 
Như ta đã biết, cùng với Sóc Trăng, Trà Vinh là một trong hai tỉnh có
đông đồng  bào Khmer nhất ở ĐBSCL. Và dĩ nhiên, đi kèm với điều ấy là 
một hệ thống chùa chiền 
phủ đều khắp  các phum, sóc (tên gọi dùng để chỉ những nơi có người 
Khmer sinh sống, giống như  một ngôi làng của người Kinh). Các phum, sóc
ấy thường là những nơi đất dòng, ở  đấy có một ngôi chùa, xung quanh 
được bao bọc bởi những cây thốt nốt, những hàng  tre gai và những hàng 
dầu, hàng sao...
Ngày thường, cuộc sống của người Khmer nơi phum, sóc khá bình lặng. 
Sáng sáng,  đàn ông ra đồng, phụ nữ ra chợ và không quên mang theo vài 
trái thốt nốt, vài  trái quách, cốm dẹp,…để bán. Trong khi đó, trẻ con 
thì đứa đến trường, đứa trông  nhà, số khác thì vào chùa phụ quét lá cây
với các vị sư.
Tuy nhiên, có một điều đặc biệt là dù làm gì thì làm, vào buổi sáng, 
những  gia đình này cũng luôn tranh thủ nấu cơm để cúng dường cho các vị
sư khi họ đi  khất thực. Vì ở Trà Vinh, người Khmer chủ yếu theo Phật 
giáo Nam Tông (Phật giáo  Tiểu thừa) nên trong cách thức sinh hoạt hàng 
ngày của các nhà sư có một việc là  đi khất thực (còn gọi là đi bình bát
hay trì bát). Theo lời Phật dạy, khất thực  không có nghĩa là xin ăn mà
là cách nuôi thân một cách chân chính cho những đệ  tử xuất gia.
Hàng ngày, chuyến đi khất thực diễn ra vào buổi sáng và chấm dứt 
trước giờ Ngọ,  tức trước lúc mặt trời đứng bóng. Khi ấy sẽ có những 
nhóm nhà sư, một nhóm  khoảng 4 - 5 người, đi khất thực. Tuy nhiên, số 
nhà sư đi khất thực ở mỗi phum,  sóc không giống nhau và cũng không cố 
định. Họ có thể đi nhiều hay ít, thậm chí  một người, tùy thuộc vào sự 
sắp xếp của nhà chùa và tùy hoàn cảnh mà người đi  cũng khác nhau. Riêng
về cách thức đi và nhận thức ăn từ bá tánh thì không khác  nhau là mấy.
Do vậy, cứ đến giờ, từ cửa chùa, các nhà sư đi theo một hàng dọc, men
theo  các con đường mòn quanh co để đi vào phum, sóc. Họ có thể phân 
thành từng nhóm  nhỏ rồi chia nhau đi theo những hướng khác nhau. Ngoài 
ra, đi theo mỗi nhóm còn  có một hoặc hai cậu bé cầm cái gàu mên để đựng
đồ ăn của bá tánh. Khi quan sát  kĩ, ta thấy các nhà sư đi chân không, 
khi đi không ngó qua ngó lại, không nói  chuyện, phía trước ngực họ mang
cái bình bát được quấn vải khéo léo. Bình bát  thường được làm bằng đá,
bằng sành, bằng đất sét nung có tráng men bên trong,  không được làm 
bằng những kim loại quý, vì như vậy không đúng phẩm hạnh của  người xuất
gia.

Theo Kinh Phật, trước khi lên đường khất thực, trong lòng các vị sư 
nguyện rằng:  “Nguyện cho các vị Khất giả thảy đều được no đủ và nguyện 
cho các thí chủ thảy  đều được phước báu vô lượng. Như nay tôi được món 
ăn là dùng để điều trị cái  thân độc hại này, để tu tập thiện pháp, lợi 
ích cho thí chủ”. Mặt khác, khi đi  khất thực, họ phải giữ tâm bình 
đẳng, nghĩa là theo thứ tự nhà của dân, không  chỉ đến nơi nhà giàu mà 
cũng không chỉ nơi nhà nghèo. Đức Phật đã nhấn mạnh:  “Chỉ khi nào thân 
tâm được điều phục, thực hành chánh niệm và phòng hộ các căn  thì mới đi
vào làng khất thực”.
Ở Trà Vinh, khi bắt đầu chuyến đi khất thực, các cậu bé xách gàu mên 
sẽ đi  trước và ra tín hiệu cho người dân biết là các nhà sư sắp đến để 
ai có cúng  dường thì chuẩn bị. Khi các nhà sư đến, họ sẽ đứng thành một
hàng ngang, lúc này  sẽ có một người trong nhà mang thức ăn ra. Nếu là 
cơm thì vị sư sẽ vén tay áo và  đưa bình bát ra để nhận lấy, nếu là đồ 
ăn thì họ sẽ cho vào gàu mên của chú bé  đi theo. Lúc này, cơm sẽ được 
chia đều cho tất cả các nhà sư, nhưng trước khi  cho cơm vào bình bát, 
người cho sẽ xá một xá, xớt cho mấy người thì xá mấy cái,  với thức ăn 
thì cũng tương tự vậy. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chú bé  cầm 
gàu mên có thể đi trước và nhận đồ ăn trước rồi về chùa, không cần phải 
đợi  các nhà sư.
Có một điều ta rất dễ nhận thấy là hiếm khi người dân bới cơm để sẵn 
mà thường  để trong nồi cho nóng hoặc hâm lại rồi mới đem ra cúng. Đặc 
biệt, họ chỉ cúng  những thức ăn đã được nấu sẵn, không cúng những thức 
ăn chưa làm thành món,  chẳng hạn như như cúng cơm chứ không cúng gạo, 
cúng rau luộc chứ không cúng rau  sống. Và việc cúng nhiều hay ít, ngon 
hay dở tùy thuộc vào khả năng của từng gia  đình. Vả lại, không nhất 
thiết phải mỗi ngày mỗi cúng, lâu lâu cúng một lần cũng  được. Còn khi 
muốn cúng nhưng các nhà sư đi ngang lại làm đồ ăn không kịp thì  cũng 
không sao, cứ đợi khi họ quay ngược trở về rồi cúng cũng được.
Mỗi khi khất thực xong, các vị sư sẽ trở về chùa để ăn trước khi mặt 
trời đứng  bóng, và đó cũng là bữa ăn duy nhất trong ngày của họ. Khi 
dùng thức ăn, các vị  sư không xem đó là việc hưởng thụ mà đơn giản chỉ 
là có cái gì đó để duy trì sự  sống mà tu hành, không được ham cầu cho 
nhiều vì như vậy sẽ phá vỡ thiện niệm  của họ. Sau bữa ăn, các vị ngơi 
nghỉ trong chốc lát rồi tiến hành thiền định.

Với các nhà sư mà nói, họ không quan tâm đến thức ăn ngon hay dở, 
nhiều hay ít,  nhanh hay chậm mà chỉ trân trọng cái “Tâm” của người cúng
mà thôi. Do đó, họ đi  khi nào cảm thấy đủ ăn thì sẽ quay về, không lấy
nhiều hơn. Trong trường hợp  ngày hôm đó không có ai cúng thì họ cũng 
sẵn sàng chấp nhận trở về với bình bát  không và sẽ không ăn ngày hôm 
đó. Nhưng tình huống ấy rất hiếm xảy ra, vấn đề  chỉ là người dân cúng 
ít hay nhiều mà thôi. Thậm chí, những lúc trời mưa gió,  các nhà sư 
không đi khất thực được thì dân còn mang cơm vào chùa cho họ dùng.
Cứ như thế, ngày ngày ta lại thấy có những chiếc áo vàng lặng lẽ đi 
dưới  những hàng dầu, hàng sao để khất thực. Hình ảnh đó đẹp như một bức
tranh mà  không phải nơi nào cũng có được. Chính nó cũng góp phần làm 
cho không gian phum,  sóc thoáng chút trầm mặc và yên bình một cách kì 
lạ, lúc ấy đạo và đời như hiện  hữu. Vì khi người dân dâng thức ăn lên 
cho các nhà sư đều xuất phát từ lòng  thành khẩn, họ mong muốn các vị 
giải thoát hết những kiếp nạn cho thế gian. Còn  các nhà sư nhận đồ của 
bá tánh vừa hàm ơn vừa khẩn cầu cho họ tích được nhiều  công đức để cuộc
sống được tốt đẹp hơn, cả trong hiện tại lẫn tương lai.
Do đó, việc đi khất thực không chỉ mang ý nghĩa thuần túy là “cho và 
nhận” mà  nó còn góp phần giáo hóa con người, qua đó thể hiện sự nhiệm 
mầu của triết lí  nhà Phật.
Theo Xuân Sắc - Cuộc sống Việt