Thơ
Bình Giảng Bài Thơ Phú Của Đức Vua Trần Nhân Tông
Hoà Thượng Thích Quảng Liên
23/12/2011 00:41 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Bản Hán Văn:

“Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”.

Bản dịch:

Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên

Đói đến thì ăn mệt ngủ liền

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.

Bài thơ phú trên đây của Thượng Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông một Hoàng Đế của triều đại nhà Trần thế kỷ 13, Ngày sanh ngày 11 tháng 11 năm 1258, viên tịch 1308. Trước ngày sanh nở thái Tử, Nguyên Thánh Hoàng Thái Hậu mộng thấy một vị thần tiên trao cho Hoàng Thái Hậu hai cây gươm với lời khuyên bảo Hoàng Thái Hậu tự ý lựa chọn, Hoàng Hậu chọn lấy cây gươm ngắn trong số hai cây gươm mà thần tiên trao, bỗng nhiên Hoàng Hậu tỉnh giấc, cảm thấy mình có thai, khi hạ sanh Thái tử màu da trên thân toàn như vàng y màu hoàng kim. Vua cha là Trần Thánh Tông đặt tên là Kim Phật có nghĩa là Phật vàng, trên thân hiện toàn màu vàng, lại bên vai phải của Vua có một nốt ruồi đặc biệt, các quần thần bấy giờ bàn tán là: Chắc chắn Thái Tử có thể gánh vác đại sự tiếp nối vua cha thống lãnh giang sơn Đại Việt , yêu nước thương dân lòng đầy đạo đức phi thường.

Vua Trần Nhân Tông được truyền ngôi năm 1278 – 1279, nối nghiệp vua cha Trần Thánh Tôn. Mặc dù nhiều lần từ chối ngôi vua muốn nhường ngôi lại cho em là Đức Việp để làm tròn sự nghiệp xuất the, song hoàng triều không đồng ý. Bắt buộc vua Trần Nhân Tông lên ngôi chấp chính từ năm 1279 – 1294. Trong 14 năm lên ngôi gặp đất nước bị ngoại xâm do giặc Nguyên – Mông Cổ từ phương Bắc tràn xuống xâm lấn Đại Việt. Trước tình thế khó khăn, Vua Trần Nhân tông không còn cách nào lựa chọn khác là triệu tập quần thần và thứ dân văn võ nhất tề đứng lên chống ngoại xâm bảo vệ đất nước, nền độc lập dân tộc. Với tinh thần cương quyết dũng cảm vì dân vì nước vì độc lập tự do, toàn dân hưởng ứng  đứng lên đoàn kết một lòng, lại thêm có nhiều tướng lãnh oai hùng hào kiệt như: Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản v.v... là những tướng lãnh ưu tú tài ba chiến thắng giặc Nguyên Mông Cổ làm Hốt Tất Liệt hồn vía bay theo mây gió, mộng đô hộ Đại Việt bị tan vỡ thảm hại.

Sau khi chiến thắng giặc Nguyên - Mông Cổ vua Trần Nhân Tông thực hiện nhiều biện pháp củng cố chính trị nội bộ và phát động chính sách ngoại giao với lân quốc Champa phái Nam. Nước nhà được thái bình ổn định vua Trần Nhân Tông chỉnh đốn nội bộ và đưa chính sách phát triển kinh tế nông thôn, chấn hưng đạo đức văn hoá truyền thống dân tộc .

Thế giới không tiết lời khen Việt Nam có hai tướng tài tinh nhuệ là Quốc Công Trần Hưng Đạo, tướng của đời Trần Minh Vương Trần Nhân Tông thế kỷ thứ 13 và Đại Tướng Võ Nguyên Giáp thời đại Chủ Tịch Hồ Chí Minh thế kỷ 20 .

Có điều khác là dưới thời Minh Vương Trần Nhân Tông chiến thắng ngoại xâm giặc Nguyên - Mông Cổ bằng nhơn lực phương tiện và chiến thuật mưu lược thuần tuý đặc tánh dân tộc Việt Nam sáng tạo và phát động tư tưởng đạo đức đoàn kết chiến đấu thắng lợi không nhờ quân lực, khí giới chiến thuật và tư tưởng bên ngoài mà chính lòng yêu nước bất khuất hào hùng của dân tộc Việt Nam yêu chuộng hoà bình độc lập dân tộc

Khúc khải hoàn cất tiếng trên lảnh thổ Đại Việt đế đô Thăng Long sau chiến thắng quân Nguyên –Mông Cổ do Vua Trần Nhân Tông bực minh quân lảûno đạo tài ba , đem lại hoà bình an cư lạc nghiệp, Vua Trần Nhân Tông ban sắc lệnh đại xá tội phạm, lấy đất công ban thưởng cho quân dân có công dẹp giặc, và giảm miễn thuế nông nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân hăng hái sản xuất lúa gạo, nông sản, để dân được no cơm ấm áo, dân có giàu thì nước mới mạnh .

