày nay tựa như sợi chỉ treo ngàn cân, không biết ngày nào sẽ đứt”, nên tôi phát nguyện chuyên hoằng Tổ Sư Thiền này. Hoằng dương Tổ Sư Thiền rất khó, vì người ta không tin tự tâm. Phải tin tự tâm 100%, mới có thể nhận được bản tâm của mình.

Người đời nay đa số tu theo Giáo môn, học theo Giáo môn là muốn giải, còn Tổ Sư Thiền không cho giải, vì hễ giải là hết nghi. Cho nên, nhiều vị sau khi kiến tánh, nói: “Tôi không trọng thầy tôi ở chỗ đạo đức, văn chương, chỉ trọng chẳng vì tôi nói trắng ra,” vì nói trắng ra là chẳng thể ngộ.

573. HỎI: Thời nay, nhiều vị tu hành rất cống cao ngã mạn, tự ăn cắp học thuộc lòng một số ngữ ngôn kỳ đặc của Tổ sư, cho là vốn liếng của mình, đi khắp nơi đả phá cái này cái kia, làm trò cười cho thiên hạ. Thậm chí đem ra chỉ trích pháp dạy của Phật, của Tổ, cho là không đúng, phải làm theo cách bày đặt của họ mới là đúng …  Con mong Sư phụ Từ bi khai thị, mở mắt cho những kẻ ngông cuồng ngạo mạn này.

  • ØĐÁP: Học Phật pháp phải biết nhân quả, nhân nào quả nấy, ai tạo nấy chịu. Lục Tổ trong Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Thường tự thấy lỗi mình, chớ nên thấy lỗi người”. Chánh pháp phải phá ngã chấp, cứ thấy lỗi của người khác tức còn ngã chấp.

Những người tham thiền cần lo cho mình được mau kiến tánh, không cần biết tới lỗi của người khác, ấy là ý của chư Tổ dạy như thế. Hễ giữ được nghi tình, tự nhiên không thấy lỗi của người khác. Hãy lấy thân mình làm mô phạm cho người khác noi theo. Khỏi cần nói, cứ làm cho đúng, vì có nói cũng vô ích, người ta có chịu nghe đâu! Mặc dù mình không nói, nhưng người khác nhìn thấy cũng biết. Phải thường thấy lỗi của mình, chẳng thấy lỗi người khác là được.

574. HỎI: Có người cho rằng: Vấn đề cúng thất sau khi chết cho linh hồn được siêu thoát, vậy có hay không? Cũng có thuyết cho rằng: “Con người sau khi chết không có linh hồn, sở dĩ mọi người cúng bái chỉ để làm kỷ niệm đưa người quá cố đi thôi,” đúng hay sai?

  • ØĐÁP:  Phật pháp nói về “Tam thừa,” nếu nói rộng hơn nữa là có Ngũ thừa, tức ngoài Tam thừa ra, thêm nhơn thừa và thiên thừa. Ví như Khổng Tử Trung Quốc quý trọng về nhơn thừa. Phật giáo cũng vậy, dạy người đời giữ gìn ngũ giới, trở thành người công dân tốt, có ích lợi cho xã hội, cho nước nhà.

Tại sao Đức Phật chia làm ngũ thừa? Vì căn cơ trình độ của mọi người khác nhau. Để phù hợp cho mọi căn cơ, nên nói có ngũ thừa. Như hiện nay tôi hoằng dương Tổ Sư Thiền, thuộc Tối thượng thừa, cũng có người hoằng dương Đại thừa, hoặc Trung thừa, hoặc Tiểu thừa, Nhơn, Thiên thừa… chỉ cần mỗi người theo đúng bổn phận của mình, theo đúng tông chỉ của Phật là đủ.

Tôi chỉ chuyên hoằng Tổ Sư Thiền, ngoài ra không biết tới, cũng chẳng thể can thiệp. Sở dĩ nói mạt pháp, vì nghiệp lực của chúng sanh đã là như thế, dẫu cho hằng sa chư Phật, Bồ-tát cũng không thể sửa đổi, Phật Thích Ca trở lại cũng chẳng thể sửa lại định nghiệp của chúng sanh.

Đức Phật có ba việc không làm được:

1/ Chẳng thể độ người không có nhân duyên. 

2/ Chẳng thể sửa lại định nghiệp của chúng sanh, vì nhân nào quả nấy.

3/ Chẳng thể độ hết chúng sanh.

Cho nên, mọi người cứ làm đúng bổn phận của mình, là tuân theo lời dạy của Phật.

Trong Phật pháp có thất chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa, Sa-di, Sa-di-ni (Năm chúng xuất gia), Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di (Hai chúng tại gia). Mỗi mỗi đều có bổn phận riêng, cho đến xã hội cũng vậy: Làm cha có bổn phận của người cha, làm mẹ có bổn phận của người mẹ, làm con có bổn phận của người con, làm chồng có bổn phận của chồng v.v… nếu người nào cũng làm tròn bổn phận của mình thì xã hội yên tịnh, thiên hạ thái bình.

575. HỎI: Cõi trời nhập định tại sao không được giải thoát?

  • ØĐÁPDo còn chấp ngã nên không giải thoát được. Người tu đến Cõi Phi tưởng phi phi tưởng, thọ mạng tám muôn đại kiếp, thuộc về Vô Sắc Giới, chẳng còn sắc thân, nhưng vì chấp A-lại-da thức là ta, nên vẫn chưa ra khỏi luân hồi, chẳng thể giải thoát.

Đã theo Chánh pháp phải phá ngã chấp, thời gian nhập định lâu chưa phải đã giải thoát. Ví như ngài Huệ Trì, sư đệ của ngài Huệ Viễn, ở Lư Sơn từ giã Sư huynh, đi vào tỉnh Tứ Xuyên. Trên đường đi thấy có một cây rất cao to, lại có chỗ trống rổng bên trong, bèn chui vào trong nhập định, sau đó lỗ chui bị bít, người ngoài chẳng ai hay. Trải qua một thời gian, do sấm sét khiến cây bị chẻ ngã, ngài từ trong bọng cây té nhào ra, tóc dài quấn cùng thân thể, nhưng vẫn chưa xuất định. Dân làng xung quanh lúc đầu tưởng ngài đã chết, vì thấy còn hơi ấm mà chẳng cách nào khiến tỉnh lại, bèn chở vào kinh thành báo với vua. Vua sai Thiền sư khiến cho xuất định, hỏi:

- Pháp sư nhập định lúc nào?

- Mới hồi nãy.

Xong ngài hỏi lại: “Sư huynh tôi là Huệ Viễn, lúc này còn ở Lư Sơn không?”

Mọi người tính ra mới biết ngài nhập định đã bảy trăm năm. Vua hỏi:

- Nay pháp sư có mong muốn gì không?

ĐÁP: Không.

Vua nói: Trẫm ban cho chùa chiền để làm Trụ  trì?

Ngài từ chối, chỉ xin được trở về núi.

Việc trên chứng tỏ, nhập định trải qua bảy trăm năm, cũng đâu có ích lợi gì! Nên ngài Lục Tổ nói: “Đạo do tâm ngộ bất tại tọa”.

576. HỎI: Khi nổi lên tâm không biết để nhìn, đó có phải là hầm sâu đen tối không?

  • ØĐÁP: Chỗ không biết tức đen tối, chỉ cần giữ cái không biết, gọi là nghi tình, vừa nhìn vừa hỏi câu thoại để tăng cường nghi tình, đến một ngày kia khỏi cần hỏi cũng giữ được nghi tình, lúc đó không hỏi cũng được. Ví như ngài Nguyệt Khê chỉ có nhìn mà không hỏi, hai năm đã kiến tánh.

577. HỎI: Người mới tham thiền, hay ngủ gục, vậy phải làm sao?

  • ØĐÁPTrong Thiền đường có ban chức sự, có người tuần hương. Hễ đông người thì nhiều người đi tuần, ví như hai trăm người tham gia thì có từ hai đến bốn vị tuần hương. Gặp người buồn ngủ, vị tuần hương dùng cây hương bảng đánh nhẹ trên vai cho thức.

Lần này tôi đi thăm Chùa Cao Mân, nghe được một câu chuyện như sau:

Khu đất Chùa Cao Mân là do vua đời nhà Tùy ban cho, đến đời nhà Thanh, đã hơn một ngàn năm, Vua Khang Hy có dựng một hành cung trong chùa, cổ tích đó đến nay vẫn còn.

Vua Khang Hy đến viếng Chùa sáu lần, mỗi lần đều vào Thiền đường tọa hương với Tăng chúng. Trong Thiền đường có hai chỗ ngồi, một bên dành cho Thủ Tọa, và một bên cho Duy Na. Thủ tọa và Duy na đều có cây hương bảng để sử dụng khi chúng phạm lỗi. Một lần, Vua đang ngồi thiền, thình lình bị Duy Na dùng hương bảng đánh trên vai ba cái, Vua tức giận trong bụng, nhưng vì quy củ của Thiền đường không được lên tiếng. Đến khi xả thiền, vua tìm gặp Trụ trì bảo:

- Hồi nãy sao vị Duy Na dám đánh Trẫm?

Trụ trì mời Duy Na đến hỏi nguyên do, Duy Na nói:

- Vào Thiền đường là phải nhất tâm tham thiền. Thần thấy tâm Vua đang nghĩ đến cung phi, không có tham Thiền, nên đánh thức để trở về với tham thiền.

Vua bị nói trúng, chẳng những không giận, còn kính phục vị Duy na.

Câu chuyện trên được ghi trong lịch sử của Chùa Cao Mân: Vua Khang Hy viếng chùa sáu lần, vua Càn Long chín lần.

Cho nên, dùng hương bảng đánh trên vai là để cho những người buồn ngủ thức giấc. Cũng có người nghi tình nặng, trông bề ngoài giống như buồn ngủ, khi hương bảng đánh xuống, khiến liền ngộ. Ngoài ra, người tuần hương thấy ai ngó qua ngó lại cũng đánh, nói chuyện cũng đánh, nhưng đánh mạnh hơn; ấy là trách nhiệm của người tuần hương.

578. HỎI: Hành giả tham thiền phải tu làm sao để thấu Tam quan?

  • ØĐÁP: Đó tùy thuộc vào chính mình. Cũng như ngài Cao Phong Nguyên Diệu Thiền sư trong Thiền Quan Sách Tấn nói: “Nếu nghi tình của mình nặng như cục đá lớn từ trên đỉnh núi rơi xuống biển, chẳng một sự chướng ngại nào, trong bảy ngày đêm mà không kiến tánh, thì Cao Phong ta sẽ đọa địa ngục A-tỳ, bị cắt lưỡi vì tội nói dối”. Nếu hành giả tham thiền dụng công đến mức như ngài Cao Phong nói trên, trong bảy ngày đêm cũng có thể kiến tánh.

Trong lịch sử Thiền tông có Thiền sư Phật Đăng, trong tứ oai nghi chỉ ứng dụng một oai nghi là đi, không đứng, không nằm, không ngồi. Ăn cũng đi, uống cũng đi, ngày đêm như thế, đi đến mệt rồi, dựa vào vách tường ngủ mê lúc nào chẳng hay, đến khi thức giấc, tự mình đánh mình, rồi không đi gần vách tường nữa. Đi mãi tham mãi, đến 49 ngày kiến tánh.

Công phu của chúng ta nếu được như ngài Phật Đăng thì 49 ngày cũng được kiến tánh, nhưng việc này bắt chước không được.

579. HỎI: Ngài Bác Sơn nói về công phu tham thiền có bốn điều kiện: Khẩn – Thiết - Miên mật - Dung hoát. Xin Sư phụ khai thị về bốn điều kiện trên.

  • ØĐÁP:  Ở trên tôi có nói đến cách “Nhìn,” vừa nhìn vừa hỏi. Cái nhìn đó khiến cho miên mật; giữ được nghi tình là do khẩn thiết, nhất là thống thiết về sanh tử. Bởi vì không biết mình sẽ chết vào tối nay hay ngày mai, nay chưa chết phải giải quyết vấn đề này. Ai cũng sợ chết, nhưng sợ vẫn phải chết. Nên phải khẩn thiết như thế.

Nghi tình là không biết, không biết thì chẳng dính mắc với ngoại cảnh, không để cho người khác làm chủ cho mình; người khác khen ngợi mình cũng không biết, chê cười cũng không biết, khen ngợi cũng chẳng vui, chửi mắng cũng không buồn … Tất cả việc gì đều không dính dáng đến mình, chẳng có chướng ngại, gọi là dung hoát. Dung là dung thông, hoát là trống rỗng, chẳng gì dính mắc. Hễ giữ được nghi tình thì tự nhiên như thế. Nếu không, chắc chắn phải bị dính mắc cái này cái kia. 

Bao Hiem BSH
» Video
» Ảnh đẹp
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch