Khi lái xe ta dùng tâm biết của mình để điều hành. Mắt nhìn về phía trước để quan sát sự vật, liếc bên phải, bên trái để thấy các phương tiện khác. Tay lái xe, chân đạp thắng, vô ga, giảm ga. Tai lắng nghe tiếng còi xin đường của xe khác để biết mà nhường đường. Trước khi lái xe chúng ta phải tâm niệm mình đang chở biết bao sinh mạng trên xe, do đó ta phải bảo đảm những nguyên tắc sau đây.
Trước khi lái xe không được uống rượu bia, một người tài xế không được chạy quá 8 tiếng đồng hồ liên tục mà phải đổi ca mới đảm bảo an toàn cho hành khách. Thường thì tai nạn xảy ra do tài xế quá mệt mỏi nên ngủ gật, uống rượu bia hoặc nhớ nghĩ lung tung nên không chú tâm trong khi lái.
Thiền trong làm việc cũng thế, ta làm việc nào chỉ biết việc đó, chỉ chú tâm vào việc đang làm. Từ anh giám đốc cho đến công nhân viên, tất cả đều phải chú tâm vào công việc của mình. Giám đốc sau khi phân công, điều hành xong thì làm nhiệm vụ giám sát, theo dõi, nhờ vậy kịp thời giải quyết những khó khăn, bất trắc. Anh kế toán chú tâm vào việc đánh máy của mình cho nên tính toán chính xác không sai con số. Chị lao công quét dọn chỉ chú tâm vào công việc sẽ nhìn thấy rõ chỗ nào dơ nhiều mà lau chùi cho sạch kỹ càng.
Anh bảo vệ thường quán sát người ra vào trong cơ quan, biết rõ từng người một quan hệ giao dịch gì để kiểm soát và bảo vệ tài sản chung. Và tất cả mọi phòng ban nghành đoàn thể, cứ như thế mỗi người đều có trách nhiệm riêng, chúng ta chỉ chú tâm vào công việc được giao để hoàn thành tốt nhiệm vụ nhờ vậy năng suất lao động được nâng cao và công việc được hoàn thành trước thời gian.
Phương pháp thiền trong công việc cũng là một loại thiền chỉ, giúp cho mọi người ý thức được trách nhiệm của mình, nhờ chú tâm quan sát rõ ràng ta làm việc ít thấy mệt mỏi và không bị thời gian chi phối. Nếu trong làm việc ta không biết tập trung sẽ lãng phí thời gian làm thiệt hại cho cơ quan, vì đi trễ về sớm và trong khi làm việc trông cho mau hết giờ để về nhà.
Chúng ta làm việc như vậy sẽ tập cho mình thói quen làm biếng, xén bớt giờ của chung, suy nghĩ vớ vẫn lung tung nên hiệu suất làm việc kém chất lượng. Thiền trong làm việc sẽ giúp ta dễ dàng kiểm soát tâm rong rũi chạy tìm giống như con vượn chuyền cành, nhờ chú tâm ta làm tốt công việc được giao và hằng ngày điều phục được tâm ý bất chính như trộm cắp, lừa gạt của người.
Thiền trong lúc mua bán, làm ruộng trồng hoa màu, trong nghiên cứu phát minh, giảng dạy
Người mua bán ngoài chợ cũng phải Thiền, phải ăn nói nhỏ nhẹ, ôn tồn. Khi khách đến không nên nói thách quá, tốt nhất nên nói đúng giá, nếu khách không mua hay trả giá quá thấp cũng nên vui vẻ, cởi mở, đừng nên tỏ thái độ cằn nhằn, bực tức. Nhiều người thậm chí còn mê tín, sáng sớm khách mở hàng mà không mua thì đốt phông lông, la ó, chửi rủa um sùm, bán buôn như vậy dần hồi sẽ mất khách hàng. Cuộc sống này vốn thuận mua vừa bán chứ không có gì bắt buộc, người có Thiền vị sẽ biết cách thu hút khách hàng, giữ mối quan hệ mua bán lâu dài bằng tấm lòng chân thật của chúng ta.
Người làm ruộng, trồng hoa màu để cung cấp thức ăn, thực phẩm cho con người cũng phải biết tu Thiền. Do phải trải qua nhiều công đoạn từ khâu gieo giống, chăm sóc, cày cuốc, tưới tẩm và bón phân theo đúng quy trình, nếu chậm thời gian sẽ không có kết quả tốt nên phải chú tâm vào công việc; do đó cũng là một loại Thiền Chỉ giúp tâm dễ dàng an định, nhờ vậy ta tính toán làm việc theo đúng quy trình, thời gian cho phép. Khi có trải nghiệm trong Thiền vị ta sẽ ý thức không dùng nhiều hoá chất mà dùng theo liều lượng cho phép, nhờ vậy hoa màu đến tay người tiêu dùng không bị ô nhiễm các chất độc hại.
Nhiều người vì lòng tham, ham lợi nhuận nên bị đồng tiền làm mờ mắt, chiều nay xịt thuốc liều lượng cao, sáng mai đem đi bán nên người ăn dễ bị ngộ độc. Báo chí vẫn thường đăng tin ngộ độc thức ăn hàng loạt, có khi lên đến vài trăm người, nếu không cũng bệnh ung thư, nóng gan, viêm gan siêu vi B, C… Người thời nay bệnh hoạn nhiều cũng do con người không biết tin sâu nhân quả, chỉ biết lợi trước mắt mà làm tổn thương rất nhiều người.
Các nhà khoa học, bác học cũng phải biết cách Thiền. Họ giam mình trong phòng kín lâu ngày để nghiên cứu, phát minh một vấn đề nào đó phục vụ cho xã hội loài người, nếu tâm vọng động, lăng xăng, nhớ nghĩ hết chuyện này đến chuyện kia thì làm sao phát minh được. Nhờ biết tu Thiền nên tâm họ định tĩnh, sáng suốt, làm việc gì cũng có kết quả tốt đẹp.
Thiền trong nghiên cứu, giảng dạy là chú tâm soạn bài giảng, tập trung vào nội dung cần triển khai về đề tài mình muốn nói. Khi soạn xong ta nên đọc lại từ 3 đến 5 lần để nắm khái quát đề tài giảng dạy. Trước khi lên Pháp toà trong vòng một tiếng đồng hồ ta không cần nhớ nghĩ gì nữa mà chỉ cần nhiếp tâm theo dõi hơi thở, thở vô ta biết mình thở vô, thở ra ta biết mình thở ra, chỉ cần nhìn lại hơi thở mà không cần đối trị, nhờ vậy tâm được định tĩnh, sáng suốt, khi lên giảng những gì cần nhớ sẽ nhớ liền nên giúp người nghe nắm bắt nghĩa lý rõ ràng.
Về phía người nghe cũng vậy, chỉ cần chú tâm khi nghe mà không khởi niệm phân biệt hay-dở, ta nghe chỉ để học hỏi, để biết cách tu tập hay ứng dụng vào trong cuộc sống hằng ngày.
Thiền trong lúc tắm, mặc quần áo, đi tiểu, đi đại
Nhiều người nghe nói Thiền trong lúc tắm rửa, mặc quần áo, đi tiểu, đi đại tưởng là bất kính. Song, chúng ta phải Thiền ngay trong mọi điều kiện sinh hoạt hằng ngày. Quý vị nghe chúng tôi hướng dẫn sẽ thấy giá trị và lợi ích thiết thực của nó. Khi vào trong nhà tắm và lột bỏ hết lớp quần áo bên ngoài ra ta mới thấy rõ con người chân thật của mình. Cũng vậy, khi chúng ta buông bỏ hết phiền não tham-sân-si thì Phật tính sáng suốt mới hiện ra.
Người phụ nữ khi tắm mất thời gian rất lâu vì phải săm soi, ngắm nghía mình xem còn duyên dáng hay không, nhất là những người đã có chồng, có con. Phụ nữ thì sợ xấu, sợ già, sợ hôi, sợ cô đơn và vô vàn nỗi sợ khác nên khi tắm phải dùng nhiều xà bông, nước thơm, tắm như vậy là đã đánh mất chính mình vì tham đắm, dính mắc vào thân này quá nhiều. Ai mập quá thì rất khốn khổ vì nghĩ mình không còn sức hấp dẫn với chồng hay người yêu, đó là nỗi khổ, niềm đau hay dày vò phái đẹp. Ốm quá thì thân hình lòi xương, trông giống con khô hố, ai chạm đến tưởng như gốc cây. Người nữ mập quá hay ốm quá đều khổ cả.
Tắm nhằm mục đích rửa sạch chất dơ bẩn sau một buổi hay một ngày làm việc để tẩy đi các chất ô uế bám dính trong người. Khi tắm nước lạnh ta cảm nhận nước mát khắp toàn thân, tắm nước nóng ta cảm nhận sự ấm áp của nó, tắm như vậy là không bị dính mắc vào thân. Con người chúng ta thường hay chấp thân này là thật; tâm suy nghĩ, hiểu biết cũng là thật; từ đó chấp thân tâm làm ngã rồi dính vào đó nên bị phiền não tham-sân-si chi phối, sai sử. Người biết Thiền trong cuộc sống khi tắm chỉ biết mình đang tắm mà không ngắm nghía, săm soi thân hình, nhờ vậy trong lúc tắm cảm nhận được an ổn, nhẹ nhàng. Tắm như vậy là tắm Thiền khoẻ re.
Mặc quần áo mục đích chính là để che thân không bị loã lồ nhưng ta lại nghĩ mặc quần áo để khoe đẹp với người khác, do đó phải tốn tiền sắm sửa quá nhiều. Phụ nữ Việt Nam thời đại ngày nay đang dần đánh mất chiếc áo bà ba hay áo dài, thay vào đó là áo hở cổ, khoét ngực để khoe sự hấp dẫn, vô tình làm đấng mày râu mê muội, dính mắc vào đó. Phụ nữ nặng về luyến ái, tức tình cảm nặng nề, do đó làm đẹp là bản chất của phái đẹp; nhưng ta phải biết hài hoà cho có chừng mực vừa phải thì đỡ tốn thời gian, ít hao tiền bạc, nhờ vậy giảm bớt lòng tham muốn.
Ăn mặc giản dị, gọn gàng là nét đẹp văn hoá của người phụ nữ Việt Nam. Cái đẹp của người phụ nữ là đẹp ở tấm lòng, đẹp ở nhân cách đạo đức. Người nam thì đơn giản hơn trong ăn mặc nhưng lại hay dính mắc vào thuốc lá, rượu bia, gái gú, hưởng thụ thức ăn các loài vật quá nhiều. Người uống rượu bia ăn các loài hải sản tươi sống nhiều nên chắc chắn sẽ thiếu lòng từ bi trong đối nhân xử thế, do đó sẽ gánh lấy hậu quả về sau như bệnh hoạn, mất trí nhớ, thần kinh rối loạn và bị nhân quả vay trả thù hằn không có ngày thôi dứt.
Thiền trong việc đi tiểu, đi đại cũng rất quan trọng trong đời sống vì nó gắn liền với chúng ta hằng ngày. Khi đi tiểu ta biết ta đang đi tiểu, nếu trong ngày ta đưa các thức uống vào quá nhiều cũng khổ, nhất là những tay bợm bia đã đưa vô thì phải xả ra, đó là lẽ đương nhiên. Khi tiểu ta không chú tâm vào chỗ tiểu mà nhớ nghĩ lung tung, tiểu trong vội vàng, không có ý thức. Khi tiểu ta chỉ cần nhìn nước tiểu vàng hay trắng sẽ biết được sức khỏe mình ra sao. Nếu nước tiểu vàng quá thì trong người nóng, ta phải biết điều hoà bằng cách ăn uống hay thuốc bổ thận âm. Ngược lại, nếu thấy nước tiểu trắng thì biết người quá yếu, thận bị suy nên hay mắc tiểu đêm ta phải dùng thuốc bổ thận dương để điều trị. Thông qua đó ta sẽ biết cách điều hoà để cảm nhận được niềm vui trong cuộc sống.
Đi đại cũng vậy, nếu bị bón rặn không ra ta biết mình đang bị nóng gan hay bị trĩ, ta sẽ dùng thuốc trị hoặc ăn đồ mát thì sẽ từ từ hồi phục trở lại. Đi phân đen hay xanh, chảy hay chìm xuống ta biết đường ruột yếu thì phải thức ăn nóng cho có tính cách dương tính, đây cũng là một pháp Thiền trong lúc đi đại. Mình bệnh mà không biết mình bệnh thì nguy cơ cao; ăn vô mà không thải ra chỉ trong vài ngày thì bụng sình chướng khó tiêu, người bứt rức, nóng nảy, chộn rộn thật khổ tâm.
Nếu bị đi chảy nhiều quá thì coi chừng tiêu đời nhà ma. Vậy trong lúc đi tiểu, đi đại mình có tu không? Có chứ, nếu không ngồi trong nhà cầu khốn khổ đủ điều, mùi cặn bả xả ra hôi hám vô cùng mà tâm cứ nghĩ tưởng lung tung. Do đó ta phải biết rõ ràng từng trạng thái của nó mà không bám dính vào chỗ nào, coi như ta đang Thiền trong đi tiểu hay đi đại.
Ngày hôm nay trên đà phát triển ngày càng cao của nhân loại giúp cho con người hưởng thụ tiện nghi vật chất, nhưng ngược lại làm ô nhiễm môi trường, thức ăn uống bị nhiễm độc nặng nề. Các bệnh viện quá tải vì người bệnh quá nhiều, nguyên nhân chính là không biết điều hoà trong ăn uống. Người tại gia với bộn bề công việc nên không biết làm cách nào để điều hoà thân tâm cho tốt, do đó dễ phiền muộn khổ đau, bệnh hoạn và bất an lo lắng, sợ hãi.
Trong cơ thể chúng ta hai bộ phận chủ yếu là thận và gan, thận điều tiết thải độc bằng nước và mồ hôi. Nếu để thận yếu thận suy dễ phát sinh bệnh tim mạch và huyết áp cao, tai biến mạch máu não và đột quỵ. Ăn quá nhiều dầu mỡ đồ nóng từ chiên xào nướng, dùng thức uống kích thích như rượu bia nhiều dẫn đến bệnh nóng gan, sơ gan, viêm gan siêu vi B, ung thư nếu không chết liền cũng làm hao tiền tốn của, làm khổ người thân và khi chết mang theo lòng tham lam ích kỷ nên càng bị đoạ lạc vào chỗ xấu.
Điều hoà trong ăn uống, đi tiểu, đi đại là ta đã biết thiền trong đời sống hằng ngày vì những thứ này nó gắn liền với chúng ta. Ai biết ăn, ai biết uống, ai biết đi tiểu, ai biết đi đại đã đưa vô thì phải xả ra ta chỉ cần kiểm soát chúng chặt chẽ hằng ngày, vừa làm chủ thân tâm và điều phục bệnh hoạn.
Bốn phương pháp Thiền ngồi, Thiền lạy, Thiền đi, Thiền nằm, hành giả miệng niệm Quán Thế Âm Bồ tát, tai chú tâm lắng nghe, nhờ vậy không bị thất niệm nên phát sinh định lực và trí tuệ. Tới khi đi ngủ thì phải Thiền nằm, miệng tiếp tục niệm Quán Thế Âm Bồ tát, chỉ cần nhiếp tâm vào câu niệm thì từ từ đi vào giấc ngủ mà không bị mộng mị xấu ác. Vậy trong bốn oai nghi đi-đứng-ngồi-nằm ta đều Thiền niệm Quán Thế Âm Bồ tát từ lúc mở mắt thức dậy cho đến khi đi ngủ, khi ăn uống, lái xe, làm việc, mua bán, trồng trọt, nghiên cứu, giảng dạy, tắm rửa hay đi tiểu, đi đại.
Ta đều Thiền bằng cách chú tâm vào việc mình đang làm, nhờ vậy ta biết rõ ràng bản chất thực hư của nó mà biết cách buông xả để sống đời an vui, hạnh phúc bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Ai biết Thiền như vậy mỗi ngày từ lúc thức dậy cho đến khi đi ngủ, mỗi hành động tạo tác của thân tâm đều biết rõ đúng sai, cái gì đúng thì giữ lại, cái gì sai thì ta gạt bỏ ra, cho nên tất cả chỗ nơi cũng đều là Thiền.
Phật dạy trong các Kinh nguyên thuỷ pháp Lục niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thiên, niệm Giới, niệm Thí. Lục niệm này liên kết với nhau đầy đủ mới thành tựu Phật quả. Niệm Phật để sống với Phật tính sáng suốt, niệm Pháp để nhớ lời dạy vàng ngọc của Phật, niệm Tăng để cung kính và học hỏi, niệm Thiên để được đầy đủ phước, niệm Giới để không làm các việc xấu ác, niệm Thí để biết cách buông xả và giúp đỡ người khác. Sáu niệm này thuần thục thì mới thành tựu Phật pháp viên mãn.
Niệm Phật và niệm Bồ tát cũng giống nhau về hình thức, ta có thể niệm Phật Thích Ca, Phật A Di Đà hay Bồ tát Quán Thế Âm hay niệm hơi thở đều được vì đây chỉ là phương tiện bước đầu giúp mọi người dừng vọng niệm xấu ác. Trong nhà Phật phương tiện bước đầu phải là Thiền Chỉ. “Chỉ” là cột tâm vào một điểm nào để đánh bật các vọng niệm buồn thương, giận ghét, phải quấy, tốt xấu, hơn thua làm tổn hại thân tâm. Thiền Chỉ có nhiều loại giúp trụ tâm vào hơi thở nên đều là Thiền Chỉ.
Kế đến là Thiền Quán, tức dùng ý thức để xem xét ta-người-hoàn cảnh, nhờ vậy biết tất cả đều vô thường, cái gì có hình tướng đều bại hoại, do đó phát sinh trí tuệ mà biết cách buông xả phiền não tham-sân-si. Ngày xưa Phật không dạy phương pháp Sổ Tức Quán, có nghĩa là đếm hơi thở, đếm từ một đến mười rồi quay trở lại đếm tiếp. Phật chỉ dạy pháp quán hơi thở là thở vô ta biết thở vô, thở ra ta biết thở ra, chỉ một bề quán sát tường tận như vậy.
Người đời sau vì vọng niệm lăng xăng, dính mắc nhiều quá nên dạy quán hơi thở họ không đủ sức nhiếp tâm, do đó các Tổ phương tiện chế ra Sổ Tức Quán, đếm hơi thở từ một đến mười để mọi người dễ cột tâm vào đó, vừa đếm vừa hít thở. Tất cả chung quy cũng đều là phương tiện ban đầu.
TU THIỀN TRỰC CHỈ NƠI TÂM
Sau khi niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm đã thuần thục, chúng ta dùng pháp quán chiếu - tức Thiền quán xem xét, soi sáng các pháp duyên sinh vô ngã, vô thường ngay nơi thân tâm, hoàn cảnh; nhờ vậy hành giả biết được lẽ thật của các pháp không thực thể cố định nên dễ dàng buông xả tâm dính mắc “ta-người” và hoàn cảnh bên ngoài; do đó hằng sống với tâm thanh tịnh sáng suốt, không nhơ, không sạch.
Muốn vậy Bồ tát phải quán trí tuệ rộng lớn để chuyển hóa tối tăm, si mê và sống với tính biết sáng suốt, nương nơi mắt thấy tai nghe không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế; từ đó phát khởi lòng từ bi rộng lớn đi vào đời cứu độ chúng sinh mà không thấy mình ban cho, người được cho và vật đã cho.
Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy Nhĩ Căn Viên Thông là thù thắng hơn hết. Một hôm sau khi 25 vị Thánh trình bày sự tu chứng của mình, Phật hỏi Ngài Văn Thù chọn lựa pháp tu Viên Thông để người đời sau bắt chước tu học. Bồ tát Văn Thù chọn lựa pháp tu của Bồ tát Quán Thế Âm là “Phản Văn Văn Tự Tánh”. “Phản” là ngược lại, là xoay cái nghe chạy theo người-vật quay lại chính mình, sống với tánh nghe thường hằng nương nơi tai nên thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có tiếng nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng mà không dính mắc vào âm thanh dù lớn hay nhỏ. Để thể nghiệm tánh nghe của mình có người hỏi: “Bạn đang làm gì đó?” “Tôi đang nghe”.
Như vậy thì bạn đâu có quên mình theo vật, đâu có bị môi lưỡi của người khác lừa mình; như thế là bạn đang sống với tánh nghe thường hằng của mình, chỉ đơn giản vậy thôi. Người đời vì không biết nên lãng quên chính mình, nếu bạn khi nghe ai hỏi: “Anh đang làm gì đó?” rồi trả lời “Tôi đang rửa chén” hay “Tôi đang xem ti vi” là bạn đang quên mình theo vật, bạn đã chạy theo âm thanh, sắc tướng bên ngoài.
Sau đây xin mời quý vị hãy cùng chúng tôi lắng tâm nghe một câu chuyện nói về tánh nghe. Thiền sư Cảnh Thanh đang ngồi trong thất cùng một vị Tăng đứng kế bên. Sư hỏi: “Bên ngoài có tiếng gì?” Vị Tăng đứng kế thưa: “Tiếng con nhái bị con rắn bắt kêu”. Sư nói: “Sẽ bảo chúng sinh đau khổ, lại có khổ chúng sinh”. Rắn bắt nhái là chúng sinh khổ vì con lớn hiếp con bé, song lại có khổ chúng sinh chính là vị Tăng quên mình chạy theo âm thanh bên ngoài.
Đây là chiêu thuật của các vị Thiền sư để khám phá những người học đạo có sống được với tâm chân thật của mình qua tánh nghe hay không? Hằng ngày từ sáng sớm đến chiều tối, tai chúng ta chỉ chạy theo âm thanh tiếng lớn, tiếng nhỏ êm dịu hay chát chúa bên ngoài, chính vì vậy mà bị âm thanh làm cho khổ não; nghe âm thanh nặng nề ta cảm thấy bực tức, nghe âm thanh vừa ý ta đắm say, dính mắc vào đó do không chịu sống với tánh nghe thường hằng nương nơi tai; vừa nghe tiếng liền khởi niệm phân biệt hay dở, đúng sai rồi sinh tâm ưa thì thích thú bám víu vào đó, sinh tâm ghét thì chán bỏ không thích nghe; cho nên nói “chúng sinh khổ, lại có khổ chúng sinh” là vậy. Người không biết tu thì khổ đã đành, mà người đang tu cũng lại quên mình theo vật, hỏi sao tu hoài không hết phiền não tham-sân-si.
Qua hôm sau, Thiền sư lại hỏi vị Tăng khác: “Bên ngoài có tiếng gì?” Vị Tăng quá thành thật nên trả lời: “Tiếng mưa rơi”. Thiền sư bảo: “Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật”. Chỉ có người đã thật sự sống với tâm chân thật, sáng suốt của mình mới không chạy theo âm thanh lớn nhỏ bên ngoài. Tai nghe tiếng thì biết mình đang nghe mà không chạy theo tiếng, có tiếng thì có nghe, không tiếng nghe không tiếng; lại biết mình có tánh nghe thường hằng nương nơi tai là pháp tu của Bồ tát Quán Thế Âm đã thành tựu từ vô số kiếp đến nay, vì thương chúng sinh ở thế giới loài người này mà không thủ chứng ngôi vị Phật để tìm cách chia vui, sớt khổ bằng tình người trong cuộc sống.
Âm thanh lớn nhỏ, xa gần lúc nào cũng có, tánh nghe hằng hiện hữu nên mới thường nghe. Nếu tính nghe không thường hằng thì tai ta có lúc nghe, lúc không. Như trong Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo ngài A Nan đánh tiếng chuông rồi hỏi ngài có nghe không, ngài A Nan trả lời có. Đợi khi tiếng chuông im bặt một hồi, Phật hỏi lại ngài A Nan có nghe không. Ngài trả lời không nghe liền bị Phật quở tại sao quên mình theo vật. Phật nói tiếp: “Có tiếng nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng”.
Tánh nghe luôn thường hằng nên cái gì biết có tiếng, cái gì biết không tiếng? Vậy mà đa số chúng ta không chịu thừa nhận tánh nghe của mình nên luôn sống trong đau khổ lầm mê. Câu chuyện trong Kinh Lăng Nghiêm cho thấy Phật dạy Ngài A Nan và những thiền sư tu theo cách hành thẳng nơi tâm, không thông qua phương tiện, không hai, không khác. Mỗi hành giả tu theo hạnh nguyện Bồ tát Quán Thế Âm cần phải thể nghiệm sâu sắc lời dạy trên để được giác ngộ, giải thoát ngay tại đây và bây giờ.
Trong Thiền môn có một câu chuyện rất nổi tiếng về Bồ tát Quán Thế Âm. Một thiền sinh trên đường đi tham vấn đã đến một chùa nọ có thờ Bồ tát nghìn tay nghìn mắt, thấy vậy anh hỏi thiền sư: “Bồ tát nghìn tay nghìn mắt như vậy thì mắt nào là mắt chánh?” Thiền sư nói: “Như người ngủ ban đêm với tay ra sau tìm chiếc gối, ngay khi đó mắt chánh hiện tiền”. Chỗ này mọi người tự biết, tôi không thể biết “cái gì biết tìm chiếc gối trong đêm tối”.
Bồ tát nghìn tay là tượng trưng cho sự dấn thân làm việc không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán vì lợi ích chúng sinh. Con mắt trong mỗi bàn tay tượng trưng cho trí tuệ thấy biết đúng như thật, nhờ vậy Bồ tát thương yêu bằng trái tim hiểu biết, giúp đỡ chúng sinh một cách bình đẳng, không phân biệt người thân hay kẻ thù. Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “Phản Văn Văn Tự Tánh” là xoay cái hay nghe nghe lại tự tánh mình thì được đạo vô thượng.
Hòa Thượng chúng tôi dạy biết vọng không theo, thấy biết là chơn tâm, nghe biết là chơn tâm, mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Vậy Thiền và Kinh đâu có khác, Phật và Tổ không hai, đồng một con đường hướng thượng để thể nhập tính biết sáng suốt của mình nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý.
Như chúng ta đã biết, Thiền không lệ thuộc vào một tư thế nào hay một hình thức, lễ nghi mà được vận dụng nhuần nhuyễn từ sáng sớm mở mắt thức dậy cho đến khi đi ngủ. Đối với người mới tu Thiền thì ngồi Thiền là tư thế tối ưu trong bốn oai nghi vì tư thế ngồi giúp tâm dễ an định. Thiền sư Đạo Nhất lúc còn là thiền sinh đều ngồi Thiền hằng ngày rất tinh tấn từ sáng sớm cho đến trưa. Một hôm, Thiền sư Nam Nhạc đến hỏi: “Đại đức ngồi Thiền để làm gì?” Ngài Đạo Nhất thưa: “Ngồi Thiền để làm Phật”.
Ngài Đạo Nhất chỉ chấp vào việc ngồi Thiền của mình mà không chịu Thiền trong các oai nghi khác, do đó khi ngồi thì yên, khi đi đứng hoạt động thì tâm niệm lăng xăng. Thiền sư Nam Nhạc muốn phá chấp và cảnh tỉnh ông nên mỗi ngày đem gạch trước chỗ ngài ngồi Thiền mài sột sạt. “Thầy mài gạch để làm gì?” “Mài gạch để thành gương”.
À! Tới đây quý vị đã biết ý Tổ sư chưa? Ngài Đạo Nhất chấp vào việc ngồi Thiền và cho đó là cứu cánh, điều này cũng giống như người mài gạch mà muốn thành gương, đem cát nấu mà muốn thành cơm thì không thể được. Sau đó ngài Đạo Nhất thưa, “mài gạch đâu thể thành gương được?” Ngài Nam Nhạc hỏi lại: “Ngồi Thiền đâu thể thành Phật được?” “Vậy con làm thế nào mới đúng?” Thiền sư nói: “Như trâu kéo xe, nếu xe không đi, đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?”
Chiếc xe là vật vô tri, con trâu là vật kéo nên khi bị đánh đau thì nó kéo xe. Cũng vậy, chúng ta ai cũng có tánh biết ngay nơi thân này, như khi gặp lửa ta liền biết nóng, khi gặp gió ta liền biết mát, có khi ta không suy nghĩ nhưng vẫn thấy-nghe rõ ràng. Vậy cái gì biết thấy, biết nghe? Cái biết này luôn hiện hữu nơi ta, mắt thấy tức biết, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.
Trâu là dụ cho tâm mình, xe là dụ cho thân, chúng ta Thiền là hành thẳng nơi tâm mọi lúc, mọi nơi chứ không chỉ lúc ngồi Thiền. Người tại gia bận công lên việc xuống làm sao có nhiều thời gian để ngồi Thiền. Nếu ta chấp như vậy thì tu hoài cũng dậm chân tại chỗ, làm sao tu tiến cho được. Cho nên, người tại gia phải biết uyển chuyển tu từ khi mở mắt thức dậy cho đến khi đi ngủ, tu như vậy mới đủ khả năng hoá giải phiền não tham-sân-si. Người tại gia vì phải bận bịu với cơm áo gạo tiền, cha mẹ, vợ chồng, con cái, giao tế bạn bè, giữ mối quan hệ làm ăn nên phải Thiền bằng cách chú tâm, làm việc nào biết việc đó.
MỌI NGƯỜI THIỀN ĐỂ ĐƯỢC BÌNH YÊN HẠNH PHÚC
Chúng tôi hướng dẫn niệm Bồ tát Quán Thế Âm cũng y như niệm Ph