Về mặt ngoại giao Vua Trần Nhân Tông sáng suốt lập ban giao thân hữu với nước láng giềng phía Nam là Champa. Đây là một sáng kiến tinh thần hoà khí đáng kính trọng .

Hoàn thành sứ mệnh cương vị vua chúa của một đất nước, Vua Trần Nhân Tông tiến lên một bước nữa là bước đường giải thoát như người đã hoài bão lúc chưa lên ngôi hoàng đế. Người nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, cắt ái từ thân theo hạnh từ bi trí tuệ giác ngộ giải thoát của phật Thích Ca tu thiền nhập định trên núi Yên Tử, đem đuốc tuệ sáng soi trong lòng dân Việt. Ngài sáng tác nhiều bài phú để giáo huấn thần dân bài “Cư Trần Lạc Đạo” là một bài trong những bài phú đáng được lưu tâm, nói lên tâm tư nguyện vọng ĐỜI và ĐẠO, tục đế và chơn đế liên quan đến đời sống con người trần thế và xuất thế giải thoát. Ngài nói:

“Ở đời tu đạo hãy tuỳ duyên

Đói đến thì ăn mệt ngủ liền

Trong nhà có báu thôi tiềm kiếm

Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền “.

Vua Trần Nhân Tông làm tròn bổn phận trong đời sống trần gian, trọng trách của bực minh vương Ngài đưa đất nước Đại Việt thanh bình thịnh vượng sau chiến thắng quân Nguyên - Mông Cổ, dân Việt được cuộc sống huy hoàng trong cảnh thái bình. Tuy nhiên vua Trần Nhân Tông nhận thấy cuộc sống trần gian dù cao đẹp giàu sang vinh quang nó không tồn tại vĩnh cửu mãi, một ngày nào đó vô thường đến nó sẽ bị tan mất không khác nào như sương đầu ngọn cỏ, như hoa phù du sớm nở tối tàn, chỉ có tinh thần đạo đức, vui với đạo yêu đạo làm theo đạo tùy theo duyên sống động tùy hoàn cảnh xứ sở đưa đời sống cao đẹp hơn vĩnh viễn hơn đó là con đường giác ngộ giải thoát cuộc sống sanh già bệnh chết. Đúng như lời Phật Thế Tôn chỉ giáo: Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên "đời và đạo, sáng và tối, chúng sanh và Phật, phiền não và Bồ đề, sanh tử và Niết bàn" chỉ là một tánh không có hai, chỉ khác người được giác ngộ gọi là Phật, người còn vô minh trược gọi là chúng sanh, có đuốc tuệ là sáng tỏ không đuốc tuệ là mờ tối .

“Mê cố tam giới thành                  Mê nên thành ba cỏi

Ngộ cố thập phương không           Ngộ nên mười phương không

Bổn lai vô nhứt vật                      Xưa nay không một vật

Hà xứ hữu Nam Bắc”.                   Chổ nào có Nam Bắc           

Đời sống tốt đẹp văn minh hoàn thiện... chính là người vui với đạo sống với đời , có đạo mà không có đời thì đạo truyền cho ai, có đời mà không có đạo thì đời khô cằn không tinh thần sống động, khác nào như cây đứng giữa rừng đồng trống khô khan .

Đói ăn, khác uống, mệt ngủ là nếp sống thường tình của dân sinh. Người đời thường nói “có thực mới vựt được đạo” có sức khỏe là nhờ sự bồi dưỡng ăn uống và nghĩ ngơi thanh thoát, có sức khỏe mới tạo nên sự nghiệp đời cũng như đạo mới được vinh quang sáng rạng, đó có nghĩa là tùy duyên hoàn cảnh của nhơn sinh xã hội .

Chính hai câu thơ đầu của bài thơ phú bốn câu là nói lên sự cần thiết của đời sống nhân sinh, theo thuật ngữ Phật gọi đó là đời sống tục đế (Samvrity Satya) đời sống của con người thế tục trần gian không thể không có!

Đức Vua Trần Nhân Tông nhận thức đời sống thực tế ăn mặc ngủ nghỉ của nhân sinh không thể không có, lại rất cần thiết cho đời sống tùy theo duyên hoàn cảnh khác biệt của mỗi người trong xã hội .

Tuy nhiên kiến thức trí tuệ nhận thức Vua Trần Nhân Tông không phải dừng nơi đây, nơi cuộc sống thường tình trong đời sống hạng cuộc rồi buông tay khi vô thường đưa đến, có sanh phải có diệt, có sống phải có chết, có hạnh phúc phải có ngày đau khổ... Nếu chúng ta chỉ biết có hướng ngoại tìm phương tiện cho sự sống mà không biết hồi tâm hướng nội. Nhìn và nhận thức cái gì sẳn có trong bản thân chúng ta mà xưa nay chúng ta đánh mất chỉ biết theo trần cảnh tạm bợ bên ngoài . Chính vì vậy Cư Trần Lạc Đạo (ở đời vui đạo) hay an cư lạc nghiệp, đó là đạo nghiệp thế gian mà Đức Vua Trần Nhân Tông phương tiện đưa ra đáp ứng đời sống nhất thời hiện tại không thể không có. Như kinh điển Phật nói có vô số phương tiện tùy cơ ứng biến.  

Từ đó Đức Vua đưa nhơn sinh tiến lên đời sống cao thượng, đời  sống hướng về nội tâm bản giác sẳn có nên Ngài nói:

“Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.”

Hai câu đầu “Cư Trần Lạc Đạo ... “ là diễn tả tư tưởng đời sống thế gian thế tục, đời sống nhờ phương tiện ngoại cảnh bên ngoài mà nhà vua khuyên nhân dân có nếp sống đạo đức tu tâm dưỡng tánh làm thú vui cho tinh thần lạc đạo trong lúc nước nhà được thái bình.

Từ phương tiện hướng ngoại Ngài trở về nội tâm, bản giác nhân loại ít ai hiểu rằng Phật ở trong lòng ta (Phật tại tâm) nên dong rủi theo cuộc đời giả tạo mờ ảo bên ngoài làm lu mờ bản tính giác ngộ Phật tánh sẳn có trong nội tâm chúng ta.

Trong nhà sẵn có ngọc ngà của báu đầy đủ không thiếu thứ gì, mà tự mình không biết lại quanh quẩn bốn phương tìm kiếm. Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm “ Thọ ký thứ tám“ có kể câu chuyện rằng: Có chàng thanh niên trong vạt áo có cột sẵn viên ngọc báu vô giá phòng hờ gặp khi cùng cực thiếu thốn lấy ra tiêu xài, song chàng thanh niên không nhớ trong vạt áo mình có viên ngọc báu vô giá, gặp cơn đói khát áo quần rách rưới đi lang thang từ làng này sang tỉnh nọ xin ăn, một ngày nọ gặp lại bạn tri thức  nói với chàng thanh niên rằng  trong mình chàng có viên ngọc quý hiếm cớ sao không lấy ra bán mà tiêu dùng lại đi lang thang xin ăn khổ cực... chàng thanh niên nhớ lại và tìm trong vạt áo qủa thật có viên ngọc báu, từ đó chàng không còn khổ sở nữa. Ngọc báu trong mình mà không biết đem ra tiêu dùng, cũng như Phật tánh sáng suốt sẳn có trong mỗi chúng sanh mà không biết trau dồi tu sữa để lâu ngày bị bụi trần bám dơ. Nhờ thiện tri thức nhắc mới nhớ lại bản tánh ngọc báu vô giá sẳn có trong ta, khi biết mình sẳn có còn tìm đâu nữa.

Tu thiền chỉ quán, trước quán sát cảnh vật bên ngoài là hư ảo giả tạm do nhiều nhơn duyên yếu tố kết hợp mà có như chiếc xe do nhiều bộ phận lắp ráp mà thành rồi theo luật thời gian biến chuyển hư mòn sự vật mai một không tồn tại mãi mãi. Biết sự vật là ảo huyền vô thường có rồi không nên tâm không đam mê cố chấp thật có các Pháp. Tâm không chấp trước ngả Pháp, tức tâm không còn phiền não, phiền não không còn thì tâm yên tịnh tâm thanh tịnh nên tiếp xúc đối tượng cảnh vật bên ngoài đều không thật có không đam mê chấp trước mong muốn trông cầu. Cho nên đối cảnh không tâm, tâm đã thanh tịnh phát hiện trí tuệ được sáng suốt còn hỏi đến thiền, tu thiền để làm gì. Như nhờ thuyền bè vượt qua dòng sông đau khổ đến bờ giải thoát bên kia rồi, còn mong thuyền bè vát thuyền bè trên vai chi cho nhọc. Khi thiền đã được chứng đắc còn hỏi thiền tìm thiền tu thiền chi nữa.

Nhờ phương tiện để đạt đến cứu cánh Chơn – Thiện – Mỹ , chính vua Trần Nhân Tông nhận chơn được chân lý Phật đà. Trước dùng phương tiện Cư Trần Lạc Đạo, an cư lạc nghiệp, đói ăn khát uống, mệt ngủ tạo thiện duyên cho dân tộc nhân loại trong cuộc sống nhân quần xã hội biết Đạo vui Đạo, từ đó tiền lên đời sống cứu cánh tinh thần giải thoát thành lập Trúc Lâm Tam Tổ Yên Tử, lưu lại thánh cảnh Yên Tử hiện hửu và đạo đức thiền môn tinh thần giải thoát cho muôn đời hậu lai.

Có đời có đạo phương tiện cứu cánh

Tục đế chơn đế, sắc sắc không không

Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên là chơn đạo của Phật Tổ lưu truyền, một triết lý cảnh giác nhơn sanh mà Đức vua Trần nhân Tông áp dụng rất cụ thể nhuần nhuyễn đúng đắn trong cuộc sống Đời và Đạo. Người tiếp nối cầm đuốc tuệ Như Lai soi sáng đất Đại Việt, kỉnh tỉnh nhân gian giác ngộ sáng tạo.

Trần Nhân Tông một Hoàng Đế đáng kính, không muốn sống trong cảnh vinh hoa chốn hoàng cung cũng như Thái Tử Sĩ – Đạt – Ta từ bỏ ngai vàng xuất gia tìm chơn lý giải thoát nhơn loại đau khổ. Vua Trần Nhân Tông xứng đáng là bực Tổ đáng tôn kính của Phật Giáo Việt Nam.

Tóm lại: Đức Vua Trần Nhân Tông thực thi pháp môn (Thiền quán của Phật Tổ đem đuốc tuệ soi sáng nhân quần xã hội không phải là việc dễ làm. Hơn nữa , cương vị một Hoàng Đế đương triều thạnh trị lại từ bỏ cung vàng điện ngọc làm người Tu sĩ bình thường hành trì khổ hạnh đâu phải không có mục đích. Mục đích đó phải là cao thượng siêu việt hơn là cương vị đế vương tự xưng hùm xưng bá, lợi dụng địa vị quyền qúy cao sang hầu mưu đồ đàn áp tác hại kẻ khác... Ngược lại Đức Vua Trần Nhân Tông là bực Minh Vương với tinh thần độ lượng theo gót từ bi trí tuệ của Phật Tổ, vô ngẫu vị tha tự mình chịu khổ để tạo cho người khác an vui hạnh phúc trong ánh đạo vàng.

Việc làm cao thượng của Vua Trần Nhân Tông, Hoàng Đế nước Đại Việt (Vietnam), ngoại trừ Thái tử Sĩ – Đạt – Ta, thì không một Hoàng Đế nuớc náo khác có thể sánh bằng.

Dân tộc Việt Nam ta rất hãnh diện và tự hào có một Hoàng Đế vô ngã vị tha như Đức Vua Trần Nhân Tông tu hành đắc đạo nối gót Phật Thích Ca đem đuốc tuệ soi sáng nhân quần xã hội.

Là người Việt Nam kính thờ Phật Tổ Thích Ca không thể không kính thờ Đức Vua Trần Nhân Tông, một đệ tử trung thành chơn tu của Phật Tổ, kế thừa Phật tạo lập Trúc Lâm Tam Tổ, một danh lam Thánh Cảnh Yên Tử Việt Nam bất diệt.

Phật giáo việt Nam xưa nay thực hành hai pháp môn là môn Thiền học và Tịnh Độ, thực hành Thiền – Tịnh như nước với sửa, tùy theo cơ duyên trình độ hoàn cảnh mà áp dụng. Tu Thiền để tâm được an cư thanh tịnh, tu Tịnh Độ niệm Phật là nhớ nghỉ đến đức tánh Từ Bi trí tuệ và thực hành theo lời Phật dạy.

Tu Thiền tu tịnh một nhà

Nào ai phân biệt Phật Đà chúng sanh

Tu hành trọng nhất tánh linh

Tu tâm dưỡng tánh tụng kinh ngồi thiền

Mong sao vọng tưởng tội khiên

Diệt trừ vọng chấp bình yên tu hành

Tu hành cứu độ nhân sinh

Người người giác ngộ chí thành chơn tu.

Vua Trần Thánh Tông nói:

Lễ Phật là kính trọng đức tánh từ bi hỷ xã của Phật

Niệm Phật là cảm niệm công ơn cứu khổ độ sanh của Phật

Trì giới là thi hành đại hạnh thanh tịnh của Phật

Xem kinh là muốn hiểu rõ chơn lý của Phật 

Ngồi Thiền là muốn đạt đến cảnh Phật

Tham thiền là thích hợp tâm thành của Phật

Thuyết pháp là viên mãn chí nguyện của Phật.

 

PL.2546 Rằm tháng Tám – Nhâm Ngọ
Nguyệt San Liên Hoa Số 309 Tháng 9 năm 2003
Ban Biên Tập Thư Viện Hoa Sen Thực Hiện

 

Tiêu điểm:
Bao Hiem BSH
» Video
» Ảnh đẹp
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch